Thụy Khuê - Nguyễn Chí Thiện (1939-2012) và Hoa địa ngục
at 9/22/2013 11:26:00 AM
Thụy Khuê
Năm 1979, một tập
thơ từ Hà Nội được chuyển ra nước ngoài. 1980, được
in ra. Những ấn bản đầu tiên không đề tên tác giả,
chỉ biết đó là một người tù, một kẻ mạo hiểm đã
đem tác phẩm của mình "ném vào" toà đại sứ
Anh. Tác giả lập tức bị bắt. Bị tù. Đó là Hoa địa
ngục của Nguyễn Chí Thiện.
Từ trái: kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, tác giả Hoa địa ngục - nhà thơ Nguyễn Chí Thiện
Hoa địa ngục,
khi mới in, mang những tên như Tiếng vọng từ đáy
vực1
(1), Quê hương tù ngục2
(2), v.v... Nhiều năm sau mới trở lại với tên Hoa
địa ngục do tác giả chọn.
Hoa địa ngục
hay những đoá hoa nẩy sinh từ địa ngục -chắc
hẳn đã cảm hứng từ Fleurs du mal (Ác hoa), những
đoá hoa nảy sinh từ nỗi đau, từ cõi ác của
Baudelaire- chiếu vào cuộc đời tù ngục và con người
dưới chế độ toàn trị, theo truyền thống Đỗ Phủ.
Nguyễn Chí Thiện nổi
tiếng ngay, được nhiều giải thưởng quốc tế của các
cơ quan tranh đấu cho nhân quyền, song thơ ông có lẽ chưa
bao giờ được đánh giá đúng mức khi ông còn sống.
Bởi nhiều lý do,
nhưng có lẽ đáng chú ý nhất là điểm cộng đồng
người Việt hải ngoại chia nhiều phe phái: Phái tả
thiên cộng không chấp nhận những câu thơ chạm đến
"bác" trong bất cứ hoàn cảnh nào. Phái hữu,
phần lớn không chú ý tới thi ca và tranh đấu; phần nhỏ
cực hữu, sử dụng ông như một vũ khí, một viên đạn
trực tuyến chống cộng. Phái "văn học" xếp thơ
ông vào loại chính trị "phi nghệ thuật". Cuối
cùng chỉ còn lại một số ít người trung thành với thi
ca và tự do, đã bảo vệ ông trong suốt hành trình lâm
nạn và số đông quần chúng vô danh, vô nhãn, đọc thơ
ông trong im lặng.
Những thành kiến cả
yêu lẫn ghét, thường dựa vào mấy câu thơ ông kịch
kiệt chửi cộng sản làm nền. Chính những câu thơ này
đã tạo ra cliché một Nguyễn Chí Thiện chống cộng cực
đoan, quá khích, đi ra ngoài thế giới thi ca Nguyễn Chí
Thiện.
Nguyễn Chí Thiện,
trong sâu thẳm của thi ca, hình hài, và ngôn ngữ, trong
tác phong, trong cách diễn đạt, là một nhân cách thật,
một con người thật. Chỉ vì nói thật
mà mắc vòng tù tội. Một con người ngây thơ, thành
thật, ngơ ngác, vấp ngã trước bao giả trá, tàn ác của
chế độ độc tài. Tính thật ấy toát ra trong lời
nói, trong câu văn, không hoa mỹ, không vòng vo. Chất thật
ấy bao trùm không gian, bọc lấy người nghe, như một
điệu buồn, như một hồn ma không đất đậu trên quê
hương mà gian dối đã thở thành sự thật.
Năm 1960, ở tuổi 21,
vì trót giảng cho học trò đúng sự thật về một
đoạn lịch sử thế chiến thứ hai, Nguyễn Chí Thiện
phạm tội "phản tuyên truyền", bị kết án
2 năm, nhưng phải tù 3 năm rưỡi, cho đến 1964.
Năm 1966, bị tình
nghi làm thơ chống chế độ, lại bị bắt, bị tù 11
năm, 1977 được thả.
Năm 1979, "ném"
tập thơ Hoa địa ngục vào toà đại sứ Anh, bị
bắt tức khắc. Bị tù 12 năm, đến 1991.
Trước sau tổng cộng
27 năm.
Ngày 28/10/1991, Nguyễn
Chí Thiện được thả. Tháng 1/1995, được sang Hoa Kỳ.
Nguyễn Chí Thiện,
trong sâu thẳm của lời nói, lời thơ, chính là sự
thành thật đã qua đời dưới một thế quyền mà sự
giả trá đã trở thành quốc sách.
Sự thành thật nguyên
thuỷ toát ra từ giọng nói và thi ca của ông, làm cho
người nghe, người đọc ở xã hội "tân tiến"
phải ngạc nhiên vì chất men "quê mùa" còn sót
lại trong con "người rừng" đã trải gần ba mươi
năm tù hãm, đói khát, bệnh tật. Đối với thế giới
"văn minh", Nguyễn Chí Thiện là người tiền sử.
Làm thơ khi bắt gặp
một cảnh huống, một ý nghĩ, một tâm sự, một chạnh
lòng,... Ông là nhà thơ trần thuật, một người kể
chuyện bằng thơ.
Thơ ông gần với
lời, thơ ông chính là lời nói vội chưa kịp tu từ
thành thi ca, còn nguyên chất ròng khổ đau tù ngục.
Hoa địa ngục
là thiên hồi ký về cuộc đời tù tội trong những
căn ngục riêng, dưới mái giam chung là cuộc đời
trong xã hội cộng sản.
Người ta trách thơ
ông thiếu nghệ thuật, cũng phải. Ở địa vị ông, có
nhà thơ nào còn kịp nghĩ đến nghệ thuật làm thơ? Còn
kịp nghĩ đến việc gọt giũa một chữ đẹp cho thơ?
Hay tất cả cũng sẽ như ông: chớp nhoáng, ghi lại những
đớn đau gào thét trong thịt da tâm não.
Bản thảo Hoa địa
ngục tập hợp những bài thơ viết tay, dưới đề
năm, chắc là những trang giấy rời, cho nên khi in ra, mỗi
người sắp xếp theo một lối, hầu như vô trật tự,
không theo thời gian, mà cũng không theo chủ đề, các bản
in thường có rất nhiều chữ đánh máy sai, nhưng tạm
gọi là đầy đủ, chỉ hơn kém nhau một vài bài.
Lối in vội, in tất
cả này, chỉ có ích lợi nhất thời; nhưng về lâu về
dài, sẽ gây rối loạn cho độc giả: những bài thơ dở
làm giảm giá trị những bài thơ hay, nhụt chí người
đọc. Bởi thơ cần hay không cần nhiều. Biết bao nhà
thơ đã làm giảm giá trị của mình bằng những bài thơ
dở hoặc những lời thơ lập đi lập lại nhiều lần.
Nguyễn Chí Thiện cũng không ngoại lệ.
Vậy điểm đầu
tiên, khi in hoặc in lại thơ Nguyễn Chí Thiện, có lẽ
nhà xuất bản nên tuyển, lược những bài dở hoặc lập
lại; rồi xếp theo chủ đề, hoặc theo thứ tự thời
gian, để làm sáng tỏ vũ trụ thơ Nguyễn Chí Thiện:
Thân phận con người trong xã hội toàn trị.
Nguyễn Chí Thiện là
nhân chứng không thể loại trừ về một guồng máy kiểm
soát con người từ trí óc đến hành động, từ tay chân
đến tư tưởng.
Hoa địa ngục
vừa là một hành trình thơ, vừa là một hành trình sống.
Hoa địa ngục
là tác phẩm sớm nhất mô tả đầy đủ hai khía cạnh:
chế độ tù ngục và cuộc sống con người trong chế độ
toàn trị, ngay từ năm 1960, ở miền Bắc.
Văn bản xuất hiện
năm 1979, cũng sớm nhất, khi những hồi ký của tù nhân
cải tạo miền Nam chưa ra đời và hai mươi năm sau, ở
miền Bắc mới có tiểu thuyết Truyện kể năm 2000 của
Bùi Ngọc Tấn.
Hoa địa ngục
là câu chuyện một thanh niên bước vào đời tràn đầy
hy vọng: 1954, miền Bắc bắt đầu cuộc sống hoà bình,
độc lập, sau chín năm chiến tranh. Ba năm sau, 1957, chàng
sáng tác bài Mắt em, thơ tình, có lẽ là bài thơ
đầu tiên được lưu lại, mang nét lãng mạn của cái
"thủa ban đầu lưu luyến ấy", lần đầu
rung động trước đôi mắt thuyền3
(3). Mắt em thời chưa đi tù, là một hợp âm ca
dao, Lưu Trọng Lư và TTKH trong tình yêu thứ nhất:
Mắt em mềm mại
con đò
Anh nhìn chẳng thấy
hẹn hò một câu
Mắt em
trong mát giòng sâu
Anh nhìn
chẳng thấy nhịp cầu bắc qua
Mắt em là một
vườn hoa
Vắng anh, thắm nở
chói loà sắc hương
Vườn hoa ấy, cảnh
thiên đường
Anh nhìn chỉ thấy
cửa thường đóng nghiêm (Mắt em, 1957)
Người thanh niên 18
tuổi của một Hà Thành đã tiếp thu cách mạng được
ba năm, nhưng chưa "lột xác": vẫn còn mộng đôi
mắt thuyền Lưu Trong Lư, vẫn còn mơ giai nhân đài
các "đóng nghiêm" trong khung cửa Thâm Tâm TTKH.
Một năm sau, 1958, thơ
đã buồn hơn, đã nhuốm màu hoang sơ Hà Nội sau bốn năm
"giải phóng". Thơ luyến nhớ dĩ vãng. Hà Nội
bây giờ nằm im, lo sợ, chờ đợi bản án Nhân Văn:
Quanh hồ liễu rủ
Giữa hồ tháp đứng
âm u
Đền Ngọc Sơn
không hương khói lạnh lùng
Cầu Thê Húc nằm
nghe lá rụng...
Đâu những bác
thầy tầu, thầy cúng
Những bà già đi
lễ năm xưa?
Cảnh hồ gươm mưa
nắng bốn mùa
Lẩn quất bóng
rùa, lặng lẽ... (Quanh hồ liễu rủ, 1958)
Lại một năm nữa
trôi qua, 1959, lịch sử miền Bắc xuyên dần vào thơ. Cái
sợ của người dân thấm dần vào không gian, cỏ lá.
Không khí âm u vượt biên Hà Nội, trải rộng, trải dài,
lan tới núi rừng, tới thượng du, tới những bản xa nơi
địa đầu hoang dã:
Vài cánh dơi chập
chờn quanh cổ miếu
Rừng ngả dần mầu
hiểm bí, âm u
Gió đìu hiu thoang
thoảng lạnh hơi chiều
Sương ẩm ướt
bắt đầu rơi phủ
Trong lặng vắng
vút ngân dài tiếng hú
Vài cánh chim lạc
lõng vội bay về
Lời tối tăm vang
dậy bốn bề
Tiếng ếch nhái
côn trùng trong cỏ nước
Người lữ khách
giật mình chân rảo bước
Bản mường xa có
kịp tới qua đêm? (Vài cánh dơi, 1959)
Nhưng 1959 cũng là năm
người thanh niên hai mươi tuổi ngước mắt nhìn xã hội,
nhìn con người và cuộc sống. Niềm vui đánh đuổi được
thực dân Pháp đã qua lâu rồi, chỉ còn lại mầu đỏ
búa liềm, liệm dần cuộc đời thực tại trong bốn bức
tường độc tài của một người, một đảng.
Nguyễn Chí Thiện bắt
đầu vẽ chân dung. Bức tranh đầu, ông vẽ một người
mù, một xẩm tân thời sống trong chế độ mới; đồng
thời cũng là ý thức của chính mình, lần đầu tiên
tỉnh dậy, nhìn thấy sự thực nằm sau những bức bình
phong giả, bài trí ánh sáng, ấm no tân tạo:
Tôi thường đi qua
phố
Có anh chàng mù,
mắt như hai cái lỗ
Kính chẳng đeo,
mồm thời xệch méo
Ngậm vào tiêu, cổ
nổi gân lên
Dốc hơi tàn thổi
đứt đoạn như rên
Mấy bài hát lăng
nhăng ca ngợi Đảng
Đã mang lại ấm
no và ánh sáng!
Một buổi sớm anh
như choáng váng
Gục xuống đường,
tiêu rớt sang bên
Tôi vội vàng chạy
lại đỡ anh lên
Anh chỉ khẽ rên:
Trời, đói quá! (Tôi thường đi qua, 1959)
Năm 1959 đối với
Nguyễn Chí Thiện đánh dấu ngõ quặt của nhận thức.
Ngày Thiện đỡ người mù dậy, cũng là ngày anh đỡ
chính anh, mang tâm thức anh từ vùng tối ra vùng sáng.
Nhưng đó cũng là ngày đại hoạ cho anh: từ nay, anh sẽ
thay người mù bước vào bóng tối của lao tù cho đến
hết tuổi trẻ.
Năm 1960, lại một
bước nữa dấn thân vào định mệnh: Nguyễn Chí Thiện
nhận dạy thay một người bạn ốm vài giờ lịch sử
cho lớp học bổ túc văn hóa ở Hải Phòng. Bài giảng về
đại chiến thứ hai, thấy sách giáo khoa viết Nhật đầu
hàng là do Hồng Quân Liên Xô đánh bại quân Nhật ở Mãn
Châu, Thiện bèn đính chính: Nhật đầu hàng vì Mỹ bỏ
hai quả bom nguyên tử. Chuyện vu vơ, chẳng dính líu gì
đến chính trị Việt Nam, thế mà anh bị đưa ra toà,
lãnh án 2 năm tù vì tội "phản tuyên truyền".
Người con trai 20 tuổi, bị giam vì trót dậy học trò sự
thực, chưa tiên đoán được những gì sẽ đến trong
tương lai:
Nửa đời thân thế
long đong
Nhà thương tù ngục
xoay vòng tuổi xuân
Một năm thổ huyết
hai lần
Mười năm cấm cố
tiêu dần thịt da
Rừng hoang biên
giới mưa sa
Hoẵng kêu nấc
gịong xa xa trên ngàn
Chăn đơn khôn ấm
nỗi hàn
Co lên đất tấm
thân tàn bỏ đi... (Đêm nằm nghe, 1974)
1961, nẩy sinh một
Nguyễn Chí Thiện khác, một nhà thơ lột xác, đã
thôi lãng mạn, giã từ yêu đương, miễn tiếc nhớ, để
bước vào thực chất lao tù, bước vào định mệnh:
Có những chiều
mưa buồn lạnh cóng
Giữa bùn trơn tê
tím xương da
Chống cuốc nhìn
rừng núi bao la
Trong bụi nước mờ
mờ lẩn bóng...
Có những chiều
mặt trời như lửa bỏng
Giọt mồ hôi mờ
xót con ngươi
Đặt gánh phân
nhìn bốn phía đất trời
Rừng núi đứng im
lìm trong nắng loá
Có những chiều
thịt gân rời rã
... (Có những chiều,
1961)
Nguyễn Chí Thiện,
nhà thơ nhân chứng
Từ đây, Nguyễn Chí
Thiện trở thành nhà thơ nhân chứng, trở thành Đỗ Phủ
của địa ngục trần gian, của thiên đường cộng sản.
Tia mắt ánh xanh lạ lùng ở một người châu Á ấy đã
quắc lên.
Ở tuổi 23, ông viết
bài thơ đầu tiên mô tả thực chất đời tù. Ở người
thanh niên lãng mạn mơ mộng hiền lành mấy năm về
trước, nay đã có sự đổi thay toàn diện từ lực tâm
đến lực bút, những chữ dữ dội, khốc liệt, vung lên:
Chúng tôi sống
giữa lòng thung lũng
Bốn bên là rừng
núi bọc vây quanh
Ở rúc chui trong
mấy dẫy nhà tranh
Đầy rệp muỗi,
đầy mồ hôi, bóng tối
Bệnh tật cho nhau,
đời ôi hết lối
Tuyệt vọng ngấm
dần, hồn xác tả tơi
Bảo đây là kiếp
sống của con người
Của trâu, chó? So
làm sao, quá khó!
Làm kiệt lực, nếu
không giây trói đó
Ốm ngồi rên, báng
súng thúc vào lưng
Bướng lại ư? Hãy
cứ coi chừng
Xà lim tối, chân
cùm dập nát!
Lũ chúng tôi triền
miên đói khát
Đánh liều xơi tất
cả củ cây rừng
Bữa cơm xong mà cứ
tưởng chừng
Chưa có một thứ
gì trong ruột cả!
Đêm nằm mơ, mơ
toàn mơ thịt cá
Ngày lắm người
vơ cả vỏ khoai lang
Có ai ngờ thăm
thẳm chốn rừng hoang
Đảng cất giấu
dân lành hàng chục vạn
Và sát hại bằng
muôn ngàn thủ đoạn
Vừa bạo tàn vừa
khốn nạn, gian ngoa
Biết bao người
chết thảm chết oan
Chết kiết lỵ,
chết thương hàn, sốt rét
Chết vì nuốt cả
những loài bọ rết
Vì thuốc
men, trò bịp khôi hài
Chế độ
tù bóc lột một không hai
Biết
bao cảnh, bao tình quằn quại
Có những
kẻ thân hình thảm hại
Phổi ho
lao thổ huyết vẫn đi làm
Lời kêu
xin phân giải chỉ thêm nhàm
Phòng y
tế dữ hơn phòng mật thám!
Những
con bệnh bủng vàng hay nhợt xám
Bước
khật khừ như bóng quỷ hồn ma
...
Có những
buổi mưa rơi tầm tã
Vác áo
quần ra đứng cả ngoài sân
Lũ công
an lục soát toàn thân
Thu đốt
cả vật tối cần- miếng dẻ!
Cụ Mác
ơi, cụ là đồ chó đẻ
Thiên
đường cụ hứa như thế kia a?
... (Chúng
tôi sống, 1962)
Chúng
tôi sống, 1962, là một bản cáo
trạng, một bản hùng văn, một bức tranh cô đọng và
chi tiết về cuộc sống hàng ngày của những tù nhân
chính trị trên đất Bắc, chưa bao giờ được viết,
chưa bao giờ được công bố.
Chúng
tôi sống là
bức tranh hiện thực rỏ máu. Sự
thật này, năm 1962 không ai tin được, bởi mọi người
còn chưa hết say chiến thắng Điện Biên, còn đang hướng
về một thiên đường tuyệt đối sau khi dẹp xong bọn
"phản động" Nhân Văn Giai Phẩm.
Phải
40 năm sau, Bùi Ngọc Tấn mới viết những sự thật này
thành tiểu thuyết.
Nguyễn
Chí Thiện đi sớm hơn thế hệ ông bốn mươi năm, vì
vậy mà ông đã không được đánh giá đúng mức, bởi
trong số những người ca tụng Bùi Ngọc Tấn sau này, rất
nhiều đã từng đào thải Nguyễn Chí Thiện.
Chúng
tôi sống nói lên sức sống mãnh
liệt của người thanh niên tên Chí Thiện, hiểu tại sao
có sự trở mình của một ngòi bút bẩm sinh vốn nhu mì,
nay đã lột xác trở thành đanh thép; giải thích tại sao
một thanh niên ốm o ho lao, có thể sống còn và tồn tại
sau 27 năm tù.
Trong
số những chàng trai bị tù vì tư tưởng, Chí Thiện hiện
rõ nét, bởi anh là một nhà thơ, dám nghĩ, dám ghi lại
ngoại cảnh và tâm cảnh của mình. Anh bắt đầu đầu
đặt câu hỏi, về trời, về đất, về nước, về thân
phận. Nguyễn Chí Thiện suy nghĩ lao lung:
Trời
u ám, cây hay là sương xám?
Mây đục
mờ, hay vải liệm mầu tang?
Gió đìu
hiu lạnh buốt can tràng
Hay hơi
thở nơi dương tàn âm thịnh?
Lòng
thung vắng mịt mù hoang lạnh
Hay mồ
ma huyệt địa rấp xương khô?
Từng
đoàn đi thiểu não toán tội đồ
Hay quỷ
đói nơi trần gian địa ngục?
Những
chàng trai mặt gầy đen nhẫn nhục
Mắt
lạnh lùng, ngời sáng lửa âm u
Họ
ngước trông non nước mịt mù
Và
cúi xuống, nặng nề suy nghĩ...
(Trời u ám, 1962)
Kể
từ đêm trừ tịch 1961, Chí Thiện nhận thức được vai
trò nhân chứng của mình. Kể từ nay, anh quyết tâm ghi
lại trong đầu từng cảnh sắc, từng hình ảnh, từng
chi tiết nhỏ nhoi:
Đêm
rừng, rả rích mưa, phòng dột
Ôm gối
ngồi run lạnh nhìn nhau
Chấm
lửa mờ xanh một ngọn đèn dầu
Thùng
nước giải, thùng phân, sàn rệp đốt
Đêm
trừ tịch tù năm sáu mốt. (Đêm
rừng rả rích, 1962)
Mỗi
trạng huống, mỗi âm thanh, có thể trở thành một bài
thơ khủng khiếp. Chưa nơi nào, chưa thơ nào mà kiếp
người kinh hoàng đến thế:
Trời
mưa tầm tã đêm qua
Sáng nay
lạc rỡ còn pha trộn bùn
Sá gì
bệnh sán, bệnh giun!
Dịp may
hiếm có, tùn tùn nuốt nhai
Tôi nghe
rào rạo bên tai
Một
nhân lạc phải trộn hai nhân bùn
(Trời mưa tầm tã, 1962)
Cái
đói ở đây không còn nguyên chất sinh học nữa nữa,
không còn trọn khối nữa, mà nó đã hoá thân, hóa chất,
nhập vào mỗi âm thanh: tùn tùn
nuốt nhai, rào rạo
bên tai, một nhân lạc trộn
hai nhân
bùn. Nó
đánh động lương thức người đọc như một thứ bom nổ
chậm mà chắc.
Vẫn
chuyện rỡ lạc, năm sau, cái đói mở ra một trận tuyến
khác: nó dẫn đến sự trừng trị, nó là cái cớ để
cái ác có cơ hội ra tay, như nhân với quả:
Toán tôi
rỡ lạc ngoài đồng
Có ông
quản giáo ngồi trông đàng hoàng
Thừa cơ
quản giáo trông ngang
Một anh
tranh thủ vội vàng nuốt nhai
Vài nhân
lạc cả vỏ ngoài
Quả
tang! Báng súng nện hoài không thôi!
Mồm
anh toé máu, vều môi. (Toán tôi
rỡ lạc, 1963)
Chưa
có một thế giới nào dã man đến thế: vừa chết đói
vừa bị đánh.
Nhưng
sự kinh hoàng đến từ chỗ khác: Sự
thản nhiên của người kể, nhẹ nhàng như thuật một
chuyện vui hàng ngày. Những chữ thừa
cơ, tranh thủ hàm ý khôi hài,
càng làm tăng tốc ác, làm dầy cái bạo tàn, làm tê liệt
hệ thần kinh người đọc.
Thơ
Nguyễn Chí Thiện không gọt giũa mỗi chữ mỗi lời,
cũng không cao siêu tư tưởng, mà chỉ là những lời lẽ
bình thường, thậm chí tầm thường nữa, nhưng chúng làm
ta giật mình bởi chất dã man, tàn bạo ẩn trong những
con chữ nhu mì hiền hậu, lừa ta vào ổ phục kích bất
ngờ.
Cũng
năm 1963 này, Nguyễn Chí Thiện sáng tạo những câu thơ
lãng mạn pha máu và nước mắt. Sự tuyệt vọng lên
ngôi, người thanh niên 24 tuổi, sau ba năm tù tội, đã
nghiền tan cái lãng mạng của thời mình trong những dòng
thơ tuyệt vọng, những câu thơ tím bầm mình mẩy, những
vần thơ run sợ thất thần trên đường lên máy chém:
Khi ta
tới mặt trời đã nguội
Gió mùa
thu trở gió may cào
Những
mầm non khô cứng tế bào
Mau thay
sắc mang mầu xanh rớt
Và mặt
đất hoá thành mặt thớt
Và con
người con cá thiu ươn
Khắp
nơi nơi nhung nhúc loài lươn
Loài
giun đất không quằn khi dẫm
Tình
mộng đã vùi chôn một nấm
Hận thù
trơ trọi sống mồ côi
Những
vần thơ lãng mạn câm rồi
Còn
rỏ xuống một dòng đỏ sẫm
(Khi ta tới, 1963)
Những
vần thơ lãng mạn câm rồi
-chính là thơ bị trảm tấu, thơ bị tử hình- là đỉnh
cao của tuyệt vọng. Sự tuyệt vọng trở thành độc
dược, ngấm dần vào cơ thể thanh niên, hủy hoại hệ
thần kinh, rút dần xương tuỷ:
Mầu
thời gian đã chuyển về sắc xám
Vị thời
gian đã ngả tới mùi thiu
Nửa
trang đời dập, xoá, tẩy còn lưu
Và còn
đó nửa trang dài lạnh trắng...
Tim trúng
độc hóa ra bầu mật đắng
Hệ thần
kinh một mớ chỉ xù lông
Nửa
trang đời không một chữ nào trông
Thành
nét chữ, nửa trang đời lạnh trắng...
...
Dông gió
hết bơ phờ trong quạnh vắng
Cảnh
hoang tàn cây đổ mái nhà xiêu
Nửa
trang đời thâm tím với bầm biêu
Lòng
dột nát, nửa trang đành bỏ trắng?
(Mầu thời gian, 1963)
Đã
xa rồi cái buổi "mầu thời
gian xanh xanh" của Đoàn Phú
Tứ. Mầu thời gian, ở Nguyễn Chí Thiện, nó sắc xám,
nó đã ngả mùi thiu, nó là trái tim trúng đạn, nó là
hệ thần kinh rối bét như mớ chỉ xù, nó là nửa trang
đời bỏ trắng, nó là chưa sống mà đã chết... nó là
mầu tuyệt vọng của thời gian. Bên cạnh sự tuyệt vọng
của thời gian, là sự hấp hối của một người em tập
kết:
Những
manh áo vải
Tả tơi
Vật vã
Vào thịt
da...
Em có
lạnh lắm không?
Mưa gió
mênh mông
Thung
lũng sũng nước bùn
Bệnh xá
mối đùn, ẩm mốc
Những
khuôn mặt xanh vàng gầy rộc
Nhìn
nhau, đờ đẫn không lời
Nhát
nhát em ho
Từng
miếng phổi tung rời
Bọt
sùi, đỏ thắm!
Em chắc
oán đời em nhiều lắm
Oán con
tầu tập kết Ba Lan
Trên
sóng năm nào
Đảo
chao
Đưa em
rời miền Nam chói nắng...
...
Sáng nay
em không trống không kèn
Giã từ
cuộc sống
Xác
em rấp trên đồi cao gió lộng (Anh
gặp em, 1965)
Toàn
bộ thời gian, không gian, người, vật, đều sống trong
mùi tử khí, đều là những chân dung xác chết, nối tiếp
nhau trong vườn hoa địa ngục. Người đọc lạc vào cửa
tử trong trận đồ bát quái không tìm được lối ra. Bên
cạnh xác người em tập kết là xác chết một thân trâu:
Trông
trâu mà khiếp cho trâu
Lở
loang, tanh loét, sắc mầu nhở nham
Lệnh
ban giám thị nhà giam
Mừng
ngày quốc khánh cho làm thịt ăn
Tù nhân
tính toán băn khoăn
Bốn
mươi cân thịt, người ăn một nghìn!
(Trông trâu mà, 1967)
Trong
bữa tiệc mừng quốc khánh, mỗi
người tù được hưởng 40g thịt trâu chết bệnh. Chưa
có cao lương nào đạt vị khôi hài chua chát cay độc đến
vậy. Nhưng chưa hết, bên cạnh xác trâu lở loang, tanh
loét; bên cạnh một nghìn xác tù hom hem; bên cạnh bữa
tiệc quốc khánh quái đản, lại là một chân dung người:
Bác nằm
liền sát cầu tiêu
Mùi phân
nước giải sớm chiều nồng hôi
Bác ơi,
bác sắp chết rồi
Bác
không còn sức để ngồi được lên
Bác nằm
thoi thóp khẽ rên
Bát cơm
ngô, bát rau dền đặt bên
Bác thèm
một miếng đường phèn
Nhà giam
Cộng sản bác quên bác tù
Trưa nay
cái chết lù lù
Tới
khiêng bác - Khối hận thù ngàn thu!
(Ốm đau không thuốc, 1968)
Cuối
cùng, sống chết giao lưu trong một cuộc gặp gỡ lạ
lùng. Người hấp hối và thần chết trò chuyện với
nhau trong không gian âm dương giao kết, buốt lạnh:
Nhìn
thần chết hiện lên dần từng bước
Thân tù
cao không có lực xô lùi
Anh chết
oan, chết thảm, chết dập vùi
Hồn khổ
não không thể nào siêu thoát
Đêm đêm
hiện về đây lạnh toát
Bộ đồ
đen, bụng phù trướng, bước đi
Anh ngước
nhìn tôi, ra hiệu, chẳng nói gì
Mặt
bủng xám, mắt ngời lên sáng quắc
...
Thế đủ
rồi, tôi hiểu, hãy nên lui
Thể xác
anh chuột khoét đã chôn vùi
Hồn anh
hãy về vui nơi cực lạc
Lưu
luyến chi đời tù lao đói rạc
Sống
đọa đầy thoi thóp, sống ngựa trâu
Chết
như anh, hết khổ có chi sầu
... (Nhìn
thần chết, 1968)
Trong
nhiều năm, Nguyễn Chí Thiện ngồi vẽ chân dung như thế,
bức nọ để cạnh bức kia, thành cuộc triển lãm một
quần hội nửa người, nửa thú, đang sống mà đã chết.
Một thế giới người, vật, âm, dương, không phân chia
giai cấp, không phân liệt đấu tranh. Một vùng ngoại
biên, trên sông lú, người và vật cùng bị giam trong một
không gian kín, chết sống giao thoa. Cái đói là bát cháo
lú khiến người tù quên mình khi trước đã từng là một
con người:
Suất
cơm tôi một hôm đánh đổ
Tôi còn
đương đau khổ nhìn theo
Thì
nhanh như một đàn heo
Bốn,
năm đầu bạc dẫm trèo lên nhau
Bốc ăn
một lúc sạch làu
Miếng
cơm, miếng đất, lầu bầu chửi nhau!
(Suất cơm tôi, 1966)
Trên
bờ sông nghĩa địa ấy, người thanh niên Chí Thiện tồn
tại như một vong hồn:
Tôi
đương sống, nhưng từ lâu đã chết
Chết
trong tim, trong óc, chết tâm hồn
Cố đào
lên bao thứ sớm vùi chôn
Song
chúng đã xông mùi, tan rữa hết (Đoản
thơ, 2)
Kẻ
nhận định thơ mình đúng nhất cũng lại là tác giả.
Mười năm sau khi vào tù lần thứ nhất, Nguyễn Chí Thiện
"nhận định" thơ mình:
Thơ của
tôi không phải là thơ
Mà là
tiếng cuộc đời nức nở
Tiếng
của nhà giam ngòm đen khép mở
Tiếng
khò khè hai lá phổi hang sơ
Tiếng
đất vùi đổ xuống lấp niềm mơ
Tiếng
khai quật cuốc đào lên nỗi nhớ
Tiếng
răng lạnh đập vào nhau khổ sở
Tiếng
dạ dầy đói lả bóp bâng quơ
Tiếng
tim buồn thoi thóp đập bơ vơ
Tiếng
bất lực trước muôn ngàn xụp lở
Toàn
tiếng của cuộc đời sống dở
Và
chết thời cũng dở, phải đâu thơ!
(Thơ của tôi, 1970)
Năm năm
sau, 1975, ông làm bài thơ thứ nhì định nghiã thơ mình,
khốc liệt hơn:
Thơ của
tôi không có gì là đẹp
Như cướp
vồ, cùm kẹp, máu ho lao
Thơ của
tôi không có gì cao
Như chết
chóc, mồ hôi, báng súng
Thơ của
tôi là những gì kinh khủng
Như
Đảng, Đoàn, như lãnh tụ, như trung ương
Thơ của
tôi kém phần tưởng tượng
Nó thực
như tù, như đói, như đau thương
Thơ của
tôi chỉ để đám dân thường
Nhìn
thấu suốt tim đen phường quỷ đỏ
(Thơ của tôi, 1975)
Không
còn gì để bàn trước những lời thơ như thế. Quá
khích ư? Đúng là quá khích. Nhưng có gì quá khích hơn bị
tù vì tội nói thực? Có gì quá khích hơn sự đọa đầy
đến chết vì tư tưởng? Không có gì để khen chê trước
những lời thơ như thế. Không có gì liên quan tới nghệ
thuật trước những lời thơ như thế. Không có gì hàm
súc, không có gì ngụ ẩn trong những lời thơ như thế.
Phê bình đành chịu. Phê bình đành gác bút. Có lần J.P.
Sartre nói: Trước một em bé chết đói, cuốn Buồn
nôn của tôi không có nghiã lý
gì. Chúng ta bảo: trước những dòng thơ tù như thế, mọi
khen chê, mọi nghệ thuật, đều trở nên vô nghiã. Phê
bình đành á khẩu.
Trước
mắt tôi, mặt trời hấp hối
Sau lưng
tôi, bóng tối mịt mùng
Bên phải
tôi, tù ngục chập chùng
Còn
bên trái, súng nhằm tim chắn lối!
(Đoản thơ, 152)
Nguyễn
Chí Thiện, nhà thơ trào phúng
Nhưng thơ
Nguyễn Chí Thiện không chỉ có ngục tù, không chỉ có
đớn đau và xác chết, ông còn có những bài thơ trào
phúng vẽ chân dung lãnh tụ rất có duyên:
- Về bác
Mao:
Bác Mao
cân nặng tạ hai
Thịt ùn
lên mặt, mặt hai ba cằm
Người
dân Trung Quốc thì thầm:
"Nó
là Đổng Trác nhưng dâm hơn nhiều!" (Đoản
thơ, 126)
- Về bác
Hồ:
Bác Hồ
rồi lại bác Tôn!
Cả hai
đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước
da hai bác mầu hồng
Nước
da các cháu nhi đồng mầu xanh...
(Bác Hồ rồi lại)
- Lại về
bác Hồ:
Bác Hồ
tới thăm thiếu nhi
Bác cười
bác hỏi chi li ngọn ngành
Việc ăn
ở, việc học hành
Lao động
bác dặn chấp hành tốt, nhanh
Kẹo
bánh bác hứa để dành
Chủ
nghiã xã hội hoàn thành sẽ cho!
Thiếu
nhi khăn đỏ cổ cò
Vỗ
tay suông chúc bác Hồ sống lâu... (Bác
Hồ tới thăm, 1967)
- Về học
thuyết Mác:
Học
thuyết Mác, này đây sọt rác
Xét lại
làm gì, tốt nhất vất nó đi
Sử sách
sau này đỡ mất công ghi
Thêm
quá nhiều trang xám xì tội ác
(Đoản thơ, 169)
- Về thiên
đường Mác:
Thiên
đường cụ Mác dân mơ
Tỉnh ra
tài sản bị vơ nhẵn rồi
Chỉ còn
lại chút mồ hôi
Đổ
ra vì sợ, vì nuôi Đảng rồ!
(Đoản thơ, 180)
Vẽ
chân dung các đại lãnh tụ như thế không phải dễ. Đó
là lối thơ dân gian, lối thơ bút tre của những cụ đồ
hóm hỉnh. Tính chất hóm này những ai đã từng nghe
Nguyễn Chí Thiện nói chuyện thường bắt gặp: trong cái
bi thảm tột đỉnh, tâm hồn ông bao giờ cũng hướng về
một lối thoát, dù rất bé, về phiá mặt trời: ông là
người của niềm vui, của lạc quan. Ông thích cười
nhưng cuộc đời đã làm môi ông chụm lại che kín hàm
răng. Nhưng mắt ông thường lộ một ánh lửa trêu ngươi,
nhạo báng, thách thức, chơi khăm, những thế quyền,
những bạo lực.
Bị
tuyệt vọng đè nát cuộc đời, nhưng ông không chết vì
tuyệt vọng.
Bên
cạnh tiếng cười, thơ ông là một cõi mênh mông lệ,
cõi nước mắt trong vắt như thủy tinh:
Trong
muôn dòng trái đất tuôn đi
Dòng
trong nhất là dòng nước mắt
(Lệ, 1971)
Nguyễn
Chí Thiện, nhà thơ thời thế
Trong
tù, không gian chật lại, bốn mùa co lại, thời gian không
gian cùng chui chung một kiếp với tù nhân. Và mùa xuân,
mùa hy vọng cũng chịu cực hình như người tù phạm:
Bốn bức
rào nứa
Cứa vào
mùa xuân
Một
cách bất nhân
Mùa
xuân máu ứa! (Đoản thơ, 48)
Không
gian và thời tiết trong tù cũng là không gian và thời
tiết của đất nước. Nhưng người tù không được biết
gì về thời thế, về chiến tranh, về tình cảnh dân
tộc. Người tù cũng giống như người nhà nông xưa, phải
xem trời để biết nắng, xem mây đoán mưa. Người tù
cảm nhận thời thế gián tiếp qua thiên nhiên, vũ trụ.
Khi đất nước bị suy vong, khi con người bị trấn áp,
cơn thịnh nộ của đất trời giáng xuống núi rừng như
một lời cảnh giác:
Đêm bão
giật, lửa loè muôn tiếng sét
Nổ đùng
đùng như đánh phá sơn lâm
Nước
từ trời cao đổ xuống ầm ầm
Cả
rừng núi lồng lên gầm quát thét
(Đoản thơ, 95)
Trước
cơn thịnh nộ của đất trời, người tù Nguyễn Chí
Thiện đã hiểu tất cả. Ông phẫn nộ và hờn oán chính
mình, người mình, về chuyện nước non tan tác:
Giận
thân rồi lại giận đời
Giận
thời chuyên chính, giận người hèn ngu
Giận
trời, giận đất âm u
Giận
sông, giận núi quân thù dọc ngang
(Đoản thơ, 140)
Nguyễn
Chí Thiện sống trong tù trong suốt thời gian chiến tranh,
nhưng chắc ông đã hy vọng miền Nam sẽ thắng. Những
câu thơ sau đây đánh dấu sự tuyệt vọng của nhà thơ
khi miền Nam thua trận, cả nước quy về một mối cộng
sản:
Miền
Nam ơi, từ buổi tiêu tan
Ta
sống trọn vạn ngàn cơn thác loạn
(Vì ấu trĩ, 1975)
Và
trong con người ốm o, tù tội ấy, luôn luôn có sẵn ý
định lật đổ định mệnh của mình và của dân tộc.
Ý chí sắt đá ấy toát thành những lời thơ vũ bão, đặc
dị, khác thường:
Trong
bóng đêm đè nghẹt
Phục
sẵn một mặt trời
Trong đau
khổ không lời
Phục
sẵn toàn sấm sét
Trong lớp
người đói rét
Phục
sẵn những đoàn quân
Khi vận
nước xoay vần
Tất
cả thành nguyên tử (Trong bóng
đêm, 1976)
Sau
này, khi chế độ toàn trị chỉ còn là quá khứ, những
Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung, Hoàng Cầm, Kiều Duy Vĩnh,
Nguyễn Chí Thiện, Bùi Ngọc Tấn... sẽ trở thành chứng
nhân của lịch sử; một lịch sử sống động, trực
tiếp, thành thực về vùng đồng
lầy, viết bằng những từ trần
trụi, không khoan nhượng, mô tả chính sách triệt hạ
nhân quyền ở Việt Nam, trong hậu bán thế kỷ XX:
Đạo lý
tối cao ở xứ đồng lầy
Là lừa
thầy, phản bạn
Và tuyệt
đối trung thành vô hạn
Với
Đảng, với Đoàn, với lãnh tụ thiêng liêng
Hạt
thóc, hạt ngô phút hoá xích xiềng
Hoạ,
phúc toàn quyền của đảng (Đồng
lầy, 1972)
Không ai
kêu nổi một lời
Mồm
dân Đảng khoá đã mười mấy năm
(Gửi Bertrand Russell, 1968)
Lời
thơ tuy như nói, nhưng có tác dụng bằng trăm lời nói
thường, bởi nó có cấu trúc nội tâm là sự
thật.
Bài
Đồng lầy
là một bản trường ca về thời đại Nguyễn Chí Thiện
đã sống, một cõi đồng lầy
với những kiếp người như những con giun, với bọn ếch
nhái lên làm chủ và lũ sậy lau co đầu cúi rạp. Cõi
mộng chỉ đến trong giây lát, rồi nhà thơ lại phải
quay về với thực tại, của đêm đen, của dân tộc đẫm
trong ám khí đồng lầy:
Trời
cao biển rộng có cũng như không!
Một
tiếng quạ đêm ảo não rỏ xuống đồng
Tôi tỉnh
hẳn, trở về cơn ác mộng
Muỗi
nhơn nhơn từng đàn vang động
Những
con cưng của ngừng đọng tối tăm
Chúng
trưởng sinh trong đêm tối nhiều năm
Nên
chúng tưởng màn đen là ánh sáng!
Ếch
nhái vẫn đồng thanh đểu cáng
Chửi
bới mặt trời, ca ngợi đêm đen
Lũ sậy
lau còm cõi đứng chen
Hơi có
gió là cúi đầu rạp hết
Bát
ngát xung quanh một mầu khô chết
(Đồng lầy)
Cả
đoạn thơ trên bị một tiếng
quạ đêm rỏ xuống đồng làm
tan nát. Đúng ra, chỉ một chữ rỏ
thần tình, chua xót, một chữ rỏ
xác định phong cách thơ.
Đồng
lầy làm năm 1972, tóm tắt cuộc
đời Nguyễn Chí Thiện, từ tuổi hai mươi, đầy tin
tưởng vào tương lai, vào ánh sáng cách mạng mùa thu:
"Mơ
ước
Đợi
chờ
Vĩ
đại...
Nhưng
rồi một sớm đầu thu mùa thu trở lại
Tuổi
hai mươi mắt nhìn đời trẻ dại
Ngỡ cờ
sao rực rỡ,
Tô thắm
mầu xứ sở yêu thương
Có ngờ
đâu giáo giở đã lên đường
Hung bạo
phá bờ kim cổ
Tiếng
mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt
trời sự sống
Thổ
ra từng vũng máu hồng (Đồng
lầy)
Lời
thơ cổ điển theo lối kể các truyện nôm xưa: Rằng
năm Gia Tĩnh triều Minh, lại mang
sắc hiện đại của Một mùa thu
năm qua cách mạng tiến ra đất Việt.
Nhưng cơn mộng cách mạng của Nguyễn Chí Thiện -chậm
hơn các bậc đàn anh, vì ông ra đời sau, và cũng chấm
dứt sớm hơn nhiều người khác, bởi ông đã nhìn thấy
trước sự thật: Có ngờ đâu
giáo giở đã lên đường- kéo
theo một chuỗi dài rùng rợn:
Hung bạo
phá bờ kim cổ
Tiếng
mối giường rung đổ chuyển non sông
Mặt
trời sự sống
Thổ ra
từng vũng máu hồng
Lời
thơ mạnh mẽ. Chí khí vẫy vùng.
Thơ
mang bạo lực như cách mạng, nhưng một bạo lực phản
cách mạng.
Phùng
Cung và Nguyễn Chí Thiện là hai nhà
thơ miền Bắc chối bỏ rất sớm Cách
mạng mùa thu. Ông đã nhận ra
trách nhiệm lớn nhất của cuộc cách mạng này là du
nhập chính sách đấu tranh giai
cấp (của Mác, qua lăng kính Mao,
vào đất Việt) là một dòng lũ, bùn, cuốn trôi tổ
quốc:
Một mùa
thu nước lũ
Trở
thành bùn nước mênh mông
Lớp lớp
sóng hồng man dại
Chìm
trôi quá khứ tương lai
Máu, lệ,
mồ hôi, rớt rãi
Đi về ai nhận ra
ai!
Khiếp sợ, sững
sờ, tê dại!
Lịch sử quay tít
vòng ngược lại
Thời hùm beo rắn
rết công khai
Ngàn vạn đấu
trường mọc dậy giữa ban mai (Đồng lầy)
Chỉ có Phùng Cung và
Nguyễn Chí Thiện dám mô tả cách mạng mùa thu như thế.
Nguyễn Chí Thiện bị bắt năm 1960.
Phùng Cung, 1961. Nguyễn kể năm 1970
gặp Phùng trong trại tù Phong Quang, Yên Bái. Tình cờ
chăng? Phùng và Nguyễn cùng tố cáo chiến tranh Nam Bắc?
Súng ống
từng đoàn run run, nhớn nhác
Đảng
lùa đi, tan tác, thương vong
Mái
ngói, mái gianh, lệ thảm ròng ròng
Nhỏ
xuống bốc hơi trong lòng vạc bỏng
Đảng
dữ thét gào, hóc xương ngang họng
Giọng
thều thào, gượng gạo hung hăng
Lưới
thép nền chuyên chính tung quăng
Khốc
liệt, bậy xằng, ức oan, cay đắng
Dân đen
tay trắng cam đành
Từ núi
rừng hoang vu tới phố xá thị thành
Từ hải
đảo xa xôi tới ruộng đồng bát ngát
Mầu áo
vàng cảnh sát
Tràn
lan, nhợt nhạt cả mầu xanh!
Cuộc
sống đồng lầy rộp rát, nhoét tanh
Bom đạn
chiến tranh còn giật giành chút xương da thảm hại
Cái
cảnh mười đi, hai ba trở lại. (Đồng
lầy, 1972)
Đồng
lầy là một bài thơ thời thế,
bài thơ dấn thân, bài thơ tranh đấu, luận tội cộng
sản và kết án chiến tranh. Đồng
lầy cũng là một bài diễn ca
trong phong cách Hà Thành chính khí
ca, Đại
Nam quốc sử diễn ca... Sau này,
khi mọi chuyện lắng xuống, người ta mới có thể đánh
giá bản trường ca này một cách công bình hơn. Nhưng
chắc chắn nó sẽ là một bài thơ cần phải đọc để
tìm hiểu thời đại này.
Bài
Con tầu rêu,
là một thành công khác, một giá trị nghệ thuật và tư
tưởng.
Dùng
Con tầu rêu
Nguyễn Chí Thiện muốn mượn hình ảnh con
tầu say (bateau ivre) của Rimbaud,
để chỉ những con tầu tự do,
hay sự tự do
của chính mình. Thơ buồn bã như một lời tâm sự:
Con tầu
say như ních chật không gian
Giữa
mùa điên không biết lực điêu tàn
Xô vỡ
vụn nơi ngời băng tuyết loá
Trong
trắng xoá những ngày mưa tầm tã
Con tầu
đau vật vã trước bờ xanh
Phiá mờ
xa thôn xóm đứng yên lành
Thân tầu
đã tan tành trên mũi đá.
Cay đắng
quá những bến nghèo tàn tạ
Đón
trông tầu lui tới, đứng buồn thiu
Khi tầu
tôi men đến cũng dập dìu
Gây sóng
gió đắm dìm cho nhục nhã
Ôi tiếp
tới nước triều dâng vật vã
Con tầu
run chưa tiến đã chờn lui
Đành
một mai nơi đáy nước rêu vùi
Làm chỗ
ở cho tôm, sò, ốc, cá
Tôi đã
biết những đêm dài dòng dã
Con tầu
câm trôi giữa đám trăng sao
Biết
dừng đâu, không bóng hải cảng nào
Ra tín
hiệu đón con tầu buồn bã
Tôi đã
biết những bình minh đói lả
Biến
sang mầu loang tím của chiều hoang
Con tầu
đi, sức kiệt, lệ dòng hàng
Thương
xót những mảnh tầu trôi vạn ngả...
(Con tầu rêu, 1965)
Niềm
tuyệt vọng của Nguyễn Chí Thiện về tự
do đã dấy lên rất sớm, từ
thời thanh niên, tù tội, Từ năm 1965.
Con
tầu tự do trong tim người tù
trẻ phóng đi tìm một bến bờ, tìm sự đồng thanh tương
ứng. Nhưng con tầu của chàng đơn độc một mình. Nó đã
mắc nạn. Không ai cứu giúp. Không ai cho cập bến, đến
cả các bến nghèo, họ cũng đuổi tầu đi. Họ cũng dìm
cho tầu chìm, dường như trên mảnh đất này, tự
do là yếu tố đã bị yểm, bị
mọi người bỏ qua, bị sa thải như một vật phù phiếm,
người ta không cần dùng đến.
Tất
cả những đắng cay của con tầu
rêu, chìm dưới đáy biển, vận
vào thơ, làm nên linh hồn tập Hoa
địa ngục.
Không
ai hiểu hơn tác giả, không ai có thể định nghiã
đúng thơ ông bằng vài đoản thơ sau đây mà chúng tôi
chép lại như lời kết của chính tác giả về đời
mình, về tự do và về thân phận dân tộc:
Hoa địa
ngục tưới bằng xương máu thịt
Trộn mồ
hôi chó ngựa, lệ ly tan
Hoa
trưởng sinh trong tù, bệnh, cơ hàn
Hương
ẩm mốc, mầu nhở nham, xám xịt.
Toàn bộ
thơ tôi nặng nề cay cực
Không
một sắc mầu mang khí lực xanh tươi
Vần
điệu nghe như quỷ khóc ma cười
Do
sáng tạo tận cùng sâu đáy vực
(Đoản thơ, 112, 113)
Nguyễn
Chí Thiện đã chết. Một cái chết đột ngột, không ai
ngờ, trừ "tác giả". Một cái chết nhanh, trần
trụi, phanh phui sự thực như thơ ông: Cái chết đứng
của Từ Hải trước trận tiền, bằng những cơn ho xé
phổi, bằng lục phủ ngũ tạng tan tành như trái phá,
trong một ngoại hình gần như vô bệnh.
Cái
chết làm câm đi những lời ngụy biện trong các chiến
dịch "Nguyễn Chí Thiện thật giả, giả thật"
nối tiếp nhau bôi nhọ ông trong vòng nhiều năm, dường
muốn chôn ông lần nữa, bắn ông bằng thứ ám khí tàn
ác không kém gì 27 năm tù cộng sản, của những kẻ sống
dưới xã hội tự do, những kẻ tạm gọi là "đồng
hội, đồng thuyền".
Khi Hồ
Thích bị các đồng chí trong Quốc Dân Đảng Trung Hoa
đánh, Phan Khôi viết: "Thà
chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn
tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng
chí, của người quân tử".
Đấy
là Phan Khôi nói về cái chó má của người quân tử, còn
trường hợp Nguyễn Chí Thiện, lại là cái chó má của
bọn tiểu nhân, phỏng có đáng nhắc đến chăng?
Sự
lựa chọn, luôn luôn sự lựa chọn làm nên con người.
Trong muôn vàn lời tiếng ném ra, con người có khả năng
lựa chọn tiếng nào hữu tình, hữu lý; tiếng nào phản,
ngụy, trắc, gian.
Trong
muôn ngàn tiếng muốn tìm ra
Tiếng
nào thiết tha
Tiếng
nào trung thực
Hãy
lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực
(Đoản thơ, 114)
Chúc
thư Nguyễn Chí Thiện để lại là chúc thư ngôn ngữ và
tư tưởng: Mặc kệ ngục tù, mặc kệ xác thân rữa nát,
tư tưởng và ngôn ngữ vẫn sống, sống lâu, sống
dài, sống mãi:
Song ngôn ngữ ngày
đêm vẫn sống
Âm thầm đưa tư
tưởng sang sông
Qua muôn trùng hệ
thống xiềng gông
Đang ra sức dựng
thay cầu cống
Thoát khỏi đầu
là tư tưởng sống (Từ tư tưởng, 1971)
Thụy Khuê
Paris tháng 6-8/2013
Chú thích:
1. Do
Ủy Ban Tranh Đấu Cho Tù Nhân Chính
Trị Tại Việt Nam, nhóm Nguyễn Hữu Hiệu, Viên Linh in
tại Washington DC, 1980.
2. Do Phong trào thanh niên hành
động, in ronéo tại Pháp, không đề năm.
3. Mắt thuyền: chữ của
Lưu Trọng Lư.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/09/thuy-khue-nguyen-chi-thien-1939-
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001