Dr. Nikonian
Tôi đã đi, và đã trào nước mắt khi thấy đồng bào mình bị bắt.
Tôi đã đi bên cạnh một người phụ nữ mảnh khảnh khoác áo nâu sồng. Chị ấy vừa đi vừa hát: “Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau”.
Tôi đã đi, và đã ngậm ngùi thấu hiểu một điều: dân tộc này chưa bao giờ đủ cơm ăn áo mặc cho tất cả mọi người, nhưng luôn thừa thãi lòng hận thù, nghi kỵ, chia rẽ…
Tôi đã đi, và càng chạm trán với bạo lực, tôi càng hiểu bạo lực là liều thuốc độc đã và đang chia cắt dân tộc tôi trong rất nhiều năm.
Tôi đã đi, và vẫn tin chỉ có tình yêu thương, lòng khoan thứ mới có thể đưa dân tộc tôi khỏi kiếp trầm luân. Dẫu những thứ đó ngày càng hiếm hoi và xa xỉ.
Xin đừng để lòng hận thù kéo dài thêm lời nguyền bất hạnh trên phúc phận của dân tộc chúng ta.
Xin hãy cùng nhau thắp một ngọn nến để cầu nguyện cho những người anh em bị bắt sáng nay, và cho cả những người bắt họ nữa.
Nguồn: http://www.drnikonian.com/2012/07/toi-da-di/
Dr. Nikonian
Nguồn: Internet
Mùa xuân năm 1974, khi tấm giấy báo tử bi tráng này được ký, tôi vẫn còn là một chú nhỏ ngày hai buổi đến trường. Tuy bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, tôi vẫn chưa quên những âm thanh hừng hực ngày ấy. Từ chiếc radio Zenith cũ kỹ của gia đình, đài phát thanh Sài Gòn đã liên tục phát đi những bản hùng ca “Hội nghị Diên Hồng”, “Chi Lăng”, “Hận Nam quan”,… Nghe nói ông Hoàng Đức Nhã, Tổng trưởng dân vận hồi đó đã huy động những nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng của Sài gòn ngay trong đêm để cùng lên đài phát thanh, cùng hợp ca những bản nhạc hùng bất hủ ấy.
Lớp nhỏ chúng tôi cũng vậy, cũng cùng nhau hát đến khản giọng trong những buổi sinh hoạt Hướng đạo, những ngày đi ủy lạo nạn nhân chiến cuộc hay hay cứu trợ đồng bào bão lụt.
Hoàng Sa mất vào tay giặc chưa được bao lâu, thì 5 năm sau, cuộc chiến biên giới 1979 nổ ra. Chúng tôi lại được lệnh đào hào, tập bắn súng thật, tập ném lựu đạn… Và được khuyến khích, cổ vũ tối đa việc bày tỏ lòng khinh miệt, căm ghét với “lũ bành trướng sô vanh nước lớn Bắc Kinh” theo từ ngữ của các panô chống Trung Quốc rợp trời hồi đó.
Ghét Tàu thì không cần cố gắng và tranh luận. Khác với những nền đô hộ mà sự xâm lược luôn đi kèm với một chút khai sáng, 10 thế kỷ đô hộ của người Tàu trên đất nước hình chữ S không hề mang lại điều gì tốt đẹp, trừ công khai hóa về nông nghiệp của Sĩ Nhiếp. Tàn ác như thực dân Pháp mà còn có được Viện Viễn Đông Bác cổ, hội Đô thành hiếu cổ… để nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa của chính dân tộc mà họ đô hộ. Đó là chưa kể Trường Đại học Y Hà nội, Trường Mỹ thuật Đông Dương… đã để lại trong lịch sử Việt nam những cái tên sáng chói của những trí thức Tây học ngang tầm thế giới.
Còn người Tàu ư? Có dân tộc nào thâm hiểm đến độ đốt sách, chôn nho sĩ… để tuyệt diệt cội rễ văn hóa của dân tộc chúng ta như họ? Có kẻ xâm lăng nào tham lam đến độ ngoài các sản vật thời trân của đất nước, còn bắt cha ông ta phải tiến cống cả danh sĩ, mỹ nữ…, những nguồn gene ngoại hạng của đất nước sang Tàu? Và dù mê tín, cột đồng mà Mã Viện dựng lên với lời nguyền độc địa “đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là khẳng định chắc chắn nhất của dã tâm tuyệt diệt trăm họ Bách Việt trên đất nước chúng ta.
Với những ký ức ghê sợ như thế, đừng ngạc nhiên khi thấy não trạng đề kháng ngoại xâm đã là một phần của căn tính Việt. Vì sao dân tộc chúng ta có thể tồn tại mà không bị đồng hóa sau 10 thế kỷ dưới ách một dân tộc hung hãn như vậy, tự nó là một phép lạ lịch sử ngoại hạng và chưa từng có ở bất cứ dân tộc nào khác.
Trung Hoa lục địa ngày nay vẫn chưa đủ bao la với người Tàu. Biển Đông của chúng ta vẫn là chỗ nhòm ngó của kẻ tham lam. Sự ngang ngược của kẻ cướp đất, cướp biển vẫn xảy ra mỗi ngày, với nhiều mưu mô quỉ quyệt khác nhau. Cả một lịch sử dài hơn 10 thế kỷ, dường như người Tàu vẫn chưa học được những bài học xương máu về chí quật cường của dân tộc chúng ta, nơi mà từ thế kỷ 12, gã lính viễn chinh cha ông của họ khi nhớ tới phải “run sợ đến bạc đầu”.
Hôm nay, khi người Tàu ngang nhiên mời thầu những lô khai thác dầu ở biển Đông, chỉ cách bờ biển Phan Thiết 54 hải lý, đã có nhiều luồng dư luận bên lề khác nhau. Có người cay cú không màng, phủi tay đứng ngoài cuộc. Có kẻ hồ hởi thì thào về ngọn đèn xanh nào đó đã bật cho cuộc xuống đường sắp tới.
Tất cả đều sai! Vì yêu nước thì không cần đèn xanh đèn đỏ. Vì xuống đường biểu thị lòng ái quốc không thể, và không bao giờ là trò chơi để đong đưa hay kiếm chác.
Tôi xuống đường, vì tôi căm phẫn khi đất nước bị xâm hại.
Dẫu không hề ảo tưởng về sự nhún nhường của những kẻ đã cho xe tăng cán nát xương thịt của chính nhân dân mình, tôi đi, vì không muốn thấy xác những ngư phủ anh em phải trở về trong khoang thuyền ướp đá.
Tôi đi, để con cái tôi còn được ăn cá biển Đông, nơi những đội hùng binh thời các chúa Nguyễn đã cỡi thuyền ra giữ nước.
Tôi đi, vì những giọt dầu quí giá của tổ quốc, mà tương lai sẽ là cơm ăn, áo mặc, trường học, bệnh viện… của những thế hệ sau khỏi bị kẻ cướp kia chiếm đoạt.
Tôi đi, vì tôi yêu nước Việt của tôi, và đứng ngoài mọi trò chơi chính trị.
Chỉ thế thôi, xin đừng quăng quật!
Nguồn: http://www.drnikonian.com/2012/06/xin-dung-quang-quat/
nguồn_boxitvn:http://www.boxitvn.net/bai/38600
---------------------------------------------------------------------------------
Trần Minh Khôi – Tư duy Tàu chống Tàu
“Chống một chủ nghĩa dân tộc lớn bằng một chủ nghĩa dân tộc nhỏ hơn là vô vọng.“
Tôi đã đi bên cạnh một người phụ nữ mảnh khảnh khoác áo nâu sồng. Chị ấy vừa đi vừa hát: “Việt Nam không đòi xương máu, Việt Nam kêu gọi thương nhau”.
Tôi đã đi, và đã ngậm ngùi thấu hiểu một điều: dân tộc này chưa bao giờ đủ cơm ăn áo mặc cho tất cả mọi người, nhưng luôn thừa thãi lòng hận thù, nghi kỵ, chia rẽ…
Tôi đã đi, và càng chạm trán với bạo lực, tôi càng hiểu bạo lực là liều thuốc độc đã và đang chia cắt dân tộc tôi trong rất nhiều năm.
Tôi đã đi, và vẫn tin chỉ có tình yêu thương, lòng khoan thứ mới có thể đưa dân tộc tôi khỏi kiếp trầm luân. Dẫu những thứ đó ngày càng hiếm hoi và xa xỉ.
Xin đừng để lòng hận thù kéo dài thêm lời nguyền bất hạnh trên phúc phận của dân tộc chúng ta.
Xin hãy cùng nhau thắp một ngọn nến để cầu nguyện cho những người anh em bị bắt sáng nay, và cho cả những người bắt họ nữa.
Nguồn: http://www.drnikonian.com/2012/07/toi-da-di/
––––––––––––––––
Xin đừng quăng quậtDr. Nikonian
Mùa xuân năm 1974, khi tấm giấy báo tử bi tráng này được ký, tôi vẫn còn là một chú nhỏ ngày hai buổi đến trường. Tuy bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, tôi vẫn chưa quên những âm thanh hừng hực ngày ấy. Từ chiếc radio Zenith cũ kỹ của gia đình, đài phát thanh Sài Gòn đã liên tục phát đi những bản hùng ca “Hội nghị Diên Hồng”, “Chi Lăng”, “Hận Nam quan”,… Nghe nói ông Hoàng Đức Nhã, Tổng trưởng dân vận hồi đó đã huy động những nhạc sĩ, ca sĩ nổi tiếng của Sài gòn ngay trong đêm để cùng lên đài phát thanh, cùng hợp ca những bản nhạc hùng bất hủ ấy.
Lớp nhỏ chúng tôi cũng vậy, cũng cùng nhau hát đến khản giọng trong những buổi sinh hoạt Hướng đạo, những ngày đi ủy lạo nạn nhân chiến cuộc hay hay cứu trợ đồng bào bão lụt.
Hoàng Sa mất vào tay giặc chưa được bao lâu, thì 5 năm sau, cuộc chiến biên giới 1979 nổ ra. Chúng tôi lại được lệnh đào hào, tập bắn súng thật, tập ném lựu đạn… Và được khuyến khích, cổ vũ tối đa việc bày tỏ lòng khinh miệt, căm ghét với “lũ bành trướng sô vanh nước lớn Bắc Kinh” theo từ ngữ của các panô chống Trung Quốc rợp trời hồi đó.
Ghét Tàu thì không cần cố gắng và tranh luận. Khác với những nền đô hộ mà sự xâm lược luôn đi kèm với một chút khai sáng, 10 thế kỷ đô hộ của người Tàu trên đất nước hình chữ S không hề mang lại điều gì tốt đẹp, trừ công khai hóa về nông nghiệp của Sĩ Nhiếp. Tàn ác như thực dân Pháp mà còn có được Viện Viễn Đông Bác cổ, hội Đô thành hiếu cổ… để nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa của chính dân tộc mà họ đô hộ. Đó là chưa kể Trường Đại học Y Hà nội, Trường Mỹ thuật Đông Dương… đã để lại trong lịch sử Việt nam những cái tên sáng chói của những trí thức Tây học ngang tầm thế giới.
Còn người Tàu ư? Có dân tộc nào thâm hiểm đến độ đốt sách, chôn nho sĩ… để tuyệt diệt cội rễ văn hóa của dân tộc chúng ta như họ? Có kẻ xâm lăng nào tham lam đến độ ngoài các sản vật thời trân của đất nước, còn bắt cha ông ta phải tiến cống cả danh sĩ, mỹ nữ…, những nguồn gene ngoại hạng của đất nước sang Tàu? Và dù mê tín, cột đồng mà Mã Viện dựng lên với lời nguyền độc địa “đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là khẳng định chắc chắn nhất của dã tâm tuyệt diệt trăm họ Bách Việt trên đất nước chúng ta.
Với những ký ức ghê sợ như thế, đừng ngạc nhiên khi thấy não trạng đề kháng ngoại xâm đã là một phần của căn tính Việt. Vì sao dân tộc chúng ta có thể tồn tại mà không bị đồng hóa sau 10 thế kỷ dưới ách một dân tộc hung hãn như vậy, tự nó là một phép lạ lịch sử ngoại hạng và chưa từng có ở bất cứ dân tộc nào khác.
Trung Hoa lục địa ngày nay vẫn chưa đủ bao la với người Tàu. Biển Đông của chúng ta vẫn là chỗ nhòm ngó của kẻ tham lam. Sự ngang ngược của kẻ cướp đất, cướp biển vẫn xảy ra mỗi ngày, với nhiều mưu mô quỉ quyệt khác nhau. Cả một lịch sử dài hơn 10 thế kỷ, dường như người Tàu vẫn chưa học được những bài học xương máu về chí quật cường của dân tộc chúng ta, nơi mà từ thế kỷ 12, gã lính viễn chinh cha ông của họ khi nhớ tới phải “run sợ đến bạc đầu”.
Hôm nay, khi người Tàu ngang nhiên mời thầu những lô khai thác dầu ở biển Đông, chỉ cách bờ biển Phan Thiết 54 hải lý, đã có nhiều luồng dư luận bên lề khác nhau. Có người cay cú không màng, phủi tay đứng ngoài cuộc. Có kẻ hồ hởi thì thào về ngọn đèn xanh nào đó đã bật cho cuộc xuống đường sắp tới.
Tất cả đều sai! Vì yêu nước thì không cần đèn xanh đèn đỏ. Vì xuống đường biểu thị lòng ái quốc không thể, và không bao giờ là trò chơi để đong đưa hay kiếm chác.
Tôi xuống đường, vì tôi căm phẫn khi đất nước bị xâm hại.
Dẫu không hề ảo tưởng về sự nhún nhường của những kẻ đã cho xe tăng cán nát xương thịt của chính nhân dân mình, tôi đi, vì không muốn thấy xác những ngư phủ anh em phải trở về trong khoang thuyền ướp đá.
Tôi đi, để con cái tôi còn được ăn cá biển Đông, nơi những đội hùng binh thời các chúa Nguyễn đã cỡi thuyền ra giữ nước.
Tôi đi, vì những giọt dầu quí giá của tổ quốc, mà tương lai sẽ là cơm ăn, áo mặc, trường học, bệnh viện… của những thế hệ sau khỏi bị kẻ cướp kia chiếm đoạt.
Tôi đi, vì tôi yêu nước Việt của tôi, và đứng ngoài mọi trò chơi chính trị.
Chỉ thế thôi, xin đừng quăng quật!
Nguồn: http://www.drnikonian.com/2012/06/xin-dung-quang-quat/
nguồn_boxitvn:http://www.boxitvn.net/bai/38600
---------------------------------------------------------------------------------
Trần Minh Khôi – Tư duy Tàu chống Tàu
“Chống một chủ nghĩa dân tộc lớn bằng một chủ nghĩa dân tộc nhỏ hơn là vô vọng.“
Note này là để nói thêm cho cái status của tôi hôm qua nhận xét về bài “Xin đừng quăng quật” bên blog “Dr. Nikonian”. Cái status viết, “[tôi]
thật sự lo ngại với những bài viết như thế này. hãy khoan nói đến các
yếu tố lịch sử (được nhào nặn qua lăng kính của chủ nghĩa dân tộc), kích
động sự thù hận, ngay cả khi nhân danh bảo vệ quyền lợi quốc gia, không
bao giờ là điều nên khuyến khích.”
Các bạn ST, TH, và DN có ý kiến phản hồi,
cho rằng tôi không có lý do gì phải lo ngại cả. Các bạn là những người
mà tôi rất quý mến. Tôi thấy mình nên viết vài dòng, nếu không để hiểu
nhau hơn thì chí ít cũng là để nói thêm điều mình muốn nói. Tôi chưa có
dịp được quen biết blogger “Dr. Nikonian” nhưng đọc qua những bài viết
trên trang web, tôi thật sự cảm mến tác giả. Cái note này nếu có phê
bình tác giả đôi điều thì cũng chỉ là mượn một vài đoạn trong bài viết
rất hay đó để minh họa cho vài ý tưởng của tôi thôi. Tôi có thể mượn một
bài viết khác, của người khác, nhưng câu chuyện bắt đầu từ bài viết này
thì thôi cứ tạm mượn bài viết này đi. Nếu có lúc nào đó có dịp được
gặp, xin rót một ly rượu tạ tội với tác giả.
Bài viết có ba phần, phần đầu là hình ảnh
của lá thư Đô đốc Hải quân Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Chơn gởi bà quả
phụ Lê Kim Chiêu sau khi chồng bà, Đại úy Thạch, cùng đồng đội trên
chiến hạm Nhật Tảo hy sinh trong trận chiến chống quân xâm lược Trung
Quốc ở Hoàng Sa năm 1974. Tác giả nhắc lại những kỷ niệm thời niên thiếu
trong những ngày sôi động đó cũng như những sự kiện của năm năm sau,
1979, khi Trung Quốc lần nữa xua quân xâm chiếm biên giới phía Bắc. Phần
cuối là những xác tín niềm tin và tình yêu của tác giả đối đất nước.
Tác giả hứa nguyện sẽ xuống đường làm nhân chứng cho niềm tin và tình
yêu đó.
Nếu bài viết này chỉ dừng lại ở hai phần
này thôi thì đây là một bài viết tuyệt vời. Nó chứa đựng đầy đủ những
điều cần nói – ký ức, niềm tin, tình yêu đối với đất nước – và được nói
một cách chân thành, súc tích, và đầy nhiệt huyết. Nhưng rất đáng tiếc,
cũng như sự đáng tiếc thường thấy trong các bài viết có cùng chủ đề, tác
giả vay mượn những ý tưởng đã được cái khuôn thước ý thức hệ dân tộc
nhào nặn từ gần một thế kỷ qua. Sự vay mượn này hoàn toàn không cần
thiết vì không có nó bài viết của tác giả cũng đã đầy đủ. Nhưng sự hiện
diện của chúng tố cáo một lối mòn tư duy mà ở thời đại của chúng ta, khi
chúng ta cùng lúc đang đấu tranh cho tự do và công lý, đã trở nên nguy
hiểm. Tình trạng khuất lấp đối với những ý tưởng nguy hiểm này có lẽ bắt
nguồn từ những nhu cầu chính trị xã hội ngắn hạn như kêu gọi biểu tình
phản đối nhà nước độc tài hay thế lực ngoại xâm chẳng hạn. Ý tưởng, như
những hạt giống, một khi đã nảy mầm và phát triển thì chúng có cuộc sống
riêng của chúng. Là nạn nhân triền miên của những ý tưởng độc hại, hơn
ai hết, chúng ta phải hiểu rằng chúng ta sẽ trả một giá rất đắt cho thái
độ thỏa hiệp với mầm mống của các ý tưởng nguy hiểm. Hãy đi vào phần
hai của bài viết để xem tác giả nói gì.
Ghét Tàu thì không cần cố gắng và
tranh luận. Khác với những nền đô hộ mà sự xâm lược luôn đi kèm với một
chút khai sáng, 10 thế kỷ đô hộ của người Tàu trên đất nước hình chữ S
không hề mang lại điều gì tốt đẹp, trừ công khai hóa về nông nghiệp của
Sĩ Nhiếp. Tàn ác như thực dân Pháp mà còn có được Viện Viễn Đông Bác cổ,
hội Đô thành hiếu cổ… để nghiên cứu, bảo tồn di sản văn hóa của chính
dân tộc mà họ đô hộ. Đó là chưa kể Trường Đại học Y Hà nội, Trường Mỹ
thuật Đông dương… đã để lại trong lịch sử Việt nam những cái tên sáng
chói của những trí thức Tây học ngang tầm thế giới.
Một đặc trưng của chủ nghĩa dân tộc các
loại là cố gắng nhào nặn lịch sử cho phù hợp với khuôn thước và nhu cầu
đương đại. Nhưng ngay ở đây, sự nhào nặn lại quá vụng về. Người Pháp
không chỉ đem lại cho Việt Nam các trường đại học hay những gương mặt
học thuật sáng giá như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh. Chính qua người Pháp
chúng ta đã được làm quen với những ý tưởng đầu tiên về bình đẳng và tự
do, về quyền và chủ quyền quốc gia, về dân tộc và độc lập, về nhà nước
và mô hình nhà nước-quốc gia, về hàng loạt những khái niệm khác làm nền
tảng cho tư duy chính trị đương đại. Tương tự, những triều đại đầu tiên
sau thời kỳ Bắc thuộc của Đại Việt được đặt trên khuôn mẫu chính trị của
kẻ đô hộ phương Bắc. Những cuộc khởi nghĩa trước đó của Lý Bí, của
Dương Đình Nghệ, của Ngô Quyền cũng hoàn toàn dựa trên tư duy chính trị
phương Bắc. Nền “văn hiến chi bang” mà chúng ta ngày nay vẫn tự hào cũng
là kết quả của sự chung đụng với văn minh phương Bắc. Có thể nói, chính
cái tư duy chính trị vương quyền chúng ta học được từ kẻ đô hộ đã giúp
cho quốc gia Việt Nam hiện đại có một lãnh thổ thống nhất từ Nam Quan
(nay đã mất) đến Cà Mau, dù rằng chúng ta đã làm điều đó trong sự hủy
diệt đối với văn hóa thiểu số. Cha ông chúng ta chống Hán xâm lược nhưng
chưa bao giờ từ chối không gian văn hóa Hán. Thái độ thù nghịch với
lịch sử và văn hóa Hán chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20.
Xin đọc tiếp,
Còn người Tàu ư? Có dân tộc nào thâm
hiểm đến độ đốt sách, chôn nho sĩ… để tuyệt diệt cội rễ văn hóa của dân
tộc chúng ta như họ? Có kẻ xâm lăng nào tham lam đến độ ngoài các sản
vật thời trân của đất nước, còn bắt cha ông ta phải tiến cống cả danh
sĩ, mỹ nữ…, những nguồn gene ngoại hạng của đất nước sang Tàu? Và dù mê
tín, cột đồng mà Mã Viện dựng lên với lời nguyền độc địa “đồng trụ
chiết, Giao Chỉ diệt” là khẳng định chắc chắn nhất của dã tâm tuyệt diệt
trăm họ Bách Việt trên đất nước chúng ta.
Trong một xã hội văn minh, những lời kêu
gào thống thiết ở đoạn văn trên có thể bị coi là những kích động hận
thù. Một phần chúng vẫn là thói quen nhào nặn các sự kiện lịch sử cho
phù hợp với nhu cầu tập quần của chính trị đương đại, phần khác là tập
quán đẩy các khái niệm dân tộc/chủng tộc đi đến tận cùng của sự phân hóa
mà kết quả của nó không có gì khác hơn là sự xung đột giữa các cộng
đồng quốc gia. Nếu cuộc đốt sách của Minh Vĩnh Lợi đối với Đại Việt được
coi là “tuyệt diệt cội rễ văn hóa” thì hành xử của các triều đại Đại
Việt đối với Champa phải được coi là gì? Sự hủy diệt đối với các triều
đại trước bởi các triều đại sau của Đại Việt/Việt Nam, mà gần đây nhất
là hành xử của những người thắng trận miền Bắc đối với người anh em bại
trận miền Nam sau cuộc chiến 1975 phải được coi là gì? Đoạn văn trên là
bằng chứng thường thấy của sự lựa chọn và kiến giải các sự kiện lịch sử
có chủ định để cám dỗ niềm đam mê hoang dã mang tính bộ lạc của chủ
nghĩa dân tộc.
Và cuối cùng, vẫn là một tâm thức kiêu ngạo đầy mặc cảm tự ti. Hãy đọc tiếp,
Với những ký ức ghê sợ như thế, đừng
ngạc nhiên khi thấy não trạng đề kháng ngoại xâm đã là một phần của căn
tính Việt. Vì sao dân tộc chúng ta có thể tồn tại mà không bị đồng hóa
sau 10 thế kỷ dưới ách một dân tộc hung hãn như vậy, tự nó là một phép
lạ lịch sử ngoại hạng và chưa từng có ở bất cứ dân tộc nào khác.
Ở đây tư duy dân tộc chủ nghĩa bộc lộ trọn vẹn sự đáng thương của nó: nó đang thủ dâm.
Tư duy chống Tàu
Lữ Phương, trong một bài viết gần đây, đã
vạch ra những hệ lụy trong việc chọn lựa của những người lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam để rơi vào trong quỹ đạo của Cộng sản Trung Quốc hồi
những năm ’50 đối với vấn đề bá quyền Trung Quốc mà chúng ta đang phải
đối diện hiện nay. Thực ra, kể từ Lê Thánh Tông đến nay, ngoài 80 năm
thuộc Pháp, chúng ta chưa bao giờ có ý định thoát ra khỏi quỹ đạo chính
trị Trung Quốc. Ngay cả khi chúng ta đã thắng trong các cuộc chiến chống
xâm lược thì chúng ta lại tự nguyện lún sâu vào trong quỹ đạo chính trị
của họ. Những triều đại độc lập của Đại Việt, và của Việt Nam hiện đại,
vẫn là phên dậu, là phiên thuộc của vương quyền phương Bắc.
Điều này làm cho cuộc chiến chống Trung
Quốc lần này mang một ý nghĩa khác: chúng ta muốn một lần và mãi mãi
vượt ra khỏi ảm ảnh làm phên dậu của Trung Quốc, chúng ta muốn một lần
và mãi mãi thoát ra khỏi quỹ đạo chính trị Trung Quốc. Chúng ta muốn tự
do. Chúng ta muốn có công lý giữa các cộng đồng quốc gia láng giềng.
Chúng ta đòi được đối xử bình đẳng. Chúng ta đòi được đối xử với danh
dự. Chúng ta muốn giữ nguyên vẹn không gian sinh tồn này cho con cháu
mai sau.
Những điều đó đã đủ xứng đáng cho một
cuộc chiến. Chúng ta không cần phải viện dẫn một hiện hữu nào cao hơn
chúng và cao hơn chúng ta. Mỗi cá nhân đã là một hiện hữu cao nhất. “Dân
tộc”, nếu khái niệm này xứng đáng tồn tại thì nội hàm của nó không thể
vượt lên trên tổng lực của những hiện hữu cao nhất đó. Tổ quốc không
trên hết. Mỗi cá nhân của chúng ta mới là trên hết. Chúng ta từ chối
nuôi dưỡng sự tồn tại của bất cứ khái niệm “dân tộc”, “tổ quốc” nào cao
hơn quyền sống của mỗi cá nhân.
Cuộc chiến chống Trung Quốc lần này, do
đó, là một phần của cuộc chiến giành lại tự do và công lý cho từng mỗi
cá nhân và cho từng mỗi cộng đồng quốc gia. Chúng ta nhất định không để
cho lý tưởng cao thượng đó bị đánh tráo bởi những tư duy hận thù lẩm cẩm
của chủ nghĩa dân tộc nhằm tôn thờ một hiện hữu, thật ra là những ảo
giác, nào đó cao hơn mỗi cá nhân. Chúng ta nhất định không để bị cuốn
vào trong những đam mê thù hận, ngay cả thù hận kẻ lấn ép mình. Phải
khẳng định rằng chúng ta không ghét người Tàu, cũng như chúng ta không
ghét bất kỳ một cộng đồng dân nào. Phải khẳng định rằng chúng ta không
phủ nhận không gian văn hóa Hán mà cha ông chúng ta đã góp phần xây dựng
nên. Chúng ta quý mến người Tàu nhưng sẽ làm họ phải khuất phục trước ý
chí không khuất phục sức mạnh bá quyền của chúng ta. Chúng ta tôn trọng
họ nhưng sẽ làm nổ tung bất cứ một giàn khoan nào phiên lưu trên Biển
Đông. Đây là một cuộc chiến đòi hỏi ý chí và sự tỉnh táo, đòi hỏi sự
kiên quyết và bao dung. Chỉ có một cuộc chiến được đặt trên nền tảng của
những giá trị lớn của tự do và công lý thì chúng ta mới thành công
trong cố gắng vượt ra khỏi bóng đè của họ.
Chống một chủ nghĩa dân tộc lớn bằng một chủ nghĩa dân tộc nhỏ hơn là vô vọng. Những
đam mê cảm tính được kích dục từ sự nhào nặn lịch sử để nuôi dưỡng thù
hận sẽ không giúp được chúng ta. Hơn thế, chúng chứa đựng nguy cơ phản
bội các giá trị và bị phản bội bởi quyền lực.
(sẽ viết về nguy cơ phản bội và bị phản bội của tư duy dân tộc chủ nghĩa trong cái note kế tiếp)
************************************
nguồn_truongthaidu'sblog:http://truongthaidu.wordpress.com/2012/07/01/tran-minh-khoi-tu-duy-tau-chong-tau/
---------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001