Khởi động quá trình hiện
đại hóa Nhật Bản
Trần Văn
Thọ
Chuyện kể rằng Sakamoto
Ryoma (1835-1867), một chí sĩ có công trong cuộc vận động thay chế độ tướng quân
Mạc Phủ bằng chính quyền Minh Trị, đã nói với người bạn đồng hương lâu ngày mới
gặp lại rằng “vũ khí quan trọng của thời đại bây giờ không phải là thanh gươm
cây kiếm, cũng không phải là súng ống mà là cái nầy đây” (ông rút trong túi
ra đưa cho bạn xem cuốn Vạn quốc công pháp vừa được dịch và phát hành năm
1865).
Năm 1853 hạm đội của Đô đốc
Perry (Mỹ) đến bến cảng Uraga đòi chính quyền Mạc Phủ Tokugawa mở của giao
thương. Đến năm 1858, Nhật phải ký các hiệp ước bất bình đẳng với Mỹ và một số
nước Tây phương khác. Mười năm tiếp theo đó là giai đọan cực kỳ rối ren. Nhật
đứng truớc nguy cơ có khả năng trở thành thuộc địa của Âu Mỹ trong tình hình nội
chiến bùng phát vì các phiên trấn ở phía Nam tập họp lực lượng để đánh đổ chế độ
tướng quân Tokugawa, giành lại thực quyền cho thiên hòang. Trước nguy cơ ngoại
xâm, lãnh đạo Nhật ở cả hai phe đã khôn khéo không để cho cuộc nội chiến kéo dài
và tránh được cuộc đổ máu ở quy mô lớn. Chính quyền Minh Trị thiên hòang ra đời
năm 1868, trọng dụng người tài của chế độ cũ và ra sức tiến hành cận đại hóa để
theo kịp các nước phương Tây. Một trong những nỗ lực để khởi động công cuộc hiện
đại hóa là dịch và phổ biến các sách kinh điển phương Tây, các sách giúp xây
dựng chế độ pháp quyền, chế độ kinh tế tiên tiến và xây dựng lối sống văn minh.
Qua những trang dưới đây ta sẽ thấy một phần nỗ lực phi thường và sự phấn đấu
gian khổ của người Nhật trong nỗ lực tiếp nhận văn minh phương Tây qua dịch
thuật.
Dịch thuật và cầu học trước
sự tồn vong của quốc gia:
Công cuộc dịch thuật đã bắt
đầu từ thập niên 1850, dưới thời Tokugawa. Do nhu cầu phải thuơng lượng với Mỹ,
phải tìm hiểu công pháp quốc tế, Tokugawa lập ra Trường học tập phương Tây
(Yogakko) năm 1855 để đào tạo cán bộ ngoại giao và thông dịch viên. Lúc đầu trí
thức và quan chức Nhật đổ xô đến Nagasaki, thành phố duy nhất mở cửa giao lưu
với Hà Lan trong thời thực hiện chính sách bế quan toả cảng của Tokugawa, để thu
thập thông tin và sách báo Âu Mỹ. Sau đó trong các phái đoàn gửi sang Mỹ và Âu
châu, các thành viên lo săn tìm sách quý và cố mang về Nhật thật nhiều. Từ năm
1863 Yogakko bắt đầu dịch các sách về thiên văn, địa lý, vật lý, hóa học, kinh
tế, luật và thống kê. Năm 1868, chính quyền Minh Trị kế thừa và phát triển
truờng nầy, các thức giả bên ngoài chính phủ cũng nao nức học tập phương Tây, từ
đó công cuộc dịch thuật bước vào giai đọan triển khai mạnh mẽ.
Trong những năm cuối Mạc
Phủ và đầu Minh Trị, bốn cuốn sách được đón nhận nồng nhiệt nhất là Tây dương sự
tình (phát hành và tái bản trong thời gian từ 1866-1870) của Fukuzawa Yukichi,
gồm các phần dịch Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp của Mỹ và các bài viết của tác
giả sau chuyến đi khảo sát các nước phương tây; Vạn quốc công pháp (phát hành
năm 1865 và năm 1870) do Nishi Amane và sau đó là Shigeno Yasutsugu dịch cuốn
Elements of International Law (1836) của Henry Wheaton; Tây quốc lập chí biên
(1870-71) của Nakamura Keiu dịch cuốn Self Help của Samuel Smiles (bản phát hành
năm 1859); Dữ địa chí lược (xuất bản năm 1870) của Uchida Masao, dịch từ các
sách về địa lý của các tác giả người Anh và Hà Lan. Đặc biệt Vạn quốc công pháp
trở thành sách gối đầu giừơng của giới trí thức, quan chức và lãnh đạo chính
trị.
Mười lăm năm đầu thởi Minh
Trị có trên 1.500 cuốn sách xuất bản ở Âu Mỹ đã được dịch ra tiếng Nhật. Dân số
của Nhật lúc đó chỉ hơn 30 triệu, điều kiện dịch thuật khó khăn (thiếu tự điển,
thiếu người giỏi ngoại ngữ, tư tưởng, khái niệm hoàn toàn mới lạ, v.v.), mà mỗi
năm dịch hơn 100 cuốn sách nước ngoài trong đó không ít thuộc loại kinh điển thì
đúng là phi thường. Trong các thập niên 1870 và 1880, Tự do chi lý (phát hành
năm 1872) dịch từ cuốn On Liberty (1859) của John Stuart Mill, Xã hội bình quyền
luận (phát hành trong các năm 1881-84) dịch từ cuốn Social Statics (1851) của
Herbert Spencer là những sách dịch bán ra với số lượng hàng trăm ngàn
cuốn.
Lãnh đạo các giới của Nhật
hồi đó tiếp xúc với văn minh phương Tây thấy cái gì cũng mới lạ, dị chất đối với
văn hóa của mình. Đồng thời họ cũng thấy ngay được rằng nền văn minh mới và xa
lạ đó chính là nguồn gốc của sức mạnh kinh tế, quân sự của các nước Âu Mỹ, những
nước đương dùng sức mạnh đó đi xâm chiếm những nước yếu. Từ nhận định đó Nhật
thấy rằng phải nhanh chóng tiếp thu văn minh phương Tây để canh tân đất nước mới
tránh được thảm họa mất nước. Do đó phong trào dịch và phổ biến các sách hay của
phương Tây lan rộng rất nhanh.
Việc dịch sách nước ngoài
để nâng cao trình độ văn hóa của nước mình, để hấp thu những thành quả khoa học,
kỹ thuật của nước khác không phải là chuyện mới đối với nhiều nước, nhất là giữa
những nước tiên tiến. Nhật trước đó cũng đã dịch nhiều sách về lịch sử, văn học
của Trung Quốc. Nhưng kinh nghiệm của Nhật trong nửa sau thế kỷ 19 rất độc đáo:
Thực hiện trên quy mô cả nước, thực hiện trong khẩn trương, trong điều kiện khó
khăn và nhất là dịch những sách đến từ một nền văn hóa hòan tòan khác mình. Có
thể nói Nhật đã lập một kỳ tích và nhờ đó đã khởi động được quá trình cận đại
hóa.
Những đặc trưng nhiều ấn
tượng:
Thử điểm qua tình hình dịch
thuật và sự đón nhận của quần chúng Nhật truớc làn gió mới từ phương Tây
tới.
Thứ nhất, các dịch giả phải
phấn đấu, vất vả không những chỉ để hiểu chính xác nội dung nguyên tác mà khó
khăn không kém là tìm ra khái niệm thích hợp bằng tiếng Nhật. Fukuzawa Yukichi
khi dịch câu “all men are created equal” trong Tuyên ngôn độc lập của Thomas
Jefferson đã lúng túng với từ equal. Lúc đó chưa có từ bình đẳng, ông phải dịch
ý là “con người trời sinh ra ai cũng cùng đi một con đường”. Ảnh hưởng tư tưởng
nầy, ông đã nói một câu nổi tiếng (câu đầu tiên viết trong cuốn Gakumon no
susume -Khuyến học): “Trời không sinh ra con người ở trên con nguời và không
sinh ra con nguời ở dưới con người”. Một thí dụ khác, Nakamura Masanao khi dịch
On Liberty của J.S. Mill, gặp từ society ông ta chỉ hiểu ý và hiểu không chính
xác nên dịch là “nakama-uchi” hoặc “nakama-doshi” (có nghĩa là “tập hợp những
người có quan hệ gần gũi”) và ghi chú thêm đó là “chính phủ”. Mãi đến năm 1878 ở
Nhật mới có từ “xã hội” để dịch “society”.
Thứ hai, trong việc dịch
thuật, người Nhật đã làm việc khẩn truơng nhưng với thái độ nghiêm túc, cầu thị.
Nhiều bản dịch được thực hiện từng phần và hoàn thành qua nhiều năm. Chẳng hạn
cuốn Traites de legislation civile et penale của Jeremy Bentham phải dịch nhiều
kỳ (tuần tự xuất bản với các tiêu đề Lập pháp luận cương, Dân pháp luận cương và
Hình pháp luận cương) bắt đầu từ năm 1876 đến năm 1879 mới hoàn thành. Cuốn Quốc
phú luận (An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations) của
Adam Smith được dịch một phần vào năm 1870 đến năm 1884 mới bắt đầu được dịch
lại và hoàn tất vào năm 1888. Nhiều trường hợp khi phát hiện bản dịch cũ chưa
chính xác, hoặc phần giải thuyết, phụ chú chưa đầy đủ, người đi sau lại thực
hiện bản dịch mới. Thời kỳ cuối Tokugawa và đầu Minh Trị, do nhu cầu cấp bách,
Nhật phải dịch ngay những sách cần thiết trong điều kiện hạn hẹp (thiếu tự điển,
thiếu chuyên gia ngoại ngữ). Sau đó trong điều kiện tốt hơn, người sau lại thực
hiện bản dịch tốt hơn. Cũng có trường hợp, nhất là về sau nầy khi kinh tế đã
phát triển, đối với những cuốn sách kinh điển, nhiều bản dịch được thực hiện
đồng thời bởi nhiều dịch giả khác nhau. Dựa theo tư liệu chưa đầy đủ ta cũng
thấy cuốn On Liberty của Mill đã được dịch ít nhất là 8 lần qua các năm 1871,
1895, 1914, 1925, 1946, 1947, 1967 và 1971.
Thứ ba, tinh thần cầu học
rất mạnh và lan ra cả xã hội nên sách dịch được phổ biến rộng. Vì vậy mà số
lượng phát hành rất lớn, nhiều cuốn sách dịch tuy nội dung khó, văn dịch càng
khó hiểu, mà lượng phát hành lên tới trên dưới 1% dân số. Đặc biệt giới lãnh đạo
chính trị và quan chức là những người đi tiên phong trong việc học tập tư tưởng
mới để xây dựng nước. Chuyện kể rằng Sakamoto Ryoma (1835-1867), một chí sĩ có
công trong cuộc vận động thay chế độ tướng quân Mạc Phủ bằng chính quyền Minh
Trị, đã nói với người bạn đồng hương lâu ngày mới gặp lại rằng “vũ khí quan
trọng của thời đại bây giờ không phải là thanh gươm cây kiếm, cũng không phải là
súng ống mà là cái nầy đây” (ông rút trong túi ra đưa cho bạn xem cuốn Vạn quốc
công pháp vừa được dịch và phát hành năm 1865). Itagaki Taisuke (1836-1919),
người lãnh đạo cuộc vận động tự do dân quyền thời Minh Trị, đã xem cuốn Xã hội
bình quyền luận là giáo khoa thư về dân quyền, không những ông đã gối đầu giừơng
cuốn sách mà còn cổ vũ nhiều người khác đọc. Nhà hoạt động chính trị Mutsu
Munemitsu (1844-1897) bị bắt năm 1878 vì bị tình nghi có hoạt động chống chính
phủ, ở trong tù ông đã dịch cuốn An Introduction to the Principles of Moral
Legislation của Jeremy Bentham và sau khi ra tù đã xuất bản cuốn sách dịch đó
(năm 1883). Thời đó dù chính kiến khác nhau, những người yêu nước ai cũng lo tìm
cách cận đại hoá đất nước, tìm cách thương lượng thắng lợi với các cường quốc để
bãi bỏ các hiệp ước bất bình đẳng. Mutsu đã dịch cuốn sách của Bentham với hy
vọng có thêm tri thức về công pháp quốc tế để chuẩn bị thương lượng với phương
Tây về các hiệp ước bất bình đẳng.
Thứ tư, việc chọn sách dịch
hầu như không bị hạn chế về mặt tư tưởng hay ý thức hệ nào. Tất cả các sách
thuộc loại kinh điển, gói ghém trí tuệ của nhân loại, và sách giúp ích trực tiếp
cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng nền kinh tế hiện đại và lối sống
văn minh đều được đón nhận. Chỉ trong giai đoạn giới quân phiệt lãnh đạo chính
quyền với việc ban hành Luật duy trì an ninh năm 1925 (kéo dài đến năm 1945),
một số sách không phù hợp với chính sách đối nội và đối ngoại của họ mới bị cấm
đoán. Cuốn Tư bản luận của Karl Marx cũng được dịch và xuất bản năm 1919. So với
các sách kinh điển khác, việc dịch và phổ biến Tư bản luận có thể nói là khá
trễ. Có lẽ có hai lý do giải thích hiện tượng nầy. Một là, nội dung cuốn sách
chưa phù hợp với nhu cầu cận đại hoá của Nhật thời Minh Trị. Thời đó giai cấp tư
bản chưa thành hình, chưa có sự phân biệt rõ giữa hai giai cấp lao động và tư
bản. Thứ hai, trình độ lý luận và khái quát của cuốn sách quá cao, trong nửa sau
thế kỷ 19, Nhật chưa có nhiều người có thể dịch chính xác, trong lúc đó nhu cầu
dịch những sách khác cao hơn.
Vài lời
kết:
Điểm lại vài nét về tình
hình dịch thuật của Nhật vào nửa sau thế kỷ 19 ta có thể hiểu được nguyên nhân
thành công của công cuộc hiện đại hoá, của chiến lược theo kịp phương Tây của
họ. Ngày nay ai cũng thấy sự quan trọng của tri thức trong quá trình phát triển
kinh tế, xã hội. Nhật đã khôn khéo hấp thu tri thức và các tư tưởng tiến bộ của
nhân loại qua nỗ lực dịch thuật.
Tinh thần cầu học và sự
nghiêm túc trong dịch thuật của Nhật Bản hơn 100 năm truớc đáng cho ta suy
ngẫm.
Chú: Bài viết tham khảo các
tư liệu như Kamei Shunsuke, Kindai Nihon no Honyaku Bunka (Văn hoá dịch thuật
thời cận đại Nhật Bản), Chuo Koronsha, 1994; Maruyama Masao va Kato Shuichi,
Honyaku to Nihon no Kindai (Dịch thuật và thời cận đại Nhật Bản), Iwanami
Shinsho, 1998; Yamaoka Yoichi, Meiji Shoki no Daihonyaku Jidai (Thời đại đại
dịch thuật thời sơ kỳ Minh Trị); và kết quả các cuộc trao đổi với các đồng
nghiệp ở Đại học Waseda. Tác giả cám ơn các giáo sư Shima Yoshitaka (Sử Nhật
Bản), Ikeo Aiko (Kinh tế sử), Ikeda Masayuki (Văn hoá Nhật), Koga Katsujiro
(Triết học) và Nakano Tadashi (Kinh tế sử) ở Waseda đã dành thì giờ cho tác giả
trong những ngày bận rộn cuối năm (2007). Tác giả cũng cảm ơn các anh Bùi Văn
Nam Sơn và Nguyễn Xuân Xanh đã đọc bản sơ thảo và góp nhiều ý kiến hữu
ích.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001