Lê
Đại Lãng
Ngày
hai mươi mốt tháng chạp năm Kỷ Tỵ, xác mười một cô
gái tuổi từ mười chín đến hai mươi ba, trôi dạt vào
bờ Tha Sala, Thái Lan, không mảnh vải che thân.
Những
người con gái Việt Nam, cổ bị trói chùm vào nhau, sau
khi bị hải tặc hãm hiếp, bị đẩy xuống biển, và sau
khi hơi thở còn thoi thóp sự sống, sau tột cùng của đau
thương ô nhục, các cô đã bị kéo theo tàu hải tặc,
thân thể chập chùng theo sóng nước từ đuôi tàu, cho
đến một lúc, cho đến một lúc linh hồn buốt lạnh rời
khỏi xác đau thương, hải tặc chặt giây, để xác người
nhận chìm trong đại dương loang màu máu.
Những
ngày chuẩn bị vào xuân Canh Ngọ (1990), một mẩu tin rất
ngắn trên báo Úc loan tin người ta tìm thấy xác mười
một cô gái Việt Nam chết trần truồng trên bờ biển
Tha Sala. Người ta đoán tuổi các cô gái từ mười chín
đến hai mươi ba, cổ bị giây thừng trói chùm vào nhau.
Tôi
đã viết một bài tưởng niệm để người bạn thân
Trung Chính đọc trên đài phát thanh SBS với lời mở đầu
như trên. Giọng đọc dù rất lão luyện, nhưng chợt
nghẹn ngào của Chính, đã gửi đi toàn nước Úc một
thông điệp buồn, đúng chương trình phát thanh đặc biệt
vào giờ khắc giao thừa.
Hôm
nay tôi đang ngồi trên bờ biển Tha Sala vào một ngày
giữa tháng 7 năm 2012 để viết những dòng này.
Hơn
hai mươi hai năm đã trôi qua.
Ngày
cuối cùng của tháng 5 âm lịch năm Nhâm Thìn.
Tôi
ngồi nghe lại giọng của Chính trên bờ Tha Sala.
Trên
bờ biển, dưới một táng cây dương liễu lớn, có dáng
một chiếc thuyền dài gần mười thước đã rã mục,
chỉ còn trơ ba lớp ván đáy thuyền. Người ta kê miếng
ván thuyền này trên các cột thấp, phía trên lợp mái
tranh, hai đầu mũi thuyền có hai cái am nhỏ, một cái
hướng vào bờ, một cái hướng ra biển.
Lúc
tôi đến thì đúng lúc một bà lão Thái đang cùng hai cậu
nhỏ bưng đồ cúng gồm trái cây và xôi trắng phía trong
bờ đi ra. Bà cụ sắp đồ cúng lên hai cái am, kê một
cái bàn vuông nhỏ ngay phía mũi thuyền hướng biển, đặt
mâm ngũ quả lên, thắp hương vái rồi đi vào. Tôi không
biết bà cúng ai vì bà không nói được, có lẽ miếng
ván thuyền để trong chòi tranh là di tích một thuyền cá
nào đó trôi vào bờ. Có lẽ có người chết trên thuyền
nên người địa phương mới chưng thờ miếng ván một
cách trang trọng dù mái che và cột chống tơi tả nhuộm
một màu buồn bã và nghèo nàn.
Đột
nhiên thấy rùng mình.
Bờ
Tha Sala không phải là chốn nghỉ. Người Thái chê bờ
biển này vì có nhiều thuyền đánh cá, bờ cát sạch
nhưng đáy biển là lớp bùn dầy. Người nước ngoài qua
đảo Ko Samui không xa lắm. Hai chục cái nhà sàn không một
người khách nào khác đến thuê ở qua đêm. Con đường
từ đường quốc lộ vào đây phải đi bộ trên hai cây
số. Có lẽ những căn nhà sàn gỗ đỏ mái tôn dành cho
người địa phương gần đâu đấy vì bên trong không có
gì, ngoài một cái giường có treo mùng trắng và cái quạt
bàn.
Một
bờ biển rất buồn. Một làng chài lạc lõng trên bản
đồ vùng duyên hải phía nam của Thái Lan, thuộc tỉnh
Nakhon Si Thammarat.
Tôi
ra dấu xin bà cụ một ít nhang. Cụ sai một đứa nhỏ
chạy vào trong cầm ra ba nén nhang.
Có
ai đó đang đốt nén hương dâng lên bàn thờ Tổ, xin
thắp thêm nén hương lòng, cắm vào hư không cho thơm linh
hồn của những người nằm xuống trên cuộc hải trình
tuyệt vọng.
Có
ai đó đang đi lễ chùa đêm nay, hãy dừng lại thả vào
không gian tiếng thở dài, để sưởi ấm những hương
hồn cô đơn lạnh lẽo.
Có
ai đó đang ngập ngừng trước cổng thánh đường, hãy
xin Chúa ban phát tình yêu cũng như niềm đau khổ đồng
đều cho hết thảy nhân loại.
Chính
đã đọc những lời trên ở đất Úc yên bình hai mươi
hai năm trước, hướng về những linh hồn thảm tử Việt
Nam trôi vào bờ Tha Sala.
Hôm
nay tôi đưa giọng trầm buồn của Chính vang trên bờ Tha
Sala vắng lặng.
Hôm
nay tôi cắm một nén hương trên bờ biển Tha Sala vắng
lạnh giữa trời mai nắng cháy.
Chợt
nghẹn ngào.
Mặt
biển xa phẳng như mặt nước hồ.
Sóng
nhẹ không thành tiếng.
Một
vị sư ở Việt Nam khi biết ý định, đã chỉ cho tôi
cách tịnh thủy và cầu nguyện.
Tôi
ngồi sau nén hương, hướng ra biển.
Những
tàng dừa biển mọc sát đất xào xạc trong gió.
Lá
bàng vàng võ rơi rụng trên những vỏ sò đá cuội trắng.
Tôi
cám ơn bà cụ đã cho tôi nén hương làm từ vùng đất
của những tên cướp biển.
Nhưng
những người Thái mà tôi gặp hết sức hiền lành và
tốt bụng. Mấy ngày qua tôi ở nhờ gia đình một bà bác
sĩ trong khu vực dành cho bác sĩ và sinh viên y khoa bên
trong khuôn viên nhà thương Maharat ở trung tâm tỉnh Nakhon
Si Thammarat. Bà chỉ cho tôi đến bờ Tha Sala chỉ cách
trung tâm thành phố vài chục cây số. Nhưng khi tôi hỏi
cách qua đảo Ko Kra thì bà chịu. Bà cả không biết có
một hòn đảo có tên như thế nằm trong ranh giới tỉnh
nhà.
Kro
Kra, người Thái đọc là ‘Cỏ Cả’ (Kro là đảo). Năm
1981, các nhà văn Nhật Tiến, Dương Phục, và Vũ Thanh
Thủy đã viết một bản tường trình từ trại tỵ nạn
Songkhla miền cực nam nước Thái về thảm trạng kinh
hoàng của thuyền nhân trên đảo này. Bản tường trình
‘Hải tặc trong Vịnh Thái Lan’ của họ đã dóng lên
tiếng kêu đau đớn, tiếng chuông hy vọng và tuyệt vọng
nhất của thời đại chúng tôi.
Mười
một cô gái chết thảm nơi đây thuộc thế hệ chúng
tôi.
Họ
sinh ra trong thời chiến, chết trong thời hậu chiến trên
biển người và đất lạ.
Buổi
trưa, tôi nửa nhắm nửa mở ngồi trên ghế dựa nhìn ra
biển vắng.
Căn
nhà sàn tôi ở nằm sát mép nước, tận trong cùng của
khuôn viên, chỉ cách cái chòi thờ miếng ván thuyền độ
20 thước.
Chợt
thấy hai cô gái phục sức theo Hồi giáo, khăn trùm kín
đầu, đi dạo trên bờ biển. Một cô trùm khăn trắng,
một cô khăn đỏ rực. Họ nắm tay nhau đứng nói chuyện
trước chòi thờ ván thuyền.
Những
người con gái Việt Nam đã chết trần truồng trên bờ
biển này. Những người con gái đạo Hồi kín đáo từ
đầu đến chân đứng nhởn nhơ trên bờ biển này.
Chờ
gần chiều khi biển chỉ còn một màu vàng đỏ, tôi đi
lần xuống nước tính lấy toàn cảnh từ biển trông vào
bờ. Nhưng khi ngẩng đầu lên thì giật nẩy mình. Ngay
nóc chòi thờ chiếc ván thuyến, có di ảnh mờ mờ của
một cô gái. Có lẽ do nắng gió từ biển khơi lâu ngày
nên hình hài trên ảnh đã mờ, nhưng trông kỹ vẫn thấy
đúng là ảnh một cô gái. Cả thân hình cô được bao
phủ bởi một thân cây già, các táng cây mọc sau cô xòe
những lá cây như hoa trắng trùm lên mái tóc dài thả
xuống hai vai, cô quỳ hai gối trên một chiếc thuyền
buồm đang vượt đại dương, miệng mỉm cười, đôi mắt
đen to nhìn thẳng ra biển.
Tôi
rùng mình trong thoáng giây.
Tôi
đã quan sát hai cái am nhỏ hồi sáng. Không có tượng
Phật. Thì ra họ thờ cô gái này.
Tôi
chụp nhanh một tấm thì đúng lúc, trời đổ mưa lắc
rắc, mây từ đâu kéo đến đen cả bầu trời. Rồi
những hạt mưa to trút xuống cả biển khơi, rơi đồm
độp trên mái lá mái tôn và bãi cát. Một tia chớp sáng
lóe bầu trời. Gió nổi mạnh trong khi ngoài biển xa bầu
trời vẫn vàng ươm ánh chiều tím mịn.
Tôi
chạy vội vào căn nhà bán thức ăn. Lúc này không có gì
hơn là một lon bia Thái. Một người đàn ông chừng bốn
mươi tuổi mang bia ra, tiện thể ngồi xuống bên cạnh để
hỏi chuyện.
Tôi
hỏi tại sao có cái chòi thờ chiếc chuyền đã rã mục,
lại có hai cái am. Có phải thờ cô gái có di ảnh hướng
ra biển không.
Ông
ta là con trai độc nhất của bà cụ hồi sáng. Ông trầm
ngâm, nói tới đâu tôi lạnh mình tới đấy.
Ông
kể rằng cách đây mười bảy năm, gia đình từ đảo
Samui qua đây lập nghiệp. Khi đào cát để lập chòi thì
thấy xác một chiếc thuyền vùi sâu trong cát. Ông nói
trước đây có một số thuyền Việt Nam qua đây, nhưng
không chắc có phải là thuyền của người Việt hay
không.
Cả
nhà khi đào thấy chiếc thuyền cũng không chú ý, chỉ để
trơ ra đấy. Thế rồi một hôm, có một vị sư kêu mẹ
ông đến bảo rằng hãy thờ chiếc thuyền ấy. Vị sư
nói ông nằm mộng thấy một cô gái hình vóc như thế
này thế kia, đến nhờ ông nói lại với gia đình là
những người đi trên thuyền, trong đó có cô, đã chết
thảm, nên xin được thờ phụng. Vị sư kêu người vẽ
lại chân dung cô gái như ông thấy, rồi bảo bà cụ hãy
thờ cô gái này nơi chỗ xác thuyền tìm thấy.
Bà
cụ là người mộ đạo nên làm theo. Cả mười bảy năm
nay, mỗi ngày bà cụ đều cúng hai mâm như thế cả.
Tôi
xúc động bảo với người đàn ông, dù gia đình ông
không chắc người chết trên thuyền kia là ai, nhưng tôi
chắc là những thuyền nhân Việt Nam, vì mười bảy năm
trước thuyền đã mục, nghĩa là chiếc thuyền đã vùi
trong cát lâu lắm, có lẽ từ khoảng thời kỳ mà thuyền
nhân Việt ồ ạt ra đi.
Người
đàn ông lặng thinh, ngẫm nghĩ. Rồi ông vào trong nhà mời
bà cụ ra. Bà bảo khi bà lập chỗ thờ thuyền cùng di
ảnh cô gái, người trong làng cá này đều bảo bà điên.
Nhưng bà không màng, bà bảo bà tin có Phật, nhất là vị
sư không bao giờ đặt chuyện như thế.
Trời
đã sụp tối, tiếng sóng biển rì rào. Tôi về lại căn
nhà sàn của mình, phải đi ngang lại chiếc chòi thờ
thuyền. Bất chợt, dù cả đời không sợ ma vì biết ma
chê mình, người tôi lạnh xương sống.
Nhìn
quanh không một bóng người. Tiếng sóng, tiếng chó tru
trong đêm rờn rợn.
Nhưng
rồi tôi cũng đứng lại hồi lâu trước di ảnh cô gái
trong bóng tối nhá nhem. Có lẽ từ một tiếng gọi kêu
nào đấy đã đưa chân tôi lưu lạc chốn này để thấy
lại một thảm cảnh hiển bày.
Tha
Sala, em ơi, đêm nay sóng cuồng điên ngoài biển, miếng
ván thuyền rã mục trên bờ vắng.
Mưa
đã ngưng nhưng cát vẫn ướt.
Tôi
vào nhà lấy cái máy đem ra để cạnh cái chòi thờ, mở
lại giọng đọc của Chính.
Trong
đêm vắng, giọng của người bạn tôi như tiếng kinh cầu
chiêu niệm những oan hồn lẩn khuất đâu đây. Tiếng
của anh chậm buồn như sóng biển ngoài kia đang thổn
thức.
Đêm
nay, đêm oai linh, đêm hồn thiêng sông núi, đêm của tổ
tiên nghìn năm sống lại, đêm của những bước chân
phiêu lãng trở về bên đốm lửa quê nhà.
Đêm
đào huyệt chôn vùi tội ác và ích kỷ.
Đêm
của những tấm lòng nở hoa nhân ái.
Xin
hãy bàn giao hiện tại tối tăm và phù phiếm, cho ngày
mai rạng rỡ bài đồng ca thơm ngát tình người.
Để
mùa xuân được trải đều khắp chốn.
Để
thiện tâm nở đầy trên lòng bàn tay, thúc giục những
bước chân trần tiến về những cuộc hải trình tuyệt
vọng, cho mùa xuân chia đều trên mỗi một sinh mệnh của
đồng bào.
Tha
Sala, em ơi biển yên bình.
Sóng
dậy.
Những
người con gái Việt Nam.
Những
thế hệ chúng tôi đi vào biển dữ.
Cuồng
điên, khát vọng, xâu xé.
Biển
đen những kiếp người trôi dạt.
Biển
đêm miếng ván thuyền di ảnh
Của
em.
Sáng
lung linh tinh khiết
Trên
bãi vắng.
Thân
xác em hoang lạnh nhưng linh hồn thơm ngát những đóa hoa
nở tung trời.
Hình
hài em từ lòng cây hiện ra sang cả tinh trong.
Em
biết không
Các
thành tựu của Mâu Ni đều hiển bày từ cây đó.
Sinh
trong vườn cây Lâm Tỳ Ni.
Thành
đạo dưới cội cây Bồ Đề.
Giảng
pháp đầu tiên trong vườn cây Lộc Uyển.
Và
trở lại hư không dưới táng cây Sala bất diệt.
Người
đất lạ đã hiển bày em trang nghiêm từ lòng cội cây
già nở hoa
Nơi
biển Tha Sala này.
Em
là biểu tượng của vô cùng
Của
hư không bất diệt.
Tha
Sala, hai mươi hai năm sau, tôi thắp nén hương này, nói
vào hư không bài văn tế không thành tiếng.
Tha
Sala đêm 17.7.2012
nguồn:http://www.diendantheky.net/2012/07/le-ai-lang-tha-sala-em-oi-bien-ong-ve.html?utm_source=BP_recent
--------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001