Bị mê hoặc bởi trữ lượng dầu khí đáy biển, lợi dụng những điểm yếu của các bên tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc mở đợt tấn công bằng hải quân và chiếm quần đảo này. Lịch sử có thể sẽ lặp lại.
> Trung Quốc có hai lực lượng đồn trú ở Biển Đông
> 5 ngòi nổ trên Biển Đông
Đây là ý kiến của Jim Holmes, giáo sư về chiến lược tại Trường Hải quân Mỹ và là đồng tác giả của nghiên cứu Red Star over the Pacific: China's Rise and the Challenge to U.S. Maritime Strategy,
tạm dịch: Sao đỏ trên Thái Bình dương: sự trỗi dậy của Trung Quốc và
thách thức đối với chiến lược hải dương của Mỹ. Trên tạp chí Foreign Policy
số tháng 7, ông phân tích về việc tại sao Trung Quốc lại hung hăng mạnh
trong thời gian gần đây, và âm mưu tiếp theo của nước này là gì.
Trung Quốc là nước có lực lượng hải quân mạnh nhất trong các bên tranh chấp ở Biển Đông. Trong ảnh là đội tàu tên lửa cao tốc tàng hình của hải quân nước này, mới ra mắt năm ngoái. Mỗi tàu này trị giá tới 40 triệu USD, được trang bị tên lửa và khả năng tấn công chớp nhoáng. Ảnh: Chinamil |
Để biện minh cho hành động chiếm Hoàng Sa, Bắc Kinh
viện dẫn lịch sử, trong đó có chi tiết đô đốc Trịnh Hòa đời Minh từng
đến thăm các hòn đảo này, và áp đặt cái gọi là chủ quyền không thể tranh
cãi đối với hầu hết Biển Đông.
Cuộc hải chiến nói trên diễn ra ngày 17/1/1974.
Lịch sử thường không lặp lại y hệt, nhưng chắc chắn ăn
vần. Lúc đó, Trung Quốc đã khai thác điểm yếu của chính quyền Nam Việt
Nam để chiếm quần đảo Hoàng Sa. Bây giờ, Giải phóng quân Nhân dân Trung
Quốc (PLA) đã công bố kế hoạch thiết lập một trạm đồn trú tại Tam Sa,
một thành phố mới được thành lập trên Đảo Phú Lâm với diện tích 0,8 dặm
vuông ở quần đảo Hoàng Sa. "Tam Sa" tự cho mình quyền quản lý hành chính
đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng các vùng biển liền kề.
Đây là động thái mới nhất của Trung Quốc trong chiến
dịch củng cố tuyên bố đòi tất cả các vùng biển và các đảo nằm trong một
"đường chín khúc", thâu tóm hầu hết Biển Đông, bao gồm cả phạm vi thuộc
các vùng đặc quyền kinh tế của các nước nằm quanh Biển Đông. Tháng này,
một tàu khu trục Trung Quốc bị mắc cạn trong khu EEZ của Philippines sau
khi bị cho là đã nổ súng vào ngư dân Philippines. Sự kiện trên xảy ra
ngay sau một tuyên bố của Trung Quốc vào cuối tháng sáu rằng các đơn vị
Hải quân của PLA sẽ bắt đầu "tuần tra sẵn sàng chiến đấu" trong các vùng
biển tranh chấp.
Đọc thêm: Trung Quốc lập đội tuần tra ứng chiến
Một lần nữa Bắc Kinh dường như đang xem xét đến vũ
lực. Tuy nhiên không giống như năm 1974, lần này các nhà lãnh đạo Trung
Quốc đang sử dụng sức mạnh quân sự vào thời điểm mà ngoại giao thời bình
dường như mang lại cho họ một cơ hội tốt để thắng mà không cần phải
đánh. Chính sách ngoại giao đó có thể được mô tả là "cây gậy nhỏ", thực
chất là ngoại giao pháo hạm nhưng không cần triển khai pháo hạm thực
thụ.
Các chiến lược gia Trung Quốc có quan điểm khá rộng về
sức mạnh trên biển - một sức mạnh bao gồm cả hàng hải phi quân sự. Năm
1974, bộ máy tuyên truyền của Trung Quốc đã nói đến vai trò của các ngư
dân đã hành động như lực lượng bán quân sự. Các đội tàu đánh cá Trung
Quốc có thể đến mọi nơi và làm những điều mà các đối thủ hoặc phải dùng
quân sự để phản ứng hoặc phải từ bỏ quyền của mình.
Các con tàu không vũ trang của các cơ quan dân sự, như
hải giám hay cảnh sát biển, có cấp độ sức mạnh cao hơn. Còn hạm đội Hải
quân PLA được hỗ trợ với các máy bay chiến thuật có căn cứ trên bờ, các
loại tên lửa, tàu chiến tấn công được trang bị tên lửa và tàu ngầm đại
diện cho sức mạnh cao nhất.
Nếu dùng "cây gậy nhỏ", Bắc Kinh có thể phái các tàu
hải giám, đưa tàu ngư dân đi đánh cá trong vùng tranh chấp - như cách họ
vẫn làm trước đây - để không quá phô trương trong việc bắt nạt các nước
khác, và như vậy không mở cửa cho các cường quốc khác tham gia giải
quyết tranh chấp. Tại sao họ không làm như vậy, dù đó có thể là chiến
lược đầy hứa hẹn với Bắc Kinh?
Bởi vì ngoại giao "cây gậy nhỏ" đòi hỏi thời gian.
Nó cần tạo ra sự kiện trên thực địa - giống như Tam Sa
- để từ đó ép buộc những người khác tin rằng thách thức lại thực tế là
vô nghĩa.
Các đối thủ khác đòi chủ quyền ở Biển Đông đang tự vũ
trang. Họ có thể sở hữu các phương tiện quân sự đủ để đối lại mối đe dọa
từ Trung Quốc, hoặc chí ít cũng làm cho Trung Quốc phải trả giá cao hơn
nếu muốn áp đặt ý chí của mình. Ngoài ra, các nước Đông Nam Á đang tìm
kiếm sự giúp đỡ từ các nước hùng mạnh bên ngoài như Mỹ. Mặc dù
Washington không đưa ra quan điểm chính thức đối với các vụ tranh chấp
trên biển. Đương nhiên là Mỹ có cảm tình với các nước trong Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Một số nước, như Philippines, là đồng minh
được quy định trong hiệp ước, trong khi các chính phủ của Mỹ nhiều năm
qua đã có quan hệ hữu nghị với Việt Nam.
Do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể tin rằng họ
phải hành động hoặc ngay bây giờ hoặc sẽ không bao giờ còn có thể. Họ
cho rằng hành động trực tiếp có thể sẽ mang lại ít hậu quả hơn, họ chấp
nhận bất cứ giá nào, mức độ nguy hiểm và phản ứng ngoại giao nào trong
ngắn hạn.
Động cơ của Trung Quốc vẫn không có gì thay đổi đáng
kể trong những thập kỷ qua. Bản đồ mà trên đó có in đường chín đoạn là
một ấn phẩm từ những năm 1940, chứ không phải điều gì họ mơ ra trong
những năm gần đây. Chính quyền Tưởng Giới Thạch đã xuất bản tấm bản đồ
này trước khi chạy sang Đài Loan, và hiện Bắc Kinh đang sử dụng nó.
Nay cũng như trước kia, đường chín đoạn này biểu hiện
sự quan tâm và tham vọng của Trung Quốc. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tự
nhiên được cho là rất giàu có dưới đáy biển luôn ám ảnh những người chủ
trương mở rộng hàng hải - đặc biệt là Đặng Tiểu Bình, cha đẻ của cải
cách kinh tế và chủ trương mở cửa của Trung Quốc. Nhiên liệu và các
nguyên liệu khác vẫn rất quan trọng cho công cuộc phát triển quốc gia
của Trung Quốc, ba thập kỷ sau khi Đặng Tiểu Bình phát động.
Động lực phá thế bao vây của các siêu cường cũng tác
động đến tính toán chiến lược của Trung Quốc. Đến cuối thập kỷ 1970, ông
Đặng đi đến kết luận rằng Liên Xô khi đó đang theo đuổi một “chiến lược
quả tạ” nhằm đưa hải quân Liên Xô lên vị thế thống soái ở Ấn Độ Dương
và Tây Thái Bình Dương. Eo Malacca là cầu nối hai đại dương. Khi đó Liên
Xô đã đàm phán để có được căn cứ quân sự tại cảng Cam Ranh sau khi Việt
Nam thống nhất.
Bắc Kinh có lẽ coi Chiến lược biển của Mỹ năm 2007
giống như sự lặp lại của chiến lược quả tạ của Moscow, bởi nó cũng xác
định ưu tiên củng cố và mở rộng sự thống trị trên đại dương của Mỹ ở Ấn
Độ dương và Tây Thái bình dương. Các nhà chiến lược Trung Quốc luôn băn
khoăn về cái họ cho là kế hoạch bao vây của Mỹ, đặc biệt là khi Mỹ
"chuyển trọng tâm" sang châu Á. Đối với Trung Quốc, dường như mọi nguy
cơ cũ đang tái hiện.
Danh dự cũng là một động lực thúc đẩy hành động của
Bắc Kinh. Lấy lại danh dự và niềm kiêu hãnh của Trung Quốc sau một "thế
kỷ bị sỉ nhục" dưới bàn tay của kẻ chinh phục đường biển là một động lực
chủ yếu trong hành động của Trung Quốc trong năm 1974. Ngày hôm nay vẫn
còn như vậy. Các vùng biển East Sea và South China Sea (Hoa Đông và
Biển Đông) từ lâu được người Hoa coi là ngoại vi lịch sử của đất nước
họ. Trung Quốc phải tự làm cho mình có ưu thế trong các khu vực này.
Trong dân chúng Trung Quốc kỳ vọng đang cao ngất trời.
Trung Quốc có lực lượng hải quân và quân sự vượt trội áp đảo so với bất
kỳ đối thủ cạnh tranh riêng rẽ nào ở Đông Nam Á. Philippines không thể
nói là có hải quân, bởi các tàu tuần tra của tuần duyên Mỹ thải ra đang
là những tầu chiến mạnh nhất của nước này. Nhưng Philippines sẽ hiện đại
hóa quân đội. Việt Nam có biên giới chung với Trung Quốc và lục quân
mạnh. Năm ngoái Việt Nam công bố kế hoạch mua sáu tầu ngầm lớp Kilo có
trang bị ngư lôi và tên lửa chống tầu của Nga. Trung Quốc sẽ tìm cách
thâu tóm lợi ích ngay trước khi các đối thủ Đông Nam Á bắt đầu chống lại
một cách có hiệu quả.
Vào lúc này, cơ hội thâu tóm cho Bắc Kinh có thể nói
là vẫn còn. Ngoại giao Trung Quốc vừa lập được một cú khi khiến các nước
ASEAN không ra được tuyên bố chung sau cuộc họp ở Campuchia. Washington
đã công bố kế hoạch "tái cân bằng" lực lượng Hải quân Mỹ, chuyển khoảng
60% số tàu về khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ dương. Tuy nhiên, sự tái
cân bằng là một công việc khiêm tốn. Hơn một nửa lực lượng Hải quân Mỹ
đã có mặt trong khu vực này, và tái cân bằng sẽ diễn ra chậm chạp, kéo
dài trong tám năm tới. Nhóm bốn tàu chiến bờ biển của Mỹ sẽ chuyển cho
Singapore cũng sẽ không làm được gì để cân bằng lực lượng hải quân ở
Đông Nam Á. Đây không phải là những tàu chiến thiết kế để đánh trận với
các tàu chiến của hải quân Trung Quốc.
Tuy nhiên sau khi đã đề ra nguyên tắc là hầu hết lực
lượng hải quân Mỹ phải coi Thái Bình Dương và châu Á là nhà, Washington
luôn có thể đẩy nhanh tiến trình tái cân bằng lực lượng ở đây, chuyển
thêm lực lượng về đây và thâm chí có thể thương lượng về quyền tiếp cận
căn cứ với các nước trong hoặc xung quanh Đông Nam Á. Bắc Kinh hiểu rõ
điều này.
Bắc Kinh có thể đã đi kết luận rằng ngoại giao kiên
nhẫn sẽ tước mất tham vọng của họ ở Biển Đông. Trong mắt của người Trung
Quốc thì tốt hơn hết là hành động ngay từ bây giờ để chặn trước một
cuộc cạnh tranh. Bài học năm 1974 với họ là: Thời gian là tất cả.
Phạm Ngọc Uyển (Theo Foreign Policy)
nguồn:http://vnexpress.net/gl/the-gioi/phan-tich/2012/07/trung-quoc-dang-tinh-gi-o-bien-dong/
--------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001