Trần
Mộng Tú
Sách
có in trăm cuốn
Đắp
mặt chỉ một trang
Đàn
chim với những con Rose
breasted màu nâu
nhạt, ngực đỏ;con Western
King with
fledgling cũng màu
nâu nhưng cái cái ngực vàng hườm; con Red
headed woodpecker
mình gọi là chim gõ kiến có cái đầu màu đỏ,
con Indigo Bunting
tròn như con sáo quê nhà, nhưng lại xanh biếc như da
trời. Tất cả bọn chúng, mỗi buổi sáng, theo nhau
về ríu rít trong vườn nhà tôi. Chúng hót chiêm
chiếp rộn rã ngay từ sáng tinh mơ, chúng thoáng sân
trước trong những bụi tùng thấp, vụt vào sân sau
trong vòm cây Mộc Lan (Magnolia), tranh nhau ăn ở cái
máng thực phẩm treo đong đưa trên một cành cao.
Chúng đến ngày giờ nào không rõ rệt, chỉ biết
chúng đến cùng với nắng, chúng đến sau những
cơn mưa. Thấy chúng đến, biết là mùa hạ đến.
Khi không thấy chúng nữa, biết thu về.
Trong
tháng sáu kéo sang tháng bẩy năm nay, tôi đón tiếp
khá nhiều khách: chị Bích Hà từ quận Cam của
California đến chơi mười ngày, ông anh tôi mang theo
một người bạn từ Virginia đến chơi một tuần,
vợ chồng cậu em từ Việt Nam sang năm tuần (đi
chơi vài tiểu bang khác xong lại quay về Seattle), cậu
cháu từ Pháp sang bốn ngày. Tất cả sáu người.
Họ đến và đi khác ngày nhau, nhưng tôi biết rõ
ngày giờ của từng chuyến bay. Vì ít ra ngay ở
thời điểm này, họ có đủ sức khỏe để xắp
xếp cho những chuyến đi của họ. Như những con chim
mùa hạ, họ biết nơi đến, nơi đi và nơi trở về.
Anh
Nguyễn Mộng Giác, người bạn văn của tôi, đã bẩy
năm nay, anh không có thể tự xắp xếp cho mình đi
đâu, về đâu. Anh đi theo chỉ thị của bác sĩ, của
bệnh viện, của hospice.
Cuối cùng, vào một ngày nắng hạ năm nay, anh đã
theo cánh tay của vợ con trở về nhà, nằm trên
giường của mình, rồi nhẹ nhàng nhắm mắt, xuôi
tay, bỏ đi hẳn, không quay lại nữa.
Anh
bỏ đi đâu tôi không biết, vì nơi anh đến, vợ con
anh và chúng tôi, tất cả những bạn anh còn ở trên
mặt đất này, chưa ai đến đó bao giờ. Anh bỏ
lại tất cả những trang sách anh đã viết. Hai tập
trường thiên tiểu thuyết, nhiều tập truyện ngắn.
Anh không mang được trang sách nào cùng đi với anh
cả. Hơn bẩy mươi năm trước anh đến với cuộc
đời, chẳng mang theo một chữ nào, ngoài một
tiếng “oe”
thảng thốt. Bây giờ đi cũng phải để lại tất
cả những “tài
sản” anh tích
tụ được, dù đó chỉ là những trang giấy và
những con chữ. Như tất cả bạn anh: những nhà văn,
nhà thơ khác, đã qua đi trước anh, họ đã đánh
rơi tất cả những gì họ viết xuống, khi những
bàn chân không còn giẫm trên mặt đất này.
Sách
có in trăm cuốn
đắp
mặt chỉ một trang
thơ
có viết ngàn quyển
còn
lại chỉ một hàng
một
hàng thơ nằm thẳng
giữa
vách gỗ thơm hơi
“Xử
thế nhược đại mộng”
(1)
Tử
sinh một tiếng cười (tmt)
Thật
vậy, nếu theo như phong tục cũ ở quê nhà, người
ta thường lấy một vuông vải trắng mỏng hay một
tờ giấy bản đắp lên mặt người vừa mới qua
đời, để xem còn thở hay không? Và
cũng để tránh, không muốn ai nhìn thẳng vào mặt
người chết (vì sợ chạm vía) Anh Giác mà được
ai đó, xé một trang sách của anh, đắp lên mặt
mình thì chắc anh mãn nguyện lắm!
Như
vậy thì số giấy dùng để in những con chữ anh
Nguyễn Mộng Giác viết xuống quả có hơi nhiều so
với số giấy anh cần mang đi với mình ở giờ
phút lìa đời.
Không
biết những người thân yêu trong gia đình, khi khâm
liệm, có ai nhớ đặt một cuốn sách của anh vào
áo quan trước khi hỏa thiêu không nhỉ.
Trong
thời gian dài nằm trên giường bệnh, thỉnh thoảng
bạn bè xa, gần, rủ nhau ghé viếng thăm anh. Chụm
đầu vào nhau nói chuyện văn chương, chẳng bao giờ
thấy ai đặt ra câu hỏi: “Liệu khi mình đi ra khỏi
cuộc đời này, mình có muốn tiếp tục làm văn
chương không?” Nếu có ai đặt ra câu hỏi đó thì
anh Giác sẽ trả lời như thế nào?
Chúng
ta đến đây, đặt bàn chân nhỏ trên mặt đất
này, trưởng thành, và già đi, chúng ta biết mình
muốn làm gì, muốn ở đâu. Chúng ta tìm đủ cách
để đạt được cái nhu cầu ở đâu và làm gì.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, biết nhu cầu của anh là
cần sống ở một vùng đất an bình, tự do, để
anh được viết như được thở. Anh đã dùng chính
mạng sống mình, vượt qua bao nhiêu biển, bao nhiêu
núi, bao nhiêu con đường khó đi, để đến được
vùng đất cho anh thở và viết tự do. Suốt chiều
dọc của cuộc đời, anh luôn luôn dính liền với
“Chữ”. Từ dậy học, làm việc cho Sở Học
Chánh, đến viết văn. Định cư ở Mỹ anh tiếp tục
viết văn, làm báo văn học, ngay cả để mưu sinh anh
cũng chọn được việc làm in, ấn cho đến lúc về
hưu. Hai bàn tay anh lúc nào cũng chạm vào những công
việc của mực và giấy. Anh sống hạnh phúc trong
môi trường này. Trong nhiều năm, ngôi nhà ở đường
Strait, Westminster, miền Nam California, được bạn bè tứ
xứ khi đến quận Cam, coi như một cái “Câu Lạc
Bộ Văn Nghệ”. Cuối tuần ghé đến thế nào
cũng thấy tụ họp, tiếng nói, tiếng cười, trong
một tương giao thân mật tràn ngập không khí văn
chương, sách vở. Những tên tác giả, tên sách trong
và ngoài nước, những nhóm sinh họat văn học, những
cấm kỵ văn chương, những cuốn sách mới xuất
bản, những ngôn ngữ đổi mới…. Sóng sánh trong
những ly rượu đỏ, uống cạn cùng với tiếng
cười.
Bây
giờ anh lại tiếp tục đi nữa, anh có chọn đi không
nhỉ? Anh đến chỗ người ta gọi là “Niết Bàn”
là “Thiên Đàng” anh có tiếp tục làm một nhà
văn nữa không? Hay được đổi đến một nơi không
có một lằn ranh biên giới nào của tư tưởng,
người ta sẽ không còn nhu cầu viết nữa. Những
người bạn đi trước anh, có rủ anh lập một cái
“Câu Lạc Bộ Văn Nghệ” mới ở nơi đó không?
Hôm
thứ bẩy, ngày 7 tháng 7 năm 2012, chúng tôi đến dự
lễ giỗ năm thứ 49 của nhà văn Nhất Linh tại tư
gia của anh Nguyễn Tường Thiết, người con út cụ.
Trong khi im lặng nghe anh Thiết thổi khẩu cầm trước
bàn thờ, hồi tưởng lại ký ức những tiếng
nhạc của cha lúc còn sinh tiền đã thổi cho mình
nghe. Tiếng nhạc quyện bay lên cùng với khói nhang
nhạt nhòa, thơm ngát trước hình ảnh của người
đã bỏ ra đi. Tôi hình dung ra cũng trong giờ phút
này, gia đình anh Nguyễn Mộng Giác và bạn hữu
đang tụ tập cầu siêu cho anh ở quận Cam, miền nam
Cali. Những lời chia buồn cũng sẽ lững lờ, nhạt
nhòa quyện vào hương khói, khăn tang và những đóa
hoa.
Ai
đó đã nói: “Thượng
Đế rót đời sống vào cõi chết, rót sự chết
vào cõi sống, không để rơi ra ngoài một giọt
nào” (2)
Chúng
ta có được chứng kiến khi Thượng Đế làm công
việc “rót” đó không?
Tôi
nhớ ở trung học, khi thầy giáo dậy về cái bình
thông nhau, thầy cầm cái bình nghiêng qua, nghiêng lại,
mực nước ở hai bên bao giờ cũng bằng nhau khi cái
bình đặt đứng thẳng. Thượng Đế chắc cũng
rót sống, chết vào nhau ở một cái bình như thế.
Nhất
Linh, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Mai Thảo, Nguyên Sa,
Thanh Tâm Tuyền, Thảo Trường, Nguyễn Mộng Giác,
…và những người cầm bút khác, còn sống hay đã
chết, tất cả chỉ là những giọt nước trong cái
bình thông nhau. Ở cái bình thông nhau đó, Thượng
Đế rót qua, rót lại, không rơi ra ngoài một giọt
nào.
Phải
chăng, những con người được gọi là văn nhân, nghệ
sĩ họ là những giọt nước đặc biệt của Thượng
Đế, nên dù ở trong cái bình “Sống” hay “Chết”
những giọt nước mong manh này vẫn óng ánh, trong
suốt, tinh khôi, dù có bốc hơi nhạt nhòa bay đi
nhưng không bao giờ mất dấu.
Những
suy nghĩ, tư tưởng, cảm xúc của các văn nhân, thi
sĩ đã viết xuống, những cuốn sách của họ đã
in ra, để lại những dấu ấn nhạt nhòa nhưng vĩnh
viễn trong tâm những ai đã đọc, cảm thông và đã
chạm tay vào giấy mực với sự quý trọng.
Trần
Mộng Tú
Viết
sau ngày ra đi của Nguyễn Mộng Giác (mồng 2 tháng 7
năm 2012)
(1)-
God pours life into death and death into life without a drop being
spilled
(Author
Unknown)
(2)Xử
thế nhược đại mộng/Hồ vi lao kỳ sinh (thơ-Lý
Bạch)
Cuộc
đời như giấc chiêm bao/Việc chi ta phải lao đao với
đời (dịch-tmt)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2012/07/tran-mong-tu-nhat-nhoa.html?utm_source=BP_recent
--------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001