(Từ “Nỗi đau của lá” đến “Lời cầu hôn đêm qua”)
HOÀNG QUÝ
Mỗi lần viết về một nhà thơ tôi thường rất lo lắng. Tôi rất dị ứng với bài bình theo lối “Tầm chương trích
cú” rồi bình tán ban phát vài câu, một tí khen, một tí gợi ý gọi là…
Thơ thực thơ không cần cái món điểm tâm lõng bõng nước ấy. Nó cần một sự
thấu hiểu, chí ít là trình bày những thấu hiểu (dù chủ quan), sự thấu
hiểu của phía được tặng với người đã lao lung sáng tạo.
Khi đọc “Ngày đi qua” của Hà Đình Cẩn,
tôi đã rất đỗi ngạc nhiên khi bạn tôi, một nhà viết ký và viết kịch lại
xuất hiện tập thơ có nhiều mồ hôi và cả máu trong chữ. Vì thế tôi mới
hân hoan rằng “Anh cứ nghĩ anh chỉ chăm chăm với văn xuôi thôi, cuộc đời
nào có đơn giản vậy. Thơ, có khi nó nằm ngay bên lề trinh trắng trang
văn mà anh không thình lình nhận thấy đấy thôi. Người ta đã đo được thời
gian có khi trước cả văn minh sông Hằng, tôi đoan chắc các nhà thơ còn
có thể cân được thời gian xem nặng, nhẹ thế nào từ thủa con người biết
hát ca tiếng nói”. Vũ Thanh Hoa tôi biết trước hết là tiếng văn. Nhưng
tiếng thơ có lẽ mới Vũ Thanh Hoa nhất. Tôi cứ tưởng khi Hoa nhờ viết lời
bạt cho “Nỗi đau của lá”, thì thơ với Hoa chỉ là một cuộc dạo chơi cho
đỡ “cuồng cẳng”. Lúc ấy tôi nghĩ, cái công viên tráng lệ thi ca có đường
pit, vậy thì cứ thư dãn, dạo hoặc chạy trên đưởng pit thơ bổ, khỏe chứ
có làm mấy ai sai khớp, gẫy chân. Mà, cái cô có tiếng văn trẻ trung này
thì… chả cái gì không dám thử!
Trên giá sách của tôi giờ đĩnh đạc ba
tập thơ của Vũ Thanh Hoa đặt cùng hàng một số tác phẩm của các nhà thơ
nữ mà tôi có. “Nỗi đau của lá” (2005), “Trong tôi có người đàn bà khác”
(2009), “Lời cầu hôn đêm qua” (2012). Ba tập thơ với 182 bài thơ, trên
270 trang in, 12 năm dồn nén 43 năm sống, mà chắc chắn mới chỉ như chặng
đầu của cuộc đi lao lực và đầy bất trắc trong cái công viên bao la có
bao nhiêu là tráng lệ, nhưng đã nhằng nhịt các lối người đời khai mở.
Tôi “nhìn” thấy bước chân Vũ Thanh Hoa đi có ý thức trên một lối riêng
tự mở trong cái công viên ấy. Vì thế tôi linh cảm rằng thơ mới là Vũ
Thanh Hoa nhất. Đành rằng, thi thoảng tôi vẫn đọc văn xuôi của Hoa, thi
thoảng có ghé cái web đầy màu sắc mà Hoa xây riêng cho mình, để chơi, và
dành cả những tòa văn trang trọng cho bè bạn văn chương cả trước, và cả
người cùng thời…
1.
Trời đã khuya rồi, tôi ngẩn ngơ
Ngắm nhìn ngọn núi phủ mây mờ
Gió ơi gió có về nơi ấy
Cho gửi lòng này một ý thơ
(Không đề -1985)
Tôi phải trích cẩn thận, ghi rõ năm Vũ
Thanh Hoa viết bài thơ có lẽ thuộc những bài thơ đầu tiên trong vô số
thơ kiểu học trò, thơ học mót “chả biết vì sao tôi buồn” thì sinh ra …
cái sự. Một bài tứ tuyệt của người thích làm thơ. Thế thôi. Chắc bây giờ
mỗi lần đọc lại, cô nữ sĩ với bút pháp mới và hiện đại, cô nữ sĩ làm ta
choáng ngợp với lập ngôn thơ tình khai nguyên, tươi tắn và tràn trề ý
thức về tình yêu: “24 giờ vòng quanh tờ lịch mỏng/ 24 giờ trống
rỗng/ 24 giờ ngổn ngang/ 24 giờ đấu giá từng giây từng phút/ Lơ lửng
giấc mơ tỉa tót” (24 giờ); cô nữ sĩ có đôi mắt nhân hậu nhìn vết
sẹo làm đau cô như một bông hoa vừa nở, sẽ không khỏi tự mỉm cười, tự độ
lượng. Bài thơ này nữ sĩ in trang trọng mở đầu tập thơ con so “Nỗi đau
của lá”. Vì sao Vũ Thanh Hoa làm thế? Vì muốn trung thực được với người
thì trước hết phải tập trung thực với mình. Nó là một bài thơ quá tầm
thường, dĩ nhiên. Nhưng Hoa lại in trang trọng cho tập thơ chào bạn đọc,
như thế là tự trọng, là Hoa công khai rằng có thể bạn sẽ chê bài thơ
con con và rất đỗi tầm thường khai nghiệp của tôi, nhưng tôi là tôi, tôi
bắt đầu có thể từ một cái gì không đáng kể. Đã có bao tài danh cũng bắt
đầu để dựng một sự nghiệp từ cái… không đáng kể!
Trong cái lời bạt viết cho tập thơ đầu
tiên của Vũ Thanh Hoa 12 năm trước, tôi nhớ rằng, cái cô nữ sĩ thuộc về
thì tương lai rất gần từng nhiều năm theo cha, mẹ (các nhà ngoại giao)
sống không ổn định ở nhiều nước khác nhau vùng Phi Châu rộng lớn, táp
cháy và xa xôi. Tôi đã từng nêu một phỏng định rằng có bao nhiêu phần
trăm cái tinh thần “Phi” trong văn thơ Vũ Thanh Hoa khi cô đối thoại
trước trang viết để dần thành một cá tính chữ, một bản sắc chữ, một thể
chất nghĩ?
Có ngay đây:
“Đứng trước biển rộng, em nói: Em yêu anh
Ngước mặt nhìn trời xanh, em nói: Em yêu anh
Giữa phố đông người, em nói: Em yêu anh
Khi gặp anh, em lạnh lùng thinh lặng
Em nghe thấy có muôn vàn tiếng vọng
Giữa biển, giữa trời, giữa nghìn người, Anh nói:
Anh yêu em
(Tiếng vọng)
Đây nữa:
“Trước bão giông em bình thản
Trước thị phi em mỉm cười
Trước núi cao, biển rộng, vực sâu em cắn răng bước đi
đôi chân trần rướm máu
Thế nhân đổi trắng thay đen, thế nhân ô trọc,
thế nhân lọc lừa, em ngẩng đầu kiêu hãnh
(Trước Anh)
Có một chiều hoàng hôn xuống thấp, mặt
trời dường như đã bị những con sóng Thái Bình Dương chờ chực nuốt chìm.
Tôi ngồi với Xa Di, anh bạn làm thuê khoan dầu người Phi Châu da đen.
Chúng tôi cùng nhìn ra biển. Xa Di nhớ Phi Châu. Xa Di khe khẽ hát: “Mặt
trời vội vàng thế/ Mặt trời thiêu đốt và cát xám mênh mông của ta cũng
thiêu đốt/ Sao không ở lại thêm với nhau/ Ta biết rồi/ Mặt trời lại đi
tìm biển/ Người yêu ta hàm răng đều và trắng như ngà voi/ Người yêu ta
nước da đồng hun và bộ ngực nở trần lấm tấm bụi cát/ Người yêu của ta đã
bỏ ta rồi/ Chỉ còn xa mạc và ta chơ vơ trên mặt đất/ Ta vẫn hát/ Ta hát
chia tay mặt trời và chia tay em…”. Tôi không hiểu hết tinh thần của
lời ca Xa Di. Một giai điệu đăm đăm ẩn ức. Một giai điệu mênh mang và
buồn se thắt. Khi “Thế nhân đổi trắng thay đen, thế nhân ô trọc, thế
nhân lọc lừa” mà “ngẩng đầu kiêu hãnh” là một sự tự trọng. Chứ sao? Cái
tinh thần “Phi” nó ngấm trong thơ Hoa lúc nào, tôi không biết. Mà sao
lại cần phải giải thích? Hãy cứ đọc: “Phút anh nói yêu em, em nghe
thổn thức trong lòng/ Phút ôm anh trong vòng tay, em thấy buồn bất tận/
Thời gian có dừng lại đâu, đang dần trôi về sáng/ Đến ngày mai anh có
còn của em?/ Đến ngày mai anh vừa lạ vừa quen/ Là người đàn ông đi qua
em như bao người đàn ông khác…” (Hư ảo). Khi “chữ” dám đi tới tận cùng của sự trung thực “chữ” trở nên kiêu hãnh. Một nhà thơ đã nói với tôi như thế!
Tôi đã dừng rất lâu trước bài thơ “Gửi
chồng cũ”. Bài thơ này Vũ Thanh Hoa viết ngày 1 tháng 5 năm 2004. Thật
trớ trêu. Cái ngày Quốc tế lao động, cái ngày loài người lựa chọn làm lễ
hội tưng bừng cho những người lao động cải tạo và xây nên thế giới thì
nữ thi sĩ một mình lặng lẽ viết gửi người chồng cũ:
“Vầng trăng mãi xẻ đôi, câu thề đành bỏ ngỏ
Chẳng thể nào bắt trái tim lặng vắng
Dập dồn cung bậc nồng say
Càng cố ngọt ngào càng nhận lắm đắng cay
Bi kịch của đời người khi tình yêu giả dối
Anh có lỗi hay em có lỗi?
Tìm làm chi, câu thơ đã nhạt nhòa”
Không! Câu thơ sẽ không nhạt
và cũng sẽ không nhòa. Thơ Vũ Thanh Hoa nhất định sẽ không nhạt và không
nhòa. Sự thương tổn có thể giết chết con người, nhưng, sự thương tổn
với nhà thơ, đôi khi, lật một trang không định trước. Bởi vì: “Lũ
trẻ sẽ lớn lên, hai ta sẽ già/ Theo thời gian, lỗi lầm thành bé nhỏ/ Ta
chắt chiu sợi tình còn sót lại/ Đan lẫn vào tấm thảm của ngày mai” (Gửi chồng cũ). Bởi
vì sức chịu đựng của con người trước những tổn thương, trước thất vọng
còn quá nhiều bí ẩn. Phàm các nhà thơ hay lô loa rằng họ là cái loài dễ
bị thương, dễ bị chèn ép, dễ bị đánh khuỵu nhất. Ngoa quá. Những nhà thơ
thực tài là những cây phong ba. Mọi bão táp chỉ làm họ thêm cứng vững.
Vũ Thanh Hoa là một cây phong ba, cây phong ba trong cơn bão đời Hoa.
Hoa khảng định mình khi gửi cho người chồng cũ, người chồng từng mơ mộng
và hy vọng chở che, nương tưa. Và, ở cái khúc ngoặt không mong muốn ấy
chứng minh một Vũ Thanh Hoa không chịu ngã: “Trên nhành cây, gió
ngừng thổi bao giờ…/ Thơ chẳng giống hôm qua, đã sang bài thơ khác/ Mỗi
bình minh em vẫn khe khẽ hát/ Đã lỗi nhịp rồi, giai điệu của ngày xưa” (Gửi chồng cũ).
Trạng thái trầm cảm, bị bỏ
rơi, thất vọng, tan nát có lẽ không tránh khỏi. Vũ Thanh Hoa không che
đậy hay phủ định nó. Sự cô đơn, đôi khi cô độc sau cú sốc nghiệt ngã dễ
gì không để lại sẹo. Vũ Thanh Hoa cũng không ảo tưởng chối bỏ hay hắt
hủi: “Tàn tro của mùa đông/ Ủ những cánh hoa rơi…”, cho nên sau mất mát ta có thể cảm thông khi Hoa viết: : “Tàn tro của mối tình đánh mất/ Cứa vết sẹo dài, đau buốt số phận người rỉ máu…”. Ta
có thể tìm thấy tâm trạng ấy trong “Tàn tro”, Soi gương”, “Ngoảnh lại”
và rất nhiều bài thơ trong thi tập đầu tiên. Ta cũng có thể thấy cả gai
xước và một cách tự trình bày điềm tĩnh, trần trụi, váng vất, có khác
thường nhưng cũng đầy khao khát trong nhiều bài thơ của Hoa ở tập thơ
này. Có thể tâm trạng bạn đọc khi đọc “Nỗi đau của lá” sẽ dừng lại giống
tôi ở các bài thơ mà thi tập này không bỗng dưng mang tên. Nhưng, đó
lại là những câu chuyện dễ gây mất ngủ. Nếu phải viết thêm, nói thêm về
tập thơ này, tôi không muốn. Cứ để cho lớp da non trở lại dần tươi nhuận
trên vết sẹo phũ phàng hôm nào. Tôi chỉ những muốn một lần nữa nhắc lại
câu thơ Hoa đã viết: “Trên nhành cây, gió ngừng thổi bao giờ”.
Gió vẫn ngầm thổi, nhiều tái tê và còn thổi. Đúng thế. Câu thơ đã nói.
Và, nghĩa là Vũ Thanh Hoa đã bộc bạch và thú nhận. Ta sẽ nhiều bất ngờ
với một thi sĩ Vũ Thanh Hoa khác đi ở hai tập thơ nối tiếp. Hai tập thơ
khảng định con đường thơ vào chín đã và đang gọi mời, đĩnh đạc lật qua
trang, đã và sẽ gọi tên một giọng điệu riêng, một tư duy mới và trẻ, một
hướng cách tân thơ cám dỗ.
2.
Trên
thi đàn Việt thế kỷ XX, Hoàng Cầm là ông hoàng thơ tình tôi yêu thích
nhất. Hồn thơ ông là đôc đáo, còn hơn thế, là đôc nhất vô nhị. Ông yêu
khăng khăng vũ trụ quan yêu của riêng ông, nên thơ Việt bi tráng và diễm
lệ mới hữu sinh cây thảo quế Hoàng Cầm:
Chiều nay cuốc gọi ngoài đê
Chị em thui thủi về quê với bà
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Cáo nằm chung gối thì ta lại về
Bấy giờ em hát chị nghe
Không còn tiếng cuốc sang hè nữa đâu
(Mưa đêm – Hoàng Cầm)
Cũng trên thi đàn Việt thế kỷ XX, một
tài nữ bất tử nữa mà tôi nghiêng mình thi lễ duy chỉ một Xuân Quỳnh.
“Thơ tình cuối mùa thu”, “Thuyền và biển”, “Sân ga chiều anh đi”… và bao
nhiêu thi phẩm của tài nữ thi nhân đã là tài sản chung không mấy ai
không đọc, hoặc đã nghe, hoặc hát lên dẫu chỉ một lần!
Một đôi lần tôi đã nghe Vũ Thanh Hoa hát
ca khúc phổ thơ Xuân Quỳnh. Và cũng có lần tôi nghe người thi sĩ trẻ
thông minh và dễ mến trò chuyện với các đồng nghiệp về vẻ đẹp duy mỹ
trong thơ Hoàng Cầm. Như thế, cũng có nghĩa thơ của thế hệ đi trước được
Hoa nâng niu, trọng thị và lưu một góc trong sâu thẳm.
Quan trọng hơn, Vũ Thanh Hoa đang chăm
chỉ một bàn tiệc thơ tình với chất liệu và cách thức của riêng Hoa, vị
cuốn hút của riêng Hoa. Có đắng, có chua chát, có cay tê và có ngọt
ngào. Có gì đó trong sắp đặt, trong cấu tứ, thi ảnh, cách nghĩ mới mẻ,
sáng trưng và trực diện. Có tinh khôi và có đâu đó còn đôi ba vết xước.
Nhưng chỉ việc dốc lòng làm một bàn tiệc tặng bao cung bậc của tình yêu
và dâng tặng con người sao lại không vui mừng trước bữa tiệc nhọc nhằn
và nhiều công phu ấy. Vũ Thanh Hoa là một trong đội ngũ tươi mới những
nhà thơ thế hệ mới như Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Lê Mỹ Ý, Bình
Nguyên Trang, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Nguyễn Thu Phương, Hoàng Chiến Thắng,
Trịnh Sơn, Nhụy Nguyên và… Thơ của mỗi họ có thể chưa mĩ mãn cho mọi đòi
hỏi nhiều khi quá đơn chuẩn, có khi là những đòi hỏi võ biền và lạ kỳ,
nhưng đích là những bàn tiệc, những bàn tiệc đầy màu sắc và hương vị
mới. Họ thuộc một thế giới cụ thể chứ không quá đa cảm, cả tin, nhiều
duy lý. Một thế giới khó khăn hơn, đa chiều, nhiều quyết liệt và cũng
bộn bề hơn. Họ xả thân, đôi khi đơn độc đối mặt với chiều ngược lại để
khảng định mình, để tồn tại hòa đồng và rắn giỏi mở cánh cửa ra thế
giới. Cũng có người bỏ dở, lưỡng lự, so đo. Có người đã hoặc đang gây
sức nóng và thu hút được những ánh mắt tin tưởng. Hãy tôn trọng quyền
chọn đường thơ của họ. Họ là đội ngũ những nhà thơ của thế kỷ XXI. Họ sẽ
thay chúng ta xây một thế giới thi ca mới. Sẽ rất lâu, sẽ rất dài, sẽ
nhiều thành công nhưng nhiều hơn là những thất bại. Phải mất bao nhiêu
năm Thơ Việt mới vượt thoát cớm bóng thơ luật Đường? Thơ luôn luôn đòi
hỏi những cách tân. Mà đội ngũ cách tân cho thơ dòng chủ đạo ắt là những
thi sĩ trẻ. Điều ấy không cần bàn cãi!
Có một người đàn bà khác trong Vũ Thanh
Hoa, đó là người đàn bà thơ của tín ngưỡng thơ mới, hiện đại và mạnh mẽ –
đó là thơ quyết tìm hướng khác với ngôn ngữ,thi ảnh và nhịp điệu đang
thúc bách để ứng xử tương thích với thời đại không giống hôm qua. Người
đàn bà khác ấy có tự vấn thì cũng tự vấn và tự trả lời không thể như cái
nếp sống chậm, mơ mơ của văn hóa đình làng, bến nước, cây đa và tre
lũy, hay nhịp một hai trong đô thị nho nhỏ, xinh xinh với ôn hòa trước
đó. Họ hào phóng hơn, mạnh mẽ hơn, ít thời gian hơn, gấp gáp hơn nên quà
thơ có khác: “Anh hỏi: Anh là gì của em/ Là mặt trời/ Là vì sao/ Là một nửa/ Tất cả vẫn đúng đấy/ Nhưng anh yêu/ Thiên hạ nói rồi…”. Và cách Hoa trả lời thật ngắn gọn, không thể phủ nhận sự mới mẻ, trực ngôn, độc đáo. Đây là cách trả lời mang tên Vũ Thanh Hoa:
“Nốt ruồi nhỏ trên ngực em
Anh thấy
Từ lúc mẹ sinh em
Đến khi em chết
Em gọi đó là Anh”
(Định nghĩa anh)
“Bây giờ mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã
có ai vào hay chưa/ Mận hỏi thì đào xin thưa/ Vườn hồng có lối nhưng
chưa ai vào”. Bây giờ người ta không yêu thế đâu, đa phần ngưới ta
yêu…ào một cái. Đấy là thời xa xôi, thời cụ cố chúng ta yêu nhau. Có
nuối thì cũng: “Từ thủa ấy/ Em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/ Gió quê
vi vút gọi/ Diêu bông hời!…/…ới diêu bông!” (Hoàng Cầm). Thời ấy cả
thẹn vân vi mận mận đào đào không phải của thời mở cửa, thời công nghiệp
hóa, thời nối mạng với toàn thế giới.. Quần bò, áo phông, la tốp, phôn
tay… thì phải “Nốt ruồi nhỏ trên ngực em” đàng hoàng, kiêu hãnh. Kiêu
hãnh đến độ “Em gọi đó là Anh”. Tháng năm gần gặn Vũ Thanh Hoa hơn là
thế giới thơ Xuân Quỳnh. Xuân Quỳnh sẽ định nghĩa về người yêu của chị
thế nào? Khác nhiều chứ: “Anh thân yêu, người vĩ đại của em/ Anh là mặt
trời, em chỉ là hạt muối/ Một chút mặn giữa đại dương vời vợi”. Ba vẻ
đẹp của ba thời đại chuyển luân. Thời mận mận đào đào là nón thúng ấp e,
là áo mớ bảy mớ ba, là mượn lá diêu bông để nói hộ lòng mình. Thời của
Xuân Quỳnh nữ sĩ là vẻ đoan trang của người đàn bà luôn nhận mình thua
thiệt. Nhưng, thời của Vũ Thanh Hoa là thời người đàn bà mạnh mẽ “Trong
em có người đàn bà khác”.
Trước thời mở cửa, trước thời công nghệ
thông tin tặng cho con người cái công năng vô biên của nó thì Hoàng Cầm
phải đi tìm bóng hình người thương cô lẻ quá:
“Nếu có ngày mai anh trở gót
Quay về lãng đãng bến sông xa
Thì em còn đấy hay đâu mất?
Cuối xóm buồn teo một tiếng gà
(Nếu anh còn trẻ)
Còn thời @, thời Vũ Thanh Hoa chỉ cần:
“Dỗi lòng ảo ảnh thôi mà
Mong manh nối mạng như là chiêm bao
Đường truyền bất chợt chênh chao
Cúi đầu mật mã gánh bao la buồn”
(Lục bát internet)
Thế là một cái cô đơn một cái
buồn bã của anh đi bộ, quá lắm là cưỡi cái xe đạp Sít – tẹc- linh. Còn
một cái cô đơn, cái bất chợt buồn không kịp bã hôm nay là la tốp và siêu
xe bao nhiêu là nhãn hiệu.
Nhưng chớ vội chì chiết rằng thời la tốp
và siêu xe người ta lòng dạ khô ngói và quá nhiều vô cảm. Tất nhiên có
nhưng đâu phải loài thi sĩ. Người thi sĩ mọi thế hệ đều dễ buồn, buồn
nhân bản:
“Nhận dòng tin nhắn vu vơ
Lặng mình ngơ ngẩn bây giờ… ngày xưa
Chợ chiều tất tả bán mua
Một mình xuôi phố mưa lưa thưa
… buồn
(Lục bát phố)
Tôi tìm vào thế giới thơ Vũ Thanh Hoa
càng nhận ra mình bảo thủ. Thời đại công nghiệp hơn nhưng cũng thực dụng
hơn. Thời đại tốc độ hơn, nhanh yêu và cũng có thể chóng tàn. Một thời
đại có thể thổi lệch mọi giá trị. Mà mình khư khư níu lại thời gian đã
mất thì chính mình rất có thể biến mất. Anh là con chim vặn dây cót, có
thể, nhưng anh là metal toys hay là con chim đầy sức sống có tiếng hót
của họa mi lại là chuyện khác.Thơ Vũ thanh Hoa hiện sinh hơn, bắt kịp,
đúng lúc, hòa vào chứ không chối bỏ đương đại. Nữ thi sĩ biết tiếp nhận
những biến thiên và cả biến thái, bình tĩnh và gọi tên nó vang lên trong
thơ mình: “Em giật mình tỉnh dậy/ giấc mơ ngủ lại trên giường/ mặt
trời lay/ đồng hồ gọi/ tích tắc em trôi vào phố đông/ những đứa bé trên
phố đều giống con em/ những người đàn bà trên phố đều giống em/ vội vã/
nặng trĩu/ lập trình”. Nhưng, Hoa biết tìm ra sự cân bằng của chính mình trong cái thế giới tốc độ ấy: “còn xanh trời và trắng mây yên ả/ lá rơi/ vàng hoe phố/ thu/ xa…”
(Phố lá). Thật hay, nhịp thơ ngắn, gọn, cô quánh, nhanh, hiện đại, mà
vẫn gợi, điều đó rất rõ. Tôi không theo kịp và chậm dần rồi thở dốc
trong nhịp sống ấy. Nhưng may thay Vũ Thanh Hoa đã chỉ dẫn cho tôi rằng
những người đàn bà trong thế giới công ngiệp và thực dụng hôm nay vẫn
nguyên vẹn trái tim biết yêu và… dễ mủi lòng, chỉ có cách yêu có lẽ
nhanh hơn, cuống quýt hơn và khang khác mà thôi: “khi em hờ hững
lạnh lùng/ trong em có người đàn bà khác”… “khi em nói lời đắng cay/
trong em có người đàn bà khác”…”khi em nói lời chia tay/ trong em có
người đàn bà khác”. Không! Em thề là không, thực ra em vẫn là người đàn bà yếu lòng, nên: “người
đàn bà nồng nàn hơn lửa/ muốn đốt cháy anh”…”người đàn bà mong manh yếu
ớt/ muốn khóc trên vai anh”… “ngưới đàn bà muốn ôm anh thật chặt/ vùi
anh trong biển mưa hôn” (Trong em có người đàn bà khác). Đây là bài thơ xứng đáng chọn vào tuyển tập thơ tình.
Trong bài “Phố thở” lại là một bài thơ
gọi đúng cái nhịp điệu quá nóng hôm nay. Tôi thích bài thơ vì nó vẫn cứ
là thơ tình theo cách Vũ Thanh Hoa. Nghĩa là dù thế nào, nói điều gì thì
chất liệu trữ tình, ngôn ngữ biểu cảm trữ tình, thi ảnh trữ tình vẫn là
chủ thể. Không phải ai cũng viết được thơ tình theo cách ấy:
“mở cửa ngày
sáng nghe phố thở
…
những mặt người kín mít khẩu trang
tay đeo găng
đầu bảo hiểm
…
Em lẫn vào thế giới mộng du
múa theo điệu valse của nộm
cười nụ kĩ thuật số
phát âm lập trình
Nhưng chỉ gọn ba câu: “trả khói bụi về màn hình computer trắng/ đêm nghe phố thở/ em lạc trong giấc mơ anh” là lập tức nguyên vẹn thơ tình- thơ tình hiện đại và mới mẻ Vũ Thanh Hoa.
3.
Trong một lần về quê mấy năm trước, tôi
có dịp dự một tiệc văn mini với vài nhà thơ đàn chị, đàn anh ở Hà Nội.
Đêm ấy lạnh buốt, gió bấc vỗ và rít qua khe cửa kính nhỏ mà tiệc văn có
nóng lên bất chợt . Có nóng không vì rượu, tôi vốn miễn nhiễm rượu. Các
anh, chị đêm ấy cũng không ai quá chén. Mà khổ quá, viêm túi triền miên
đâu dễ lu bù. Nói như người Nam, quá lắm vài xị đế. Cái nóng bất thình
lình vì một nhà thơ bỗng nói: Cánh trẻ bây giờ nhiều đứa mình hãi quá.
Mình mới viết một bài phê bình tháng trước, cũng chỉ là điểm qua loa một
số câu thơ làm tình làm tội ngữ pháp và quá gợi dục, dẫn bình mấy câu
thơ nhàn nhạt nói về cái buồn chả biết buồn gì, thế là cô ta lên blog
nhảy dựng viết bài sỉ vả, có ghê không! Bạn văn cười ồ nêm vui chút ớt
tỏi, tuy thực chất không ai ác ý. Chỉ hơi lạ là không có sự bình tĩnh
lái đi làm cho lời chê sục sạo sang đàm tiếu những sinh hoạt ngoài văn
chương. Tôi, kẻ đi sau, lại trú tỉnh lẻ, đành giữ miệng. Quả là thi
thoảng cũng có những phản ngôn thái quá. Cô nọ khăng khăng từ chối giải
thưởng nọ. Chị kia phân phát mấy trang đánh máy ngay Đại hội Nhà văn,
kèm một ông văn trẻ trai tốt mã tháp tùng phấn chấn. Kể ra người đàn
anh buông lời phàn nàn cũng là dễ hiểu. Vì ông bức xúc. Tôi là nhà thơ
chả có thành tựu gì, tuy nhiên ngoài sự ứng xử quả có cương thái, tôi
nghĩ, thời buổi dễ dàng công bố tác phẩm và văn chương mạng bùng nổ, xem
ra vẫn ít cái sự đọc nhau chu đáo và hệ thống cho đến nơi đến chốn. Ấy
là chưa kể có không, cả sự ngộ văn (tôi không viết: ngộ nhận). Mà ngộ
văn đâu chỉ lớp trẻ!
Tôi không trung dung. Sách in la liệt,
cho, biếu, tặng là chính. Tuy thế cũng có đọc chứ. Vẫn cố đọc cả trẻ lẫn
già khi kiếm được sách. Mình là anh nhà thơ quê lại trú tỉnh lẻ, cũng
cố gắng đọc để bớt ngu. Tôi cứ nghĩ cảm tính thế này: Cuộc cách tân văn
chương xin đừng khe khắt. Nó là tất yếu, chưa bao giờ ngừng, sẽ là mãi
mãi khi loài ngưới còn cần văn chương. Song hành với tất yếu ấy luôn là
sự cố gắng thử tìm ra cách diễn đạt khác đi, nên diễn tiến ấy chênh
chao đôi chút, cả thi hình, thi ảnh, nghữ pháp, văn ngôn có khi nghịch
nhĩ ngược quán tính, cương sốc bất thình lình trong một số tác giả trẻ
quãng tuổi nào đó chứ không là tất cả.
Vũ Thanh Hoa viết:
“góa phu
kí sinh hoài niệm
non nõn mộng hoa
nhập nhòe vàng hiu cuống lá
hổn hển hồi sức những chùm lông tơ
thoi thóp mọc trên vết rạn của kỳ sinh nở”
(Kí sinh)
Đọc đoạn trích này, chắc người đàn anh của tôi trong tiệc mini bữa nọ sẽ đăm chiêu. Nó sex à? Đã “Hổn hển hồi sức những chùm lông tơ” lại còn “Thoi thóp mọc trên vết rạn của kỳ sinh nở”. Nó tả “cái kia” à? Dạ thưa không. Khi Hoa viết tiếp “chuốt
búp măng/ những móng tay xây xát nợ nần/ đánh phấn tô son/ nhằng nhịt
chân chim nơi chân trời bí mật/ vớt mùa/nhớ/ quên/ vương vãi/ ký sinh
trườn dậy/ ký sinh dãy chết/ hoài niệm vỡ tan giữa viện bảo tàng”
sao lại bảo nó tả cái kia? Người đàn bà muốn quẫy thoát khỏi kiếp buộc
vào sống ký đấy ạ. Nếu đọc tiếp đoạn kết tái tê của bài thơ: “góa phụ âm thầm/ đếm/ mảnh/ vết thương”
(Ký sinh), rõ những thằng sở nó gây ra sự hồi tỉnh và công phẫn đấy ạ.
Chưa bàn đến hay, hay chưa hay theo tiêu chí quán tính. Ngôn ngữ thơ trẻ
gắt chói lên như thế, vì bóng tối ê chề là trơ trẽn có thật. Những bóng
tối tàn nhẫn mang khuôn mặt nhơn nhơn cần vả cái bốp. Cần thứ thơ với
biểu đạt mạnh có lẽ phải thế. Mới và vì sao không hay. Tôi ao ước học
hỏi cách mới của thơ. Nhưng không làm được! Vậy quán tính của tôi có
chịu vỡ ra để nhận lấy và có nên khư khư quán tính?
Ở bài thơ “Nỗi buồn mặc định” Vũ Thanh
Hoa viết như có thể hát lên, câu thơ rất ngắn, mát rượi và đẹp tinh vi,
ấm nóng và nồng nàn dư ba:
“em nắm tay em
thầm thì gió gọi
mây đổ xuống chiều rưng rức mưa”
Rồi Hoa lại viết:
“úp mặt vào yêu
em đọc kinh sám hối
xin từ bi về ngụ cư
nhắm chặt mắt
…
người bước đi
bóng lại trở về”
Khi tự họa, cũng là lúc Vũ Thanh Hoa vừa
nhìn thấy thực mình và bóng hồn bằng thi điệu cùa một nữ sĩ còn trẻ
nhưng đã mang vấp vỡ vừa của ngoại cảnh vừa đoan dị số phận. Nhịp thơ
trầm đi, nhạc thơ nhiều quãng lặng, nhưng thi ảnh, thi hình đậm đặc tâm
hồn đa cảm, như nến cháy dịu dàng: “tôi vẽ hình nhân tôi/ bóng đổ
dài bức tường lạnh/ tôi khóc tôi cười/ hình nhân thinh lặng/ tôi hao
mòn/ hình nhân tinh nguyên/ tôi đếm trên tay những sợi gân xanh/ chằng
chịt mùa thay giấc/…tôi cúi đầu thay áo/ hình nhân bất tận son môi”. Nhà thơ trẻ không giả chữ hay che đậy chữ lên thông minh, vì thế: “tôi vẽ hình nhân tôi/ tôi gặp bóng/ tôi gặp bão/ tôi gặp mùa”. Cảm xúc như sóng lớp trong lòng nữ sĩ, chao… và ru.
Vũ Thanh Hoa muốn đi tới gốc giấc mơ số phận mình, nên :”trong giấc mơ đêm qua/ tôi cầu hôn/…tôi kết một chiếc nhẫn/ đeo vào ngón tay mình/ tôi nói: đồng ý”.(Lời
cầu hôn đêm qua). Rất nhiều bài thơ trong tập thứ 3 đắc dụng
một kết cấu thi ảnh linh động, gợi nghĩ, đan cài không diễn ngôn thuần,
chủ động hé một không gian mở cho bạn đọc thoại cùng nhà thơ.
Cuộc hôn nhân với thi ca là đừng từ hôn chính mình. Vũ Thanh Hoa là một trong những tiên phong của cuộc đi không dễ dàng này.
Thơ Vũ Thanh Hoa không chối bỏ cách chọn
và tiếp nhận tinh hoa của người đi trước. Những cung bậc trong thơ nữ
thi sĩ đã và đang gọi tên một giọng điệu riêng, đa thanh và đa sắc.
Tôi cố gắng tìm hiểu hướng cách tân của
nữ thi sĩ, dù biết rằng 182 bài thơ của ba thi tập mở hàng là thách thức
cám dỗ. Bài viết còn đại cương này chỉ là mới khởi đi việc tìm những
hạt vàng vừa thấy. Hy vọng sẽ trở lại với các bài viết chuyên đề, các
lời bình một hoặc nhiều bài thơ cụ thể đối với khu vườn Thơ Vũ Thanh
Hoa!
Vĩ thanh riêng
Anh Đỗ Hằng!
Tôi vừa dạo rón rén vườn thơ Vũ Thanh
Hoa. Bỗng nôn nao nhớ anh. Cái ngày thu năm 1986, nắng biển còn gắt,
trong cái khuôn viên Sở Ngoại vụ Đặc khu khi ấy anh dúi vào tay tôi mấy
gói thuốc lá Sài Gòn, cái món khói hiếm quý cho cánh phóng viên hay viết
đêm sở hữu đặc sản chuyên dụng là Mai, Đà Lạt đen. Con bé nó chạy ào
vào như cơn gió, tóc tai bã bết mồ hôi, cười như nắc nẻ, khoanh tay “Em
chào anh! Con chào ba!” rồi nó lại chạy biến đi chơi. Anh cười cười: Con
gái cưng đấy… hiếu động lắm, chả biết mai sau thế nào!
Anh ạ! Vũ Thanh Hoa đã là một nhà thơ.
Tôi không nói quá lên nguyên nghĩa của từ này. Vũ Thanh Hoa sinh ra là
cho thơ. Vũ Thanh Hoa có thể không tiếp nối ba và mẹ làm nhà ngoại giao,
nhưng xin anh thật vui, cô con gái nuông cưng của anh đang nối những
tâm hồn con người với con người. Ngày nào anh từng nói vui khi bắt thóp
tôi có làm thơ qua loa, rằng: Những nhà thơ chính là những nhà ngoại
giao cao quý. Anh nói đấy nhé! Tôi vẫn nhớ cái cách anh nói tinh tế và
động viên cho đứa em đỡ ngượng khi bất chợt biết tôi đang vật vã vần
điệu cho một bài trám báo với chữ nghĩa tàng tàng.
Hoa đã tự mở lối, dù lối ấy còn đâu đó
chút gợn sự chưa thật hoàn hảo giữa cái công viên thi ca khổng lồ, lộng
lẫy, đã chi chít những con đường lớn nhỏ. Lại nhớ một hôm anh sang buổi
đêm soát lại một bài anh viết theo đặt bài của tòa soạn. Phút nán lại
chuyện phiếm với chúng tôi, anh hỏi: Các cậu nghĩ nên ví sự có khác
nhiều ít giữa các thế hệ như thế nào? Mỗi người nói một cách ví theo
liên tưởng riêng. Thấy tôi chỉ cười, anh nhắc vui: Hoàng Quý chớ đánh
trống lơ, cậu nghĩ thế nào? Tôi nói đại: Em nghĩ như cầu Thăng Long công
nghệ bê tông với cầu Long Biên, cầu Tràng Tiền chủ yếu là sắt thép. Anh
cười lớn, Thú vị, rất thú vị…
Giờ mác nhãn nhà thơ, lại đang viết về
nhà thơ kế cận là con gái cưng của anh, thật không ngờ câu trả lời tam
toạng cho vui khi ấy lại có nghĩa, như anh nhận ra trước và kêu to: rất
thú vị. Nhớ lại chi tiết ấy, thú thật trong khi viết ít dòng về Thơ Vũ
Thanh Hoa lại nghĩ những thế hệ cây cầu. Qua dòng chảy không dễ sống sót
của thơ từng là các thế hệ lớp lớp đã bắc những cây cầu định mệnh. Có
lẽ vẻ đẹp của các thế hệ những cây cầu cũng có điểm gì đó liên đới anh
ạ. Thơ – cầu kim loại mang vẻ đẹp cổ điển hay là có thể ví với Long
Biên, Tràng Tiền. Thơ – cây cầu kềnh càng hơn nhưng đẹp chứ, mạnh mẽ
chứ, có thể ví với Thăng Long và nhiều nữa. Thơ – cây cầu công nghệ mới
cần đổi thay, hay ta tạm ví là cầu dây văng tinh khôi Mỹ Thuận chăng.
Nếu anh vẫn chia sẻ với cách ví von hồi nào thì anh ạ, Vũ Thanh Hoa hôm
nay đang vừa là người thiết kế, vừa là người thợ thi công thêm một cây
cầu dây văng mang tên Vũ Thanh Hoa. Phải suy nghĩ không ngừng nghỉ, ma
ám, với cảm xúc bùng nổ và tìm hệ mĩ cảm mới, để có thể dần bắc một cây
cầu thi ca mới tới bờ hun hút mà người yêu thi ca chờ đón trên dòng thi
giang nhiều bất trắc. Nếu coi nó như một lối đi, một con đường thì tôi
đã ghi sự ước định phần nào ở tên bài viết.
Thưa anh! Cây cầu ấy, lối đi ấy đang vút
đi. Nếu ta coi mỗi bài thơ đạt tới ngưỡng hay, mới mẻ là một nhịp vừa
bắc, hoặc một đóa thảo thi để lại trên lối vừa mở, thì Vũ Thanh Hoa đã
làm được:
Cuối năm dọn nhà
thấy mình trong tấm ảnh cũ
thấy mình trong chồng sách cũ
thấy mình trong câu thơ cũ
thật lạ
cuối năm dọn nhà
thấy người trong tấm ảnh cũ
thấy người trong chồng sách cũ
thấy người trong câu thơ cũ
thật quen
cuối năm dọn nhà
nhặt nhạnh
một cũ
hai cũ
những cũ
rất nhiều cũ
nhận ra
vết sẹo góc nhà
đột ngột nở hoa
(Cuối năm dọn nhà)
Anh sẽ lại bảo: Cậu bình thế nào? Thú
nhận với anh: Thêm lời bình vào nhịp hoàn mỹ hay đóa thảo thi đó nữa
sao? Sẽ vô duyên… có thể!…
Vũng Tàu
Noel, 2012
————-
1. Nhà Ngoại giao Đỗ Hằng tên thật là Vũ Thanh Hà (1924 – 1997)
Ông là thân sinh thi sĩ Vũ Thanh Hoa
Ông tốt nghiệp Khoa triết Đại học Tổng hợp Hà Nội niên khóa 1959 – 1963. Giỏi nhiều ngoại nghữ, đặc biệt là tiếng Pháp.
Là nhà ngoại giao xuất sắc từng đảm nhiệm các chức vụ ở Bộ Ngoại giao, vụ Tây Á Phi Châu, rồi Ba Lan, Tanzania.
Năm 1974, ông là Đại sứ đặc mệnh
toàn quyền của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Tanzania kiêm nhiệm 5
nước Châu Phi khác: Nammibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Swaziland…
Năm 1982 ông về nước đảm nhiệm chức
vụ Giám đốc Sở Ngoại vụ Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo đến khi mất (1997).
Đảm nhiệm chức vụ Giám đốc Sở Ngoại vụ tiếp ông là người vợ, thân mẫu nữ
thi sĩ – đối tượng của bài viết này.
2. Thực ra 1986, Vũ Thanh Hoa đã khá
lớn. Cô bé con gái cưng của nhà ngoại giao tôi gặp buổi ấy gầy nhẳng,
khuôn mặt như lứa trẻ còn hồn nhiên, kết bạn tất với mọi đứa bé quanh
cái phố nhỏ. Còn nhớ anh Đỗ Hằng nói vui: Nhẽ tuổi hay soi gương rồi đấy
chứ, thế mà gày nhom, lười ăn lắm. Anh thở dài: Cuộc sống gay go vá víu
quá. Trẻ con không lớn được… Những ngày ấy cơn bão thiếu thốn sau 75
thổi bạc mặt người. Các con tôi cũng gày ốm liêu xiêu… Thật may, sự hồn
nhiên và kỳ diệu trong tâm hồn trong veo của chúng thắng tất cả. Tôi
những định viết rõ trong bài. Rồi thấy…không cần !
(Chú thích của tác giả)
nguồn:http://nguyentrongtao.info/2012/12/20/m%E1%BB%99t-l%E1%BB%91i-di-mang-ten-vu-thanh-hoa/
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001