Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

Hn Vit qua mâm ngũ qu đêm rm Trung Thu 


Việt Nam cùng các nước ở Đông Á sắp đón Tết trông trăng. Cùng với một ý nghĩa đoàn viên, mang hạnh phúc, vui vẻ cho trẻ em, tết trông trăng của người Việt còn mang riêng màu sắc, hồn cốt quê hương với chiếc đèn ông sao, ông tiến sĩ giấy… và đặc biệt không thể thiếu mâm quả đêm rằm.
Mỗi rằm tháng 8, người dân đất tổ Tò he (thôn Phượng Dực, xã Xuân La, Hà Tây) lại dâng lên tổ tiên mâm ngũ quả bằng bột nặn tò he, mong một mùa an vui, hạnh phúc.
Mỗi rằm tháng 8, người dân đất tổ Tò he (thôn Phượng Dực, xã Xuân La, Hà Tây) lại dâng lên tổ tiên mâm ngũ quả bằng bột nặn tò he, mong một mùa an vui, hạnh phúc.
Tết trung thu, trái cây mùa thu đang vào vụ, mâm ngũ quả dâng lên bàn thờ tổ tiên cũng mang đậm hương sắc trái chín mùa thu. Đó là nải chuối chín vàng thơm lừng, là trái hồng đỏ mang hi vọng, là trái na nhiều hạt đen nhánh mang ước nguyện lộc nở, sinh sôi, là trái bưởi mang những điều mát lành và trái lựu chứa đựng bên trong những ngọt ngào, may mắn. Mâm quả có xanh, có chín, như quan niệm của người xưa, màu xanh của hoa quả mang tính âm, trái chín mang tính dương. Mâm ngũ quả là tượng trưng cho luật cân bằng âm dương của vũ trụ.
Ngày nay, với nhu cầu thẩm mĩ cao, để có mâm ngũ quả đẹp dâng lên tổ tiên ngày Tết trông trăng, có khi cả chục loại quả được xếp vào đĩa, người ta vẫn chẳng ai gọi là “khay/đĩa thập quả”. “Mâm ngũ quả” hàng trăm năm nay vẫn được người Việt gọi tên - dù đang xa xứ hay ở quê nhà thể hiện tấm lòng, sự tôn kính dâng lên tổ tiên, mong may mắn, hạnh phúc về với gia đình, dòng họ.
Bên cạnh mâm ngũ quả dâng lên tổ tiên ngày Tết trung thu, mâm quả để trẻ con phá cỗ đêm rằm cũng là một nét đẹp riêng trong văn hóa Việt Nam.
 Mâm quả tết Trung thu truyền thống của những gia đình Việt Nam - hài hòa các hương vị mùa thu của hồng, bưởi, chuối, na…
Mâm quả tết Trung thu truyền thống của những gia đình Việt Nam - hài hòa các hương vị mùa thu của hồng, bưởi, chuối, na…
Bà Đào Lệ Mão, 77 tuổi, một người Hà Nội gốc ở phố Bát Đàn kể lại những tết Trung thu từ ngày xa xưa, khi bà còn là thiếu nữ đất Hà thành: “Mỗi gia đình quây quần ăn bữa cơm tối với các đồ cúng gia tiên, sau đó sửa soạn mâm quả trông trăng.” Bà kể, tương truyền xa xưa, khi dân ta đang đón Tết trông trăng, có con sư tử tới quấy phá, trong làng có ông cầm gậy tới đánh đuổi được sư tử, cả làng làm mâm cỗ ăn mừng - đó là sự tích cho mâm cỗ ngày rằm Trung thu.
Đa dạng quả và cầu kì hơn với dưa hấu tỉa hoa, mâm quả đêm rằm tháng 8 của người Việt vẫn vẹn nguyên ý nghĩa mong những điều bình an, may mắn.
Đa dạng quả và cầu kì hơn với dưa hấu tỉa hoa, mâm quả đêm rằm Trung thu của người Việt vẫn vẹn nguyên ý nghĩa mong những điều bình an, may mắn.
Mâm cỗ đêm rằm được cha mẹ bày thật đẹp cho các con, trong đó là bánh nướng, bánh dẻo, mía, bỏng gạo và vô vàn các loại cây trái mùa thu. Các mẹ khéo tay còn tết cho con chú cún xinh bằng trái bưởi… Mâm quả đêm rằm là một bản hòa tấu các hương vị mùa thu, đa dạng sắc màu như lời nhắn nhủ của mẹ cha tới các con, cuộc sống vốn là nhiều màu sắc. Cha mẹ cùng ăn bánh, thưởng trăng, uống trà, phá cỗ cùng con, mong cho các con một mùa an vui, một đời hạnh phúc…
Độ non tuần lễ nữa là tới rằm tháng 8, các mẹ, các chị cũng sắm sửa trái cây, rục rịch nhiều địa chỉ trên phố Hà Nội đã nhận tết cún con bằng bưởi, bày mâm ngũ quả đẹp, nhiều trường học, khu phố cũng nhộn nhịp những cuộc thi cho các cháu học bày mâm quả dân gian…
Cuộc sống hiện đại, thật đáng mừng khi nhiều văn hóa đẹp của Việt Nam còn nguyên giá trị trong không ít gia đình truyền thống!
Thúy Hằng
nguồn:http://www.tinmoi.vn/hon-viet-qua-mam-qua-dem-ram-08580616.html
=====================================================================
BÀI THƠ "TRUNG THU KHÔNG TRĂNG" CỦA NGƯỜI LÍNH CHĂN NGỰA TRONG CUNG

"ĐÊM TRUNG THU KHÔNG TRĂNG"  
Một bài thơ Nôm thời Hồng Đức

NguyễnĐăng

Sách Công dưtiệp ký của Vũ Phương Đề ghi chép về Bảng nhãn Nguyễn Toàn An, có đoạn viết:

Ông người làng Thời Cử, huyện Đường An (nay thuộc huyện Mỹ Văn, tỉnh Hải Hưng), thuở hàn vi phải sung làm lính cắt cỏ nuôi ngựa trong cấm cung.

Một đêm trung thu, vua Lê Thánh Tông cùng quần thần hội họp trước sân điện đón trăng. Chẳng ngờ đêm ấy trăng thu không tỏ, nhà vua bèn ra đề: “Đêm thu vô nguyệt”(Đêm trung thu không trăng), sai các quan ngâm vịnh. Bữa ấy Nguyễn Toàn An đến phiên hầu tiệc, ông cảm xúc nảy nở ra tứ thơ, bèn mạnh dạn dâng lên. Bài thơ có hai câu thơ kết là:

“Mạc bả kim phiên nhàn kiến nguyệt.
Lai thu vọng nguyệt, nguyệt di cao”.

Phần cuối tác giả cho biết, bài thơ nguyên làm bằng quốc âm, ở đây dịch ra Hán văn. Nguyên văn là:

“Chớ thấy phen này mà rẻ nguyệt.
Thu sau trông nguyệt, nguyệt càng cao”.

Nhờ bài thơ này Nguyễn Toàn An được vua ban thưởng cho rất hậu, lại cho giải ngũ về nhà theo việc đèn sách. Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ 3 (1472) ông thi đỗBảng nhãn. Các sách biên soạn đời sau như Liệt huyệt đăng khoa lục, Hải Dương phong vật chí, Tam khôi bị lục, Giai thoại văn học Việt Nam… đều chép theo như vậy.

Gần đây chúng tôi mới tìm thấy trong gia phả họ Bùi (Bùi thị gia phả) ở làng Thịnh Liệt huyện Thanh Trì Hà Nội có chép đầy đủ bài thơ này, và ghi rõ tác giảlà Bùi Xương Trạch. Bùi thị gia phả(1) là cuốn gia phả do Bùi Xương Tự(1656 - 1728) biên soạn, bài tựa viết năm Bính Thìn niên hiệu Vĩnh Trị thứ nhất (1676). Sau này đến đời Cảnh Hưng, cháu nội ông là Bùi Huy Bích (1744 - 1818) tiến hành hiệu đính và viết thêm phần Bổ di. Trong phần Bổ di, Bùi Huy Bích cho biết rằng ông đã khảo cứu kỹ lưỡng trong quốc sử (có lẽ chỉ bộ Đại Việt sử ký toàn thư) thấy chép đêm 16 tháng 8 năm Bích Thiên niên hiệu HồngĐức thứ 7 (1476) có nguyệt thực toàn phần và đoán định bài thơ được sáng tác vào dịch này. Chúng tôi cũng đã tiến hành kiểm tra lại sách Đại Việt sử ký toàn thư, thấy đúng là năm Hồng Đức thứ 7 có nguyệt thực vào dịp trung thu. Các niên hiệu Hồng Đức trước đó, từ 1470 đến 1475, không thấy Toàn thư chép có nguyệt thực vào dịp trung thu. Nguyễn Toàn An đã đỗ vào năm Hồng Đức thứ 3 (1472), còn Bùi Xương Trạch thì đỗ tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 9 (1478). Bốn năm sau khi Nguyễn Toàn An thi đỗ, mới thấy có nguyệt thực vào trung thu, vậy thì theo logíc câu chuyện, Bùi Xương Trạch có nhiều khả năng là tác giả của bài thơnôm này. Bùi thị gia phả là sách ghi chép riềng sự tích của một dòng họ,chỉ lưu hành trong phạm vi rất hẹp, còn Công dư tiệp ký tuy ra đời muộn hơn do tính chất của tác phẩm như chính tác giả đã xác nhận trong bài tựa viết năm 1755: “Trong phần ghi chép có ngụ ý răn dậy, cũng là để xem chơi lúc thưnhàn…”, Lên được lưu truyền phổ biến hơn. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Toàn An được nhiều người ghi nhận là tác giả bài thơ “Đêm trung thu không trăng” này, còn Bùi Xương Trạch thì ít được biết đến.

Về tác giả bài thơ có thể còn tiếp tục nghiên cứu để khẳng định thêm. Song dù thế nàođi nữa, chúng ta vẫn có thể xác nhận, đây là một bài thơ nôm được sáng tác dưới thời Hồng Đức (1470 - 1497). Hiện nay chúng ta đang tiến hành sưu tập, giámđịnh, chỉnh lý để còn có được một sưu tập thơ nôm thời Hồng Đức chính xác đầyđủ, thì bài thơ nôm Đêm trung thu không trăng này xứng đáng được tuyểt chọn đưa vào.

Toàn bài là:

Lề la vặc vặc rạng tơ hào,
Phải mịt mù nay vì cớ sao?
Nhân bởi hắc vân(2) ngất phủ,
Há rằng ngọc thỏ(3) hèn sao.
Hằng nga(4) chiếm lấy làm song viết(5)
Thục tế tuồng n(6)i dám ước ao,
Mựa dắng(7) đêm nay trăng thấy nguyệt,
Thu qua đông đến quế(8) càng cao.

CHÚ THÍCH
.
(1) Hiện ở Thư viện Hán Nôm có bản chép tay, ký hiệu A.640
(2) Hắc vân: mây đen.
(3) Ngọc Thỏ: Chỉ một trăng. Tương truyền trên cung trăng có con thỏ ngọc giã thuốc, nên thơ văn cổ thường dùng hình tượng con thỏ để chỉ mặt trăng.
(4) Hằng nga: Tên nhân vật trong truyền thuyết cổ đại của Trung Quốc. Tương truyền Hậu Nghệ, chồng của Hằng nga được tiên cho viên thuốc trường sinh bất lão, dự định sẽ cùng vợ chia hưởng. Chẳng dè, một hôm Hậu Nghệ đi vắng, Hằng Nga lấy trộm thuốc của chàng uống vào rồi bay lên cung trăng.
(5) Song viết: Chưa rõ nghĩa. Ở đây là phiên âm Hán Việt theo một chữ.
(6) Thục đế tuồng ni: nguyên bản viết là 蜀 帝 從 尼chúng tôi chưa rõ là nói về điều gì, tạm phiên theo mặt chữ.
(7) Mựa dắng: Tiếng cổ có nghĩa là “chớ nên bảo rằng”.
(8) Quế: Chỉ mặt trăng.
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 2/1988.
.
*Ảnh 1: Bức chạm Quản ngựa. Trên cốn gỗ đình Hoành Sơn, Nghệ An, chạm khắc năm 1762. Nguồn: Hình tượng con người trong chạm khắc cổ Việt Nam. Viện Mỹ thuật xuất bản.

Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001










Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001