Phan Thanh Tâm - Kiều Việt Nhân Hậu - Kiều Tàu Ác Hiểm
Phan Thanh Tâm
Hễ nhắc đến nàng Kiều thì ai cũng nghĩ đến số kiếp long đong của nhân
vật Thúy Kiều trong truyện thơ của cụ Nguyễn Du. Tên đó đã trở thành
biểu tượng cho cái Mệnh Bạc của người Tài Sắc, cái Ngang Trái của Khách
Má Hồng bị trôi sông lạc chợ, ba chìm bảy nổi, vùi dập trong chốn phong
trần. Giáo sư Đàm Quang Hưng, người chuyển ngữ sang tiếng Việt, một văn
phẩm Trung quốc ở thế kỷ 17 của Thanh Tâm Tài Nhân, còn cho rằng, “Kiều
Việt nhân hậu chớ không hiểm ác như Kiều Tàu”; khi ông so sánh Thúy Kiều
của tác giả bản gốc chữ Hán và cô Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du.
Giáo sư Đàm Quang Hưng và Phan Thanh Tâm
Giáo sư Hưng, nguyên Trưởng Khoa Toán trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một
thuyền nhân tị nạn cộng sản, đến Mỹ ông cắp sách đi học lại ở Đại Học
Minnesota, cho biết ông có ý định chuyển ngữ bản gốc Truyện Kiều chữ Hán
từ trước 1975. Tuy bận bịu còn dạy toán ở trường đại học cộng đồng từ
năm 1989, ông đã hoàn thành dự án này tại Houston, Texas ngày Thứ Sáu
21/12/2012. Ông thông thạo chữ Hán là nhờ hồi nhỏ học từ ông ngoại Tổng
Đốc Phạm Đình Hoè. Ngày nay, tuy đã 83 tuổi ông còn thuộc nằm lòng Tam
Tự Kinh; có thể đọc làu làu 3234 câu thơ Kiều. Giá trị số Pi 3.1416
trong công thức tính chu vi hay diện tích hình tròn, ông cũng có thể nhớ
đến 50 số thập phân.
Trong lời giới thiệu đọc bản dịch Kim Vân Kiều Truyện, Giáo sư Đặng
Phùng Quân viết “Dịch giả là một giáo sư toán, việc ông làm văn chương
không có gì phải lạ, dường như tinh thần toán học thiên về những hình
thái trừu tượng cũng như tinh thần văn chương thiên về những hình thái
giả tưởng, mà giả tưởng và trừu tượng là hai mặt bổ sung trong sáng
tạo”. Giáo sư Đàm Quang Hưng còn là dịch giả bộ truyện ngắn Liêu Trai
Chí Dị cuả Bồ Tùng Linh, một danh phẩm văn chương Trung quốc thế kỷ thứ
17, viết về chồn tinh ma quỷ; có chỗ đứng vững chắc trong văn học sử
Trung Quốc vì cốt truyện kỳ lạ cũng như vì thể văn độc đáo.
Dịch giả Hưng năm 2011 đã từ chối thư mời của Giáo sư Tiến sĩ Mai Quốc
Liên Giám đốc Trung tâm Quốc học Việt Nam về diễn thuyết về chữ Nôm và
truyện Kiều ở Viện Hán Nôm Hà Nội. Ông đã viết trả lời thẳng rằng “chỉ
về nước khi nào chế độ Cộng sản không còn tồn tại ở Việt Nam”. Đọc bản
chuyển ngữ, ta thấy cách viết tiểu thuyết của thế kỷ 17. Trước các Hồi
đều có câu tóm lược ý chính. Đây không phải là bản chuyển ngữ đầu tiên.
Bản dịch gốc này, Truyện Kiều được chia làm 30 hồi thay vì 20 hay 22 hồi
như các bản dịch khác. Thời Việt Nam Cộng Hoà, Nha Quốc Vụ Khanh đặc
trách văn hóa năm 1971 có xuất bản một cuốn do Tô Nam Nguyễn Đình Diệm
dịch.
Kim Vân Kiều Truyện là chuyện một người đàn bà sắc tài toàn vẹn, du xuân
gặp nho sinh Kim Trọng. Tài tử giai nhân đính ước. Kiều vì chữ hiếu,
bán mình chuộc cha, bị đưa vào thanh lâu. Thúc sinh tay chơi lấy Kiều
làm thiếp; Kiều bị Hoạn Thư vợ cả hành hạ phải trốn; lại gặp ma đầu, bán
cho một thanh lâu khác. Tại đây, kỹ nữ gặp người hùng Từ Hải nhưng là
một tướng giặc. Kiều dựa thế lấy Đức trả ơn người tốt, lấy Thắng giết kẻ
hãm hại mình trong những ngày sống trong ô nhục. Từ Hải chết đứng vì
nghe lời Kiều. Kiều tự vận ở sông Tiền Đường được vãi Giác Duyên vớt.
Lúc Kiều giang hồ lưu lạc, Thúy Vân thay chị lấy Kim Trọng. Sau 15 năm
xa cách truân chuyên, Kiều đoàn tụ gia đình; tái hợp người tình xưa
nhưng chỉ giao duyên qua thơ nhạc.
Phù thủy của tiếng Việt
Thúy Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân đoan trang thanh thoát, đẹp, đằm thắm,
đa cảm nhưng lại có một trái tim hiểm độc. Nếu ta không báo được cái thù
tàn ác của các người thì khi chết ta sẽ làm quỷ dữ để nhai hồn người.
Kiều đã tâm niệm như vậy lúc bị sa cơ lỡ vận. Khi thành phu nhân, Kiều
ra tay báo thù rửa nhục, hạ lệnh, “”Bạc bà đã đẩy người xuống giếng, sẽ
bị chém đầu, thủ cấp bêu lên cây cao. Bạc Hạnh mua con gái nhà lành bắt
làm nghề mại dâm, sẽ bị cưa thành trăm mảnh, thịt cho ngựa ăn”. Trả thù
vợ cả, Kiều ra lệnh: “lột y phục, giày tất y thị, treo ngược lên mà đánh
trăm roi”. Hoạn thị quằn quại như trạch trong tro nóng, như lươn trong
nước sôi la hét ầm ĩ. Hai gia nhân vợ cả Hoạn Thư là “Hoạn Ưng, Hoạn
Khuyển thì hãy chém đầu”. Trong chốc lát, đao phủ đem vào trình hai thủ
cấp be bét máu.
Báo oán ba kẻ ở lầu xanh Lâm Truy, xử Mã Tú, Kiều thét, “Quân sĩ! dắt mụ
này đi, dùng nhựa tưới vào thân mụ, treo ngược mụ lên xà ngang giàn
cột, đầu chúc xuống đất, chân chổng lên trời, cho đúng lời thề ngày
trước”. Với Mã Bất Tiến Kiều bảo, “dẫn đi dùng dao nhọn cắt da ở tứ chi
để rút hết gân sao cho tứ chi gã đều bị rũ liệt, cho đúng lời thề của
gã”. Đối với Sở Khanh, Kiều phán, “nấu một nồi nhựa thông với vỏ gai,
lấy một ang nước lạnh để bên, lột hết y phục gã; một lính múc nhựa sôi
mà tưới lên thân gã, một lính múc nước lạnh mà tưới lên sau”. Xong Kiều
cám ơn Từ: “nhờ có uy Trời của Đại vương, thiếp báo được hết mối thâm
thù”. Trước đó, Kiều đã đền ân cho những người giúp mình, thời bị trôi
giạt, phải tiếp người cửa trước rước người cửa sau; và mời họ cùng ngồi
coi Kiều rửa hận.
Thúy Kiều của cụ Nguyễn, trái lại thì khác, nhân hậu hơn. Khi quân sĩ
dẫn Hoạn Thư ra trình dưới trưóng, Kiều nghĩ chuyện ghen tuông thì cũng
người ta thường tình nên truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay hai
mẹ con vợ cả. Trong hơn 40 câu thơ xử oán không hề thấy cảnh dã man:
châm lửa đốt kẻ bị treo ngược, dùng móc câu tận lực rút gân Mã Bất Tiến
ba bốn lần, chậu nước vôi tưới lên thân Sở Khanh khiến máu chín đen, hay
tiếng kêu đau ầm ĩ của mụ Tú khi bị quân sĩ phun nước vào mặt cho tỉnh
lại. Tác giả cuốn truyện thơ đã sửa đổi, thêm thắt, sáng tạo cho hợp với
tâm tình người Việt; lược bỏ rất nhiều chi tiết rườm rà, thô tục hay dã
man, và sắp xếp tình tiết cho diễn biến câu chuyện hợp với luận đề tài
mệnh tương đố.
Trăm năm trong cõi người ta; chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau là hai
câu mở đầu bao hàm ý chính cuốn truyện. Mấy câu thơ cuối tác giả bảo,
muôn sự tại trời, bắt phong trần, phải phong trần; có tài đừng cậy chi
tài; đừng trách trời gần trời xa; mà tất cả đều ở tại lòng ta. Theo Trần
Trọng Kim, hiểu truyện Thúy Kiều là hiểu được một phần đạo Phật; có
hiểu đạo Phật mới hiểu rõ truyện Kiều. Ở đời bất cứ việc gì hay dở, lớn
nhỏ đều là cái quả của một cái nhân tự mình đã tạo ra. Khi đền ân xưa
báo oán cũ, Kiều Việt không cậy thế để hành xử dã man, ti tiện như trong
truyện chữ Hán. Truyện thơ của cụ hợp với luận đề ác giả ác báo. Kiều
hưởng ngay cái nghiệp mới. Trùng phùng với mẹ cha và nối lại tình xưa
nhưng chỉ là duyên bạn cho đến già.
Nguyễn Du phỏng theo truyện này, gửi gấm nỗi lòng, viết thành truyện
Đoạn Trường Tân Thanh, theo thể lục bát, rất hợp với cảm quan người
Việt, trở thành một áng văn bất hủ. Cụ một lòng với nhà Lê, nhà Lê không
còn, phải thờ nhà Nguyễn. Chẳng khác gì Thúy Kiều tình thâm với Kim
Trọng nhưng vì gia cảnh, phải xa lìa người tình mơ mà còn phải chịu cái
oan khổ trầm luân. Nguyễn Du, bậc kỳ tài, khéo dùng câu, dùng chữ, lời
văn lại hay, thâu tóm tất cả cái đẹp của tiếng Việt vào trong một truyện
thơ. Đến nay vẫn không có ai bì được. Cố nhà thơ Nguyên Sa có lần nói
với Giáo sư Hưng, Nguyễn Du là phù thủy của ngôn ngữ. Học giả Phạm Quỳnh
thì cho rằng, truyên Kiều còn, tiếng ta còn mà tiếng ta còn thì nước ta
còn.
Một truyện thơ linh ứng
Lại nữa, trong bất cứ cảnh ngộ nào của đời người và người đời hay bất cứ
tầng lớp nào trong xã hội từ cao sang quyền quí, thơ ngây trong sáng,
cho đến hạng đá cá lăn dưa, đầu đường xó chợ, cùng cực gian ác hoặc hiền
lương đức độ cũng được cụ vẽ ra chân dung bằng một vài câu thơ rất
khéo, rất thần tình; dù rằng truyện thơ Thúy Kiều được viết từ hơn 200
năm trước. Chữ và nghĩa trong truyện thơ không lỗi thời, không chết. Có
thể nói, ai trong chúng ta cũng từng nghe hay từng thuộc lõm bõm vài câu
thơ của cụ. Nhà văn Nhất Linh viết trong Mấy lời bình luận về văn
chương Truyện Kiều: một bức tranh vẽ cuộc đời cho người biết nhân tình
thế thái, một quyển bói cho người hay tin, một tập văn mẫu rất bổ ích
cho người làm văn.
Thơ của cụ Nguyễn Du chẳng những làm say lòng người đọc mà là cuốn thơ
duy nhất linh ứng. Cô Ngọc trong cuốn Lều Chõng của Ngô Tất Tố, đã lạy
Vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy Tiên Thúy Kiều xin một quẻ trước khi
lấy chồng. Nhiều người vuợt biên tìm tự do cũng đã bói Kiều. Họ cho
rằng Kiều là một tác phẩm sâu thẳm, bao trùm mọi tình huống. Lỡ chân đã
bước vào đây, Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non, Người còn thì của
cũng còn, Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà là bốn câu thơ đã giúp Phạm
Phú Minh, 13 năm tù cải tạo, hiện chủ biên trang mạng diendantheky.net,
khi còn ở tù vẫn giữ vững niềm tin rằng, sẽ có ngày, được sống thoải mái
ở một nơi khác. Anh cho biết, anh xin được quẻ này trong một đêm rằm
Trung Thu năm 1975 ở trại tù cô nhi Long Thành.
Tuy vậy, cũng có người nêu lên vấn đề đạo đức để chống đối, chê bai
Truyện Kiều. Đàn ông chớ kể Phan Trần, Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy
Kiều. Họ nhắc đền chuyện gái mới lớn lên mối manh chưa có mà đã gian díu
với trai; cả gan lén sang nhà Kim Trọng ban ngày còn cả ban đêm để mà
đờn địch thơ phú. Ngoài ra, trong cuốn Truyện Kiều Nghệ Thuật Và Lan Toả
tác giả Đặng Cao Ruyên ghi lại cảnh thời Cộng sản miền Bắc đốt sách năm
1948, kết án Truyện Kiều là văn chương uỷ mị, văn chương tư sản, văn
chương phản cách mạng. Những gì liên quan đến nàng Kiều cũng không thoát
được chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất. Nhiều đền thờ và năm gian nhà chứa
đầy thư tịch của dòng họ Nguyễn Du ở làng Tiên Điền, tỉnh Hà tĩnh bị
tiêu hủy. Nhiều người thân thuộc gia đình cụ bị bắt giam, chết trong tù.
Dù vậy, truyện thơ của cụ Nguyễn Du vẫn được coi như là một áng văn tiêu
biểu độc nhất cho văn hóa Việt Nam. Theo cuốn Truyện Kiều Nghệ Thuật Và
Lan Toả do Tổ hợp Miền Đông Hoa Kỳ xuất bản, truyện này đã được dịch
sang tới 13 thứ tiếng, Á Rập, Anh, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Đức, Hy Lạp (Grec
modern), Nga, Nhật, Lỗ Ma Ni (Rumani), Pháp, Tiệp, Trung Quốc và Ý Đại
Lợi. Vì nó được dịch trở lại chữ Hán nên từ thập niện 50 thế kỷ XX mới
có phong trào nghiên cứu về nguồn gốc của Truyện Kiều. Khi tìm hiểu bản
gốc của Thanh Tâm Tài Nhân thì thấy nó tầm thường; đúng như vua Minh
Mạng phê bình, tác giả người Trung Hoa viết lan man như nước lụt lan
tràn, không chảy thành dòng. Nhờ cụ Nguyễn Du, Thúy Kiều đã vượt không
gian thời gian và còn đi vào nhiều bộ môn nghệ thuật khác như âm nhạc,
phim ảnh, kịch, hội hoạ.
Giáo sư Đàm Quang Hưng tuy chỉ chuyển ngữ bản Hán văn của Thanh Tâm Tài
Nhân (1607-1677), người tỉnh Sơn Đông, Trung quốc, nhưng thực ra Giáo sư
đã đóng góp vào việc tôn vinh đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820). Giáo
sư cho biết, bản gốc lấy xuống từ trên mạng trong thư viện văn học của
Bắc Kinh. Để có dịch phẩm Kim Vân Kiều Truyện, liên lạc qua diện thoại
với giáo sư 832-798-5983.
(Bài nói chuyện buổi giới thiệu sách Kim Vân Kiều Truyện tại Việt Nam Center, Saint Paul, Minnesota chiều ngày 18/5/2013).
Phan Thanh Tâm
Saint Paul, 5/2013
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/06/phan-thanh-tam-kieu-viet-nhan-hau-kieu.html
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001