Elje Vannema
The Vietcong Massacre at Hue, 1976
The Vietcong Massacre at Hue, 1976
Chuyển ngữ: Vô Danh
12-01-2008
Trong số xác trẻ có 18 sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh
viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay
trở về bắt các sinh viên khác theo họ. Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các
sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại thành. Kẻ chọn ở lại bị
giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội không theo
Mặt Trận cũng chịu chung số phận.
Mới sáng tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa.
Mới sáng tinh sương đã thấy quân Mặt Trận (Giải Phóng Miền Nam) hiện diện trong thành phố. Họ là những người lo mặt chính trị trong cuộc chiếm cứ. Ngày hôm trước, họ vào sổ gần hết mọi người, ghi tên, tuổi, phái tính. Họ quan tâm đặc biệt đối với phái nam, chia những người này ra thành nhiều nhóm: công chức, những người có liên hệ với quân đội cộng hòa, và những kẻ khác. Nhiều trường hợp họ ghi chú đầy đủ cả gia đình, cả tên con cái nữa.
Mỗi nhóm họ chỉ định một người đại diện, mang trách nhiệm mọi mặt
về tất cả thành viên trong nhóm. Nếu có người thoát thì người đại diện phải
lãnh đủ. Dân chúng được lệnh không tụ họp đông người, trừ khi được kêu đi dự
mít tinh, không được nghe đài, không được phao tin đồn đãi...
Ngày hôm sau, du kích và
nằm vùng địa phương tỏa ra đi tìm những người có tên trong danh sách viết tay
nguệch ngoạc. Họ được đưa về Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Một anh
cựu sinh viên chủ tọa phiên tòa với sự hiện diện của một người Bắc Việt và hai
sinh viên khác. Hai sinh viên này chúng tôi biết...
Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Ðắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.
Các phiên tòa nhân dân mấy ngày trước đã chấm dứt. Dân chúng hiện diện khá đông tại các phiên tòa ở Tiểu chủng viện, ở Gia Hội bên kia cầu và ở trong thành. Tòa án ở Tiểu chủng viện do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ trì. Anh này tốt nghiệp đại học Huế và là cựu lãnh tụ sinh viên trong Ủy Ban Phật Giáo chống chính quyền trước đây. Cầm đầu ở Gia Hội là Nguyễn Ðắc Xuân, trước kia là một liên lạc viên cộng sản nay đột nhiên lại xuất hiện. Tòa trong thành do hai sinh viên Nguyễn Ðọc và Nguyễn Thị Ðoan điều khiển. Các phiên tòa vang lên những lời đe dọa với khẩu hiệu tuyên truyền, kết tội, qui chụp. Hầu hết những người bị lôi ra tòa chẳng biết lý do mình bị bắt. Nhưng tất cả đều bị kết tội, một số bị tử hình tức khắc.
Sau hai ngày phiên tòa kết
thúc, nhường chỗ cho những công tác khủng bố dân chúng khác. Một người trộm mở
nghe đài (radio) bị bắn giữa thanh thiên bạch nhật để làm gương. Một anh sinh
viên không tới dự lớp học tập cũng bị bắn công khai. Nguyễn Ðọc bắn nhiều người
trong đó có người bạn thân đồng lớp là Mu Ty, chỉ vì bạn không chịu hợp tác với
y. Bước vào ngày thứ hai bắt đầu kiểm soát lương thực, thực phẩm. Ngày thứ bốn,
vì không tuân hành lệnh cách mạng, một gia đình bị xử. Người chủ gia đình bị bắn
tức khắc. Dưới áp lực khủng bố gia tăng, nhiều người bỏ trốn, nhưng ít kẻ
thoát. Vùng Gia Hội có nhiều người thoát hơn nhờ ban đêm chèo bè qua sông sang
làng Ðập Ðá. Thường bị bắn theo nhưng cố chèo.
Những người nằm vùng xuất
đầu lộ diện, ra tay truy lùng nạn nhân. Bộ đội Bắc Việt và quân chính quy Mặt
Trận lo chuyện quân sự và chiến lược. Nằm vùng địa phương lo việc chính trị,
hành chính, bình định, tuyên truyền, và tiêu diệt kẻ thù. Ðám này bắt và giết
người bất kể, nhiều khi chỉ vì hiềm thù cá nhân. Cán bộ miền Bắc có mặt ở tòa
án nhân dân xem ra ít nắm vững chuyện chính trị và đóng vai trò ít quan trọng
trong các bản án. Ðịa phương quyết định mọi chuyện. Trước khi lên danh sách,
thường đám nằm vùng đã quyết định bắt ai rồi. Chỉ còn việc ra lệnh thanh toán
những ai họ nhắm nữa mà thôi. Có lẽ họ lý luận rằng, thà giết lầm hơn bỏ sót,
vì bỏ sót thì sau này mình sẽ bị nhận diện. Một cách hệ thống, công chức, quân
nhân, sinh viên có tinh thần quốc gia, có khả năng lãnh đạo và có thể gây trở
ngại cho cách mạng, chính trị gia đối lập, tất thảy đều được đoái hoài. Danh
sách bất tận.
Dân chúng tập trung ở
nhà thờ chính tòa được lệnh vào bên trong, không ai được đứng bên ngoài. Phụ nữ
và trẻ con được lệnh ngồi xuống. Ðàn ông và thiếu niên từ 15 tuổi trở lên đứng.
Ở bệnh viện, trò tương tự cũng đã diễn ra. Dân quanh vùng, đặc biệt là vùng
quanh căn cứ Mỹ, được lệnh tập trung vào bệnh viện vì cộng sản sợ giao tranh có
thể xảy ra ở đó. Dân lúc này còn sợ súng máy và hỏa tiễn trực thăng hơn quân
chiếm đóng nên ngoan ngoãn làm theo lệnh. Sau ba ngày, đàn bà con nít được lệnh
ngồi, đàn ông đứng dậy để hai tên nằm vùng nhận diện, trước mặt hai cán bộ miền
Bắc và hai bộ đội Mặt Trận. Hai người nằm vùng này mới được xổ tù khi Việt cộng
chiếm thành phố. Cả hai đều là thành viên kỳ cựu của Mặt Trận. Một số người, trẻ
có già có, được cấp thẻ và dẫn về nhà thờ chính tòa.
Bên trong nhà thờ đàn
ông và thiếu niên được lệnh sắp thành hàng rồi bước ra ngoài với cán bộ hộ tống.
Từ nhà thờ họ băng qua các đường Phủ Cam lên Chùa Từ Ðàm. Bị giữ ở đấy một ngày
rồi lại tiếp tục đi về phía Nam, hướng Nam Giao. Ðàn bà trẻ con nhao lên nhưng
được trấn an rằng cha, chồng, con họ phải ra phục dịch bên ngoài thành. Một số
bà đi theo xa xa, nhưng rồi bị chặn lại. Trong số người ra đi có anh lính trẻ cộng
hòa và Lương (nhân vật kể lại câu chuyện này). Ngày kế tiếp, cuộc hành trình
kéo dài suốt chiều tới tối, thoạt tiên rời Từ Ðàm đi về hướng Nam rồi bẻ hướng
Ðông Nam. Sáu cây số đường đi mà Lương nghĩ là một cuộc trường chinh. Không ai
nói với ai.
Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó
- "Ta đi mô đây".
Có tiếng phụ họa
- "Lên núi hay tới chỗ chết?".
Chỉ một lần yên lặng bị cắt đứt bởi một câu hỏi của ai đó
- "Ta đi mô đây".
Có tiếng phụ họa
- "Lên núi hay tới chỗ chết?".
Bộ đội Mặt Trận nói là họ
được đưa đi học tập. Không ai biết mình đi đâu nhưng tự thâm tâm nhiều người
tin rằng có lẽ đời mình sắp kết thúc. Ông già đi bên cạnh Lương bỗng ngã quỵ.
Cho tới lúc đó anh không biết có ông già đi bên mình.
- "Bắt gió cho ông ta " tiếng ai đó vang lên...
Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới. Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào.
- "Xin để tui đi, để tui ở lại đây", ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác.
- "Tui không đi xa hơn được nữa".
- "Bắt gió cho ông ta " tiếng ai đó vang lên...
Lương ôm lấy ông cho tới khi người canh gác tới. Mắt ông già hé mở trong chiều xẩm tối. Tiếng nói lạc giọng thều thào.
- "Xin để tui đi, để tui ở lại đây", ông van xin, bàn tay xương xẩu níu lấy cánh tay người gác.
- "Tui không đi xa hơn được nữa".
- "Ðứng dậy".
Ông già gượng dậy, cố thẳng
người thêm được vài bước rồi lại ngã. Người gác đoàn lúc này hết kiên nhẫn, đạp
ông ra lề đường rồi bỏ đi. Vài phút sau, một phát súng xé không khí cùng với một
tiếng kêu yếu ớt vang lên. Làm thế để chắc ăn, không ai chứng kiến. Xác ông được
dập vào một hố gần đó, hai tù nhân được lệnh lấp đất. Một tháng sau xác ông được
đồng bào khám phá.
Vô vọng, đoàn người bước
đi càng lúc càng chậm, câm lặng uất nén. Người gác càng hối thúc. Rồi có tiếng
hô
- "Dừng lại".
Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Ðám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Ðồng Khánh.
- "Dừng lại".
Lương thấy đám người phía trước được lệnh bỏ túi xách xuống và ngồi xuống. Họ đã tới đích. Ðám canh gác phía sau miệng hét thúc kẻ này đi nhanh, chân đá vào sườn kẻ khác... Sau này, Lương nhớ lại mình đã đi qua thôn Tu Tay. Theo anh, chừng 18 người đã bị kêu lên phía trước và bị quân Mặt Trận tố có tội ác với nhân dân. Các nạn nhân bị lôi đi ngay. Chả ai biết gì về số phận họ vì chẳng bao giờ gặp lại họ nữa. Những người khác được lệnh đi về phía lăng Ðồng Khánh.
Sau một giờ đi họ lại được
lệnh dừng, chia thành hai nhóm nhỏ và bắt đầu được lệnh đào hầm rãnh. Họ đào mồ
cho lớp người tới sau, chứ chính họ thì chỉ vài mạng phải nằm ở đây mà thôi.
Như một ác mộng kinh hoàng thăm viếng địa cầu, nhưng ác mộng không do quỷ ma
nào cả mà do chính con người tạo ra.
Thoạt tiên, Lương nghĩ
chắc mình sẽ không qua khỏi. Dù vậy, anh và người lính trẻ vẫn cố tìm cách
thoát thân, trong một hoàn cảnh có thể nói là tuyệt vọng. Hai người thất thần
nhìn nhau, mắt mở lớn. Chung quanh Lương, đám người đói, lạnh, có kẻ đau, không
ai dám quay về nhìn thành phố thân yêu đổ nát đang chìm trong bóng tối sau lưng
họ. Họ đào đã hai, ba tiếng, ai nấy im lặng gặm nhấm suy nghĩ của mình. Hố đào
là để trú ẩn và làm mương dẫn nước, người ta nói thế. Một tiếng nổ kèm với tiếng
la vang lên. Thần chết vây bủa không gian. Tại sao mình ở đây?
Ða số họ là công giáo,
chả ai quan tâm tới chính trị, một số do hoàn cảnh lịch sử phải bước vào lính
như bao nhiêu thanh niên Việt Nam và trên khắp thế giới đến tuổi khác.
Sau khi đào xong một hố
rãnh, đám đông được lệnh đi tới một đụn cát để nghỉ đêm. Vài người bị dẫn đi. Một
số la thét lên vì sợ. Lương thấy người bạn ở cùng phố mà anh quen từ mấy năm
nay bật khóc nức nở. Một người hoảng lên chạy quẩn để rồi bị bắt giữ lại. Lương
hoảng hốt. Chân anh như điện giật. Anh nghĩ phải liều ngay. Chung quanh cán bộ
gác đầy dẫy, nhưng nếu lao vào được bóng tối thì có cơ thoát. Ác mộng tiếp tục.
Người la. Kẻ bị đánh. Người rú lên cười kinh hoàng. Lương ở trong một đám khá
đông đang bước đi. Ðám người khập khễnh lê lết xuyên qua một đám cây rậm đi xuống
đụn cát phía Nam. Khi họ xuống đồi, Lương lách người lao vào bóng tối. Một viên
đạn rít bên tai. Anh phóng qua đám rừng, tai vẫn nghe tiếng đạn và tiếng la
hét. Chỉ vài phút anh tới một con suối và chạy theo dòng nước hướng về phía
Ðông. Anh đi suốt đêm, thỉnh thoảng bị khuất động bởi trái sáng thả từ máy bay
và tiếng đại bác. Sáng ra thấy mình băng qua một con đường sắt. Từ đó tiếp tục
đi tới quốc lộ, lòng mong ngóng sớm thoát được vùng tử địa. Xế chiều anh tới
con đường phía Nam cách Phú Bài mấy dặm. Mãi tới ngày 16 tháng 2 Lương mới về lại
được thành và kể cho chị Kim những gì đã xảy ra...
Người ta đoán rằng đám nạn
nhân từ Phú Cam tiếp tục đi nhiều ngày nữa về hướng Nam, xuyên qua một vùng cây
cối khó đi. Mãi tới trung tuần tháng 9-69 người ta mới tìm thấy xác họ trong một
con suối nhỏ, khe Ðá Mài, con suối chảy ra khe Ðại đổ vào sông Hương... Trong số
428 bộ cốt tìm được ở đó, rất ít được nhận diện. Vì không tìm thấy ở đâu khác,
gia đình họ Nguyễn (thân nhân người lính trẻ) tin rằng con mình đã chấm dứt cuộc
đời nơi khe suối này...
Mồ Tập Thể
Mồ tập thể được khám phá
đầu tiên ở trường trung học Gia Hội, nằm bên cạnh khu dân cư. Sở dĩ cư dân
gần đó biết được là vì họ nghe tiếng súng và biết ở đó có mở tòa án nhân dân. Một
số người sau khi tham dự phiên tòa đầu tiên đã liều trốn và may mắn thoát. Một
số khác nhờ bơi qua sông. Trước ngôi trường có tất cả 14 hố gồm 101 tử thi. Sau
ba ngày tìm kiếm, người ta khám phá thêm một số hố rải rác trước, sau và bên
hông trường, nâng tổng số tử thi lên 203, gồm xác thanh niên, người già và phụ
nữ.
Trong số xác trẻ có 18
sinh viên. Một số trong bọn họ là những sinh viên đã bỏ vô bưng theo Mặt Trận
sau vụ đấu tranh chống chính quyền, nay trở về bắt các sinh viên khác theo họ.
Khi Mặt Trận chuẩn bị rút, các sinh viên được phép chọn hoặc vô bưng hoặc ở lại
thành. Kẻ chọn ở lại bị giết và chôn tại trường. Những sinh viên khác của Gia Hội
không theo Mặt Trận cũng chịu chung số phận. Có hố vừa chôn được hai hoặc ba tuần;
số còn lại rất mới. Những xác đầu tiên được lính Thủy Quân Lục Chiến Cộng Hòa
khám phá ngày 26-02-1968.
Trong số nạn nhân có cô
Hoàng Thị Tam Tuy (các tên riêng và địa danh nào không đoán được sẽ ghi lại
đúng như tác giả đã ghi - Người dịch), 26 tuổi, rất xinh, bán hàng ở chợ, nhà tại
đường Tô Hiến Thành, Gia Hội. Bị quân Mặt Trận, theo lời kể của chị/em cô, vào
nhà bắt đi đưa vào trường điều tra ngày 22 tháng 2, rồi chẳng thấy trở về. Xác
cô chân tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ, mình mẩy không thấy một vết thương
nào. Xác cô nằm chung với bốn nạn nhân khác, mà hai trong số đó có bà con với
chị/em dâu cô. Trong số các nạn nhân khác có bà góa Dương Thi Co, 55 tuổi, nghề
bán guốc, 4 con. Bị bắt tại nhà ngày 22-02, đưa vào trường Gia Hội và bắn chết.
Xác bà được các con nhận diện ngày 26-02. Người thứ ba là Lê Văn Thắng, 21 tuổi
sinh viên ở Gia Hội. Anh bị bắt đi tham dự lớp huấn luyện ngày 14-02. Xác được
gia đình phát hiện và nhận diện ngày 16-03, chung hố với hai nạn nhân khác
trong khuôn viên trường.
Người thứ tư là Trần
Ðình Trọng, sinh viên kỹ thuật và mới lập gia đình. Bị bắt ngày 06-02, tìm thấy
xác ngày 26-02. Người thứ năm Nguyễn Văn Dong, cảnh sát 42 tuổi, bị bắt ngày
17-02 ở nhà một người quen và bị chôn sống, tay trói tại trường Gia Hội. Tìm thấy
xác ngày 26-02. Người thứ sáu là Lê Văn Phú, 47 tuổi, cảnh sát. Bị bắt tại gia
ngày 08-02. Vợ con van xin Mặt Trận cho phép chồng ở lại nhà, nhưng tối hôm đó
bị hành quyết, bị bắn vào đầu, xác tìm thấy ngày 26-02, ở khuôn viên trường.
Người thứ bảy, bà Nguyễn Thi Lao, buôn thúng bán bưng, 48 tuổi. Bị bắt trên đường
lộ. Xác tìm thấy ở trường học, tay bị trói, miệng nhét đầy giẻ; mình mẩy không
bị một vết thương nào. Có lẽ bà bị chôn sống. Những xác khác tìm thấy gồm một đại
úy cộng hòa, hai trung úy, ba trung sĩ và mấy viên chức hành chánh. Bốn xác người
của Mặt Trận.
Vùng mồ lớn thứ hai được
khám phá gồm 12 hố với 43 tử thi ở Chùa Theravada, thường gọi là Tăng Quang Tự.
Vùng thứ ba tại Bãi
Dâu với 3 hố, 26 xác. Trong số nạn nhân ở Chùa có ông Phan Ban Soan, 60 tuổi,
sinh tại Phú Vang, Thừa Thiên, nhà ở đường Tô Hiến Thành, có gia đình, 5 con.
Ông Soan làm nghề thợ may, trước có tham gia vụ Phật giáo chống tổng thống Diệm.
Năm 1961 bị bắt vì chống chính quyền, được thả năm 1967. Bị Việt cộng bắt đi tối
12-02 trên đường Chi Lăng, Gia Hội. Cộng sản phân công ông chôn xác chết và
phân phối gạo. Xác ông tay bị trói, bị bắn xuyên đầu, dập cùng hố với 7 người
khác.
Một người khác tìm thấy ở
Chùa là ông Ðặng Cơ, 46 tuổi, nghề thầu khoán, bị bắt tại gia ngày 06-02, tìm
thấy xác ngày 26-02. Một người khác nữa là ông Ngô Thông, 66 tuổi, nhân viên
hành chánh hồi hưu, bị bắt ngày 08-02, xác dập chung với 10 người khác. Một số
tử thi có vết thương, một số tay bị trói giật cánh khỉ bằng dây thép gai, và một
số miệng bị nhét giẻ.
Lần đầu tiên nói chuyện
với đồng bào trong vùng, tôi tưởng chỉ có 16 xác ở Chùa và 3 xác khác ở Bãi
Dâu. Nhưng bên hông và sau Bãi Dâu có nhiều hố chôn. Tất cả ở đây chết vì bị trả
thù. Một vài người là thành viên Mặt Trận nhưng bị giết vì muốn ở lại thành. Họ
đều là dân Gia Hội. Bốn tháng sau, tháng 08-68, tôi trở lại đây để tìm hiểu
thêm uẩn khúc của những cái chết. Thân nhân các nạn nhân lẫn dân địa phương đều
xác nhận những điểm trên.
Tiết lộ về "mồ chôn
tập thể" đầu tiên của chính quyền miền Nam là vào ngày 28-02-68, khi phát
ngôn nhân chính phủ cho biết về một hầm "ghê gớm ở Cồn Hến gồm 100 xác
công chức và quân nhân bị bắt khoảng đầu tháng". Cũng theo phát ngôn viên,
"các nạn nhân bị Việt cộng giết, thân xác họ không được lành lặn".
Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Ðông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Cồn Hến nằm giữa sông Hương. Lúc đầu Mặt Trận không màng chiếm Cồn. Nhưng sau nó trở thành một vị trí chiến lược cho việc tiến quân và rút quân từ Gia Hội ra vùng cát Ðông Nam, vùng họ chiếm từ nhiều năm nay. Chính quyền xác nhận có 101 xác trong hầm. Theo đồng bào chạy thoát từ Cồn thì trong số nạn nhân có nhiều người nam mang quân phục, một vài người bận đồ kaki của Mặt Trận, một số khác bận áo dòng ngắn, một vài người mang quân phục lính cộng hòa và một vài người bận thường phục. Tôi hỏi nhân viên chính quyền địa phương về tên tuổi các nạn nhân thì được trả lời là các tử thi không được nhận diện đầy đủ; họ xác nhận là không thể nào quả quyết tất cả đều bị hành quyết; một vài nạn nhân có thể đã chết trong khi giao tranh và vài xác khác, cũng theo họ, là của quân thù.
Vùng chôn thật sự thứ tư nằm
sau Tiểu chủng viện, nơi dựng tòa án nhân dân. Hai hầm chứa xác ba người Việt
làm việc cho tòa đại sứ Hoa Kỳ, hai xác người Mỹ là ông Miller và ông Gompertz,
nhân viên USOM, và xác một giáo sư trung học người Pháp bị giết vì lầm là người
Mỹ. Tất cả đều bị trói tay. Xác tìm thấy và liệm ngày 09-02. Xác hai người Mỹ
và người Pháp được đưa về Ðà Nẵng.
Quận Tả Ngạn, vùng
thứ năm, do một quân nhân người Úc khám phá ngày 10-03-68. Ba hầm rãnh với 21 tử
thi, tất cả đều nam giới, tay bị trói, đạn bắn xuyên đầu và cổ. Một hầm khác, vùng
thứ sáu, nằm cách Huế 5 dặm về hướng Ðông, được khám phá ngày 14-03-68 do một cố
vấn quân sự Mỹ cùng toán lính Việt đi kèm. Hai lăm xác, tất cả đều bị bắn vào đầu,
tay trói giật cánh khủyu. Nhờ một cánh tay của một nạn nhân nhôi ra khỏi mặt đất
mà hầm được khám phá.
Phía Nam Huế qua hoàng
thành ở Nam Giao là nơi mộ phần của vua Tự Ðức và Ðồng Khánh. Nơi đây là vùng
chôn tập thể thứ bảy. Ðây đó trên dưới hai chục hầm, có cái giữa đất bằng, có
cái dưới bụi cây, có cái bên bờ suối. Bên cạnh hầm lớn, có những hố nhỏ chứa một,
hai hoặc ba xác. Hầm đầu tiên được khai quật ngày 19-03-68, nhưng mãi cho tới
tháng 6-69 vẫn còn xác được tiếp tục phát hiện. Ban đầu còn dễ nhận dạng, vài
xác mang quân phục, ngoài ra còn lại thường phục. Ðặc biệt ở đây không có xác
phụ nữ và trẻ con. Càng về sau việc nhận diện trở nên khó khăn. Dù vậy, cuối hè
1969, người ta cũng nhận diện được xác bố của ông thôn trưởng thôn Than Duong.
Vì con trai vắng mặt nên cụ già bị bắt thay con. Về sau con đi tìm cha mãi
không gặp. Xác cha, đạn xuyên đầu và ót, được tìm thấy tháng 6-69.
Cũng trên đường hướng
Nam đó là Tu viện Thiên An, nơi xảy ra trận chiến ác liệt trong thời gian cộng
sản tấn công. Khi buộc phải triệt thoái, cánh quân chiếm đóng phía Nam thành phố
rút lên núi và chiếm giữ ngôi Tu viện xây cách đây 26 năm, cách Huế 6 cây số hướng
Nam, vào ngày 21-02. Lúc đó Tu viện đang là nơi lánh nạn cho hơn 3000 người. Mặc
cho các cha dòng van xin, cộng sản đã cho thần hỏa thiêu rụi tòa nhà chính
trong vòng hai ngày. Các tòa nhà bên là chỗ sinh kế của nhà dòng cũng bị lửa đạn
thiêu hủy. Thư viện gồm những pho thư khố và thủ bút quý thời vua chúa cũng
chung số phận.
Cha Dom Romain
Guillaume, một trong những linh mục của dòng, bị một lính Việt cộng bắn vào vai
lúc rời khỏi tòa nhà cháy sau khi đã di tản hầu hết dân tỵ nạn. Một linh mục
người Việt bị bắn vào chân. Khi rút khỏi đống gạch vụn Tu viện ngày 25-02, Cộng
quân mang theo trên 200 người, trong đó 2 linh mục người Pháp, cha Urbain, 52
tuổi, và cha Guy, 48 tuổi và một số tu sĩ linh mục, tập sinh và người giúp việc.
Những người này bị lọc bắt trong thời gian cộng quân chiếm Nhà dòng và được dẫn
đi về hướng Nam. Ða số bọn họ kết liễu cuộc đời gần chỗ lăng các vua.
Tới tháng 6-69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Ðức có Ðoàn Xuân Tòng, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06-02-68. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19-03-68, chôn chung với năm người khác cùng làng.
Tại lăng Ðồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23-03-68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp.
Tới tháng 6-69, tổng cộng 203 xác được khai quật. Trong số nạn nhân ở lăng Tự Ðức có Ðoàn Xuân Tòng, 20 tuổi học sinh trung học, nhà ở làng Nguyệt Biểu, quận Hương Thủy. Em biến mất khỏi nhà ngày 06-02-68. Xác em được thân nhân tìm thấy bên cạnh lăng vua ngày 19-03-68, chôn chung với năm người khác cùng làng.
Tại lăng Ðồng Khánh có xác linh mục Urbain lấp cùng một hố với 10 người khác. Một người Việt khai quật xác cho tôi hay tay linh mục bị trói, mình không có một vết thương, chứng tỏ có lẽ bị chôn sống. Xác ông liệm ngày 23-03-68 và sau đó được một linh mục đồng dòng nhận diện. Vị linh mục này không thể xác nhận được là tay cha Urbain có bị trói hay không. Sự kiện không có xác đàn bà và con trẻ trong các hầm chứng tỏ các nạn nhân đã bị hành huyết dã man chứ không phải chết trong lúc giao chiến. Nếu bị pháo kích hoặc oanh tạc thì chắc chắn đã có người bị thương và sống sót, hoặc có người chết không toàn thây. Và chắc rằng họ không phải bị chôn tại chỗ, bởi theo phong tục người chết luôn được mang về nhà mình để hồn họ khỏi phải vất vưởng muôn kiếp.
Vì thế nguyên tắc của đối
phương là phải giấu nạn nhân thế nào để không bị khám phá, mà nếu có bị khám
phá thì cũng không nhận diện được là ai.
Ngoài thi hài cha
Urbain, thi hài cha Guy dòng Thiên An cũng được tìm thấy trong một hầm riêng
ngày 27-03-68 gần lăng Ðồng Khánh, với vết đạn ở đầu và cổ.
Vùng chôn thứ tám ở
cầu An Ninh khám phá ngày 01-03 với 20 xác. Trong số tử thi có ông Trương Văn
Triệu, trung sĩ lính Cộng hòa. Trung sĩ Triệu có vợ và 5 con. Du kích cộng sản
địa phương bắt ông ở trường mẫu giáo Kim Long, nơi ông ẩn trốn. Bị trói và dẫn đi.
Nhờ dân chúng gần đó cho hay Việt cộng có chôn xác người gần cầu nên vợ ông đã
tìm được xác chồng sau đó.
Xác ông Trần Hy, thuộc lực
lượng Nhân Dân Tự Vệ, có vợ 4 con, cũng được lấp cùng hầm với ông Triệu. Ông bị
bắt ngày 20-02 khi đang trốn trong nhà một láng giềng. Tay bị trói cánh khuỷu,
người không có vết thương nào.
Vùng chôn thứ chín ở
cửa Ðông Ba, nơi xảy ra giao tranh lớn. Ðây chỉ có một hầm 7 người bị bắt tại
gia và giết sau đó. Trong đó có ông Tôn Thất Quyền, 42 tuổi. Có gia đình với 10
người con, bị bắt và dẫn đi hôm 08-02-68. Gia đình tìm được xác ông ngày
05-05-68.
Ðịa điểm thứ mười là
trường tiểu học An Ninh Hạ, một hầm 4 xác, trong đó có cảnh sát Trần Triệu Túc,
52 tuổi, có vợ 7 con. Ông bị bắt tại nhà và mang đi ngày 05-02-68. Xác tìm được
ngày 17-03-68 ở trường, mang vết thương ở đầu và cổ. Ba xác còn lại: một sinh
viên, một quân nhân và một cảnh sát.
Ðịa điểm thứ mười một là
trường Van Chi, một hầm 8 xác. Trong đó có anh Lê Văn Loang, thợ máy, 35 tuổi,
có vợ 6 con. Theo lời chị Loang, anh bị bắt đi dự lớp huấn luyện ngày 06-02.
Khi bị dẫn đi, chị và các cháu chạy theo van xin nhưng vô hiệu. Họ ra lệnh mẹ
con chị phải quay trở về. Xác anh được những gia đình đi tìm xác người thân tìm
thấy ngày 10-03-68 gần trường. Một vài xác bận quân phục, 4 xác chắc chắn là
thường dân, trong đó có một sinh viên.
Ðịa điểm thứ mười hai ở
chợ Thông, cách nội thành 2 cây số về hướng Tây. Tìm được 102 xác. Trong đó có
ông Nguyễn Ty, 44 tuổi, thợ xây gạch, có vợ 6 con. Bị bắt ngày 02-02-68 và có lẽ
bị giết ở chợ cùng với nhiều nạn nhân khác. Tìm được xác ngày 01-03, tay bị
trói, một viên đạn từ ót bung ra cửa miệng. Nhiều người khác cũng bị bắn, tay
trói. Có nhiều xác đàn bà nhưng không có trẻ con.
Ðịa điểm thứ mười ba là
vùng lăng Gia Long, ở Thiện Hàm bên bờ sông Hương, cách thành phố khoảng 16 cây
số hướng Nam và cách Ðàn Nam Giao cỡ 13 cây số Tây Nam. Gần 200 xác được tìm thấy
dưới các đám cây và bụi rậm, gồm học sinh, sinh viên, nhân viên hành chính,
quân nhân và nhiều phụ nữ. 27 người thuộc làng lân cận. Sau khi an ninh tạm vãn
hồi, các bà đi tìm chồng đã khám phá ra địa điểm này. Lúc đầu, họ không dám đi
quá xa. Nhưng hai ngày sau, 25-03-68, họ đụng vào một miếng đất mới đào trên
triền một trong nhiều thung lũng nhỏ trong vùng. Xác người thân họ nằm nơi đây,
tay bị trói cánh khủy, đạn bắn từ sau cổ xuyên qua miệng.
Có nhiều rãnh hầm nối
nhau với nhiều xác. Một số nạn nhân từ nội thành, những người khác từ các làng
lân cận. Một số là sinh viên từ Huế về nhà ăn tết.
Ðịa điểm thứ mười bốn nằm
ở giữa Chùa Tăng Quang và Tường Vân, 2,5 cây số Tây Nam Huế. Ở đó có xác 4 người
Ðức, 3 bác sĩ và một bà vợ, tìm thấy ngày 02-04-68.
Ðịa điểm mười lăm ở
Ðông Gi, 16 cây số phía đông Huế trên đường ra bờ biển, tìm thấy ngày 01-04-68.
101 xác, đa số bị trói và miệng nhét đầy giẻ. Tất cả đều nam giới, trong đó
có15 sinh viên, nhiều quân nhân và nhân viên hành chính, già lẫn trẻ. Một vài
xác không thể nhận diện được.
Tới tháng 05-68, tổng cộng
có trên 900 xác người bị coi là mất tích đã được tìm thấy. Dĩ nhiên còn nhiều
người chưa được tính... Ðầu năm 1969 nhiều địa điểm khác được khám phá.
Ðiểm chôn thứ mười sáu:
Ðầu tiên ở làng Vinh Thái. Ðịa điểm thứ hai ở làng Phú Lương. Ðịa điểm thứ ba ở
làng Phú Xuân, tất cả thuộc quận Phú Thứ. Tất cả được tìm thấy trong khoảng từ
tháng 01 tới tháng 08-69. Quận này với quận kế bên bị cộng sản chiếm nhiều năm
và nơi đây xảy ra nhiều cuộc không tập kéo dài nhiều tháng. Mãi tới đầu năm
1969 quân Cộng hòa mới tiến vào được vùng này...
Ba làng này cách thị xã
Huế chừng 15 cây số về các hướng Ðông và Ðông Nam, cách bờ biển từ 3 tới 5 cây.
Theo các viên chức địa phương, trên 800 xác được tìm thấy trong các vùng trên
trong vòng 6 tháng. Có hầm đào sâu, có hầm cạn. Nhiều xác chôn lâu rồi, quần áo
đã mục...
Trong số nạn nhân người
ta nhận diện được 16 học sinh trung học, theo học ở Huế nhưng về quê ăn tết. Cả
nhân viên hành chính, đàn ông, đàn bà, trẻ em, già lẫn trẻ. Một số tay bị trói,
đa số đều chôn cùng một hố. Vùng làng Vinh Thái đào được 135 xác; làng Phú
Lương 22; và làng Phú Xuân đợt đầu 230, đợt sau, khám phá vào cuối năm 69, 375
xác.
Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Ða số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02-68. Trong số 357 xác có cha Bửu Ðồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8-11-69).
Dù thời gian qua lâu, nhưng nhờ lượng muối cao của đất vùng này giữ, đa số tử thi hãy còn có thể nhận diện được. Nhiều nhân viên hành chính và quân nhân, bị bắn ở cổ và đầu. Ða số nạn nhân thuộc nam giới. Một vài phụ nữ và trẻ em và một vài người mang nhiều loại vết thương. Có các linh mục, tu sĩ và chủng sinh của các làng lân cận mất tích từ hơn 20 tháng kể từ biến cố tháng 02-68. Trong số 357 xác có cha Bửu Ðồng, một cha sở quận Phú Vang và 2 chủng sinh. Cha Đồng dấu được trong túi sau bộ đồ ngủ đen trên người một hộp mắt kính trong đó có ba bức thư tiếng Việt. Một trong ba lá thư này, có bản chụp trưng bày ở nhà thờ chính tòa Huế, ông viết cho bổn đạo mình (thư tìm thấy trên thi thể ngày 8-11-69).
«Các con yêu dấu,
«Ðây là bút tích cuối
cùng để nhắc cho các con ghi nhớ bài phúc âm thánh Phêrô trên thuyền bão táp...
(3 chữ đọc không ra) đức tin. Lời cầu chúc của Cha ngày đầu xuân cho mọi công
việc Tông đồ của Cha giữa chúng con, nhớ... (hai chữ đọc không ra) khi sự sống
của Cha sắp kết liễu theo ý Chúa.
«Hãy mến Mẹ sốt sắng lần
hột, tha mọi lỗi lầm của Cha, xin cám ơn Chúa với Cha, xin Chúa tha tội cho Cha
và tận tình thương nhớ cầu nguyện cho Cha được sống trong tin tưởng, kiên nhẫn,
trong khắc khổ để kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô và phục vụ tinh thần Chúa và
mọi người trong Mẹ Maria. Xin cầu nguyện cho Cha bình an sáng suốt và can đảm
cùng mọi sự đau khổ tinh thần, thể xác và gởi mạng sống cho Chúa qua tay Ðức Mẹ.
«Hẹn ngày tái ngộ trên
nước Trời. Chúc lành cho chúng con”.
(Chữ ký Cha Ðồng)
Ðiểm chôn thứ mười bảy ở
làng Thượng Hòa, quận Nam Hòa, bên bờ sông Tả Trạch, một phụ lưu sông Hương
phía Nam lăng Gia Long. 11 xác được tìm thấy giữa các lùm cây trong tháng
07-69. Chỉ có ba xác nhận diện được là người của làng bên cạnh. Tất cả đều mang
vết thương cổ và đầu, dấu chỉ của sự hành quyết.
Ðiểm thứ mười tám ở
Thúy Thạnh, quận Hương Thủy, tìm thấy tháng 04-69, và ở làng Vinh Hưng, quận
Vinh Lộc, tìm thấy tháng 07-69. Cả hai làng nằm trong vùng bị cộng sản chiếm từ
lâu... Trên 70 xác, nhiều xác không còn nhận diện được nữa, đa số là đàn ông,
vài đàn bà và trẻ con. Họ được nhận diện là người của các làng lân cận và vài
người có thể bị chết vì chiến cuộc bởi mình họ mang nhiều vết thương và xác
không toàn vẹn. Các nạn nhân khác bị bắn ở cổ và đầu.
Ðiểm thứ mười chín tìm
thấy vào tháng 09-69 ở Khe Ðá Mài, quận Nam Hòa, một con suối nhỏ chảy vào Khe
Ðại, phụ lưu sông Hương. Khe chứa đầy xương người, có xương đủ bộ, có xương nằm
riêng, sọ nằm riêng; tất cả được nước suối mài trắng tinh. Dân đi cưa gỗ tìm thấy
địa điểm này. Nạn nhân có lẽ đã được chôn bên bờ suối trong mùa mưa và nước suối
đã dần soi mòn đất để lộ xác ra, cũng có thể là nạn nhân bị vất xuống suối, chứng
cớ là các mảnh quần áo được tìm thấy dọc bờ hoặc ngay dưới khe, thì việc chôn lấp
nạn nhân có lẽ xảy ra trong các tháng mùa mưa (tháng hai, ba, tư). Và điều này
có nghĩa là nạn nhân đã được dẫn thẳng tới đây hoặc được mang tới đây sau khi bị
bắt một thời gian ngắn. Nếu chôn trong mùa suối khô, thì sự kiện xảy ra trong
khoảng từ tháng 06 tới 10.
Có lẽ để giữ bí mật khi
rút lui Việt cộng đã thanh toán vội vàng các nạn nhân tại đây. Theo luật thông
thường, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, kẻ thù thường chôn cất xác đồng đội
đàng hoàng. Tuy nhiên cũng có thể đây là xương và sọ của lính Mặt Trận và Bắc
Việt. Như vậy thì số phận nào cho những người Phủ Cam bị mất tích?
Nghiên cứu các phúc
trình quân sự Mỹ thì không thấy có một cuộc không tạc lớn hoặc của máy bay B52
nào ở vùng trên, ngoại trừ trận chiến gần Lộc Sơn vào hạ tuần tháng 04-68, một
địa điểm cách xa nơi đó chừng 10 cây số. Vả lại lập luận mang người bị chết vì
bom B52 băng qua vùng đất gập ghềnh để đưa về chôn ở suối này quả không vững.
Ðường lên núi dễ dàng hơn nhiều. Cũng vậy, nếu kẻ thù bị thiệt hại nặng ở trận
Lộc Sơn và, theo thói quen sẵn có, đã mang xác 500 đồng đội đi thì hẳn lộ trình
phải là hướng núi, gần và dễ di chuyển hơn nhiều, chứ làm sao mà chọn băng qua
cánh rừng dày đặc khó xuyên qua được này.
Trong thời gian cuộc tấn
công của cộng sản có xảy ra giao tranh lớn kéo dài từ Huế qua Bến Ngự, tới gần
cầu Nam Giao và trong Nhà dòng Thiên An. Nhưng đã không có tiếp tục đánh nhau lớn
về mạn Nam, khi quân thù chọn đường rút lui lên núi, hướng trái với Ðá Mài.
Khe Ðá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Ðịa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia, xác của những người mang từ Huế ra bị khám phá, mà nếu có khám phá thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận.
Các sọ vỡ xương trán tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình... Sau khi Ðá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.
Khe Ðá Mài nằm cách thành phố 40 cây số về hướng Nam, bên ngoài vùng lăng tẩm; nơi nầy được coi là vùng không người, chỉ có cộng quân lai vãng. Khe chứa 500 sọ. Ðịa thế cách trở, cách xa mọi văn minh bởi rừng đồi vách đá cho thấy người ta không muốn để số xác kia, xác của những người mang từ Huế ra bị khám phá, mà nếu có khám phá thì cũng không nhận diện được. Nằm lẫn với xương là các mảnh quần áo thường, không phải kaki hay vải màu xanh bộ đội miền Bắc hoặc quân phục Mặt Trận.
Các sọ vỡ xương trán tất thảy cho thấy bị đánh bởi một vật gì nặng. Một số sọ khác không thấy vết tích gì ở xương, đây có thể là nạn nhân chết trong lúc giao tranh. Lần lượt tất cả hài cốt được chuyển về thành phố, nơi họ ra đi và tống táng trong an bình... Sau khi Ðá Mài được khám phá, vẫn còn vài trăm người mất tích. Trong số đó có một số sinh viên, điển hình là các anh Ngô Anh Vũ, Nguyễn Văn Bích. Cả hai bị bắt ở nhà thờ Phủ Cam. Những người khác, viên chức hành chánh, thành viên chính đảng, thanh niên công giáo, Phật giáo, tu sinh, giáo chức và quân nhân. Họ bị bắt đi, biệt tăm tin tức.
Bên cạnh các hầm chôn tập
thể, còn có các nạn nhân lẻ tẻ, bị giết tức tưởi. Có khi cả gia đình bị tiêu diệt
như gia đình ông Nam Long, thợ buôn, bị bắn cùng vợ và 5 con tại nhà. Ông Ngô
Bá Nhuận bị bắn dã man trước rạp chiếu bóng địa phương và ông Phan Văn Tường,
lao công, bị giết ngoài nhà ông với bốn đứa con...
The Vietcong Massacre at
Hue
Vintage Press, New York, 1976
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001