I) NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN:
1)
Thơ và hoạ:
Nếu
người nhạc sĩ dùng những nốt nhạc để tạo nên những giai điệu êm ái ngọt
ngào hay hùng tráng làm cho người nghe say sưa thích thú thì người hoạ sĩ cũng
có những vật liệu để hình thành tác phẩm. Những nguyên liệu ấy
Mendelowits gọi là yếu tố tạo hình; Edmund Burk Felman gọi là yếu tố
thị quan: ngữ pháp; Đăng Ngọc Trân gọi là cấu trúc ngữ pháp. Theo ông
Đặng Ngọc Trân thì “Dù là người tiền sử hay người hiện đại, dù là hoạ sĩ cổ điển
hay hoạ sĩ trừu tượng đều phải dùng tới các yếu tố: Đường nét, hình dạng, giá
trị, độ nhẵn và màu sắc để tạo nên một tác phẩm hội hoạ” [11,47].
Hội
hoạ có nhiều trường phái khác nhau- Hiện thực, ấn tượng, lập thể, siêu thực, dã
thú...
Khác
với các nhạc sĩ, hoạ sĩ, các nhà văn nhà thơ lại dùng ngôn từ để tạo nên
những tác phẩm văn chương làm mê hoặc người đọc. Nói như M.Gorki “Yếu tố đầu
tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và - cùng với các sự kiện,
các hiện tượng của cuộc sống – là chất liệu của văn học” [32,206]. Ngôn từ trong
tác phẩm văn chương phải là những ngôn từ đã được nâng lên đến trình độ nghệ
thuật và phải đảm bảo tính chính xác, tính hàm súc, tính biểu cảm, tính hình
tượng.
2)
Mối quan hệ giữa thơ và hoạ :
Cùng
thuộc nhóm nghệ thuật đơn tính (Không kể hội họa ứng dụng, văn chương ứng dụng)
hoạ và thơ có mối quan hệ gần gũi. Trác Ngô Tử khi nhận xét mối quan hệ giữa thơ
và hoạ thì cho rằng “Hoạ đâu chỉ có vẽ hình, mà phải có cả hình lẫn thần; thơ
đâu phải ở bên ngoài hoạ, mà ở chỗ nêu được cái thần thái trong hoạ” [18,164].
Còn nhà hoạ sĩ vĩ đại Leonardo da Vinci thì cho rằng “Hoạ là thi ca bằng thị
giác” [11, 51].
Tác
phẩm nghệ thuật tạo hình- một bức tranh, một pho tượng, một công trình kiến trúc
...dù được thực hiện bằng tay song nó chủ yếu là sản phẩm thẩm mỹ của con
mắt. “Con mắt là kênh đối thoại giữa người xem và tác phẩm. Vì vậy thông tin
thị giác, thông tin thẩm mỹ thị giác, ngôn ngữ thị giác và cụ thể hơn là ngôn
ngữ nghệ thuật tạo hình xây dựng trên cơ sở cơ cấu hoạt động và đặc trưng chức
năng của con mắt” [50, 6]. Hội hoạ thuộc loại hình “nghệ thuật không gian, nghệ
thuật tĩnh ...có sở trường diễn đạt cái cụ thể –theo nghĩa nhìn thấy trước mắt-
và đứng yên. Khả năng này gíup con người tạo môi trường không gian đẹp quanh
mình, giúp cho sự lắng đọng cảm xúc” [19,78]
Những
sắc độ màu, sự chuyển động của nét và những biến thể của hình khối thể hiện
trong tác phẩm văn chương không có tính chất cụ thể như trong tác phẩm của loại
hình nghệ thuật tạo hình.
Nhưng
không phải bất cứ tác phẩm văn chương nào cũng có chất hoạ. Mức độ ít hay nhiều
đậm hay nhạt còn tuỳ thuộc vào khả năng của người sáng tác, tuỳ thuộc vào loại
hình của từng tác phẩm văn chương.
II)
Cơ cở chất hoạ trong tác phẩm Truyện Kiều :
1)
Ngôn ngữ tiếng Việt
:
“Trong
tiếng Việt, có một loại đơn vị đặc biệt gọi là tiếng. Về ngữ âm, một tiếng là
một âm tiết. Hệ thống âm vị tiếng Việt rất phong phú và có tính chất cân đối,
tạo ra tiềm năng to lớn của ngữ âm tiếng Việt trong việc thể hiện các đơn vị có
nghĩa. Nhiều từ tượng hình tượng thanh có giá trị gợi tả đặc sắc”[3,39].
Tận dụng đặc điểm này các nhà văn, các nhà thơ đã tạo nên không ít bức họa trong
văn thơ. Khuôn mặt Chí Phèo khi hắn uống rượu say, khuôn mặt Lão Hạc khi bán con
chó vàng... là những bức hoạ sinh động bằng ngôn ngữ sống mãi với thời
gian.
2)
Tính tạo hình trong hình tượng văn học:
Tính
tạo hình trong hình tượng văn học là một phẩm chất không thể thiếu được của hình
tượng, không có tạo hình thì hình tượng không có cơ sở để tồn tại. Tạo hình bao
gồm việc tạo cho hình tượng một không gian, thời gian, những sự kiện và những
mối quan hệ giàu cảm xúc. Nhờ tạo hình mà hình tượng hiện lên một cách cụ thể
qua chất liệu. “Trong hội hoạ tạo hình biểu hiện trực tiếp qua đường nét, màu
sắc, trong điêu khắc tạo hình biểu hiện qua đường nét hình khối, trong văn học,
tính tạo hình được xác lập gián tiếp qua ngôn từ”.[13,30]. Ngôn từ có tính hình
tượng là ngôn từ giàu hình ảnh có màu sắc, âm thanh, nhạc điệu có khả
năng gây ấn tượng mạnh mẽ, tác động sâu xa vào trí tưởng tượng và cảm nghĩ của
người đọc. Như vậy tính hình tượng, một đặc điểm của ngôn ngữ văn học có khả
năng phản ảnh, thể hiện các yếu tố của ngôn ngữ hội họa. Vận dụng tính chất
này, các nhà văn, nhà thơ đã tạo ra không ít những chân dung về nhân vật, những
bức tranh phong cảnh lấp lánh những sắc màu, đa dạng về đường nét. Trong bài thơ
“Thuật hứng XXIV” của Nguyễn Trãi hai câu luận “Kho thu phong/ nguyệt đầy qua
nóc, Thuyền chở yên hà/ nặng vạy then.” là hai câu thơ đầy sắc màu hội họa. Bức
tranh có gam màu vàng, thực và ảo được kết hợp hài hòa ấn tượng. Gió vận động êm
nhẹ, trăng ngập tràn, không gian êm ả, yên bình. Trong một không gian mênh mông
ngập tràn sương khói, con thuyền thơ nhỏ bé- hình ảnh trung tâm của bức tranh
không bị mất hút trong những sắc màu hư ảo là nhờ cách trọng lượng hóa vật thể
“Thuyền chở yên hà nặng vạy then” của một nhà thi họa. Bức tranh được
phác hoạ bằng những nét bút hào hoa mỹ lệ tao nhã nên thơ đậm đà phong vị dân
tộc. Có thể nói, đây là một cảnh tiên giữa đời thường.
Nhờ
tính tạo hình của văn học, những bức tranh thơ như trên sẽ rất dễ dàng biến
thành những họa tác.
II)
Tính chất “Thi trung hữu hoạ” trong tác phẩm Truyện Kiều:
Chất
hoạ trong tác phẩm Truyện Kiều the hiện trên nhiều khía cạnh:
1)
Chất hoạ trong những bức chân dung nhân vật:
Chịu
ảnh hưởng của thi pháp trung đại khi miêu tả những nhân vật, Nguyễn Du thường sử
dụng bút pháp mang tính truyền thống sắp xếp nhân vật làm hai tuyến- nhân vật
chính diện và nhân vật phản diện. Đối với nhân vật chính diện, ông tả tỉ mỉ bằng
những nét bút trang trọng giàu tính ước lệ. Còn đối nhân vật phản diện ông
thường đi theo lối tả thực và phác hoạ, chấm phá bằng vài ba nét nhưng vẫn gây
được ấn tượng mạnh mẽ. Mặc dù đi theo khuynh hướng chính thống, bút pháp phác
hoạ, ngôn ngữ ít nhiều có tính chất ước lệ công thức nhưng ở một số phương diện
Nguyễn Du đã có những phá rào (khuynh hướng tâm lý hoá ngoại hình, thân phận hoá
phẩm cách) tạo nên những nhân vật sống động.
1-1)
Nhân vật chính diện:
Đối
với những nhân vật chính diện, Nguyễn Du thường vẽ bằng màu sắc hài hoà tươi
tắn, đường nét lúc thì mềm mại uyển chuyển lúc thì phóng bút nhiều chiều kích,
nét vẽ đậm và kỹ hơn so với nhân vật phản diện. Những hình ảnh ước lệ được
dùng khi miêu tả nhân vật là những hình ảnh tiêu biểu cho cái đẹp sáng trong,
rực rỡ, bền vững như phong, hoa, tuyết, nguyệt, sơn, thuỷ...Đây là bút pháp cực
tả, tuyệt đối hoá, lý tưởng hoá nhan sắc cốt cách nhân vật.
1-1-1)
Chân dung Thuý Kiều
:
-Phần
mở đầu tác phẩm:
Trong
chân dung nghệ thuật, vấn đề hàng đầu là đường nét, màu sắc đậm nhạt, lu mờ. Nắm
vững nguyên lý vẽ chân dung nghệ thuật khi hoạ tác nhân vật Thuý Kiều, nhân vật
trung tâm của tác phẩm, Nguyễn Du đã chọn những gam màu mát, màu trắng trong
của nước, màu xanh của núi và liễu, màu sắc đậm và tươi của hoa “thắm”; đường
nét mảnh mai uyển chuyển sống động “làn, nét ” và phẳng lặng của mặt nước hồ
thu. Không chỉ có những màu đơn, màu phối, Nguyễn Du còn dùng lối so sánh về
cường độ màu “thua thắm, kém xanh ” để làm rõ vẻ đẹp hoàn thiện toàn mỹ, làm
hiện lên số phận của một con người theo đúng triết lý ”Hồng nhan bạc mệnh, tài
tử đa truân”. Chỉ hai nét vẽ, bức chân dung của một giai nhân tuyệt thế đã hiện
hữu, đó chính là cái tài của thi hào:
Làn
thu thuỷ, nét xuân sơn, (26)
Hoa
ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. (25)
Vẽ
nhân vật Thuý Vân Nguyễn Du thiên về tổng thể còn khi phác hoạ nhân vật Thuý
Kiều Nguyễn Du thiên về điểm nhãn. Thi hào đi vào đôi mắt theo quan niệm mỹ học
phương Đông “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Chọn màu trắng để diễn tả độ trong
xuyên thấu vào tâm hồn, chọn nét xuân sơn để diễn tả sự gợi cảm của một con
người nặng về đời sống tâm hồn rất đa tình đa cảm, đây là một sự tinh tế. Vũ
Hạnh có lý khi lý giải vì sao thi hào Nguyễn Du không tả đôi mắt của Thuý Vân mà
lại miêu tả kỹ đôi mắt của Kiều“Thuý Vân có mắt điều ấy thật hiển nhiên (…)
Nhưng đôi mắt nàng chỉ là đôi mắt nằm trên khuôn mặt để làm đầy đủ lệ bộ của một
khung diện mà thôi (…) Đôi mắt ấy phóng ra tia nhìn là để rập theo ý tình kẻ
khác, miễn ý tình ấy thuộc về lẽ phải hiển nhiên, thuộc về trật tự đã được cuộc
đời chấp nhận(…) Có lẽ, Vân đã nhường mắt cho Kiều. Vì chỉ mỗi một mình Kiều ở
trong tác phẩm có đôi mắt sáng, mắt đẹp lạ lùng. Cặp mắt ấy có nhãn lực tuyệt
vời, nhìn được chiều sâu thăm thẳm, tưởng chừng vạch được màu xuân tươi tốt mà
soi thấu vào tận đáy mồ hoang để cảm thấu nỗi niềm cô độc xót xa của kiếp người.
Cặp mắt ấy nhìn được liên hệ giữa người và ta, giữa cái đã qua và cái sẽ
đến.”[76,170]. Không chỉ đẹp, đôi mắt của Kiều còn là đôi mắt của sự tinh
thông:
Mắt
xanh chẳng để ai vào, có không ? (2182)
hoặc
:
Khen
cho con mắt tinh đời (2201)
Anh
hùng đoán giữa trần ai mới già! (2202)
Mắt
trong - đôi mắt đẹp ánh lên sự thông minh, mắt xanh-đôi mắt của sự đồng tình
trân trọng, giờ lại là con mắt tinh đời- đôi mắt phán đoán nhận xét sắc sảo
chính xác nhanh chóng về con người. Có thể nói, đối với Thuý Kiều, vẻ đẹp của
hình thức luôn luôn tiềm ẩn vẻ đẹp của tâm hồn và vẻ đẹp của tâm hồn “đã phản
chiếu trên những dung nhan nàng những đường nét, những màu sắc tươi đẹp mà đằm
thắm” [10,25]
-Trước
mặt mụ mối,
Kiều
không còn là Kiều của ngày nào. Nàng đã biến sắc, thi hào chọn sắc vàng của
hoa lá, một màu sắc buồn tiêu biểu cho mùa thu, những nét mờ, nét phớt lì
trong sự phản chiếu và nét mảnh khảnh mỏng manh. Sắc màu ấy, đường nét ấy
tượng trưng cho cái thần sắc bạc nhược, sự thỉu não. Cái thần của bức tranh là ở
sự tương quan giữa sắc buồn và nét mờ, là sự đối lập giữa cái hôm qua và cái hôm
nay, tất cả nhằm làm nổi rõ sự ủ dột tái tê của một con người cam chịu chai lỳ
vì mang nỗi đau căm lặng không thể vùng vẫy :
Ngừng
hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày. (636)
Nét
buồn như cúc, điệu gầy như mai. (638).
Bốn
nét vẽ là bốn hình thái hỗ trợ cho nhau, thống nhất nhau trong việc diễn tả sự
chấn động tâm lý đã làm tàn phai nhan sắc. Trong bốn nét vẽ đó, hai nét vẽ ”Nét
buồn như cúc, điệu gầy như mai “ là hai nét vẽ thần tình nhất, thể hiện được
thái độ căm lặng đến tuyệt đối, căm lặng nhưng Kiều vẫn không giấu được nỗi đau
đớn, xót xa tủi nhục. Giờ đây, Kiều chỉ còn là cái bóng của chính mình! Khác với
bức vẽ trên, khi thực hiện bức vẽ này, Nguyễn Du không dùng những sắc màu
đậm, đường nét sắc cạnh. Chính bút pháp vẽ kiểu như vậy đã tạo được cái thần
của câu thơ, vừa thể hiện được dáng hình, vừa thể hiện được nỗi đau ẩn đằng sau
bộ dạng bên ngoài.
Kiều
tắm
:
Có
lẽ đây là bức hoạ khó vẽ nhất trong những bức tranh vẽ chân dung nhân vật. Bởi
lẽ, nếu không khéo sẽ rơi vào sự dễ dãi, đường đột, lộ liễu kém tế nhị, đi chệch
với những quan niệm đạo đức của xã hội đương thời, đồng thời hạ thấp giá trị của
cô Kiều, một cô gái vốn khuôn thước theo kiểu “Êm đềm trướng rủ màn che,”. Là
một nhà nho chính thống uyên thâm, Nguyễn Du rất từ tốn chậm rãi cẩn thận khi
hoạ một thân thể khoả thân. Trước hết, nhà thi hoạ tạo ra một bức phông màn rất
gợi cảm đầy hương hoa” rủ bức tường hồng tẩm hoa” trước khi vén bức màn bí mật.
Nhà thi hoạ đã tạo được cảm giác náo nức chờ đợi cho người đọc, người xem bằng
cách cho cuộn film quay thật chậm và rồi thật bất ngờ “Một toà thiên nhiên” đã
hiện hữu. Nét vẽ ”Toà thiên nhiên” thể hiện được sự kín đáo bí hiểm gợi trường
liên tưởng sâu xa. Chỉ bằng hai câu thơ, với những sắc màu tinh nguyên ”Trong
ngọc trắng ngà”, một đường nét giàu tính tượng trưng, Nguyễn Du đã tạo ra một
bức hoạ về thân thể người phụ nữ nửa thực, nửa hư. Đúng là tuyệt hoạ
!
Buồng
the phải buổi thong dong, (1309)
Thang
lan, rủ bức trướng hồng tẩm hoa. (1310)
Rõ
ràng trong ngọc, trắng ngà , (1311)
Dày
dày sẵn đúc một toà thiên nhiên! (1312)
Không
riêng Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương không ít lần vẽ những bức tranh nửa kín nửa hở về
người phụ nữ. Trong bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”, bà chúa thơ Nôm đã
viết:
Đôi
gò Bồng đảo sương còn ngậm ,
Một
mạch Đào nguyên suối chửa thông.
Bức
vẽ thiên về chi tiết, nặng về vùng cấm kỵ. Đây không phải là bức tranh khoả thân
hoàn toàn. Bức tranh về nàng Kiều mới chính là :“Bức tranh khoả thân duy nhất
trong văn học Việt Nam (…) Giải nhất trao cho Nguyễn Du” [92,149].
-Kiều
bị đánh trong vụ kiện của Thúc Ông:
Vẽ
chân dung Kiều bị đánh, Nguyễn Du dùng những sắc màu đậm điểm vào bức tranh nền
để gây ấn tượng. Ông không dùng những nét vẽ chuẩn mà dùng những nét vẽ đệm
thêm, nhoè ra, dùng nhiều đường gãy ”tiêu biểu cho sự đổ vỡ không an toàn
nguy hiểm”[11,57]. Nhờ thế, nó đã diễn tả được những dấu vết của những trận đòn
khủng khiếp nơi phủ đường. Một loạt những hình ảnh vốn tiêu biểu cho cái đẹp đã
bị tàn phai được nhà thi hoạ dùng liên tiếp hỗ trợ cho nhau tạo được ấn tượng
mạnh về sự đổi sắc, biến dạng. Bức tranh trở thành lời kết tội đanh thép về
những kẻ không biết trân trọng cái đẹp, sẵn sàng vùi dập cái đẹp một cách tàn
nhẫn:
Ba
cây chập lại một cành mẫu đơn. (1426)
Phận
đành chi dám kêu oan, (1427)
Đào
hoen quyện má, liễu tan tác mày. (1428)
Một
sân lầm cát đã đầy, (1429)
Gương
lờ nước thuỷ, mai gầy vóc sương.(1430)
Thân
phận con ong cái kiến chỉ có con đường duy nhất là cam chịu, cam chịu đến mức
tàn tạ cuối cùng.
-Kiều
chết đuối được vớt lên từ sông Tiền Đường
:
Khi
hoạ thân chết trôi, Nguyễn Du đã lượt bỏ những chi tiết phụ không cần thiết,
chọn lọc những chi tiết đặc tả, xen vào đó lời bình luận trữ tình :
Trên
mui lướt mướt áo là, (2707)
Tuy
dầm hơi nước, chưa loà bóng gương. (2708)
Một
đường nét “lướt mướt “cũng đủ vẽ bộ xiêm y ướt dầm rủ xuống thấm vào da thịt gợi
ra những nét hư thực của thân thể đang bất động, buông xuôi. Giữa lúc ranh giới
sống và chết thật mong manh ta mới càng thấy rõ giá trị của cái đẹp đích thực,
vẻ đẹp tinh nguyên sáng trong của một giai nhân tuyệt thế ngày nào vẫn còn in
dấu. Sống cũng đẹp và chết cũng đẹp. Không có tấm lòng trân trọng thương cảm,
luôn luôn có ý thức tôn vinh cái đẹp thì không thể có cái nhìn đầy nhân văn như
thế! Theo Xuân Diệu đây là hai câu thơ đầy dư ba “Thân Kiều nửa hư nửa thực, hồn
Kiều nửa sống nửa chết, văn Nguyễn Du tả đẹp lạ thường !”[92,150]. Có thể xem
bức vẽ trên là bức vẽ tĩnh và cái đẹp mang tính chất tiềm
ẩn.
-
Kiều đối diện với Kim trọng trong phần đoàn viên:
Vẻ
đẹp của Kiều chỉ được vẽ bằng một nét bút với một sắc màu. Không phải là
sắc trong của nước, sắc thắm của hoa, sắc xanh của núi, mà là sắc vàng của sen
vào lúc cuối hạ. “Sen vàng” là một điển tích nói về người phụ nữ đẹp. Trong tư
duy người Việt “hoa sen” vừa gợi lên được sự chịu đựng vừa khẳng định được giá
trị cao khiết. Dù cuộc đời trầm luân đã nhai nghiến vẻ đẹp bên ngoài nhưng vượt
lên tất cả là tấm lòng kiên trinh cao đẹp của nàng Kiều. Nàng như một đoá hoa
sen “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn ”:
Buồng
trong, vội dạo sen vàng bước ra.(3008)
Miêu
tả nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du thường đặt những hình ảnh trong sự đối sánh.
Nếu trước kia là hoa là liễu, là thu thuỷ, là mai cốt cách thì nay là cúc
buồn, mai gầy, đào hoan, liễu tan tác, gương lờ nước thuỷ. Những bức tranh trong
sự đối sánh tạo nên một sự tiếp nối về một nhân vật với nhiều cảnh đời
.
1-1-2)
Chân dung Thuý Vân :
Khác
với nhân vật Thuý Kiều, nhân vật Thuý Vân là loại nhân vật đề thêm để tôn thêm
vẻ đẹp và gỡ rối cho Thuý Kiều. Vì thế, nhân vật này dù có nhắc đến nhiều lần
nhưng chỉ mang chất hoạ có một lần ở phần đầu tác phẩm. Nhưng để tạo ra vẻ đẹp
theo kiểu “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” không phải là chuyện dễ. Cũng
với những“Môtif” hình tượng quen thuộc, khuôn mẫu ”Hoa cười, ngọc thốt, khuôn
trăng, nét ngài...”, Nguyễn Du “còn đưa vào những từ ngữ nôm na nhưng nội hàm đa
nghĩa, những từ ngữ đầy đặn, nở nang không chỉ miêu tả khuôn mặt phương phi tròn
trịa, nét ngài minh bạch rõ ràng của Thuý Vân mà đây còn là sự đầy đặn, mỹ mãn
của số phận” [10,23]. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn vận dụng hai khía cạnh quan
trọng “Nhất dáng nhì da” trong những quan niệm quen thuộc của người phương Đông
để tạo ra vẻ đẹp khác biệt :
Vân
xem trang trọng khác vời, (19)
Khuôn
trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. (20)
Hoa
cười, ngọc thốt, đoan trang, (21)
Mây
thua nước tóc, tuyết nhường màu da, (22)
Vẽ
Thuý Vân Nguyễn Du đi theo trình tự từ tổng thể đến chi tiết, từ dáng người đến
khuôn mặt, nét ngài, nụ cười, tiếng nói, mái tóc, màu da. Nhờ sự hài hoà về
sắc màu, mềm mại về đường nét, vượt chuẩn về âm thanh, cân đối về hình khối,
hoàn chỉnh cả điểm lẫn diện mà bức chân dung Thuý Vân trở nên viên mãn, sống
đông, phúc hậu, mệnh phụ. Dù vậy, vẻ đẹp của Thuý Vân thiếu đi cái thần “đôi
mắt”, nó thiên về vẻ đẹp khuôn thước mẫu mực hơn là vẻ đẹp gợi cảm, sắc sảo và
quyến rũ. Điều đó đã làm nên sự khác biệt giữa hai chị em, hai số phận, hai tính
cách: người thì hồng nhan bạc mệnh kẻ thì hạnh phúc ấm êm.
1-1-3)Chân
dung Kim Trọng
:
Để
tránh đi sự đơn điệu, Nguyễn Du phác hoạ nhân vật Kim Trọng được trong khung
cảnh buổi chiều thiên nhiên đầy diễm lệ, thanh tao. Khung cảnh thiên nhiên
đã trở thành cái phông màn tôn thêm vẻ đẹp cho nhân vật, và ngược lại nhân vật
làm cho bức tranh thêm sống động có hồn. Cái tài của Nguyễn Du là tạo ra một bố
cục có chính có phụ: người -ngựa, thầy- tớ, con người-thiên nhiên, dưới một góc
nhìn xa gần. Camera của thi hào đặc biệt chú ý đến cử chỉ từ tốn chậm rãi của
một văn nhân thực thụ” lỏng buông, xuống ngựa, tới nơi, vào trong, ra ngoài”.
Kỹ thuật pha màu của nhà thi hoạ đã đạt đến độ điêu luyện cao tay khi tạo ra
sắc màu độc đáo của chiếc áo. Màu của chiếc áo là sự hoà trộn giữa sắc biếc
của da trời và sắc xanh của cỏ. Màu sắc ấy có được còn là sự kết hợp giữa tấm
lòng trân trọng của Nguyễn Du và trái tim rung cảm của nàng Kiều. Đây là bức
tranh mang tính chất động, có gam màu mát trong đó màu xanh- xanh cỏ, xanh
trời, xanh áo, xanh cây là sắc màu chủ đạo. Bên cạnh đó đường nét thể hiện sự
vận động cũng được Nguyễn Du sử dụng thật tài tình. Những bước chân di
chuyển nhẹ nhàng của chàng Kim đã làm cho thiên nhiên thức dậy, bừng sáng, vận
động khẽ khàng. Kim Trọng xuất hiện, dung mạo của chàng, cử chỉ, phong độ của
chàng làm “xinh đẹp của một vùng” (chữ dùng của Xuân Diệu) .
Khi
hoạ những bức tranh nhân vật, Nguyễn Du ít khi để cho nhân vật bị trống trải đơn
chiếc. Nhân vật này xuất hiện trong sự đối sóng với nhân vật khác-Thuý Vân -Thuý
Kiều, Thúy Kiều – Từ Hải, Kim Trọng –Thuý Kiều, Thuý Vân, Vương Quan. Bức tranh
sẽ trữ tình hơn khi có sự góp mặt của “Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa.”. Và
Vương Quan xuất hiện đã trở thành chiếc cầu nối tình cảm của đôi trai tài gái
sắc. Tiếng sét ái tình đến với họ thật tự nhiên, bất ngờ và thú vị. Thiên tài
Nguyễn Du chẳng khác nào một “ông tơ” dẫn dắt khéo léo cuộc gặp gỡ của hai tâm
hồn đồng điệu:
Tuyết
in sắc ngựa câu dòn, (139)
Cỏ
pha màu áo nhuộm non da trời. (140)
Nẻo
xa mới tỏ mặt người, (141)
Khách
đà xuống ngựa, tới nơi tự tình. (142)
Hài
văn lần bước dặm xanh, (143)
Một
vùng như thể cây quỳnh, cành dao. (144)
Nhìn
toàn cục của bức tranh từ sắc màu đến đường nét, từ cử chỉ đến hình ảnh, từ
thiên nhiên đến con người cái gì cũng nhẹ nhàng, hữu tình đáng yêu. Nói như Đặng
Thanh Lê”Bóng tối âm khí nặng nề khi gặp Đạm Tiên trong đoạn thơ trước đã biến
đi nhường chỗ cho ánh sáng của cuộc sống, của vẻ đẹp con người, của tình yêu
đang hé mở” [10, 41].
Xây
dựng bức chân dung về chàng Kim, Nguyễn Du đã có những phá cách đáng kể. Ngoài
những phương diện cần thiết khi nói đến nhân vật thư sinh phong kiến như con
tuấn mã, chú tiểu đồng, trang phục, gia thế, tài năng, học thức, Nguyễn Du còn
xem trọng sự hài hoà giữa con người với vũ trụ, giữa con người bên trong và cử
chỉ biểu hiện ra bên ngoài và nhất là những xao động của tâm hồn, những biểu
hiện tình cảm kín đáo, những cảm giác lúc tỉnh, lúc mê, sự bịn rịn lưỡng lự giữa
ở và về- về thì tiếc ở thì cũng chẳng xong. Có thể nói, ít ai tả được tác động
dữ dội của tiếng sét ái tình ở những tâm hồn còn trắng trong như tờ giấy đang
bắt đầu bước vào ngưỡng cửa tình yêu đúng và hay như thi hào :
Người
quốc sắc, kẻ thiên tài, (163)
Tình
trong như đã, mặt ngoài còn e. (164)
Chập
chờn cơn tỉnh, cơn mê, (165)
Rốn
ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. (166)
Bóng
tà như giục cơn buồn, (167)
Khách
đà lên ngựa, người còn ghé theo. (168)
Ngay
cả cái cử chỉ “Khách đà lên ngựa người còn ghé theo” đầy quyến luyến, bịn rịn,
nuối tiếc nhưng họ đành bất lực trước sự vận hành của vũ trụ cũng đáng yêu làm
sao!
Mở
đầu một chuyện tình là khung cảnh thiên nhiên tươi sáng rộng mở và kết thúc cuộc
gặp gỡ là một bức tranh thiên nhiên nhỏ nhắn, xinh xắn đáng yêu :
Dưới
cầu nước chảy trong veo , (169)
Bên
cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. (170)
Thiên
nhiên đượm tình càng tôn thêm vẻ đẹp tình cảm của chàng Kim cô Kiều. Phải chăng
tình cảm sáng trong của Kim-Kiều như dòng nước trong veo đang chảy dưới cầu. Và
tình cảm ấy gắn bó khăng khít khó thể tách rời như cầu gắn với nước, tơ liễu gắn
với bóng chiều. Nhưng dường như có một dự báo sự cách trở vì ‘’Nước đi đi mãi
không về cùng non’’. Có thể xem đây là một cuộc tạm chia tay cực đẹp để rồi sau
đó Kiều-Kim phải thao thức mộng tưởng. Hành trình của chuyện tình cùng với nỗi
khổ của cô Kiều cũng bắt đầu từ đây.
Khác
với Nguyễn Du, khi tả Kim Trọng Thanh Tâm Tài Nhân lại đi sâu vào sự chấn động
của tâm hồn : ‘’Kim Trọng ngây ngất cả người, xiêu xiêu cả tinh thần, bụng bảo
dạ : thế này thì mình đến tương tư chết mất, rồi chàng lẩm nhẩm tự thề không lấy
được Kiều thì suốt đời không lấy ai nữa.
Vì
có Vương quan đấy, không tiện nán ở lại lâu, Kim Trọng đành phải qua loa cáo từ
lui gót.
Vương
viên ngoại cũng sai người đến đón hai nàng lên kiệu’’
-
Cũng là bức vẽ về Kim Trọng nhưng đây lại là bức vẽ mang tính chất cách
điệu:
Hiên
sau treo sẵn cầm trăng, (467)
Vội
vàng Sinh đã tay nâng ngang mày. (468)
Nét
hoạ “Tay nâng ngang mày ” thể hiện thái độ trân trọng thán phục trước tài đàn,
một trong bốn tài năng – cầm kỳ thi hoạ đã trở thành nức tiếng của người con gái
họ Vương.
Không chỉ là sự thán phục, bức vẽ còn muốn bổ sung thêm một thông tin cần thiết
về chàng Kim. Chàng văn nhân hào hoa phong nhã không chỉ là một con người chỉ
biết yêu cái đẹp của văn chương mà còn là một con người rất am hiểu và sành điệu
nghệ thuật âm nhạc. Người đọc sẽ chẳng ngạc nhiên khi Kim Trọng có rung cảm mạnh
mẽ, đưa ra những nhận định xác đáng khi nghe tiếng đàn của cô Kiều.
1-1-4)Chân
dung Từ Hải:
Nếu
Kim Trọng hiện ra trong sắc chiều êm ả thì Từ Hải được vẽ ra trong đêm thanh
tĩnh gió hây hây thổi, không khí huyền ảo tràn ngập ánh trăng. Bức chân dung đã
có thêm nét tối sáng, nét rõ mờ rất phù hợp với chất huyền thoại của nhân
vật. Bút lực của Nguyễn Du không dồn vào màu sắc mà dồn vào đường nét. Nét
bút có đường nét to và rất mạnh mẽ ”râu hùm, hàm én, mày ngài”, phóng bút nhiều
chiều, chiều ngang –vai năm tấc rộng, chiều dọc –thân mười thước cao;
chiều cao-đội trời và chiều thấp - đạp đất. Thật đúng khi cho rằng “tác giả
muốn làm cho không gian chung quanh Từ Hải rộng thêm ra, từ mặt người, từ bóng
dáng, từ tài năng phát tia ra, nên đã đặt nhiều dấu huyền, bởi thanh có dấu
huyền không đứt gọn như thanh không dấu, mà nhoà rộng ra… ” [92, 267]. Cũng là
“ngài” nhưng đối với Thuý Kiều, Nguyễn Du vẽ “nét ngài” còn Từ Hải là ”mày
ngài”, một bên chỉ là đường nét, còn một bên lại là hình thể của sự vật ; một
bên là sự mềm mại còn một bên là sự mạnh mẽ kiên quyết. Điểm vào chân dung
nhân vật là những phụ bút như gươm đàn làm tăng thêm chất hào hùng, tài năng phi
thường của Từ Hải. Ngoài những hình ảnh tượng trưng ước lệ thường gặp trong
những bức tranh miêu tả nhân vật anh hùng ’’râu hùm, hàm én, mày ngài...’’,
Nguyễn Du còn tạo ra một không gian đầy chất huyền thoại, tiết điệu ngắt bất
ngờ ‘’bỗng đâu’’để tạo ra nét riêng biệt của người anh hùng -bất ngờ trong sự
xuất hiện và cũng rất bất ngờ trong sự quyết định chọn người tình lý tưởng. Một
con người dám ‘’chọc trời khuấy nước’’ sẽ có một chuyện tình dị thường hiếm có
là lẽ đương nhiên, là sự lôgic của một tính cách.
Ngoài
ra, khi hoạ chân dung nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du rất lưu ý đến cấu trúc cân
đối-cân đối về hình ảnh-râu, hàm, mày- vai, thân, cân đối về nhịp điệu- câu lục
nhịp thơ 2-2-2 câu bát lại nhịp thơ 4-4, và cân đối cả về mặt ngôn ngữ- những
từ Hán Việt ‘’anh hào, côn quyền, lược thao‘’ tạo nên sự trang trọng và những từ
thuần Nôm tạo nên sự gần gũi, đời thường.
-Chân
dung Từ Hải lúc ngồi ghế quan toà:
Vẻ
đẹp kiêu hùng và tài năng tuyệt đỉnh của họ Từ càng được tô đậm hơn qua bức
tranh ngồi ghế quan toà:
Quân
trung, gươm lớn, giáo dài, (2311)
Vệ
trong thị lập, cơ ngoài song phi . (2312)
Sẵn
sàng tề chỉnh uy nghi, (2313)
Bác
đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. (2314)
Trướng
hùm mở giữa trung quân , (2315)
Từ
công sánh với phu nhân cùng ngồi.(2316)
Đây
có thể xem là bức họa về cảnh đoàn quân chiến thắng trở về và đang chuẩn bị xử
án.Vì thế, Nguyễn Du dùng nhiều nét nhọn, nét thẳng đứng, nét ngang gợi lên
cảnh tượng giáo gươm tua tủa, đoàn quân nghiêm trang, hào khí ngất trời, uy thế
dữ dội. Bức tranh được thiết kế theo kiểu cái phụ làm rõ cái chính, cảnh tượng
chung quanh làm rõ nhân vật trung tâm -Từ Hải –Thuý Kiều. Từ một vị thế của
kẻ tôi đòi trước kia, Kiều đã hoá thân thành vị “phu nhân mệnh phụ”, kẻ xử án.
Một sự hoá thân như có phép màu, phép màu đó không do một lực lượng siêu nhiên
nào mà do chính đấng anh hùng luôn lấy công lý làm đầu, nghĩa tình làm trọng
tạo dựng.
Mặc
dù trong cuộc báo ân báo oán, Nguyễn Du vẽ nhân vật Từ Hải nhạt hơn nhân vật
Thuý Kiều nhưng không vì thế người anh hùng trở thành nhân vật thứ yếu trong bức
tranh xử án. Nguyễn Du rất tinh tế khi để cho Từ Hải tuyên bố“Mặc nàng xử quyết,
báo đền cho minh.”. Rõ ràng Từ Hải không phải là người chỉ biết đến cái chung mà
rất trân trọng việc riêng của Kiều. Vì chỉ có Kiều mới xử đúng người đúng tội.
Có chăng cái uy của Từ Hải đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ra cái uy của
chủ toạ phiên toà? Từ Hải có thể xem là người thiết kế còn Kiều chính là người
thi công.
-Chân
dung Từ Hải chết đứng :
Kiêu
hùng bao nhiêu Từ Hải lại chết một cách oan nghiệt bấy nhiêu. Bức hoạ về hình
tượng người anh hùng chết đứng lại mang chất hoạ khác. Đây là bức hoạ tĩnh
giàu chất điêu khắc có đường nét cứng. Thi hào như muốn tạc tượng một
huyền thoại anh hùng khao khát tự do trong cái xã hội mà cái đẹp và tài năng
không có đất tồn tại :
Khí
thiêng khi đã về thần, (2519)
Nhơn
nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! (2520)
Trơ
như đá, vững như đồng , (2521)
Ai
lay chẳng chuyển, ai rung chẳng rời. (2122)
Từ
Hải thua trong thế thắng, chết nhưng còn sống mãi với đời. Hình tượng chết đứng
đầy oan thiêng của Từ như một lời tố cáo đanh thép cái xã hội: Lẽ phải và chiến
thắng thuộc về kẻ có quyền và sự gian trá. Vài trăm năm sau chúng ta lại bắt gặp
hình tượng người anh hùng chết đứng trong thơ Lê Anh Xuân:
Anh
ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất,
Nhưng
anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng.
Anh
đang chết trong khi đang đứng bắn,
Máu
anh tuôn theo lửa đạn cầu vòng.
1-1-5)
Chân dung người khách viễn phương:
Nhân
vật người khách viễn phương không rõ tên tuổi quê quán, nghề nghiệp, xuất hiện
gián tiếp thoáng qua thông qua lời kể của Vương Quan nhưng vẫn gây ấn tượng.
Nhân vật này tạo thành bộ ba nhân vật nam chính diện-Từ Hải, Kim Trọng, người
khách viễn phương. Mỗi người mỗi tính cách. Từ Hải hào hùng dũng mãnh ngang
tàng, rộng lượng, Kim Trọng hào hoa phong nhã, thuỷ chung còn người khách viễn
phương rất cao thượng. Khi họa bức chân dung người khách viễn phương, Nguyễn Du
không đi sâu vào diện mạo mà chú trọng đến cử chỉ, hành động để làm tóat lên
nét đẹp tâm hồn. Chỉ một vài biểu hiện thể hiện sự khẩn trương chu đáo ”xa
nghe, tìm đến”, “Sắm sanh nếp tử, xe châu”(77), thể hiện sự đau đớn xót xa ”khóc
than“ và đặc biệt hành động vội vội vàng vàng “vùi nông” khi chôn cất thi hài
Đạm Tiên, nhân vật này đã để lại những dư vị ngọt ngào trong lòng người đọc. Là
một kẻ đến sau nhưng lại là người biết ra tay hành động, đó chính là phẩm chất
của một con người biết trân trọng cái đẹp, sự tài hoa. Người khách viễn phương
cảm kích và mến phục sứ giả Đạm Tiên cũng đúng thôi. Bởi lẽ, Đạm Tiên, một nhân
vật được không ít người ngưỡng vọng. Trong khi dẫn giải, Vương Quan đã hết lời
ngợi ca “Nổi danh tài sắc một thì,”(63). Và hồn ma Đạm Tiên cũng được Nguyễn Du
vẽ bằng những nét vẽ rất thanh tao” Có chiều phong vận, có chiều thanh
tân.”(180). Ở nhân vật người khách viễn phương có nét gần gũi với nhân vật Từ
Hải. Cả hai đều xuất phát từ cái tâm sáng, sẵn sàng dẹp bỏ những định kiến hẹp
hòi để cảm thấu số phận bi kịch của những người làm gái lầu xanh, làm nghề xướng
ca vô loài.
1-2)Nhân
vật phản diện
:
Đối
với những nhân vật phản diện, Nguyễn Du không miêu tả tỉ mỉ trang trọng. Chỉ
cần vài ba nét phác hoạ ông để lại những ấn tượng sâu sắc. Nguyễn Lộc đã
nhận xét: “Nguyễn Du cố gắng làm cho nó gần gũi với đời sống, với hiện thực(…)
Đặc biệt bút pháp của nhà thơ khi xây dựng nhân vật này thường nổi rõ tính chất
hiện thực xã hội chủ nghĩa” [49,400]. Dưới góc nhìn của hội hoạ, ta thấy những
nhân vật lọai này thường được Nguyễn Du dùng những sắc màu nhợt nhạt, đường nét
mang tính chất chấm phá, khai thác tính chất mất cân đối trái tự nhiên để làm rõ
tính cách nhân vật.
1-2-1)
Chân dung Tú Bà:
Nhân
vật Tú Bà hiện ra chỉ bốn nét bút với một sắc màu hai đường nét :
Thoát
trông nhờn nhợt, màu da, (923)
Ăn
gì cao lớn, đẫy đà làm sao? (924)
Trước
xe, lơi lả han chào , (925)
Hoặc
:
Tú
Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.(950)
Không
phải là đường nét mềm mại uyển chuyển, sắc trắng đẹp đẽ tinh nguyên như Thuý
Vân, Thuý Kiều mà đây là màu trắng hơi vàng, nhợt nhạt do ở nơi tăm tối,
đường nét chệch choạc mất tính cân đối, vượt khuôn khổ cho phép “to lớn đẩy
đà”, trái ngược với quan niệm thẩm mỹ của cộng đồng, dáng ngồi rất chủ
chứa “vắt nóc”, ngôn ngữ đưa đẩy. Chỉ cần bốn nét vẽ, đặc biệt là nét vẽ
”nhờn nhợt”, vừa gợi lên được màu da tạo được cảm giác ghê tởm, vừa thể hiện
được quá khứ giang hồ, thi hào Nguyễn Du đã nói đúng một trong những nét rất đặc
trưng của những bà chủ chứa kiểu mẫu chính hiệu”đẫy đà xác thịt”(chữ dùng của Hà
Như Chi). Nhưng nếu bức hoạ này đựơc một hoạ sĩ tài ba vẽ lại thì sao? Nguyễn
Văn Hạnh đã kết luận:”Hoạ sĩ chỉ có thể vẽ một mụ Tú Bà cao lớn to béo, màu da
nhờn nhợt, với kích thước, sắc độ như mình muốn, nhưng chỉ được trên từng bức
tranh cụ thể một kích thước, sắc độ nhất định mà thôi. Và người xem chỉ tiếp xúc
một hình thể Tú Bà hoàn toàn xác định. Còn trong trí tưởng tượng của người đọc
thì hình tượng Tú Bà do Nguyễn Du tạo nên không hoàn toàn xác định. Và ở các
người đọc khác nhau, các lần đọc khác nhau, lại có những mụ Tú Bà kinh tởm khác
nhau, những mức độ nhờn nhợt cao lớn, đẩy đà khác nhau” [57,12]. Điều mà Nguyễn
Văn Hạnh khẳng định đó chính là sự đồng sáng tạo trong quá trình tiếp nhận văn
học. Và điều này có lẽ không chỉ đúng với nhân vật Tú Bà mà còn đúng với quá
trình tiếp nhận những nhân vật khác.
1-2-2)Chân
dung Mã Giám Sinh:
Đây
là một con buôn đội lốt nho sinh trường Quốc tử Giám. Bản chất lỗ mảng bịp bợm
lái buôn được Nguyễn Du phác hoạ bằng ba nét vẽ thần tình theo quan niệm “xem
mặt mà bắt hình dong” - mày râu tỉa tót cẩn thận, áo quần thẳng thớm và vị trí
ngồi ở chỗ cao để xem hàng cho rõ “ngồi tót”.
So
với Sở Khanh, nhân vật Mã Giám Sinh đóng kịch tài hơn nhiều. Hắn đã dàn dựng lễ
vấn danh y như thật với những nghi lễ theo phong tục truyền thống “Sính nghi,
canh thiếp, nạp thái vu quy”. “Vải thưa không thể che mắt thánh”, dưới ngòi bút
thần tình của thi hào, hắn không thể giấu hết tất cả những kẽ hở vốn có của
những kẻ gian xảo. Nguyễn Du cho hắn hiện ra từ từ ”Ngồi tót, đắn đo, cân
sắc, cân tài, ép, thử, cò kè, ngã gía, định ngày” rồi điểm huyệt đúng ngay
vào những chỗ hắn che đậy không kín kẽ- xa hắn nói gần, mua người về lầu
xanh hắn nói “mua ngọc đến Lam Kiều”, đứng tuổi nhưng lại làm ra vẻ trai tơ bảnh
chọe, cò kè mặc cả, ép, thử mà lại bảo đi kiếm vợ lẽ ? Bản chất lái buôn càng
thể hiện rõ hơn khi hắn phát ngôn. Lúc sự việc chưa ngã ngũ hắn phát ngôn rất
nhũn nhặn” Rằng:”mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho
tường?””, nhưng đến lúc nắm thế thượng phong hắn phát ngôn thật lạnh lùng” Tiền
lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”. Và đây chính là lúc con buôn họ Mã đã lộ nguyên
hình. Như thế vẫn chưa đủ, Nguyễn Du còn phác hoạ thêm những bức phụ hoạ
về một lũ nhỏ loi choi lóc chóc. Thầy trò họ Mã, đúng là một đám người lăng xăng
lít xít, lộn xộn, láo nháo, vô học, thiếu văn hoá:
Quá
niên trạc ngoại tứ tuần, (627)
Mày
râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao. (628)
Trước
thầy, sau tớ lao xao, (629)
Nhà
băng đưa mối, rước vào lầu trang. (630)
Ghế
trên ngồi tót sỗ sàng , (631)
Nói
chung, khi xây dựng nhân vật Mã Giám Sinh, bút lực của Nguyễn Du dồn vào việc
vạch trần mâu thuẫn giữa chức danh của tên họ Mã và bản chất lái buôn bịp bợm
thị của khinh người, sự trái khuấy giữa tuổi tác và dáng vẻ, giữa lời nói và
việc làm. Cùng với một số nhân vật phản diện khác, nhân vật Mã Giám Sinh đã góp
phần tạo thành một chuỗi nhân vật có tính cách tương cận: Tú Bà –chủ chứa, tàn
bạo, Mã Giám Sinh - lão luyện chuyên săn lùng nguồn hàng, Sở Khanh- tên ma cô
điểu cáng chuyên dắt gái và bảo kê. Chúng là những nhân vật tiêu biểu cho những
ổ chứa và tất cả “đều bộc lộ mối quan hệ mờ ám, mơ hồ bất minh ”(Chữ dùng của
Đặng Thanh Lê)
1-2-3)Chân
dung Sở Khanh:
Đây
lại là một tên ma-cô sống bám lầu xanh, sống trên thân xác của người phụ nữ như
một loại chùm gửi. Bức hoạ về tên lưu manh này khác với bức hoạ về tên họ Mã.
Đối với Mã Giám Sinh “xem mặt” có thể “bắt hình dong” nhưng đối với họ Sở lại
khác, bởi lẽ những đường nét về dáng người phục trang của hắn khá thanh
tao:
Một
chàng vừa trạc thanh xuân, (1059)
Hình
dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng. (1060)
Sở
Khanh đã rẽ dây cương lối nào ! (1126)
Nhân
vật Sở Khanh có dáng vẻ của ”một nhà nho nhưng ngay trong hình dáng đã có cái gì
tỏ ra rằng Sở Khanh không phải là một nhà nho chân chính” [42,470].
Sở
Khanh là một kiểu người “Vừa ăn cướp vừa la làng”, vừa táo tợn vừa tỏ vẻ nhẹ
nhàng khiếm nhã. Chẳng mất gì mà hắn vừa kiếm được chì vừa kiếm được chài. Khi
Kiều vạch rõ chân tướng cũng là lúc sự trơ trẻn của hắn được phơi bày ”Nhơ
tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui.”(1188). Dưới ngòi bút Nguyễn Du, Sở Khanh
đã trở thành“lưu danh thiên cổ”(Chữ dùng của Hoài Thanh). Sự táo tợn của hắn còn
hơn cả chàng Đông-juan của văn học phương Tây.
Có
một nét rất chung về hai bức hoạ Mã Giám Sinh và Sở Khanh. Vẽ hai nhân vật này
Nguyễn Du chỉ dùng đường nét chứ không dùng tới màu sắc. Màu sắc được gợi lên
qua trí tưởng tượng của từng người tiếp nhận.Và cả hai bức hoạ đều có hai nét vẽ
xuất thần :“rẽ dây cương” và “ngồi tót sỗ sàng”. Hai nét vẽ truyền thần cũng là
hai tính cách của hai nhân vật: lỗ mảng của Mã Giám Sinh và tráo trở của Sở
Khanh.
1-2-4)Chân
dung mẹ Hoạn Thư :
So
với các nhân vật khác, nét vẽ về mẹ Hoạn Thư có thêm nét mới. Nhân vật Họan
Bà được bố trí như một tượng thần trong khung cảnh màn che trướng phủ đèn thắp
sáng. Khác với lối ngồi “Vắt nóc” của bà chủ chứa, mẹ Họan Thư có cung cách
ngồi trực diện rất bệ vệ. Trong bức tranh:
Ban
ngày, sáp thắp hai bên, (1723)
Giữa
gường thất bảo, ngồi trên một bà. (1724)
Nguyễn
Du đã thể hiện được cái tài phối cảnh, phối màu để làm rõ tính chất của nhân
vật, khung cảnh sống đế vương của những gia đình quyền lực trong xã hội ngày
xưa. Anh sáng của đèn “sáp thắp” hai bên gợi lên sự thâm nghiêm uy quyền và làm
hiện rõ sự giàu có “giường thất bảo”. Và kẻ có nhiều quyền lực đang thụ hưởng
cuộc sống vương giả ấy không ai khác là mẹ họan Thư . Bà chính là nhân vật kiểu
mẫu cho những quan bà trong cái xã hội “Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon”. Chúng
vô ngôn nhưng độc địa nham hiểm, sẵn sàng bày mưu chỉ kế đốt nhà, bắt người hành
hạ cho thoả thích. Ngoài tính chất hiện thực bức vẽ về nhân vật mẹ Hoạn Thư còn
mang tính chất “trào phúng” [42,758]
1-2-5)Chân
dung Hoạn Thư:
Đới
với nhân vật Hoạn Thư, Nguyễn Du không hoạ tác một bức chân dung đầy đủ và cụ
thể về dáng vẻ bên ngoài như một số nhân vật khác. Điều này cũng hợp lý vì Hoạn
Thư là loại nhân vật mang tính chất duy lý, khôn ngoan sắc sảo. Tất cả mọi hành
động lời nói, kế sách đốt nhà bắt cóc, bịt miệng bọn tôi tớ đến việc chờ đợi
thời cơ, cách thức hành hạ Thuý Kiều, đưa Thúc Sinh vào tròng, biện minh trước
chủ toạ phiên toà, Hoạn Thư đều tính toán một cách chu đáo, kỹ càng và đạt hiệu
quả.
Do
chân dung Hoạn Thư không mang tính tập trung ở một một đoạn thơ cụ thể cho nên
người đọc muốn xem rõ chân dung nhân vật này phải tập hợp một số chi tiết qua
một chuỗi dài sự kiện”thơn thớt nói cười, cười nụ, nhón chân đứng nép, rẽ hoa
bước vào, lại thét lấy nàng, nổi giận đùng đùng”. Tất cả đã làm hiện lên một
khuôn mặt trẻ tươi nhưng không kém phần sắc sảo, bản lĩnh và sẵn sàng biến
thái khi cần thiết dáng người thon thả, cử chỉ từ tốn, trí tuệ khôn ngoan.
Hoạn Thư có sự kết hợp khéo léo giữa con người tình cảm (ghen tuông) và con
người lý trí (kiềm chế tính ghen), giữa sự tuân phục và sự phản ứng chế độ đa
thê. Hoạn Thư chính là bản sao có sáng tạo của nhân vật bà Hoạn Quan. Có chăng,
Nguyễn Du muốn san bớt sự tàn bạo ở nhân vật Họan Thư sang Họan Bà?
1-2-6)Nhân
vật Hồ Tôn Hiến:
Trong
các nhân vật xuất hiện, đây là nhân vật có quyền uy cao nhất, nhân vật được đặt
trong thế đối đầu với Từ Hải. Đối với nhân vật này nét vẽ của Nguyễn Du có gì
lạ?
Nghe
càng đắm, ngắm càng say, (2579)
Lạ
thay mặt sắt, cũng ngây vì tình. (2580)
So
với những bức vẽ chân dung nhân vật có lẽ đây là một trong những bức vẽ thành
công và đặc sắc. Đường nét và sắc màu mang nội hàm ý nghĩa rất lớn. Nguyễn Du
rất tinh tế khi thực hiện những nét vẽ về sự thay đổi của từng ánh mắt, độ co
giãn của từng sắc mặt: nghe-đắm, ngắm-say-ngây để làm rõ bản chất háo sắc của
một tên quan lắm quyền. Là một kẻ ”kinh luân gồm tài” từng xông pha trận mạc
vậy mà trước mặt Thúy Kiều hắn đã bị mất phương hướng-tình cảm bị cuốn hút, lý
trí hết hiệu lực và cuối cùng đờ đẫn ngây dại. Nói như Hoài Thanh”Nguyễn Du đã
giết Hồ Tôn Hiến bằng một chữ “ngây” cũng như giết Sở Khanh bằng chữ “lẻn”.
Trong bao nhiêu người mê Kiều, Nguyễn Du đã dành riêng chữ “ngây” cho Hồ Tôn
Hiến”[42,474]
Đặc
biệt, trong bức chân dung về Hồ Tôn Hiến chúng ta còn tìm thấy những bức
tranh nhỏ đặt cạnh nhau, tiếp nối nhau và thậm chí trái ngược nhau” mặt
sắt- ngây”. Cách sắp xếp đó đã góp phần không nhỏ trong việc tô đậm tính cách
nhân vật, tạo ra sự khác biệt trong việc thực hiện các bức chân dung nhân
vật.
Chọn
vẽ Hồ Tôn Hiến vào thời điểm Từ Hải chết trận, Kiều phải dâng rượu hầu đàn,
Nguyễn Du như muốn khẳng định sự đối nghịch về đạo đức: đê hèn, xảo quyệt, vụ
lợi điểu cáng hòan tòan tương phản với cái đẹp của sự hy sinh, lòng trung thực,
sự thuỷ chung. Kiều khuyên Từ ra hàng là xuất phát từ cái đức. Hồ Tôn Hiến lật
lộng đánh lén để chiến thắng và bắt vợ của người chiến bại hầu rượu mua vui là
phi đạo đức. Rõ ràng chất người của Kiều càng cao thì chất người của Hồ Tôn Hiến
càng không có.
Cũng
là bức vẽ về nhân vật Hồ Tôn Hiến nhưng bức vẽ:
Đẩy
xe vâng chỉ đặc sai, (2453)
Tiện
nghi bát tiễu, việc ngoài đổng nhung. (2454)
thì
“người ta thấy hoạ sĩ vẽ bức tranh này là một nhà hoạt hoạ trào phúng đến ghê
gớm! Tiện nghi, bát liễu, việc ngoài, đổng nhung, thanh la, não bạt đập gõ loèng
xoèng, nhưng mi là một tên gian đối…” [92,115].
Hình
ảnh tên quan tổng đốc trọng thần gợi ta nhớ đến ông quan phủ xử kiện Thuý
Kiều:
Trông
lên mặt sắt đen sì, (1409)
Lập
nghiêm trước đã, ra uy nặng lời: (1410)
Cũng
là “mặt sắt” nhưng ông quan xử kiện không có sự biến thái nhanh chóng. Bổ sung
thêm định ngữ ”đen sì”, Nguyễn Du muốn nói đến một ông quan “chính trực và oai
nghiêm”. Nhưng ở ông có sự xen lẫn giữa cái nghiêm minh lạ đời – đánh người tàn
nhẫn và sự cảm thông trước hoàn cảnh, thán phục trước tài năng không được thi
thố của Kiều.
Còn
một tên quan nữa, đó là tên quan “cướp ngày”. Hắn chẳng cần tra khảo mà
chỉ:
Rường
cao rút ngược dây oan, (593)
Dẫu
là đá cũng nát gan lọ người! (594)
“Thần
công lý chỉ dịu cơn thịnh nộ khi nghe thấy có mùi tanh của hơi đồng “Có ba trăm
lạng việc này mới xong ”[49, 371]
1-2-7)
Chân dung bọn sai nha:
Đây
là bọn người tôi tớ tay sai, vũ khí ”pháp luật” của kẻ có quyền. Để cho chúng
xuất hiện, Nguyễn Du như muốn làm rõ thêm sức mạnh vạn năng của đồng tiền, bản
chất của xã hội “Có ba trăm lạng việc này mới xong” hay “Tiền lưng đã sẵn việc
gì chẳng xong”. Đối với bọn sai nha, Nguyễn Du hoạ tác bằng những nét vẽ dị
hợm nửa người nửa ngựa, hành động theo bản năng- chửi, trói, vét với những đồ
nghề chuyên gây án ”thước, đao, già giang ”. Sự xuất hiện của bọn người “Đầu
trâu mặt ngựa ”đã làm cho cái không khí vốn yên bình đầm ấm ngăn nắp của gia
đình Vương Viên Ngoại bỗng trở nên lộn xộn nhốn nháo rối tung. Tương phản với sự
bàng hoàng sửng sốt của cha con Vương Ông là những tiếng la, tiếng chửi, tiếng
đồ đạt bị lật tung và bị vét “ sạch sành sanh ”. Với ba âm thanh ngày càng vang
động dữ dội “xôn xao, ào ào, vang tiếng ”, ba hành động “ào ào như sôi, buộc hai
thân hình, vét cho đầy túi tham”, ba hình ảnh đặc tả ”Nách thước, tay đao, đầu
trâu mặt ngựa”, Nguyễn Du đã lột trần bản chất tàn bạo độc ác, tham lam, hung
hăng, dữ tợn của bọn người bất chấp công lý. Nói như Nguyễn Lộc “Công lý của bọn
chúng là công lý của bọn đầu trộm đuôi cướp”[49, 371]
1-3)Nhân
vật trung tính:
Chân
dung Thúc Sinh:
Xếp
nhân vật Thúc sinh vào loại nào cho đúng? Có thể xem đây là một loại nhân vật
trung tính, một loại người đa tình nhưng bạc nhược, một nhân vật vừa có mặt tốt
vừa mặt chưa tốt. Chính cái mặt tốt và mặt chưa tốt của Thúc Sinh mà chất người
ở nhân vật này thể hiện đậm nhất. Là một người có vợ Thúc Sinh phải làm sao đây
trước một Hoạn Thư con nhà quyền thế? Có lẽ ta cũng không nên đòi hỏi gì hơn ở
nhân vật này.
Trong
tác phẩm Truyện Kiều, tính cách của Thúc Sinh thể hiện ở nhiều tình
huống:
Tiểu
thư vội thét:”Con Hoa! (1843)
Khuyên
chàng chẳng cạn, thì ta có đòn!” (1844)
Sinh
càng nát ruột, tan hồn, (1845)
Chén
mời, phải ngậm bồ hòn, ráo ngay! (1846)
Nhưng
có lẽ chất họa thể hiện rõ nhất về nhân vật này là lúc Thuý Kiều có dịp báo ân
báo oán:
Cho
gươm mời đến Thúc Lang, (2325)
Mặt
như chàm đổ, mình dường dẽ run. (2326)
Với
một sắc màu có pha tạp (xanh pha tím) thể hiện sự biến thái của sắc mặt và một
đường nét run rẩy (dẽ run –một loài chim có mỏ dài, cái đuôi luôn phe
phẩy)
thi hào đã khắc hoạ một tính cách tiêu biểu cho một loại người trong xã hội–
khoác lác nhưng nhu hèn sợ vợ. Đây là một kiểu nhân vật không hoàn toàn trùng
lặp trong tác phẩm. Trước Thúc ông, Thúc Sinh xử sự “như một kẻ ăn vụng bị bắt
quả tang”(Chữ dùng của Lê Đình Kỵ), trước pháp đường Thúc Sinh khóc lóc tự oán
trách mình, trước Thuý Kiều hắn cho Hoạn Thư là người nham hiểm, trước Hoạn Thư
hắn xem Thuý Kiều là người không quen biết. Khi Thuý Kiều “đưa gươm mời đến Thúc
Lang” hắn run lẩy bẩy” nhưng đến khi Thuý Kiều trả ơn hắn “mừng sợ khôn cầm”.
Nhân vật Thúc Sinh là sự tổng hợp giữa ba dòng máu Thúc sinh –Sở Khanh –Kim
Trọng. Lê Đình Kỵ nhận xét thật đúng:”Thúc Sinh cũng có chút máu Kim Trọng trong
người, nhưng sự việc xảy ra sẽ biến dần y thành một tên Sở Khanh không hơn không
kém.”[42,707].
Nói
chung, có bao nhiêu nhân vật là có bấy nhiêu bức vẽ. Nhiều khi chỉ một nhân vật
nhưng lại có nhiều bức vẽ khác nhau, bổ sung cho nhau nhằm hoàn thiện tính cách.
Vẽ chân dung nhân vật, đối với Nguyễn Du không chỉ thông qua sự quan sát, óc
liên tưởng mà còn vẽ bằng cả tâm hồn trái tim. Nhờ vậy, mỗi sắc màu, mỗi đường
nét đều có giá trị ngữ nghĩa sâu sắc. Và đằng sau những bức vẽ, ta như thấy thấp
thoáng số phận và cả một phần đời nhân vật được gởi gắm trong đó.
Đặc
biệt, sự thần tình của Nguyễn Du là đã tạo ra những bức chân dung có sức sống
vĩnh viễn và trở thành những qui ước đánh giá của xã hội. Ông đã sáng tạo ra
“Những con người thực hơn những con người thực” [27,193]. Nhắc đến cái tên Sở
Khanh là ta nghĩ ngay đến một tên lưu manh lừa lọc. Nhắc đến cái tên Tú Bà là ta
nghĩ ngay đến một bà chủ chứa chuyên nghiệp. Nhắc đến cái tên Mã Giám Sinh là ta
nghĩ ngay đến một tên buôn người có cỡ. Và chỉ nghe đến cái tên Hoạn Thư là ta
nghĩ ngay đến kiểu ghen độc đáo có một không hai. Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh
....vốn là những danh từ riêng giờ đây lại trở thành những danh từ chung chỉ
những hạng người trong xã hội. Phải là người có vốn sống phong phú, lượng ngôn
từ đầy ắp, rất am hiểu nghệ thuật hội hoạ, Nguyễn Du mới phác hoạ được những bức
chân dung đa dạng và có sức sống như vậy .
2)
Chất hoạ trong những bức tranh phong cảnh:
Trong
văn chương từ cổ chí kim, những bức tranh phong cảnh dường như không bao giờ
vắng mặt nếu không muốn nói là tràn ngập. Xuất phát từ quan niệm, cách nhìn, mỗi
thời đại có phương thức thể hiện khác nhau. Nếu văn học thời hiện đại ít dùng
tới những hình ảnh ước lệ, đòi hỏi tính đột phá trong sáng tạo của người nghệ sĩ
thì văn học truyền thống lại hay dùng tới những công thức - hình ảnh mang ý
nghĩa tượng trưng, thường tả cảnh xen tình. Đối với Nguyễn Du, mặc dù chưa
thoát khỏi đường ray của thời đại nhưng ông cũng có những bức tranh phá khổ đi
trước thời đại. Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh, tả tình trong thơ Nguyễn Du,
nhà nho Đào Nguyên Phổ trong bài tựa bản Đoạn Trường Tân Thanh năm 1902 có viết:
”Nói tình thì vẽ hình trạng hợp ly tân khổ mà tình không rời cảnh; tả cảnh thì
bầy hết thú vị tuyết nguyệt phong hoa mà cảnh tự vương tình ”, còn Lê Trí Viễn
thì cho rằng :“Cảnh vật dường như một nhân vật luôn luôn có mặt, một nhân vật im
lặng nhưng hiểu thấu tâm trạng con người ….”[27,193).
Xuất
phát từ góc độ chuyên môn, hoạ sĩ Nguyễn Tiến Chung đã cho rằng”Sự tương quan
giữa cảnh trong thơ ông có lúc hoà hợp, uyển chuyển, cũng có khi tương phản
nhau, nhưng cái nọ thường làm nổi bật cái kia, hình này nói hộ hình khác, tất cả
nhằm nói lên một tâm tình. Cách bài trí thiên nhiên trong thơ ông dường như lúc
nào cũng có trọng tâm, có bối cảnh chủ đạo. Hình tượng nào cần làm lộ rõ ông cho
gần lại; hình tượng nào thứ yếu thì đẩy lùi xa và cho mờ nhạt đi, nhưng mọi hình
tượng đều ăn khớp với nhau.”[61,79]
Nghiên
cứu những bức tranh tả cảnh trong Truyện Kiều, ta nhận thấy rằng: khi hoạ những
bức tranh phong cảnh, Nguyễn Du thường vẽ bằng những nét chấm phá ít đi sâu vào
chi tiết. Đặc biệt cảnh vật được miêu tả thường bị chi phối bởi quan niệm nghệ
thuật, cảm quan của con người và thông qua lăng kính nhân vật:
Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu, (1244)
Người
buồn, cảnh có vui đâu bao giờ! (1245)
2-1)
Cảnh xuân, hạ, thu, đông:
Trong
văn học từ xưa đến nay có không ít những bức tranh tuyệt tác về xuân, hạ, thu,
đông-”Xuân hiểu” Trần Nhân Tông, “Mùa xuân chín” Hàn Mặc Tử “Thu vịnh, Thu điếu,
Thu ẩm” Nguyễn Khuyến,”Đây mùa thu tới” Xuân Diệu, “Tiếng thu” Lưu Trọng Lư,
“Vịnh mùa Đông” Nguyễn Công Trứ, “Mùa hạ” Xuân Quỳnh…. nhưng chỉ có Truyện Kiều
bức tranh tứ bình mới được hoàn chỉnh và không kém phần độc đáo.
Cũng
dựa vào qui luật vận hành của thiên nhiên vũ trụ - xuân sinh, hạ trưởng, thu
liễm, đông tàn nhưng Nguyễn Du còn sắp xếp những cảnh này sao cho phù hợp với
những cuộc gặp gỡ, chia tay, tính chất của từng mối tình. Tình yêu Kim- Kiều
chớm nở vào mùa xuân; cuộc chia tay Kiều- Thúc, cuộc bỏ trốn của Thuý Kiều với
Sở Khanh rơi vào mùa thu...
-Mùa
xuân là
mùa của tình yêu, mùa của lễ hội, nó là cái mốc quan trọng trong câu chuyện tình
trai tài gái sắc. Kim, Kiều gặp nhau, Kim Trọng trở lại vườn Thuý, hai bức hoạ
này có gì khác nhau trong những nét vẽ và sắc màu?
Trước
hết là bức hoạ mùa xuân khi hai chị em Thuý Kiều du xuân. Đây là bức hoạ với
những gam màu mát, đường nét mềm mại, đúng theo qui ước của hội hoạ ”màu lạnh
-lam, xanh …thường tạo cảm giác mát mẻ…đường lượn êm dịu tạo cảm giác yên bình
” [11,59]. Cảnh có sắc xanh của cỏ non trải dài như mở ra một không gian vô
tận, có sắc trắng của bông hoa lê điểm xuyết, có sắc vàng dịu nhẹ của ánh nắng
mặt trời vào độ tháng ba tiết thanh minh, có đường nét nhẹ nhàng êm ái của chim
én, có sự vận động khẩn trương của thời gian, có không gian của chiều cao, chiều
rộng và chiều ngang, có cái diện để rõ cái điểm. Bức tranh rất phương Đông thật
thông thoáng, cân đối, hài hòa tươi mát, sống động như chính sự sống động của
tâm hồn, của tuổi xuân hoà hợp với cảnh xuân về:
Ngày
xuân con én đưa thoi , (39)
Thiều
quang chín chục đã ngoài sáu mươi. (40)
Cỏ
non xanh rợn chân trời, (41)
Cành
lê trắng điểm một vài bông hoa. (42)
Khác
với bức tranh xuân dân dã trong thơ Nguyễn Trãi “Độ đầu xuân thảo lục như yên.
Xuân vũ thiêm lai thuỷ phách thiên...”(Trại đầu xuân độ), rất nông thôn trong
thơ Nguyễn Bính ”Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh. Tôi đợi người yêu tới tự tình.
Khỏi luỹ tre làng tôi nhận thấy. Bắt đầu là cái thắt lưng xanh....”(Muà xuân
xanh), rất sống động trong thơ Hàn Mặc Tử ”Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời…”(Mùa
xuân chín), bức tranh xuân trong thơ Nguyễn Du đài các, quí phái hơn. Bởi lẽ
ngoài sắc cỏ, bức tranh còn được điểm xuyết bằng những nét vẽ về bông hoa
trắng trên cành hoa lê. Hai mảng màu xanh trắng tạo nên »sự tương phản thẩm
mỹ rất táo bạo, màu trắng muốt của hoa lê nổi bật»[55, 111]. Không chỉ khác nhau
về tính chất những bức vẽ còn khác nhau về đường nét. Nguyễn Bính nặng về nét
tĩnh; Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử nặng về nét động khẽ khàng êm ái hư thực ; Nguyễn
Trãi lại dùng nét động mạnh mẽ’’ thuỷ phách thiên’’. Ngay cả cái sắc màu của cỏ
cũng khác nhau: xanh nhạt chuyển sang đậm (thơ Nguyễn Trãi), xanh non mơn mởn
trải rộng (thơ Nguyễn Du), xanh tươi sống động (thơ Hàn Mặc Tử), xanh lá cây im
lìm (thơ Nguyễn Bính)
Cũng
là cảnh xuân nhưng cảnh xuân khi Kim Trọng trở lại vườn Thuý được vẽ bằng
những nét vẽ chi tiết hơn. Đó là một cảnh xuân buồn, trống vắng, hoang tàn, tiêu
điều trong một không gian được thu nhỏ :
Đầy
vườn cỏ mọc, lau thưa, (2745)
Song
trăng quạnh quẽ, vách mưa rã rời ; (2746)
Trước
sau nào thấy bóng người, (2747)
Hoa
đào năm ngoái còn cười gío đông, (2748)
Xập
xoè én liệng lầu không, (2749)
Cỏ
lan mắt đất, rêu phong dấu giày (2750).
Nơi
đây không còn sự sống của con người, mọi vật đều thay đổi, chỉ duy có hình ảnh
sắc màu của hoa đào là không thay đổi. Hoa đào tượng trưng cho mùa xuân, mùa
xuân lại tượng trưng cho tình yêu. Tình yêu dù chỉ còn là hoài niệm nhưng nó vẫn
mãi mãi rực rỡ như cánh hoa đào lúc độ xuân về. Hình ảnh‘’hoa đào’’ được Nguyễn
Du mượn từ ý thơ của Thôi Hộ :‘’Nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa y cựu tiếu
đông phong’’(Mặt người chẳng biết đi đâu mất, Hoa đào vẫn như cũ, vẫn cười với
gió đông) và đặt thật đúng chỗ ‘’Cái có đột đến giữa cái không như một cứu cánh,
một điểm tựa của tâm linh. Nó như một an ủi, vỗ về làm dịu lại nỗi đau của con
người cùng một lúc đã mất đi quá nhiều những gì vô giá’’[21,213]. Hình ảnh hoa
đào đã trở thành dấu gạch nối trong hai mảng của một bức tranh- mảng bức tranh
chỉ toàn là hình ảnh của sự vật và mảng bức tranh đã có dấu vết con người. Trong
một bức tranh với nhiều loại sắc màu sắc màu- xanh, vàng, hồng, trong đó màu
hồng của hoa đào đã trở thành màu nổi bật. Sắc màu hồng rực rỡ xuất hiện trong
gam màu nhàn nhạt, trong khung cảnh hoang tàn còn là cái nghịch lý trớ trêu, một
sự bơ vơ lạc lõng.
Ngoài
việc tạo ra sự tương phản ngầm ẩn bức tranh hôm nay gợi nhớ bức tranh năm xưa,
Nguyễn Du còn chủ đích bài trí những hình ảnh lộn xộn, chẳng có trình
tự :‘’cỏ mọc, lau thưa, song trăng quạnh quẽ, vách rã rời, gió, mưa, én, lầu
không, rêu phong’’ trong mọi không gian trước- sau, cao- thấp, trong- ngoài,
trên- dưới. Tất cả nương tựa vào nhau bổ sung cho nhau về mặt ý nghĩa. Đó là
sự xuống cấp của sự sống, sự phát triển tự do của thiên nhiên và tâm trạng đầy
bi kịch của một con người.
Trong
bức tranh này, Nguyễn Du đã dùng đến nhiều loại đường nét- đường nét xiêu quẹo,
ngả nghiêng (vách mưa rã rời) ; đường nét thể hiện sự vươn lên một cách tự do,
cao thấp không hài hoà (cỏ, lau, rêu) ; đường nét thể hiện sự vận động theo
chiều ngang hoặc lên xuống (én liệng ) và cả những đường nét mờ nhạt (rêu phong
dấu giày). Nó như những mảnh vụn bày ra bừa bãi không ai chăm sóc tỉa
tót.
-Mùa
thu:
Không
đi chệch với qui ước của người phương Đông, mùa thu trong thơ Nguyễn Du cũng
buồn, gợi nhớ nhung thương cảm, tiễn biệt, chia ly. Những Môtif ‘’cúc vàng, giậu
thu, sen tàn, lá ngô đồng, rừng phong thu được sử dụng nhiều. Lê Thu Yến trong
bài nghiên cứu về thơ thu Nguyễn Du có kết luận :”Trong Truyện Kiều, mùa thu
được miêu tả với nhiều sắc màu tương hợp đa dạng. Có vui, có buồn, có xinh đẹp
có tàn phai …với trời mây cao vời vợi, đáy nước long lanh, lá ngô giếng vàng,
sân ngô cành biếc, lá phong nhuộm hồng ...”[25, 214].
Nguyễn
Du hoạ tác nhiều những bức tranh mùa thu trong phần Thuý Kiều gặp gỡ Thúc Sinh,
Sở Khanh, những mối tình mang tính tạm bợ.
Khảo
sát toàn bộ tác phẩm, ta thấy mùa thu trong thơ ông mang nhiều ý
nghĩa:
-
Trong thơ Nguyễn Du, mùa thu được dùng để định vị khoảng thời gian trôi chảy
hoặc thời gian có sự xuất hiện của nhân vật - lúc xác định, lúc không xác
định :
Nửa
năm hơi tiếng vừa quen, (1385)
Sân
ngô cành biếc đã chen lá vàng. (1386)
Giậu
thu vừa nảy giò sương, (1387)
Gối
yên đã thấy xuân đường đến nơi, (1388)
-
Thú quê thuần hức, bén mùi, (1593)
Giếng
vàng đã rụng một vài lá ngô . (1594)
Sen
tàn, cúc lại nở hoa, (1796)
-
Mùa thu không chỉ buồn, mùa thu còn góp phần tạo vẻ đẹp cho cảnh trời nước mênh
mông hư ảo:
Long
lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng. (1604)
-
Mùa thu mùa của sự chia tay và tiễn biệt:
Người
lên ngựa, kẻ chia bào, (1519)
Rừng
phong, thu đã nhuộm màu quan san. (1520)
Cái
không gian thực nơi chia tay và cái không gian nội tâm như hoà trộn trong một
bức tranh thu đặc biệt. Bức tranh có gam màu đỏ trong vàng thê lương tê tái,
có một sự chuyển màu rất kì diệu thần tình - xanh xuân, vàng hạ, vàng đậm, đỏ
sẫm khi rừng phong vào thu. Trong đôi mắt dõi theo của nhà thơ, con người
như nhạt nhoà nhỏ bé mờ ảo gần như mất hút trong khung cảnh rừng phong nhuộm sắc
như đang mở rộng đến vô cùng. Không gian cách trở như ngày càng xa dần, từ cái
khoảng cách –người lên ngựa và kẻ chia bào chuyển thành rừng phong tràn ngập lá
đỏ và nhuốm sắc vàng của trăng, cái bạt ngàn của rừng dâu. Có chăng đây còn là
sự chuyển biến trong tình cảm –vui đến buồn, chung đôi và xa cách lẻ loi? Hình
ảnh rừng phong chuyển sắc cũng được Nguyễn Du nói nhiều trong thơ chữ Hán:“Bán
tại giang đầu phong thụ lâm”(Thấy một nửa sắc thu ở tại rừng phong đầu sông)(
Tạp ngâm III) hay ”Phong thụ lâm trung diệp loạn phi”(Khí thu đầy rừng phong,
sương nhuộm đỏ lá cây)(Tân thu ngẫu hứng) ”Thu lai thuỳ nhiễm phong lâm
thuý”(Trong rừng phong lá thu bay loạn xạ)(Tổ sơn đạo trung). Nhưng đó chỉ là
những xúc cảm vô hạn của Nguyễn Du trước những nét gợi cảm của một loài cây tiêu
biểu cho mùa thu.
Cái
màu quan san là màu gì nhỉ ? Phải chăng đó là màu chia ly xa xôi cách trở, buồn
hiu hắt và tê tái, màu của nội tâm đầy âu lo trước một hiện thực mông lung,
tương lai mờ mịt. Nói đúng hơn đây là cái màu không có thực nhưng tồn tại trong
tâm linh nàng Kiều. Levitan cũng có một bức hoạ nổi tiếng về mùa thu vàng. Đó
là bức tranh về màu thu đẹp buồn nhưng không gây ấn tượng cách trở chia ly. Nhận
xét về chất hoạ trong bốn câu thơ tả cảnh Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều, Trần Đăng
Xuyền có viết: ’’Cảnh chia tay được dựng lên bằng bút pháp hội hoạ: Không có âm
thanh, chỉ có hình, có sắc. Không gian được sắp xếp theo thứ tự từ gần đến xa,
mỗi lúc một thêm mênh mông rộng lớn gợi lên khoảng cách ngày càng xa dần của
người đi kẻ ở. Ba câu thơ gợi lên ba sắc màu: Màu đỏ sẫm của rừng phong vào thu,
màu hồng của các bụi đường trường, màu xanh ngăn ngắt của ngàn
dâu’’[46,19]
-
Không gian vắng lặng thê lương khuya khoắt cũng là không gian nội tâm trống vắng
buồn đến nao lòng khi một mình một bóng ngồi chép kinh:
Sân
thu trăng đã vài phen đứng đầu. (1934)
-
Khung cảnh Kiều và Sở Khanh đi trốn càng rùng rợn và vắng lặng hơn. Sắc màu nhợt
nhạt khói sương làm Kiều lo sợ và như linh cảm được nỗi đau thân phận, tai hoạ
đang rình rập:
Đêm
thu khắc lậu canh tàn, (1119)
Gió
cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương. (1120)
Lối
mòn cỏ nhợt màu sương, (1121)
Lòng
quê đi một bước đường một đau. (1122)
Trong
toàn bộ bức tranh thu sắc vàng là sắc màu chủ đạo – vàng ngô, vàng
cúc, vàng sen, vàng rừng, vàng trăng, vàng đỏ của rừng phong. Những bức
tranh có ngày có đêm, có sớm có khuya, có không gian mênh mông cách trở, có gió
mùa thu dìu dịu, có trăng mùa thu lúc khuyết lúc tròn, lúc thẳng đứng, lúc chênh
chếch, có nước mùa thu êm ả, sáng trong. Tất cả đều buồn mong manh như dự báo
một sự rạn vỡ chia lìa, cách trở ”màu quan san, nửa vành trăng khuyết, thành xây
khói biếc”.
Trong
những bức tranh thu đó có bức tranh trở thành tuyệt tác về mùa thu, rất gần với
những bức tranh sơn thuỷ Đường Tống. Nếu nhìn ở góc độ hội hoạ có thể xếp bức
tranh này vào nhóm tranh thuộc trường phái ấn tượng:
Long
lanh đáy nước in trời, (1603)
Thành
xây khói biếc, non phơi bóng vàng . (1604)
Bức
tranh được thêu dệt bằng trí tưởng tượng tuyệt vời, mang nét đẹp vừa thực vừa
hư. Khung trời rộng lớn lại ở trong khung nước, xanh trời hoà cùng sắc xanh của
nước, xanh núi được rải sắc vàng của ánh nắng mặt trời. Giữa hai khoảng không
cao thấp là những hình khối khác nhau được kiến thiết bằng chất liệu mong manh
của khói. Có thể nói, ánh sáng, màu sắc, hình khối, hư và thực như hoà
trộn vào nhau tạo nên một bức tranh thu vượt khỏi cái khuôn ước lệ vốn có trong
văn học cổ điển. Ngôn từ đã hoá thân thành hình tượng, câu thơ trải ra thành
bức tranh, thi phẩm đã thăng hoa thành hoạ phẩm.
”Thơ
thu Nguyễn Du không đạt đến cái trong veo vô tâm, vô sự như ba bài thơ thu của
Nguyễn Khuyến, cũng không ngơ ngác mơ màng như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, càng
không yên ả thanh bình, râm mát như chiều thu của Nguyễn Bính...mà đặc quánh
những tủi buồn, vất vả, đắng cay của cuộc sống đời thường....”[25,
218].
Nhìn
chung, mùa xuân và mùa thu là hai mùa được thi hào hoạ tác nhiều nhất, bởi lẽ nó
là mùa tình yêu- mùa tiễn biệt. Đó là hai cái mốc về hai cuộc tình của nàng
Kiều-cuộc tình thơ và cuộc tình hờ, cuộc tình say đắm và cuộc tình lẩn trốn khổ
ải.
(Còn
nữa)
|
TRẦN ĐÌNH KHIÊM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001