Ngô Bắc dịch và phụ chú
Trích từ Gió-O
Trích từ Gió-O
Todd
MacEgan West chiếu rọi ánh sáng mới trên Cuộc Xung Đột Trung – Việt
1979 bằng việc tập chú vào lý thuyết triển vọng (prospect theory), một
phương thức mới để tìm hiểu việc cấu tạo quyết định dưới tình trạng hiểm
nghèo, trong vấn đề giải thích quyết định của Trung Quốc nhằm tấn công
Việt Nam. Quyết định này ít có ý nghĩa theo lý thuyết sự lựa chọn hữu
lý (rational-choice theory), dựa nghiêm ngặt trên các sự tinh toán
lợi-hại ước định. Lý thuyết triển vọng làm phát sinh nhiều hàm ý khác
biệt cho sự phân tích sự ngăn cấm quân sự và một sự tường thuật mạch lạc
hơn sự dẫn dắt đến cuộc xung đột.
Rạng
sáng ngày 17 Tháng Hai 1979, Trung Quốc tấn công Việt Nam. Trong gần
một tháng, các đội quân Trung Quốc và Việt Nam đã cấu xé nhau dữ dội dọc
theo vùng biên giới Hoa – Việt trong trận được xem là một trong các
cuộc tranh chấp chí tử nhất giữa hai nước cộng sản được nghĩ là “anh em”
trong lịch sử. Khá kỳ quặc các quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam
thì thân thiện cho đến 1965. Tuy thế, từ 1965 đến 1979, Việt Nam đã
theo đuổi một nền ngoại giao mới thân Sô Viết, mà Trung Quốc cảm thấy
các quyền lợi của nó bị đe dọa. Mặc dù Trung Quốc nhiều lần biểu lộ sự
không hài lòng dâng cao của nó đối với Việt Nam về nguyên trạng đang
thay đổi, nó đã không thực hiện các bước tiến tranh đấu trong hơn một
thập niên, sự kiềm chế của Trung Quốc sau cùng đã bị đổ gãy vào cuối năm
1978 khi Việt Nam gia nhập với Sô Viết vào một liên minh an ninh
chung. Cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam hồi Tháng Hai 1979,
tuy nhiên, đã không nhất quán với các mô hình ngăn cấm hữu lý: nó đã xảy
ra tại một điểm khi mà các xác xuất cho một sự chiến thắng hay ngay cả
cho một lợi điểm đáng kể trong trường hợp có một sự thất trận thì quá
thấp cho bất kỳ một sự phân tích lợi/hại “hữu lý” nào để biện minh cho
nó. Ngược lại, quyết định của Trung Quốc để tấn công xem ra phù hợp với
lý thuyết triển vọng (prospect theory), dùng giải thích cho các sự lựa
chọn chính sách ngoại giao liên can đến các lợi điểm và các sự tổn thất
dựa trên khung cảnh.
Cuộc nghiên cứu này bắt đầu với việc duyệt xét lại các tín lý của lý
thuyết triển vọng đối diện với sự ngăn cấm nới rộng. Kế đến, tôi trình
bày khung cảnh lịch sử của cuộc xung đột Trung – Việt năm 1979. Một sự
duyệt xét lịch sử thì quan yếu cho cuộc nghiên cứu, không chỉ bởi nó làm
gia tăng sự trong sáng của việc phân tích, mà còn bởi giới độc giả phổ
thông có thể không quen thuộc với tin tức căn bản cần thiết cho việc
hiểu biết các quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. 1 Tôi đã lựa
chọn các khía cạnh thực nghiệm của phần thứ ba dựa trên bằng chứng từ
các cuộc phỏng vấn và sưu tầm tại Trung Quốc và Hoa Kỳ. Sau đó, bài
viết này phân tích cuộc xung đột Trung – Việt 1979 xuyên qua các sự tiên
đoán lý thuyết của lý thuyết triển vọng và cung cấp một sự thảo luận về
các điều khám phá trước khi đưa ra một vài nhận xét để kết luận.
Lý Thuyết Triển Vọng
Lý
thuyết triển vọng xuất hiện như một sự thay thế cho sự lựa chọn hữu lý
trong đó nó đóng khung về mặt khái niệm các kiểu mẫu nhận thức của các
tác nhân thực sự hơn là các sự tính toán lợi/hại nghiêm ngặt. Điểm then
chốt của lý thuyết triển vọng được phát hiện trong sự quan sát rằng có
một trị giá hao mòn đối với các lợi lộc lên cao một cách liên tục. Trị
giá chủ quan của một khoản lợi “$1,000 được đánh giá cao hơn nhiều so
với cùng $1,000 khi được cộng vào một khoản lợi khởi thủy $10,000”. 2 Cũng
có thể nói như thế đối với các sự lỗ lã khiến cho sự khác biệt giữa một
khoản lỗ $10,000 và $10,100 thì ít có ý nghĩa hơn giữa một khoản lỗ
$1,000 và $1,100. Sự khác biệt chính yếu giữa lý thuyết triển vọng và
sự lựa chọn hữu lý được tìm thấy nơi sự giải thích các phản ứng đối với
các sự lợi lộc và các sự tổn thất. Theo sự lựa chọn hữu lý, các quốc
gia ước lượng tầm mức theo đó một kết quả chung cuộc đáng được mong ước
cùng với tình trạng tích sản thuần (hay tịnh) của nó. Ngược lại, lý
thuyết triển vọng được đặt trên tiền đề rằng các quốc gia lượng giá tính
đáng mong ước của các kết quả chung cuộc theo một định hướng
(orientation) về các khoản lợi và lỗ được đo lường trên một điểm tham
chiếu trung tính. 3 Hơn nữa, các điểm thắng lợi được cảm nhận
ít tốt hơn nhiều các khoản tổn thất bị cảm thấy tệ hại, đến nỗi sự rung
động của một thắng lợi ít mãnh liệt hơn nỗi đau đớn của một sự tổn
thất. 4
Lý thuyết triển vọng có hai hàm ý quan trọng cho các cuộc nghiên cứu về
sự ngăn cấm quân sự. Thứ nhất là điều mà nhiều người nói đến như hiệu
ứng đóng khung theo đó các sự lượng giá do nhà nước thúc đẩy về tính
đáng mong ước của nguyên trạng (status quo) như một
thành tố trung tâm trong động thái ngăn cấm. Nếu một quốc gia xét thấy
nguyên trạng khả dĩ chấp nhận được, và nó biết rằng một hành động tấn
công về phần nó liên can đến các thắng lợi nhiều hơn nữa nhưng có một số
xác xuất bị thua lỗ, quốc gia đó được xem là có một định hướng tích
cực. Trong một định hướng tích cực, lý thuyết triển vọng tiên đoán rằng
các quốc gia sẽ ưa thích sự an ninh của nguyên trạng hơn là sự bất an
của một rủi ro bị mất mát. Ngược lại, nếu một quốc gia xét thấy nguyên
trạng là không thể chấp nhận được, và có một cơ hội để cải thiển vị thế
tương đối của nó qua một cuộc tấn công, nó được xem có định hướng tiêu
cực. Lý thuyết triển vọng đặt định rằng các quốc gia ở vào các đính
hướng tiêu cực có khuynh hướng chấp nhận rủi ro, và như thế, nghiêng về
việc thực hiện các hành động tạo thuận lợi cho sự trở về một vị thế khả
dĩ chấp nhận được trong nguyên trạng. Hàm ý thứ nhì là khái niệm chán
ghét (aversion) sự tổn thất. Trong thực chất, sự chán ghét thua lỗ ám
chỉ rằng các quốc gia “sẽ hành động một cách táo tợn hơn để né tránh một
sự thua lỗ hơn là đề giành đoạt một thắng lợi tương đương, và sẽ theo
đuổi sự né tránh thua lỗ vượt quá một sự kỳ vọng hữu lý về các lợi lộc”.
5 Kết cuộc cho sự ngăn cấm là các sự đe dọa khả tín, hơn là
việc thi hành việc ngăn cấm một quốc gia mục tiêu khỏi việc tấn công, có
thể thực sự đẩy nó vào trong một định hướng tiêu cực. Nếu điều này xảy
ra, quốc gia mục tiêu này, ở vào một định hướng tiêu cực, rất có thể
tấn công từ ý niệm rằng nó đang ở vào một vị thế không thể chấp nhận
được trong nguyên trạng.
Một sự kết hợp các khuôn khổ khái niệm riêng rẽ của hiệu ứng đóng khung
và các công tác ngăn ngừa tổn thất để tạo ra một luận đề hai phần tổng
quát cho sự ngăn cấm: một cách xác thực hơn, sự ngăn cấm dễ có hiệu quả
hơn vào những thời điểm khi mà mỗi một trong hai quốc gia đồng thời ở
vào một định hướng tích cực, và sự ngăn cấm ít có khả năng trở nên hữu
hiệu khi một hay cả hai quốc gia ở vào một định hướng tiêu cực. Với
điều kiện rằng có một số cơ may gây ra tổn thất, một quốc gia trong một
định hướng tích cực sẽ không tìm cách làm đảo lộn nguyên trạng ngay dù
sự hữu dụng ước định của một cuộc công kích có tính chất tấn công thì
lớn hơn sự hữu dụng ước định của việc duy trì tình trạng hiện thời.
Ngược lại, khi ở vào một định hướng tiêu cực, có thể không có mức độ đòn
bẩy quân sự nào lớn đủ ngăn cấm một quốc gia không được tấn công dự
liệu rằng cuộc tấn công liên can đến một số triển vọng cho một sự trở
lại trạng thái bình thường trong nguyên trạng.
Lý Thuyết Triển Vọng và Sự Ngăn Cấm Nới Rộng
Sự ngăn cấm nới rộng chỉ một tình trạng trong đó một quốc gia hứa hẹn
phòng vệ một nước khác chống lại sự tấn công của bên ngoài. Hiệp ước an
ninh giữa Mỹ và Nam Hàn là một trường hợp nói đến. Như đúng theo lý
thuyết triển vọng, sự ngăn cấm nới rộng sẽ có hiệu năng hơn nếu tất cả
các quốc gia can hệ đều ở vào các định hướng tích cực. Một khi định
hướng của bất kỳ quốc gia mục tiêu nào của một hiệp ước an ninh trở
thành tiêu cực, quốc gia đó sẽ ngày càng giảm bớt sự né tránh rủi ro.
Hơn nữa, chính ở vào một thời điểm như thế mà một hiệp ước an ninh trở
nên bất ổn định.
Trong một sự sắp xếp an ninh nới rộng, các nước bảo trợ nỗ lực củng cố
sự ủng hộ của chúng cho nước chư hầu xuyên qua các cam kết công khai quả
quyết. Quốc gia bảo trợ thường tuyên bố rằng sự bảo vệ an ninh của
quốc gia chư hầu thì quan trọng đối với cả hai nước, và tính nghiêm
trọng của quyết tâm thường được biểu lộ xuyên qua sự bố trí đáng kể các
lực lượng vũ trang trên diện địa. Quân đội Mỹ tại đảo Okinawa là một
thí dụ.
Mục đích của một liên minh an ninh là để ngăn cấm các sự xâm lược ngoại
lai; tuy nhiên một liên minh như thế có thể lại xô đẩy quốc gia mục tiêu
vào một định hướng tiêu cực. Đối với quốc gia mục tiêu, sự ủng hộ cho
một đối thủ có nghĩa một mối rủi ro an ninh lớn hơn. Theo lý thuyết
triển vọng, nếu một quốc gia mục tiêu tiến tới việc tin tưởng rằng nền
an ninh của nó dưới nguyên trạng đang lâm nguy, nó sẽ tấn công quốc gia
chư hầu bất kể các bất trắc. Các sự thất bại của sự ngăn cấm mở rộng
tại Bosnia, Kosovo, và Iraq là các thí dụ tốt để viện dẫn. 6
Khung Cảnh Lịch Sử
Có thể
tin rằng biến cố nổi bật và bất ngờ nhất trong chính trị Viễn Đông sau
cuộc chiến tranh do Mỹ cầm đầu tại Việt Nam (1957-1975) chính là cuộc
xung đột Trung Việt năm 1979. “Chưa từng có về mặt quy mô và các số tổn
thất, cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt ngắn ngủi năm 1979 là cuộc
xung đột quân sự đẫm máu nhất trong “thế giới cộng sản ‘anh em’”. 7 Theo
như phía Trung Quốc, cuộc tấn công vào Việt Nam năm 1979 bị gây ra bởi
các vụ chiếm đoạt đất đai bất hợp pháp của Việt Nam vào lãnh thổ Trung
Quốc theo một chiến lược thu hồi đất bị cưỡng chiếm (strategy of
revanche). 8 Rõ ràng, “từ 25 Tháng Tám đến 15 Tháng Mười Hai
1978, Việt Nam đã phái một tổng số 2,000 nhân viên vũ trang xâm nhập hơn
100 khu vực thuộc vùng Quảng Tây của Trung Quốc, xúi giục 200 vụ đụng
độ ở biên giới – 100 vụ tại khu vực Hữu nghị Quan không thôi”. 9
Tuy nhiên, các chất xúc tác thực sự lại can hệ hơn nhiều. Thí dụ, lịch
sử cổ xưa và các sự vướng mắc chủng tộc đều có đóng giữ một vai trò.
Song, chính các biến cố địa chính trị rộng lớn hơn đã thực sự kích động
Trung Quốc. Vào năm 1978, Việt Nam đã kết thúc vài hiệp ước với Sô
Viết, tất cả chúng đều đã đe dọa đến bá quyền Trung Quốc tại vùng Đông Á
cộng sản. Phản ứng lại, Trung Quốc đã tấn công Việt Nam hôm 17 Tháng
Hai, 1979.
Liên Minh Sô Viết – Việt Nam
Trong nửa đầu của thế kỷ thứ 20, phe cộng sản Việt Nam đánh nhau chống
lại phe đế quốc ngoại lai là do nguồn hứng khởi của họ từ phong trào xã
hội chủ nghĩa toàn thế giới đang lớn mạnh. 10 Trong năm 1946,
họ đã chinh phục phần lãnh thổ đáng kể nằm phía trên vĩ tuyến thứ 17,
lằn ranh thực tế phân chia Việt Nam thành hai vùng bắc (cộng sản) và
nam (tư bản). Miền bắc đặt thủ đô tại Hà Nội trong khi miền nam được
cai trị từ Sàigòn. Trong năm 1957, du kích quân cộng sản từ miền Bắc
khởi sự phóng ra các cuộc tấn công vào các làng xã miền nam. Các vụ
chạm súng nhỏ sau hết hợp thành cuộc nội chiến toàn diện. Trung Quốc,
dĩ nhiên, ủng hộ phe công sản. 11
Trong thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, các quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam chặt chẽ một cách hợp lý. 12
Để an tâm, vào ngày 6 Tháng Hai 1950, Trung Quốc và Bắc Việt Nam đã
thành lập liên minh Trung Quốc – Việt Nam theo đó cả hai dân tộc đều sẽ
theo đuổi hai nguyên tắc tổng quát: cổ vũ tình hữu nghị chân thật giữa
chính họ và tạo ra một khối địa chính trị để phòng thủ chống lại các đe
dọa của phe đế quốc. Hơn nữa, liên minh Trung – Việt năm 1950 chỉ là
văn kiện đầu tiên của một lố các hiệp ước mà Bắc Kinh và Hà Nội đã ký
kết giữa các năm 1950 và 1965.
Trong khi Trung Quốc và Việt Nam chắc chắn đã có các quan hệ chính thức
tốt đẹp cho đến năm 1965, sự hợp tác không chính thức cũng nẩy nở giữa
chúng. Trong thực tế, Bắc Kinh đã ủng hộ một cách vững chắc Hà Nội
trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nó vượt quá những gì
mà các hiệp ước chính thức yêu cầu. Thí dụ, trong suốt cuộc chiến tranh
do Mỹ cầm đầu tại Việt Nam (1957-1975), Trung Quốc còn đi xa tới mức độ
cung cấp cho Bắc Việt quân dụng và nơi chốn để chứa chấp bộ đội trên
lãnh thổ Trung Quốc:
Vào cuối năm 1949, các triển vọng của Việt Minh [tức Bắc Việt] đã thay
đổi một cách quyết liệt khi phe Cộng Sản giành thắng quyền kiểm soát tại
Trung Quốc … Biên giới dài giữa Trung Quốc – Việt Nam cho phép Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Quốc (CHNDTQ) tiếp tế cho Việt Minh các vũ khí và trang
thiết bị và cung cấp các cố vấn và nhân viên kỹ thuật cũng như các nơi
ẩn náu nơi mà Việt Minh có thể huấn luyện và bổ sung quân số của nó.
Vào ngày 18 Tháng Một 1950, CHNDTQ chính thức thừa nhận VNDCCH (Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa) và đã đồng ý cung cấp cho nó sự trợ giúp quân sự …
Vào cuối năm 1952, hơn 40,000 bính lính tuyển mộ và 10,000 sĩ quan [Bắc
Việt] đã được huấn luyện tại Trung Quốc. Các vũ khí cũng được cung ứng
từ các kho dự trữ vũ khí quan trọng kể cả đại pháo mà Hoa Kỳ đã cung cấp
cho phe Quốc Dân Đảng Trung Hoa. 13
Sự Sụp Đổ Của Liên Minh Trung Quốc – Việt Nam
Sự sụp đổ của liên minh Trung Quốc – Việt Nam có thể được quy cho năm
tình trạng riêng rẽ nhưng có liên hệ: sự thù nghịch cổ xưa, chủ trương
đòi thu hồi đất đai vốn đã sở hữu theo truyền thống lịch sử
(irredentism), Đông Dương, sự xung đột chủng tộc và các quan hệ Sô Viết –
Việt Nam. Trong khi Hà Nội đã hợp tác một cách tích cực với Bắc Kinh
trong hơn một thập niên, vào năm 1965 nó đã khởi sự xây dựng một loại
chính trị mới đơn phương chống lại Trung Quốc. Một cách tự nhiên, phía
Trung Quốc không ưa thích nhãn quan mới tại Việt Nam và đã cố gắng để
thay đổi nó. Việc nắm giữ Việt Nam đứng về phía mình nằm trong các
quyền lợi chính trị của Trung Quốc. Tuy nhiên, trong mười ba năm kế
tiếp, liên minh Trung Quốc – Việt Nam sẽ làm suy đồi cảm tính từ sự ân
cần xuống thành ác cảm. Tồi tệ đến nỗi khi liên minh xấu hơn, cả hai
bên sau cùng đã vận dụng đến sự xung đột vũ trang để giải quyết các sự
khác biệt của họ.
Sự Thù Nghịch Cổ Xưa:
các quan hệ chính trị Trung Quốc – Việt Nam trở lùi mãi đến hai nghìn
năm với các cuộc xâm lăng, chiếm đóng nhiều lần của Trung Quốc và các sự
đáp trả của Việt Nam xác định cho hai thiên niên kỷ. 14
Khuôn mẫu lịch sử này không phải là chuyện ngẫu nhiên. Trung Hoa Đế
Quốc đã nhìn sự thống trị Việt Nam như một phần chủ yếu trong đại chiến
lược của họ nhằm bảo vệ an ninh của Trung Hoa chống lại các sự xâm lấn
ngoại lai (dân man rợ) từ phương nam. Hơn nữa, như lịch sử Trung Hoa
cho thấy, chiến lược này không phải là một nỗ lực hoang phí về mặt chiến
lược. Các cuộc xâm lăng ngoại lai từ phương bắc và phương nam của
Trung Quốc đã thường xuyên đặt ra một mối đe dọa cho chủ quyền Trung
Hoa, và trong một vài trường hợp, đã thực sự đưa đến sự thống trị của
dân man rợ. Phía Trung Quốc đã tìm cách để mãi mãi duy trì một lớp các
nước trái độn chung quanh họ nhằm bảo vệ chống lại sự xâm lăng từ bên
ngoài. Ngoài ra, bằng việc bắt các quốc gia triều cống phải nạp các
khoản của cải lớn lao cho các hoàng đế Trung Hoa từng chập, phía Trung
Quốc đã có thể liên tục bổ sung công khố Hoàng Triều cho các dự án quốc
gia chẳng hạn như các chi tiêu quân sự. Hậu quả, trong nhiều thế kỷ,
Việt Nam bị buộc phải triều cống cho Vương Quốc Trung Tâm hùng mạnh, nếu
không sẽ phải đối diện với sự xâm lăng và chiếm đóng trực tiếp.
Trong khi phía Việt Nam theo truyền thông “tán thưởng, ngưỡng mộ và tiếp
nhận văn hóa Trung Hoa, họ đã khinh miệt, sợ hãi và cụ tuyệt sự thống
trị chính trị của Trung Hoa”. 15 Chắc chắn, “một số trong
các thần thoại Việt Nam vĩ đại nhất đã được thêu dệt quanh các kỳ công
của các vị anh hùng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống lại Trung Quốc”. 16 Cuộc nổi dậy lừng danh của hai chị em bà Trưng là một trường hợp thích ứng. 17
Ngay sau khi Việt Nam đánh bại Trung Hoa tại trận chiến trên sông Bạch
Đằng để giành thắng nền độc lập trong năm 938 Sau Công Nguyên, sự giao
tranh dữ dội vẫn tiếp tục từng hồi. Các thí dụ bao gồm các cuộc chiến
tranh chống lại các lực lượng Mông Cổ (1285), nhà Minh (1428), và nhà
Thanh (1789). 18
Tóm tắt, lịch sử các quan hệ Trung – Việt là một cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa dân tộc và đại chiến lược. Kết quả, nhiều người Việt Nam không
tin tưởng và tức tối Trung Quốc. Như thế, trong khi phía Việt Nam đã
xác định về mặt lịch sử dân tộc họ như “một chi nhánh văn hóa của Trung
Hoa”, sự bất mãn di truyền từ “sự đô hộ của Trung Hoa trong nhiều thế
kỷ” đã tác động để kích thích “một chủ nghĩa dân tộc tranh đấu chống lại
bất kỳ sự cai trị ngoại lai náo trong đầu óc của nhiều người Việt Nam. 19
Khi đó, không có gì đáng ngạc nhiên rằng Hà Nội đã hướng đến sự trợ
giúp của Sô Viết để cân đối ảnh huởng gia tăng của Trung Quốc tại Đông
Nam Á sau năm 1965.
Chủ Nghĩa Thu Hồi Đất Đai Cổ Truyền (Irredentism):
Bất kỳ nỗ lực hiện đại nào để phân định một cách xác quyết biên giới
trên đất liền phân cách Trung Quốc và Việt Nam thì đầy dẫy sự chủ quan. 20
Đất đai trên cả hai bên biên giới về mặt chính trị được kiểm soát bởi
bên này hay bên kia vào lúc này hay lúc kia. Chắc chắn, miền bắc Việt
Nam trong thực tế là một phần của Trung Hoa Đế Quốc cho đến năm 948 [?
938] Sau Công Nguyên. Hơn nữa, ít có sự phù hợp hiện diện trong các
tài liệu lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc. Chính vì thế, việc xác
định quốc gia nào có quyền ‘tự nhiên” đối với lãnh thổ tranh chấp thì
khó khăn một cách khác thường.
Trong Tháng Tư 1975, các lực lượng cộng sản đã tái thống nhất bắc và nam
Việt Nam. Hà Nội vẫn là thủ đô. Bước tiến tiên khởi của tân chính phủ
thống nhất là tái khẳng định các xác quyền lịch sử chắc chắn trên Quần
Đảo Trường Sa tại Biển Nam Hải. 21 Theo Hà Nội, Quần Đảo
Spratly (Trường Sa theo tiếng Việt) là bộ phận hợp pháp của Việt Nam với
sự kiện rằng các đảo này đã được sáp nhập một cách chính thức vào Đế
Quốc An Nam (Việt Nam) gần 200 năm trước. Rõ ràng, năm 1815, Vua Gia
Long của An Nam đã phái một đoàn hải chinh đi vẽ các hải trình tại Biển
Nam Hải, và ở vài thời điểm nào đó trong cuộc viễn chinh, các thủy thủ
liên hệ đã chiếm đóng và đặt định Trường Sa thuộc An Nam. Dĩ nhiên,
phía Trung Quốc hoàn toàn phản đối và nghi ngờ sự giải bày của Hà Nội về
lịch sử Trường Sa, tuyên bố rằng “Quần Đảo Trường Sa đã là lãnh thổ của
Trung Quốc từ cổ đại”. 22 Trung Quốc khẳng quyết rằng các
đảo này đã không chỉ được khám phá bởi các nhà hải hành Trung Hoa, mà đã
thuộc quyền kiểm soát của Trung Hoa Đế Quốc từ thời nhà Minh
(1368-1644). Tuy nhiên, phía Việt Nam vừa mới đánh bại hai quyền lực đế
quốc. Liệu Trung Quốc có thể đưa ra sự đe dọa tương tự nào chăng?
Chính vì thế, các nhà lãnh đạo quân sự tại Việt Nam đã đồng ý rằng thời
cơ đã đến để khôi phục các thẩm quyền lãnh thổ có tầm quan trọng về mặt
lịch sử và chiến lược.
Đông Dương:
Đông Dương là một từ ngữ địa chính trị để chỉ một khu vực ngày nay bao
gồm ba nước có chủ quyền: Căm Bốt, Lào, và Việt Nam. Biên giới phía bắc
của Đông Dương giáp liền các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc.
Trong ba quốc gia nguyên thủy của Đông Dương, chỉ có Căm Bốt là không
có chung biên giới với Trung Quốc, nằm phía nam Lào và phía tây Việt
Nam. Khởi sự từ cuối thế kỷ 19, các nước này, ở các lúc khác nhau, từng
nước được kết hợp vào một liên bang rộng lớn hơn gọi là Đông Dương dưới
sự cai trị của người Pháp. 23 Khi phe cộng sản Việt Nam bắt
đầu chiến dịch rộng lớn chống lại chủ nghĩa đế quốc ngoại lai hồi nửa
đầu thế kỷ thứ 20, cuộc nổi dậy bao gồm các binh sĩ đến từ tất cả ba
nước Đông Dương.
Sau Thế Chiến II, người Pháp tìm cách tại thiết lập sự kiểm soát trong
thực tế trên Đông Dương, vốn bị mất vào tay các lực lượng Nhật Bản một
cách ngắn ngủi trong khoảng từ 1941 đến 1945. Người Pháp khá dễ dàng
giành lại quyền lực chính trị tại Căm Bốt và Lào, nhưng đã gặp khó khăn
trong việc thương thảo một giải pháp với lãnh tụ cộng sản chính yếu tại
Việt Nam, Hồ Chí Minh, kẻ cầm đầu Liên Đoàn Cách Mạng Giành Độc Lập cho
Việt Nam [sic] (Việt Minh) vào lúc đó. Hai phía đã không giải quyết
được các sự khác biệt của họ một cách hòa bình, và chiến tranh đã bùng
nổ trong Tháng Mười Hai 1946. Vào năm 1953, chiến địch của người Pháp
để tái chiêm Đông Dương tiến gần đến sự thất bại. Tháng Mười Một 1953,
Căm Bốt được thừa nhận là một quốc gia độc lập. Bảy tháng sau đó, sau
một cuộc bao vây 56 ngày thành công tại pháo đài Điện Biên Phủ tại Việt
Nam chống lại các lực lượng Pháp, Paris đã kêu gọi một sự chấm dứt việc
giao tranh. Các viên chức Việt Minh và Pháp gặp gỡ tại Geneva, Thụy Sĩ
trong Tháng Bảy 1954 để thương thảo các chi tiết của cuộc ngừng bắn.
Hiệp ước sau cùng đã trao quyền kiểm soát Việt Nam phía bắc vĩ tuyến thứ
17 cho phe cộng sản, trong khi phe tư bản đã giành quyền kiểm soát trên
lãnh thổ phía nam vĩ tuyến thứ 17. Trong bất kỳ trường hợp nào, ý
tưởng về một liên bang Đông Dương (đặc biệt dưới sự kiểm soát của Việt
Nam) vẫn dằng dai trong đầu óc của nhiều người Việt Nam sau khi độc
lập. Chính vì thế Hà Nội có thể được dự đoán đã khởi sự các kế hoạch để
chinh phục Căm Bốt và Lào theo sau sự tái thống nhất trong năm 1975.
Khái niệm về một liên bang Đông Dương tho6ng’ nhất dưới sự bảo trợ của
Việt Nam và, bởi sự nối dài, của Sô Viết đã không đứng vững đối với Bắc
Kinh, bởi các sự phân nhánh chính trị sẽ đặc biệt bất lợi cho các quyền
lợi chính trị của Trung Quốc. 24 Hậu quả, ngay từ 1954, Bắc
Kinh đã tìm cách tăng cường vị thế của nó đối với vấn đề kiểm soát Đông
Dương. Thí dụ, phía Trung Quốc đã ngăn cản Căm Bốt và Lào không được
tham dự hội nghị Geneva 1954 với tư cách các thành viên thực thụ bởi có
ảnh hưởng của Việt Minh trên chính trị của Căm Bốt và Lào vào lúc đó.
Rõ ràng, nếu Căm Bốt và Lào được phép tham dự như các thành viên thực
thụ, họ sẽ mang lại cho phái đoàn Việt Minh đòn bẩy chính trị quá mức
liên quan đến Đông Dương. Hồi đầu thập niên 1960, phía Trung Quốc đã
bắt đầu ủng hộ nhà lãnh đạo Căm Bốt, ông Hoàng Sihanouk, kẻ được nghĩ
đứng trung lập trong cuộc đấu tranh giữa các nước công sản và phi cộng
sản. Phía Trung Quốc đã ủng hộ ông hoàng bởi vì Việt Nam đã sẵn phô bày
các dấu hiệu xâm lược đối với phần còn lại của Đông Dương cũng như các
quan hệ sâu đậm hơn với Sô Viết. Vào đầu thập niên 1970, Bắc Kinh đã
bắt đầu ủng hộ mạnh mẽ tổ chức Khmer Đỏ của Căm Bốt với nhà lãnh đạo
công sản, Pol Pot, nghiêng về Bắc Kinh hơn là Việt Nam và Liên Bang Sô
Viết. Phía Trung Quốc vẫn tiếp tục trợ giúp phe Khmer Đỏ ngay cả sau
khi nó đã nắm sự kiểm soát hoàn toàn Căm Bốt trong Tháng Tư 1975. Phía
Trung Quốc cũng tích cực cổ vũ Pol Pot kháng cự lại các tham vọng của
Việt Nam tại Đông Dương với bất cứ giá nào. Pol Pot rõ ràng đã đón nhận
sự cố vấn từ Bắc Kinh một cách hoàn toàn nghiêm chỉnh: sau khi ký kết
một thỏa ước viện trợ quân sự với Trung Quốc trong Tháng Chín 1977, ông
ta đã không để phí thời gian để leo thang các chiến sự với Việt Nam.
Trong Tháng Mười Một 1977, các viên chức Trung Quốc và Việt Nam đã tổ
chức các cuộc đàm phán nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng. Phía Trung
Quốc đã đòi hỏi rằng các lực lượng Việt Nam triệt thoái hoàn toàn ra
khỏi miền đông của Căm Bốt. Hà Nội bác bỏ sự yêu cầu, và các quan hệ
Trung – Việt rẽ vào một khúc ngoặt tồi tệ hơn.
Sự Xung Đột Chủng Tộc:
Phản ứng trước các cuộc đàm phán song phương bị thất bại với Trung
Quốc, từ Tháng Năm đến Tháng Sáu năm 1978 Việt Nam đã trục xuất khoảng
100,000 người Trung Quốc ra khỏi xứ sở của họ. Đến Tháng Bảy, con số
lên tới 150,000 người. Chiến dịch thì tàn nhẫn và cố ý. Phía Việt Nam
lý luận rằng nếu khu vực biên giới có thể được thanh lọc loại bỏ bất kỳ
người Trung Quốc nào, các cuộc tranh chấp lãnh thổ sẽ tự nhiên biến mất,
cũng như bất kỳ cơ hội nào cho các Hoa kiều hải ngoại tham gia vào công
tác gián điệp. Chiến lược của họ bị phản đòn: không lâu, các biến cố
báo động đã phát sinh giữa các thường dân và các binh sĩ. Vào ngày 4
Tháng Năm 1977, thí dụ, “[một] biến cố đẫm máu đã bùng nổ tại Hữu Nghị
Quan với 51 công nhân Trung Quốc bị thương tích bởi 500 binh sĩ Việt
Nam”. 25 Ít ngày sau đó, Hà Nội xúc tiến việc trục xuất của
mình và trong vòng hai tuần, ít nhất 57,000 Hoa Kiều nữa bị buộc phải từ
bỏ các ngôi nhà của họ. Vào ngày 24 Tháng Năm, Bắc Kinh đã mất tất cả
sự kiên nhẫn, và bắt đầu công khai quở trách Hà Nội. Vào ngày 29 Tháng
Năm, Bắc Kinh “đã tố cáo Việt Nam về các sự độc ác đối với người Trung
Quốc tại Việt Nam, bao gồm các vụ bắt giữ tập thể, giết hại tập thể, và
nổ súng vào các người tỵ nạn băng ngang biên giới đất liền và chạy trốn
bằng thuyền”. 26 Sự việc này được tiếp nối bằng “một loạt
phim tài liệu về nỗi thống khổ của dân tỵ nạn để làm sáng tỏ các lập
luận của Bắc Kinh”. 27
Các biến cố trong Tháng Sáu và Tháng Bảy đã diễn biến một cách dồn dập.
Trong một nỗ lực để đình chỉ cuộc di cư, Bắc Kinh đã ra lệnh toàn thể
biên giới Trung – Việt bị khóa lại vào ngày 11 Tháng Bảy. Một cách khả
dĩ dự đoán, chính sách này đã thất bại và phía Trung Quộc bị buộc phải
tiếp tục thu nhận hàng nghìn dân tỵ nạn. Trong khi đó người Hoa tại
miền nam Việt Nam đang cố gắng một cách điên cuồng để vượt thoát bằng
thuyền. Trong số họ, nhiều người bị bắt và bị giam cầm. Còn nữa, các
kẻ ở lại thường “bị đuổi việc, khai trừ, ngược đãi và khẩu phần thực
phẩm bị cắt”. 28 Sau hết, khoảng 200,000 người gốc Hoa đã bị trục xuất ra khỏi Việt Nam. 29
Sự xua đuổi thì quá nặng nề và độc ác đến nỗi phía Trung Quốc một cách
đương nhiên đã kể nó như một lý do chính yếu tại sao họ sau rốt đã lựa
chọn việc tấn công Hà Nội. 30
Quan Hệ Sô Viết – Việt Nam:
Như đã sẵn đề cập tới, liên minh Trung Quốc – Việt Nam đã suy đồi hơn
nữa vì các viễn ảnh của một Đông Dương tái thống nhất. Phóa Trung Quốc
cảnh cáo Việt Nam rằng bất kỳ sự xâm lăng nào vào Căm Bốt và Lào sẽ
không thể được tha thứ và khuyến dẫn sự trừng phạt vũ trang. Phía Việt
Nam đã không bị khuất phục.
Trong khi đó, các chiến lược gia Sô Viết tại Mạc Tư Khoa đã bắt đầu dự
liệu cách khai thác sự rạn nứt mới giữa Trung Quốc – Việt Nam như một
phương tiện để phát huy một liên minh giữa chính họ với phía Việt Nam.
Giống như Trung Quốc, Sô Viết đã nhận thức được trị giá chiến lược lớn
lao của Đông Dương, cũng thế phía Việt Nam đã nhận thức được tầm quan
trọng của sự ngăn cấm của Sô Viết đối với Bắc Kinh. Phía Trung Quốc cáo
giác rằng sự ủng hộ mới của Sô Viết cho Việt Nam vừa không cần thiết
lẫn chông Trung Quốc trong động lực. Liên Bang Sô Viết đã sẵn là nước
rộng lớn nhất trên trái đất về lãnh thổ, và chính vì thế, Sô Viết đã
không có nhu cầu nối dài các lực lượng quân sự của họ đến Đông Dương trừ
khi nó liên can đến một vài loại động lực. Đó là lý do tại sao các
viên chức Trung Quốc nghi ngờ Sô Viết về việc thương thảo các kế hoạch
để xây dựng các căn cứ hải quân tại Việt Nam và Căm Bốt như một phần của
một đại chiến lược nhằm bao vây Trung Quốc từ Mũi Phi Châu (Horn of
Africa) cho tới Vladivostock. 31 Nếu Sô Viết có thể thành
công trong việc bao vây Trung Quốc, họ sẽ không chỉ ở vào một vị thế
chiến lược để giành giựt sự kiểm soát thế giới cộng sản khỏi tay Trung
Quốc, mà còn sẽ thu đoạt được một bàn đạp tại Đông Nam Á, từ đó gây xáo
trộn mậu dịch quốc tế giữa khối Tây Phương và Nhật Bản, Nam Hàn, và Đài
Loan. Quần Đảo Trường Sa với các dự trữ dầu khí phong phú chắc chắn
cũng nằm trong tầm ngắm của Sô Viết.
Sự Phân Hóa Sau Chót
Vào cuối Tháng Mười 1978, các sứ giả Việt Nam lên đường sang Liên Bang
Sô Viết để thảo luận khả tính của việc thi hành một “Hiệp Ước Hữu Nghị
và Hợp Tác” chung có hiệu lực trong một phần tư thế kỷ. Cuộc thảo luận
diễn tiến tốt đẹp: chưa đầy một tuần lễ, vào ngày 3 Tháng Mười Một 1978,
bản hiệp ước được ký kết. Bản thỏa ước này không chỉ là bản thỏa ước
đầu tiên trong vùng đó đối với Sô Viết, nó cũng còn có giá trị như một
chiến thắng địa chính trị bằng việc hợp pháp hóa một sự củng cố quân sự
của Sô Viết tại Đông Dương. Lời mở đầu và chín điều khoản đầu tiên của
liên minh nói đến sự hợp tác Sô Viết – Việt Nam trong mọi lãnh vực khả
dĩ, cũng như một sự xác định sự thống nhất của hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới và nhu cầu kháng cự lại mọi mưu toan của phe đế quốc nhằm bành
trướng.
Trong khi các điều khoản của bản hiệp ước chỉ quy định “sự tham khảo”
nếu một trong hai quốc gia nằm dưới sự tấn công, giọng điệu tổng quát rõ
ràng tỏ lộ một sự ràng buộc quân sự mạnh mẽ hơn giữa Việt Nam và Liên
Bang Sô Viết. 32 Nhìn về điều đó, Bắc Kinh đã luận giải rằng
Sô Viết muốn xây dựng các cơ sở quân sự tại và chung quanh Việt Nam.
Tương tự, phía Trung Quốc cũng tiên đoán rằng Việt Nam sẽ sử dụng thỏa
ước mới với Sô Viết như một phương tiện để đẩy xa hơn nữa các tham vọng
chính trị của chính họ tại Đông Dương.
Phía Trung Quốc đã phản ứng với ác cảm đối với hiệp ước Sô Viết – Việt
Nam. Trong thực tế, trong vòng một tuần lễ ngày ban hành hiệp ước, các
viên chức Trung Quốc đã loan báo sự thù nghịch của họ: “Táo tợn bởi sự
ủng hộ của Sô Viết, nhà chức trách Việt Nam cao ngạo nhìn nhân dân Trung
Quốc vĩ đại là dễ bị bắt nạt … Chúng tôi nghiêm khắc cảnh cáo nhà cầm
quyền Việt Nam: Hãy rút bàn tay tội lỗi của các người ra khỏi lãnh thổ
Trung Quốc”. 33 Trong khi các lời phát biểu ban đầu như thế còn giữ vẻ lịch sự ngoại giao, các tuyên bố sau này có tính chất đấu tranh :
Việt
Nam đã đi đủ xa trong việc theo đuổi đường lối chống Trung Quốc của nó.
Có một giới hạn trong sự kiễn nhẫn và kiềm chế của nhân dân Trung Quốc…
Chúng tôi muốn cảnh cáo các nhà chức trách Việt Nam rằng nếu họ, trở
nên táo tợn bởi sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa, đang tìm cách được đằng chân
lân đằng đầu và tiếp tục hành động trong cung cách hoang đàng này, họ
nhất thiết sẽ gặp phải sự trừng phạt mà họ xứng đáng [nhận lãnh]. 34
Vào đầu Tháng Một, các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn nói đến việc “dạy cho Việt Nam một bài học”. 35
Trong khi đó, một loạt các cuộc tấn công vũ trang giữa các lực lượng
Trung Quốc và Việt Nam đã làm các sự căng thẳng leo thang. Vào đầu
Tháng Hai, Trung Quốc “đã tập hợp 330,000 binh sĩ, 1,200 xe tăng, ít
nhất 1,500 khẩu trọng pháo, và gần 1,000 phi cơ chiến đấu dọc theo biên
giơi trên đất liền giữa Trung Quốc và Viêt Nam, và một hạm đội lớn lao
khác thường cũng đã tụ tập ngoài khơi đảo Hải Nam” như một dấu hiệu biểu
lộ sự bất mãn của họ. 36 Việt Nam, một cách tiên đoán được,
đã phản ứng với sự phẫn uất và thù nghịch. Vào đầu Tháng Hai 1979, mối
đe dọa của một sự trả đũa của Sô Viết là yếu tố duy nhất còn lại khả dĩ
có đủ trọng lượng chính trị để ngăn cấm Trung Quốc khỏi việc tấn công
Việt Nam.
Cuộc Xung Động Công Khai
Vào sáng ngày 17 Tháng hai 1979, từ 100,000 đrến 180,000 binh sĩ Trung
Quốc đã tấn công Việt Nam với “các đợt pháo kích cực kỳ dữ dội, theo sau
bởi các đơn vị thiết giáp” bất kể sự đe dọa trả đũa của Sô Viết. 37
Cuộc tấn công của Trung Quốc đã nhắm vào sáu tỉnh biên giới: Quảng
Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn, và Lai Châu. Trong
khi cuộc tấn công chớp nhoáng buổi sáng thực sự làm cho quân đội Việt
Nam bị bất ngờ, nó đã không khích động đủ sự hoảng loạn tại Hà Nội để
làm gián đoạn các hoạt động của chính phủ. Trong thực tế, trái với các
kế hoạch của Trung Quốc, chính phủ Việt Nam đã đưa ra các lời tuyên bố
công khai tức thời gọi các nhà lãnh đạo tại Bắc Kinh là “các tội phạm
chiến tranh, còn độc ác hơn cả Hitler”, và và trình bày phương cách làm
sao Việt Nam sẽ nhìn thấy một chiến thắng vĩ đại và vinh quang trước
Trung Quốc. 38 Hơn nữa, các tướng lĩnh Việt Nam đã ra lệnh bố
trí từ 75,000 đến 100,000 binh sĩ và dân quân biên giới tại tiền
tuyến. Chưa đầy một tháng sau đó hai đội quân Việt Nam và Trung Quốc đã
đình chỉ sự tàn sát.
Phân Tích
Sự phân tích cuộc xung đột Trung – Việt được chia thành hai thời kỳ.
Thời kỳ thứ nhất bắt đầu vào nửa sau của thập niên 1970, và chấm dứt
với Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Sô Viết – Việt Nam năm 1978. Thời kỳ
thứ nhì bắt đầu ngay sau Hiệp Ước Sô Viết – Việt Nam 1978 và kết thúc
với sự bùng nổ của cuộc xung đột Trung – Việt 1979. Sự đảo ngược định
hướng của phía Trung Quốc trong thời khoảng xác định ở trên có thể được
quy kết cho các sự biến đổi khách quan và cá biệt trong khuôn khổ lý
thuyết về nguyên trạng. Trong thời kỳ một, Trung Quốc hoạt đông dưới
một định hướng ít nhiều tích cực trong đó nguyên trạng được xác định bởi
sự thiếu cương quyết và vô năng lực của Việt Nam so với Trung Quốc.
Trong thời kỳ hai, một vài biến cố kể cả sự ký kết hiệp ước Sô Viết –
Việt Nam năm 1978 hợp lại đưa đến một sự đảo ngược trong định hướng từ
tích cực thành tiêu cực về phía Trung Quốc. Bởi có sự đảo ngược, phía
Trung Quốc dần hướng đến một cách tiêu cực và chính từ đó đã tấn công
Việt Nam.
Định Hướng Tích Cực
Các Sự Kiện Chủ Yếu:
Vào mùa thu 1970 chính sách của Trung Quốc đối với Bắc Việt đã trải qua
một sự thay đổi chính yếu. Trước đây, Bắc Việt đã dựa nặng nề vào sự
trợ giúp của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh của nó chống lại phe đế
quốc ngoại lai và Sàigòn. Tuy nhiên, trong nửa sau của 1970, Hà Nội đã
bắt đầu tìm kiếm ngày càng nhiều hơn sự ủng hộ của Sô Viết trong khi
giảm bớt sự lệ thuộc vào Trung Quốc (vì các lý do nói rõ ở phần hai).
Chín năm nối tiếp đã chứng kiến một tình trạng suy đồi dần dà nhiều hơn
trong các quan hệ Trung – Việt đối chọi với một sự tăng trưởng tương ứng
trong sự hợp tác giữa Liên Bang Sô Viết và Việt Nam.
Vào ngày 3 Tháng Mười 1971, các nhà ngoại giao Sô Viết đã đến Hà Nội để
thương thảo một vài thỏa thuận liên quan đến viện trợ kinh tế và quân sự
song phương. Không lâu sau đó, một phái đoàn cao cấp khác của Sô Viết
đã đến thăm Hà Nội. Trong đó có các viên chức cao cấp chẳng hạn như Thứ
Trưởng Quốc Phòng và Tư Lệnh Lực Lượng Phòng Không Sô Viết. Phái đoàn
đã ở lại Hà Nội cho đến tận Tháng Ba 1972 trong khi một khối các quân
khí của Sô Viết bao gồm từ “các xe tăng, pháo binh tầm xa, hỏa tiễn
phòng không lưu động, và các hỏa tiễn SA-2 đã đến Bắc Việt” với trị giá
vào khoảng 700 triệu. 39
Trong Tháng Mười 1975, các sứ giả Việt Nam đã đến thăm Liên Bang Sô Viết
để ký kết hai hiệp định viện trợ kinh tế quan trọng theo đó Sô Viết sẽ
cung cấp sự trợ giúp tài chính cho Việt Nam trong một thời hạn năm năm.
Ngoài ra, các viên chức Sô Viết có cho hay một sự thỏa thuận đã đạt
được với Hà Nội về một sự quản trị hỗn hợp các chiến lược kinh tế quốc
gia của Việt Nam và Liên Bang Sô Viết cho giai đoan từ 1976 đến 1980.
Sô Viết cũng có nói rằng họ đã mời Hà Nội gia nhập Hội Đồng Trợ Giúp
Kinh Tế Hỗ Tương (Council for Mutual Economic Assistance), và trong
Tháng sáu 1978, Việt Nam đã ký gia nhập thành một hội viên. 40
Vào năm 1975, điều đã trở thành hiển nhiên rằng Sô Viết lao vào một
đường hướng để đồn trú nhân viên quân sự tại Việt Nam và Căm Bốt. 41 Chiến
lược của Sô Viết thì thẳng tuột. Nó đòi hỏi quân đội Sô Viết bao quanh
và xiết chặt sườn phía đông của Trung Quốc từ thành phố Vladivostok ở
phía bắc cho đến Vịnh Cam Ranh ở phía nam. Nó cũng tìm cách kiểm soát
Eo Biển Malacca để ngăn trở các tuyến đường dầu hỏa và hải quân đến Âu
Châu và Hoa Kỳ. Hơn nữa, mục đích của Sô Viết được phủ chùm bên trên
bởi hai ước vọng sinh đôi của Việt Nam nhằm thiết lập Việt Nam như một
quyền lực cấp vùng và giáng một đòn nặng nề vào uy tín của Trung Quốc.
Vào ngày 3 Tháng Mười Một 1978, các đại biểu từ Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam đã ký kết một Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác với Liên Bang
Sô Viết có hiệu lực trong hai mươi lăm năm. Đó là một chiến thắng
ngoại giao cho cả Sô Viết lẫn Việt Nam, nhưng là một thất bại lớn lao
cho Trung Quốc. Sô Viết và Việt Nam đã “chơi một canh bài lớn” chống
lại Trung Quốc và đó không phải là một ván bài mà Trung Quốc sẽ dễ dàng
quên được. 42
Phân tích:
Điều kỳ lạ rằng, trong suốt thời kỳ trước khi có hiệp ước Sô Viết –
Việt Nam, phía Trung Quốc đã không có hành động quả quyết nào khi Việt
Nam ngày càng nghiêng về các quan hệ với Sô Viết. Bắc Kinh đã hay biết
rất rõ về các mối nguy hiểm chiến lược trong việc cho phép Liên Bang Sô
Viết giành được một bàn đạp tại Đông Dương từ lâu, trước ngày 3 Tháng
Mười Một 1978. Song, nó không hề cố gắng can thiệp trực tiếp nhằm chặn
đứng chuỗi biến cố dẫn dắt đến sự ký kết hiệp ước Sô Viết – Việt Nam.
Đúng theo lý thuyết ngăn cấm hữu lý, các quốc gia quyết định liệu có nên
sử dụng lực lượng quân sự dựa trên một sự so sánh tính hữu dụng kỳ vọng
của việc sử dụng hay không sử dụng lực lượng như thế, và họ lựa chọn
giải pháp có tầm hữu dụng kỳ vọng lớn nhất. Nếu điều này là thế, điều
phải kết luận rằng việc lựa chọn không tấn công Việt Nam trước khi có
hiệp ước Sô Viết – Việt Nam là không hữu lý.
Để làm sáng tỏ điểm nêu trên, trước tiên hãy cứu xét rằng cho đến khi
hiệp ước Sô Viết – Việt Nam được thi hành, Trung Quốc đã có cả sức mạnh
quân sự và nhân lực sống động để tràn ngập Việt Nam với ít khả tính có
sự can thiệp từ bên ngoài. Sau đó, cứu xét rằng các hành động được thực
hiện bởi Sô Viết để nuôi dưỡng các quan hệ với Việt Nam đã xảy ra trong
các giai đoạn có thể nhận thấy và tăng trưởng dần dần trong một thời
khoảng chín năm. Điều không mấy hữu lý chiếu theo các sự kiện này rằng
phía Trung Quốc lại không xiết chặt sự ngoan cố của Việt Nam trước khi
quá trễ.
Tôi lập luận rằng phía Trung Quốc đã thiếu sót không hành động ở một
thời điểm thích hợp bởi vì một định hướng tích cực đã chế ngự sự nhận
thức của họ trước khi có hiệp ước Sô Viết – Việt Nam. Các quan hệ giữa
Trung Quốc và Việt Nam đã bị mất cân bằng và bất bình đẳng ngay từ khởi
điểm: Trung Quốc thống trị Việt Nam. Hơn nữa, các hiệu ứng làm suy yếu
của cuộc nội chiến Việt Nam trước khi có sự tái thống nhất có nghĩa rằng
phía Trung Quốc đã có ít lý do để lo ngại về một kẻ đua tranh hiện hình
tại sườn phía nam của họ. Để giải thích thêm, hãy cứu xét đến điều sau
đây: phe cộng sản Việt Nam đã cần và tìm kiếm sự trợ giúp của Trung
Quốc để giành thắng cuộc chiến tranh của họ chống lại phe tư bản và phe
đế quốc. Tình trạng này hấp dẫn đối với phía Trung Quốc bởi nó phô bày
thế thượng phong tương đối của họ. Ngoài ra, bởi phía Việt Nam đang có
chiến tranh giữa họ với nhau, phía Trung Quốc biết rằng không bên nào đủ
mạnh để chống đối họ một cách đơn phương. Điều cũng cần nhìn nhận
rằng, chừng nào mà phía Việt Nam vẫn còn bị phân chia trong chiến tranh,
phần còn lại của Đông Dương sẽ tiếp tục bị lệ thuộc vào lòng từ thiện
của Trung Quốc. Vì thế, phía Trung Quốc đã nhận thấy nguyên trạng hoàn
toàn thoải mái, và theo đó, đã không có động lực để thay đổi nó. Kết
quả, ngay cả các hành vi sỗ sàng và lập lại nhiều lần của sự coi thường
từ phía Việt Nam đối với các đặc ưu quyền của Trung Quốc đã không khích
động một sự đối phó mạnh bạo bởi Trung Quốc. Chỉ khi quá trễ “một cách
hữu lý”, phía Trung Quốc mới khởi sự bất kỳ hành động nào để đảo ngược
tình trạng thoái hóa.
Định Hướng Tiêu Cực
Các Sự Kiện Chủ Yếu:
Khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc trải qua các cảm giác của sự thất vọng
và khả dĩ bị xâm kích trên hiệp ước Sô Viết – Việt Nam, “các lực lượng
vũ trang của cộng sản Việt Nam đã khởi sự một cuộc xâm lăng toàn diện
vào Căm Bốt cộng sản” hôm 25 Tháng Mười Hai 1978. 43 Hai tuần
sau đó, quân du kích Căm Bốt do Việt Nam hậu thuẫn đã thành công trong
việc lật đổ chính phủ Căm Bốt hợp pháp. Đương nhiên, Trung Quốc đã tố
cáo các hoạt động quân sự của Việt Nam và nối kết chúng với âm mưu của
Sô Viết nhằm khóa chặt sườn phía đông của Trung Quốc. Trong khi đó, Sô
Viết đã thành công trong việc chuyển vận một lực lượng viễn chinh đến
miền nam Việt Nam. Để làm vấn đề tệ hại hơn nữa đối với Trung Quốc, hôm
25 Tháng Một 1979, phía Việt Nam đã nhấn mạnh chiến thắng ngoại giao
của họ bằng việc cử hành buổi lễ kỷ niệm năm thứ 109 cuộc chiến thắng
quân sự của Việt Nam đối với Bắc Kinh vào năm 1789 dưới thời trị vì của
Quang Trung Hoàng Đế”. 44 Vào cuối Tháng Một 1979, thái độ
của Trung Quốc đối với Việt Nam đã cứng rắn hơn, và cơn thịnh nộ của các
lời kêu gọi cầm vũ khí cho thấy rằng phía Trung Quốc đã bị xô đẩy quá
xa.
Quân đội Trung Quốc đã tấn công Việt Nam lúc 5 giờ sáng ngày 17 Tháng
Hai, 1979. Thoạt đầu nó đã đạt được các thắng lợi đáng kể về đất đai,
trong khi các chiến đấu cơ của Trung Quốc bỏ bom xuống các cơ xưởng, nhà
máy điện, và các cơ sở truyền thông khắp miền bắc Việt Nam [? sic,
Trung quốc đã áp dụng chiến thuật cổ điển “tiền pháo hậu xung” với biển
người, không thấy có tài liệu nào khác nói về việc tham chiến của không
quân Trung Quốc trong cuộc xung đột, chú của người dịch]. Khi cuộc xung
đột leo thang, quân số của các lực lượng trên đất liền của Trung Quốc
lên tới khoảng 600,000 quân. 45 Mục tiêu của việc bố trí quá
nhiều binh sĩ là nhằm buộc quân trừ bị của Việt Nam trú đóng tại Căm Bốt
phải di chuyển đến tiền tuyến. Phía Trung Quốc lý luận rằng nếu họ có
thể buộc Việt Nam phải rút quân càng nhiều càng tốt ra khỏi Căm Bốt, sẽ
chỉ còn rất ít binh sĩ ở lại để kiểm soát Căm Bốt vào lúc kết thúc cuộc
xung đột. Trong khi về mặt chiến lược có vẻ vững chắc, chiến thuật đã
thất bại: Việt Nam đã chiếm đóng Căm Bốt trong suốt thập niên 1980.
Trung
Quốc đã tấn công Việt Nam để mang sự tín nhiệm đến cho sự cảnh cáo của
nó rằng Trung Quốc đã không lo sợ để dạy cho lân bang phía nam một bài
học. Một cách chính xác hơn, Trung Quốc muốn Hà Nội hiểu một cách khẳng
quyết rằng nó sẽ tấn công và không bao giờ ngừng tấn công nếu hành động
quân sự tại Căm Bốt vẫn tiếp tục và nhiều binh sĩ Sô Viết hơn nữa đến
Vịnh Cam Ranh. Sự phản kháng [démarche, tiếng Pháp trong
nguyên bản, chú của người dịch] của Trung Quốc cũng được dùng như một
lời cảnh cáo đối với các nước khác: các sự khiêu khích quá đáng chống
lại Trung Quốc sẽ đưa đến sự trả đũa hoàn toàn.
Phân Tích:
Về mặt lý thuyết, cuộc tấn công của Trung Quốc năm 1979 đánh Việt Nam
thì không hữu lý. Các xác xuất cho một cuộc công kích quân sự thành
công đánh vào Việt Nam ở thời điểm đó thì quá thấp cho bất kỳ một sự
phân tích hữu lý thích đáng nào để biện minh cho nó. Chính xác hơn, một
sự phân tích lợi/hại sẽ cho thấy các lợi lộc tương đối của một sự tổn
hại trong trận chiến thì ít thuận lợi hơn khi so sánh với các hiệu quả
của một sự tổn hại chắc chắn của sự bất động. Để chứng minh điều này,
hãy cứu xét đến các sự kiện kể sau. Phía Sô Viết đã sẵn trú đóng binh
sĩ tại Việt Nam. Việt Nam là các chiến sĩ cứng cáp trong khi Trung Quốc
không phải như thế. Phía Sô Viết sở đắc một sức mạnh quân sự khổng lồ,
đặc biệt trong năng lực công kích hạt nhân đến nỗi ngay quốc gia hùng
mạnh như Hoa Kỳ đã cự tuyệt các lời kêu gọi chiến đấu bên cạnh Trung
Quốc vì lo sợ sự trả đũa của Sô Viết. Theo nhận thức đó, lý thuyết ngăn
cấm hữu lý không có sự giải thích rành mạch nào cho các hành động dữ
dội của Trung Quốc.
Tôi lập
luận rằng phía Trung Quốc tiến hành buớc chuyển động quân sự quyết liệt
hôm 17 Tháng Hai 1979 bởi vì nhiều biến cố bất lợi đã ảnh hưởng đến uy
tín và an ninh quốc gia của Trung Quốc từ 1970 đến 1978. Một cách cụ
thể hơn, các biến cố giữa các năm 1970 và 1978 hợp lại đã đặt Trung Quốc
vào một định hướng tiêu cực, khiến trở thành kẻ chấp nhận rủi ro: bất
kể các phí tổn kinh tế và xã hội ra sao, phản ứng chủ quan của Trung
Quốc trước định hướng tiêu cực đã buộc nó đi theo một đường lối hành
động nhiều rủi ro liên can đến các xác xuất thấp của các khoản thu hồi
lớn trong trường hợp có sự thua lỗ. Động thái như thế không hề được
tiên đoán trong lý thuyết ngăn cấm hữu lý. Sự ký kết hiệp ước Sô Viết –
Việt Nam đã đánh dấu một điểm đảo ngược trong định hướng của Trung Quốc
từ tích cực thành tiêu cực. Hậu quả, phía Trung Quốc dần trở nên kẻ
chấp nhận rủi ro nhiều hơn và đã tấn công Việt Nam.
Thảo Luận
Một số người có thể khẳng định rằng thời khoảng ngắn ngủi của cuộc xung
đột Sô Viết – Việt Nam đại diện cho một quyết định hữu lý về phía Bắc
Kinh để chuyển giao thông điệp quở trách của nó cho Việt Nam dựa trên
một sự tính toán lợi/hại về các xác xuất trên sự không đáp ứng của Sô
Viết đối với hành động của Trung Quốc trong một khoảng thời gian ngắn
ngủi. 46 Trên bề mặt, sự ước đoán này thì dứt khoát một cách
hấp dẫn, nhưng nó không để ý đến sự kiện rằng Trung Quốc lựa chọn để tấn
công Việt Nam ở một thời cơ ít dẫn đến sự thành công nhất. Nói cách
khác, nó đã không cứu xét đến khung cảnh rộng lớn của hoạt động quốc
gia. Thí dụ hãy tưởng tượng rằng việc ký kết hiệp ước Sô Viết – Việt
Nam mới chỉ hành động đầu tiên của các hành đông như thế được thực hiện
bởi phía Việt Nam. Sẽ rất phi lý để nói trong trường hợp này rằng phía
Trung Quốc sẽ nhất thiết tấn công Việt Nam. Khi đó, điều cần phải lý
luận rằng một sự phân tích là liệu phía Trung Quốc đã có đặt kế hoạch
tấn công chung cuộc của họ trên một số sự tính toán về thời điểm đáp ứng
của Sô Viết nằm ngoài vấn đề. Quyết định tấn công Việt Nam phải được
lượng giá trong khung cảnh rộng lớn hơn sao cho có thể tiến đến kết luận
hữu lý nhất về các động lực của hoạt động quốc gia.
Các nhà phân tích khác có thể cố gắng để giải thích bản chất hỗn loạn
của cuộc tấn công năm 1979 như là phát sinh từ các hậu quả của Cuộc Đại
Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản. Một lần nữa, trong khi có vẻ hấp dẫn, sự
trình bày này hoàn toàn không có tính chất khả tín. Bằng chứng thực
nghiệm gia tăng của sự nghiên cứu lý thuyết triển vọng cho thấy rằng các
tác nhân lấy quyết định, một cách có hệ thống, dưa trên trạng thái của
định hướng nhận thức của họ. Chính vì thế, các sự hỗn loạn chính trị
tiếp diễn gây ra bởi Cuộc Cách Mạng Văn Hóa không thể được xếp loại một
cách hợp lý như là một biến số nội sinh (endogenous) ảnh hưởng đến các
quyết định chính sách ngoại giao. Đúng hơn, có thể tiên đoán tiến trình
nhận thức định hình các sự lựa chọn mà các tác nhân thực hiện. Khi Bắc
Kinh lấy làm thỏa mãn với nguyên trạng, các tiến trình nhận thức dẫn
dắt đến các khuôn mẫu “không thích rủi ro” khả dĩ tiên đoán được dựa
trên một định hướng tích cực. Ngược lại, sự bất mãn với nguyên trạng
dẫn đến tác phong “chấp nhận rủi ro” khả dĩ tiên đoán được tại Bắc Kinh
dựa trên một định hướng tiêu cực. Từ đó, trước khi Hà Nội và Sô Viết
kết hợp các lực lượng, phía Trung Quốc đã ở trong một khuôn khổ tích
cực, và do đó, không thích rủi ro. Nhưng, sau khi có liên minh, Bắc
Kinh rơi vào một định hướng tiêu cực, và đánh liều chấp nhận sự phẫn nộ
của sự trả thù của Sô Viết.
Tuy nhiên, có một lập luận phản bác đáng phân tích sâu xa hơn. Theo một
số sự phân tích chính trị, Bắc Kinh đã biểu lộ sự không sợ hãi các đe
dọa ngăn cấm của Sô Viết tại Việt Nam bởi nó đã sẵn trắc nghiệm quyết
tâm của Sô Viết hồi năm 1969 một cách trực tiếp. Phản ứng trước sự
chiếm đóng bị cáo giác bất hợp pháp vào lãnh thổ Trung Quốc, hôm 2 Tháng
Ba 1969, các binh sĩ Trung Quốc đã phục kích lính tuần cảnh Sô Viết tại
đảo Chenpao trên sông Ussuri. 47 Trong cuộc giao tranh theo
sau, hàng tá quân tuần cảnh Sô Viết đã bị thương tích. Như được ước
định, Sô Viết đã trả đũa (phản kháng) bằng xe thiết giáp và trọng pháo,
nhưng sau rốt đã xuống thang. Trung Quốc đã thắng cuộc giao tranh và
giành lại sự kiểm soát đất đai của nó. Từ đó nó đã đứng thẳng để lý
luận rằng, khi nhìn đến sự đầu hàng của Sô Viết tại Chenpao, Trung Quốc
đã tấn công Việt Nam trong năm 1979 mà không có sự lo sợ. Chính xác
hơn, phía Trung Quốc có thể đã tính toán một cách hữu lý rằng, bởi Sô
Viết đã không sẵn lòng phát động chiến tranh ngay sau vụ Chenpao, nhiều
phần họ cũng sẽ làm như thế tại Việt Nam. Tôi tin cách lý luận này đáng
được điều tra hơn nữa.
Kết Luận
Ý
tưởng rằng các quốc gia thực hiện các hành động như một kết quả của các
sự tính toán hơn/thiệt, lợi/hại không tán trợ bằng chứng thực nghiệm:
cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam đã xảy ra vào một thời điểm
khi các xác xuất cho một sự chiến thắng hay ngay cả cho một lợi lộc đáng
kể trong trường hợp thất trận thì quá thấp cho bất kỳ sự phân tích
lợi/hại hữu lý nào để biện minh cho nó. Ngược lại, cuộc tấn công của
Trung Quốc thì phù hợp với các sự tiên đoán của lý thuyết triển vọng.
Trong một định hướng tích cực, Trung Quốc đã không thích rủi ro, lựa
chọn không làm đảo lộn nguyên trạng bằng việc giao tranh với Việt Nam về
mặt quân sự. Mặt khác, trong một định hướng tiêu cực, Trung Quốc trở
nên chấp nhận rủi ro và đã tấn công Việt Nam ở một trong các thời điểm
ít thích hợp nhất./-
___
CHÚ THÍCH
1.
Baogang Guo, “Political Legitimacy and China’s Transition”, Journal of
Chinese Political Science, vol. 8, số 1-2 (Fall 2003), 8.
2. Jeffrey Berejikian, “A Cognitive Theory of Deterrence”, Journal of Peace Research, vol. 39, số 2 (2002), 170.
3.
Daniel Kahneman và Avos Tversky, “Prospect Theory and Analysis of
Decision Making under Risk”, Econometrica, vol. 47, số 2 (1979),
263-291; Richard Thaler, “Toward a Positive Theory of Consumer
Behavior”, Journal of Economic Behavior and Organization, vol. 1, số 1
(1980), 39-60.
4.
George Quattrone và Avos Tversky, “Contrasting Rational and
Psychological Analyses of Political Choice”, American Political Science
Review, vol. 82 (1988), 23-36.
5. Berejikian, trong sách đã dẫn (op. cit.), 172.
6. Cùng nơi dẫn trên, 178-179.
7. King Chen, China’s War with Vietnam (Stanford, CA: Hoover Institution Press, 1986), xi.
8. Chang Pao-min, The Sino-Vietnamese Territorial Dispute (New York, NY: Praeger Publishers, 1986).
9. Cùng nơi dẫn trên, 48.
10. D. R. SarDesai, Vietnam: The Struggle for National Identity (Boulder, CO: Westview Press, Inc., 1992).
11. Các người dân Trung Hoa lục địa đã trở thành cộng sản từ năm 1949, và cai trị Trung Quốc từ Bắc Kinh.
12.
Ram Kaushik và SusheelaKaushik, Back to the Front: The Unfinished Story
in Vietnam (New Delhi, India: Orient Longman Limited, 1979).
13. Tucker Spencer, Vietnam (London, UK: University College London Press, 1999), 56.
14.
Henry Kenny, Shadow of the Dragon: Vietnam’s Continuing Struggle with
China and the Implications for U.S. Foreign Policy (Washington, DC:
Brassey’s Inc., 2002).
15. SarDesai, trong sách đã dẫn, 7.
16. Cùng nơi dẫn trên.
17. Hai chị em bà Trưng đã nổi dậy chống lại sự cai trị của Trung Hoa giữa các năm 39-43 sau Công Nguyên. Xem Spencer, 7-8.
18. Spencer, trong sách đã dẫn.
19. SarDesai, trong sách đã dẫn , 7.
20. Chang, trong sách đã dẫn.
21. Xem “Spratly Islands Dispute”, www.american.edu/TED/SPRATLY.HTM, tiếp cận ngày 28 Tháng Tám, 2009).
22. Hemen Ray, China’s Vietnam War (Kalkaji, New Delhi: Radiant Publishers, 1983), 65.
23.
Ronald Cima, “Vietnam: Historical Background”, trong sách biên tập bởi
V. Largo, Vietnam: Current Issues and Historical Background (Hauppauge,
NY: Nova SciencePublishers, Inc., 2002), 109.
24. Anne Gilks, The Breakdown of the Sino-Vietnamese Alliance, 1970-1979 (Berkeley, CA: Institute of East Asian Studies, 1992).
25. Chen, trong sách đã dẫn, 64.
26. Chang, trong sách đã dẫn, 31.
27. Cùng nơi dẫn trên, 31.
28. Steven Hood, Dragons Entangled: Indochina and the China-Vietnam War (Armonk, NY: M. E. Sharpe, Inc., 1992), 149.
29. Chang, trong sách đã dẫn, 50.
30. Hood, trong sách đã dẫn, 150.
31. Gilks, trong sách đã dẫn.
32. Cùng nơi dẫn trên, 217.
33.
People’s Daily (10 Tháng Mười Một 1979), trong bản tin đài phát thanh
BBC (British Broadcasting Corporation, SWB, FE 5966/A3/1-2, trong sách
của Anne Gilks, 218-219.
34. Xinhua News Agency (24 Tháng Mười Hai 1978), 25, trong sách của Chang, 52.
35. New York Times (1 Tháng Hai 1979), A1.
36. Chang, trong sách đã dẫn, 52-53.
37. Chen, trong sách đã dẫn, 105.
38. Chinese Aggression against Vietnam (Hanoi, 1979), 113-28; trong sách của Ray, 101.
39. Cùng nơi dẫn trên, 54.
40. Ray, trong sách đã dẫn, 54-65.
41. Chen, trong sách đã dẫn.
42. Ray, trong sách đã dẫn, 92.
43.
Stephen Morris, Why Vietnam Invaded Cambodia: Political Culture and the
Causes of War (Stanford, CA: Stanford University Press, 1999), 5.
44. Ray, trong sách đã dẫn, 93.
45. Cùng nơi dẫn trên, 107.
46.
Muốn có một sự giải thích tương tự, xem James Mulvenon, “The Limits of
Coercive Diplomacy: The 1979 Sino-Vietnamese Border War”, Journal of
Northeast Asian Studies, vol. 14, số 3 (Fall 1995), 68-89.
47. Robert Gates, From the Shadow (New York, NY: Simon & Schuster, 1996), 35-36./-
_____
Nguồn; Todd West,
Failed Deterrence, The 1979 Sino-Vietnamese Conflict, Stanford
University Journal of East Asian Affairs, Vol. 6, No. 1, Winter 2006,
các trang 73- 85.
nguồn:http://phiatruoc.info/su-ngan-chan-khong-thanh-cong-cuoc-xung-dot-trung-quoc-viet-nam-nam-1979/
======================================================================
Chú ý: Nhấn
vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001