Nguyễn Hưng
Từ giữa thàng 10/2012, sau khi bài Lược
khảo về các tên gọi viện hàn lâm và viện sĩ cùng những nhầm lẫn tai hại
của tác giả Lê Mạnh Chiến xuất hiện trên
tạp chí Nghiên cứu & Phát
triển rồi được một số website đưa
lên mạng Internet, bài báo ấy đã được phổ biến một cách nhanh chóng.. Rất nhiều độc giả cảm thấy sửng sốt khi biết
rằng, lâu nay, các tên gọi “viện hàn lâm” và “viện sĩ” đã được hiểu một cách mơ
hồ dựa trên sự suy luận theo cảm tính, dẫn đến những “nhầm lẫn tai hại”. Tiếc thay, những “nhầm lẫn
tai hại” ấy lại rơi vào những “trí thức tinh hoa” vốn được coi là những “bậc
thầy” trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục.
Tuy
nhiên, tác giả bài đó chưa (hoặc chưa có điều kiện) chỉ rõ, ngoài
những “nhầm lẫn tai hại” còn có sự mạo xưng có tính
toán, có đạo diễn kỹ càng. Nay chúng
tôi đã có bằng chứng đầy đủ về vụ mạo xưng liều lĩnh của GS Phan Huy
Lê.. Trước khi nói về vụ này, chúng tôi thấy cần đúc kết
sự phân tích về những “nhầm lẫn tai hại”
trong bài Lược khảo.... và xin
phép bổ sung một số ý nhỏ để làm rõ
nét hơn về hiện tượng phản văn hóa khá
phổ biến này.
I.
Những nhầm lẫn tai hại
về viện hàn lâm và viện sĩ
Danh tiếng của Viện hàn lâm Pháp (Académie
franÕaise) trong
giới trí thức tân học ở nước ta hồi nửa đầu thế kỷ 20 đã khiến cho tên gọi
“viện hàn lâm” (tương ứng với Académie, Academy và Akademiya trong các thứ tiếng Pháp, Anh và Nga) thu hút sự sùng kính
và ngưỡng mộ. Tiếp theo đó, tên tuổi lẫy lừng của một số viện sĩ thuộc Viện hàn
lâm khoa học Liên Xô trong vài chục năm giữa thế kỷ 20 lại càng làm cho các tên
gọi Viện hàn lâm và viện sĩ trở nên cao quý lạ thường. Mặt khác, các khái niệm
về viện hàn lâm và viện sĩ thoạt nhìn có vẻ rất đơn giản nên không mấy ai tìm
hiểu kỹ càng. Từ đó, dẫn tới những nhầm lẫn lâu dài. Có thể kể ra một số nhầm
lẫn phổ biến nhất như sau:
1. Tên
gọi “Viện hàn lâm” trong tiếng Việt tương ứng với chữ Academy trong tiếng Anh (hoặc Académie,
Akademya trong tiếng Pháp và tiếng Nga). Tuy nhiên, các
chữ Academy, Académie, Akademiya ...lại còn có những nghĩa khác như học viện, trường học (trung học, đại
học), hiệp hội học thuật, v.v. Ở nước ta, nhiều người khi gặp các chữ này đều
dịch là “viện hàn lâm” ngay cả khi nó có
nghĩa là trường học hoặc là hội học thuật. Bởi vậy, có vị giáo sư từng học tại
trường đảng của Liên Xô mang tên là Akademiya obshhestvennykh nauk (Học viện
khoa học xã hội) thì xưng là đã nghiên cứu tại Viện hàn lâm khoa học xã hội
Liên Xô. Phần lớn các trường đại học quân sự ở
Nga (và Liên Xô trước đây) thường
được gọi là Akademiya, nhưng các sĩ quan Việt Nam theo học ở đấy lại gọi trường học của mình là Viện hàn lâm quân.sự. Lỗi
này có lẽ là do hiểu biết về tiếng Nga
quá hẹp.
2. Nhiều người tưởng lầm rằng, hễ mang danh
Viện hàn lâm thì mặc nhiên có giá trị rất cao về học thuật, mà không biết rằng,
trên thế giới có vô số viện hàn lâm, và ngay ở một nước cũng thường có nhiều
viện hàn lâm nên giá trị của các viện
không như nhau, nhiều khi khác xa nhau “một trời một vực”. Có viện hàn lâm đã có uy
tín trên toàn thế giới từ hàng trăm năm. Nhưng cũng có những viện mới mọc ra
gần đây ở các nước mới phát triển. nên có giá trị thấp, không mấy ai để ý đến. Ngoài
ra, còn có những hội đoàn của tư nhân, đặt tên cho hội của mình bằng chữ Academy
cộng thêm một phụ tố nào đó cho có vẻ khoa học và sang trọng để kiếm nhiều tiền bằng cách kết nạp tất cả
những người đồng ý nộp lệ phí để được cấp thẻ hội viên. Không ít kẻ hiếu danh
đã tự biến mình thành “viện sĩ hàn lâm” bằng cách đó. Đa số dân ta thường nghĩ
rằng viện sĩ là “to chuyện” lắm, vẻ vang
lắm, ai biết đâu rằng “tấm bằng viện sĩ” ấy chỉ là cái thẻ hội viên với
giá trên –dưới 100 USD, tùy từng “viện
hàn lâm”loại này.
3. Hầu
hết mọi người ở nước ta, kể cả những người biên soạn từ điển tiếng Việt đều
nghĩ rằng, thành viên của viện hàn lâm tức là viện sĩ. Nhưng theo quy
chế của các viện hàn lâm thì hoàn toàn không phải như vậy. Trong một viện hàn
lâm ở nước ngoài thường có từ hai ngạch thành viên trở lên nhưng chỉ có ngạch
thành viên chủ chốt (gọi là thành viên chính thức, thành viên thực nhiệm) mới được
gọi là viện sĩ. Danh hiệu член-корреспондент ở Nga
đáng lẽ phải dịch là thành viên thông tấn
thì suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua vẫn bị dịch sai là viện sĩ thông tấn. Những người mà lâu nay ở nước ta gọi viện sĩ của các Viện hàn lâm khoa
học ở Liên Xô hoặc ở các nước Đông
Âu, thực ra, đều không phải là viện sĩ, mà chỉ là thành viên nước ngoài của các viện đó (một danh hiệu có ý
nghĩa ngoại giao), vì viện sĩ của các nước ấy đều phải gắn liền với quốc tịch
của từng nước. Ở Nga hiện nay có khá nhiều tổ chức được gọi là Akademiya
(với nghĩa là “viện”, có thể dịch là
“viện hàn lâm” chứ không phải là trường học) nhưng Chính phủ Liên bang Nga
chỉ cho phép 6 viện như vậy được gọi các thành viên chính thức của mình là akademik (tức là viện sĩ), đó
là Viện hàn lâm khoa học Nga và 5
viện hàn lâm chuyên ngânh, gồm có Viện hàn
lâm Y học Nga, Viện hàn lâm Nông
nghiệp Nga, vVện hàn lâm Giáo dục Nga,
Viện hàn lâm Kiến trúc và
Khoa học xây dựng Nga, Viện hàn lâm Nghệ thuật Nga (xem: mục từ Академик trên từ điển Wikipedia, tiếng).
Có một vị giáo sư từng giữ chức vụ rất to, vẫn tự xưng là viện sĩ Viện hàn lâm giao thông Nga.( Российская Академия транспорта, thành
lập ngày 26/6/1991). Viện này có 966 thành viên thực nhiệm (966 действительных членов)
và 42 đại biểu nước ngoài (xem tại
http://www.academtrans.ru).
Vì không
có quốc tịch Nga nên ông giáo sư này chỉ có thể thuộc con số
42 đại biểu nước ngoài chứ không phải là thành viên thực nhiệm (tức là thành
viên chính thức). Viện này lại không nằm trong
6 viện được phép gọi các thành viên chính thức của mình là viện sĩ. Vậy thì ông ta
không thể là viện sĩ của Viện hàn
lâm giao thông Nga.
Lại một giáo sư khác từng là quan to, cũng được gọi là viện sĩ. Có
nơi nói ông là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa học
sư phạm Nga (tức Viện hàn lâm giáo dục Nga, Росси́йская акаде́мия
образова́ния), nhưng ông lại không có tên trong danh sách 278 thành viên (gồm
các viện sĩ và các thành viên thông tấn) của Viện này. Có nơi khác lại nói ông là viện sĩ của Viện hàn lâm khoa
học chính trị Nga (Российская академия
политической науки). Chẳng biết có phải như vậy hay không, vì trên website
chính thức của nó không công bố danh
sách thành viên, nhưng viện này không nằm trong 6 viện được phép gọi các thành viên chính thức của mình là
viện sĩ, cho nên ông không thể là viện sĩ ở đây. Sự nhầm lẫn của hai giáo sư
này là do thiếu hiểu biết hay cố ý.? Chỉ có các ông ấy mới biết, nhưng rõ ràng,
đây là những sự nhầm lẫn khá tai hại.
4. Mọi người đều biết rằng, có vô số viện
hàn lâm, mỗi viện đều có một tên riêng, rất cụ thể. Bởi vậy, danh hiệu viện sĩ
phải gắn liền với tên của viện hàn lâm, nơi ông ta được bầu. Ở một nước có nhiều viện hàn lâm (ví dụ: nước
Pháp), trong số đó có một viện quá nổi tiếng, mọi ngườì dân đều biết (ví dụ: ở Pháp có Viện hàn lâm Pháp – Académie franÕaise), chỉ cần nhắc đến Viện hàn lâm (L’Académie) là người ta nghĩ
ngay đến nó và không cần gọi tên đầy đủ của nó. Cho nên, khi người Pháp chỉ viết Académicien
hoặc Membre de l’Académie thì đã có
nghĩa đó là viện sĩ của Viện hàn lâm Pháp. - Académie franÕaise. Tuy nhiên, các viện
sĩ hàn lâm Pháp rất ít khi nêu danh hiệu Académicien
hoặc Membre de l’Académie ngay trước
họ và tên của mình, mà thường đặt ở phía sau.
Ở Nga (hoặc Liên Xô trước đây), ngay
trước tên của nhiều nhà bác học lớn,
chúng ta thường thấy có ghi danh hiệu Akademik
(tiếng Nga, nghĩa là viện sĩ), ví dụ: Akademik I.P. Pavlov, Akademik A.D. Sakharov . v.v. Chữ
Akademik ở đây có nghĩa là viện sĩ của
Viện hàn lâm khoa học Nga (hoặc Liên Xô)
– Viện hàn lâm nổi tiếng nhất trong số
rất nhiều viện hàn lâm trên đất nước này. Nếu là viện sĩ của các viện khác thì không được ghi như thế, mà phải ghi rõ là
Akademik của Viện hàn lâm nào. Điều này cũng tương tự như ở Việt Nam ,
từ “đảng viên” (mà không kèm theo tên đảng nào) thì chỉ có nghĩa là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam . Cũng cần nói thêm rằng, trong
một nước đã có một viện hàn lâm quá nổi tiếng mà hế nói đến “viện sĩ” tức là nói
đến thành viên thực nhiệm của viện ây, thì các ông viện sĩ của các viện đàn em
hầu như không bao giờ đưa cái danh hiệu “viện sĩ của Viên hàn lâm X” để khoe hoặc tôn xưng, vì người ta chỉ
khoe và tôn xưng những gì thuộc hạng nhất, chẳng ai khoe hoặc tôn xưng các thứ thuộc hạng hai hay hạng ba. Ví dụ, nếu
ông Lê Văn M. là đại biểu quốc hội thì
có thể kèm danh hiệu ấy trước họ và tên của ông ta và viết:: ĐBQH Lê Văn M.. Nhưng nếu chỉ là đại
biểu Hội đông Nhân dân tỉnh, thì chẳng mấy
ai nêu cái danh hiệu ấy trước họ và tên
của mình.Hầu như các vị đại biểu
HĐND tỉnh hoặc huyện chẳng có ai
ghi danh hiệu ấy trước họ và tên của
mình.
Có lẽ vì bắt chước theo người
Nga nên ở Việt Nam đã có vài chục ông
giáo sư ghi danh hiệu viện sĩ ngay trước họ và tên của mình, ví dụ: GS
VS Nguyễn Văn X., GS VS Đặng Y., v.v, Nhưng, ở Việt Nam thì chẳng có
viện hàn lâm nào cả, mà phải có một viện hàn lâm quá quen thuộc, tương
tự như
Đảng Cộng sản Việt Nam vậy, thì các ông
viện sĩ của viện ấy mới có thể bắt chước cách xưng danh hiệu như người
Nga. Huống chi, cái danh “viện sĩ” của
các ông ấy lại có rất nhiều nguồn gốc,
phần nhiều là ảo, do sự “nhầm lẫn tai hại” mà có, hoặc nếu
không ảo thì lại là viện sĩ của những viện hàn lâm mà không mấy ai biết
đến.
Tóm lại, ở Việt Nam
ta, dù là ai, nếu ngay trước họ và tên của mình có chữ VS
(nghĩa là “viện sĩ”), hoặc viết hẳn là
Viện sĩ, thì cách viết như vậy là không ổn, chẳng khácgì ta gắn danh
hiệu đảng viên cho ông Barack Obama. Đương
nhiên, dù chỉ được bầu làm viện
sĩ của những viện hàn lâm có tên tuổi rất
mờ mịt thì cũng là một niềm vinh dự, và vẫn có thể khoe, nhưng phải viết đúng cách. Ví dụ, nếu
viết: Trịnh Văn K., viện sĩ Viện hàn
lâm khoa học Thế giới thứ ba thì
đúng là
người có văn hóa, nhưng nếu viết: GS
VS Trịnh Văn K. hay Viện sĩ Trịnh Văn K. thì không những chỉ
sai đối với tiếng Việt, mà ở bất cứ ngôn ngữ nào cũng không ổn..
II.GS Phan Huy Lê
cố ý mạo xưng Viện sĩ hàn lâm Pháp
1. Khởi đầu từ sự nhầm lẫn
Những nhầm lẫn về “viện hàn lâm” và “viện sĩ” đã được phân tích trong bài Lược
khảo về các tên gọi viện hàn lâm và viện sĩ cùng những nhầm lẫn tai hại, như
chúng tôi vừa đúc kết (và có viện dẫn thêm) thành 4 mục nhỏ trên đây đều rất
phổ biến, từ các em học sinh cho đến các
giáo sư hàng đầu các ngành khoa học xã
hội và ngôn ngữ đều mắc phải. Điều đó đã dẫn đến những sai lầm rất buồn cười. Thế
mà bản thân những người được gán danh hiệu ảo ấy vẫn cảm thấy phấn khởi, tự hào
và không muốn rời bỏ nó. Trong số bọn họ, liệu có ai chủ động mạo xưng hay
không? Thật khó khẳng định là không có. Nhưng
khi chưa tìm thấy chứng cứ cụ thể về sự mạo xưng, tác giả bài báo ấy chỉ
mới nói đến sự “nhầm lẫn tai hại”. Thân trọng như vậy là phải.
Riêng
về GS Phan Huy Lê, chúng tôi mới phát
hiện ra rằng, lúc đầu, quả là ông có
những “nhầm lẫn tai hại”, nhưng khi đã có người vạch ra sự nhầm lẫn thì ông
quyết không chấp nhận, và quyết chí mạo xưng. Sau đây là những chứng
cứ cụ thể.
Trên tạp chí Xưa & Nay số 383 (phát hành đầu tháng
7/2011) có bài “Giáo sư Phan Huy Lê được
bầu làm thông tín viên nước ngoài của
Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn học Pháp” chiếm trọn vẹn trang 8, khổ giấy A4
(xem hình ảnh thu nhỏ). Dưới bài này
không có tên tác giả. Vậy, đó là bài
của Ban biên tập Xưa & Nay. Trang báo này
in hình bức Thư thông báo của ông Jean Leclant, thư ký trọn đời của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn ở Pháp báo
tin về việc GS Phan Huy Lê được chỉ định
làm thông tín viên nước ngoài (Correspondant étranger), phần còn
lại gồm khoảng 700 chữ, phác họa những
nét cơ bản về Viện này.
Người viết bản tin ấy hẳn là một biên tập viên thạo tiếng Pháp, đã tra cứu tư liệu từ website chính thức của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn nên đã cung cấp được thông tin cần thiết và mới mẻ. Ông đã trình bày vắn tắt về lịch sử (thành lập năm 1663), quá trình phát triển, những nhiệm vụ và thành tựu của Viện này qua các thời kỳ. Bài báo cho biết, hiện tại, Viện này có 55 thành viên và 40 cộng tác viên ở nước ngoài.. Xin nói thêm, theo quy chế hiện nay, Viện có 55 thành viên chính thức, tức là 55 viện sĩ mang quốc tịch Pháp và 40 thành viên cộng sự người nước ngoài, tất cả đều tại vị trọn đời; ngoài ra, còn có 50 thông tín viên người Pháp (50 correspondants franÕais) và 50 thông tín viên nước ngoài (50 correspondants étranger) tại vị có thời hạn. Ông cũng cho biết “lý lịch trích ngang” (thiếu ngày sinh) của 7 thông tín viên nước ngoài được chỉ định ngày 27/5/2011, cùng một lần với GS Phan Huy Lê..
Như vậy, danh hiệu “thông tín viên” cho GS Phan Huy Lê đã được Ban biên tập của tạp chí Xưa & Nay tra cứu và dịc rát chính xác, vì Viện hàn lâm
Bi ký và Mỹ văn đã xác định rằng, correspondant đảm nhiệm vai trò “trạm thông tin khoa học bên cạnh Viên
hàn lâm”. Vậy, correspondant chính là là
thông tín viên. .
Cũng vẫn tạp chí Xưa & Nay, nhưng ở số 384 (phát hành
cuối tháng 7/2011), tại trang 16 và nửa trên của trang 17 lại có bài
Chúc mừng Giáo sư Phan Huy Lê, với
câu mở đầu như sau:
“Nhân dịp GS NGND Phan Huy Lê được
Viện Hàn lâm Văn khắc và Văn học nước Cộng hòa Pháp bầu là viện sĩ thông tấn nước ngoài* , Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển , Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam cùng phối hợp tổ chức buổi gặp mặt thân mật với sự tham gia
đông đảo và nhiệt tình của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp và sinh viên cũ và mới của GS Phan Huy
Lê tại Hội trường Lê Văn Thiêm, 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội.”
【Sau mấy chữ “Viện sĩ
thông tấn nước ngoài* “ có một dấu sao (*) để ghi chú thích ở cuối bài:
(*) Membre correspondant étranger de
l”Académie: Trên Xưa & Nay số
383, chúng tôi sử dụng cách dịch cũ từ những năm 1930 là “thông tín viên nước
ngoài”, khi thuật ngữ “Viện sĩ thông tấn” chưa phổ biến trong tiếng Việt. Nay
xin được sửa lại cho chính xác là: Viện sĩ thông tấn nước ngoài】..
Cuộc họp long trọng này diễn ra ngày 25/7/2011.
Độc giả tinh ý sẽ thấy ngay rằng, bài “Chúc mừng....” của Xưa & Nay số 384 nhăm mục đich gắn
danh hiệu “viện sĩ hàn lâm” cho ông Phan Huy Lê.và xóa bỏ danh hiệu “thông tín viên”
Hai bài
báo trên Xưa & Nay (số 383 và
384) cùng với các bản tin trên các báo khác đã giúp chúng ta hình dung động
thái của ông Phan Huy Lê trong tháng 7 năm 2011 như sau.
Đầu tháng 7 năm 2011, GS Phan Huy
Lê nhận được thư của ông Jean Leclant, thư ký trọn đời của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn ở Pháp thông báo về việc ông ta được
chỉ định làm thông tín viên nước ngoài (Correspondant étranger) của Viện ấy. Tạp chí Xưa và
Nay (của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam , mà ông Phan Huy Lê là chủ tịch)
là cơ quan báo chí được báo tin này rất sớm.. Chữ “correspondant” trong tiếng
Pháp (và correspondent trong tiếng Anh, корреспондент trong tiếng Nga) có nghĩa
là thông tín viên. Trong Viện hàn lâm
khoa học Nga (hoặc Liên xô trước đây) có hai ngạch thành viên: thứ nhất là
thành viên thực nhiệm (действительный член) là thành viên chính thức, được gọi
là akademik, tức là viện sĩ; thứ hai là thành viên thông tấn (член-корреспондент, chuyển sang tiếng Pháp
là membre-correspondant), không được gọi là viện sĩ. Nhưng ở
Việt Nam
suốt hơn nửa thế kỷ vừa qua, từ член-корреспондент bị dịch sai thành viện sĩ thông tấn, vì thiếu thông tin về các ngạch thành viên của Viện hàn lâm khoa học
Liên Xô. Bởi vậy, khi được mời làm Correspondant, GS Phan Huy Lê đinh ninh
rằng, hẳn đây cũng chính là membre-correspondant, tức là viện sĩ thông tấn.. Ông cũng tin rằng, ai cũng phải hiểu như mình,
cho nên chỉ cần đưa bản sao chụp Thư thông báo của ông Jean Leclant cho một
người biết tiếng Pháp trong Ban biên tập tạp chí Xưa
& Nay, tự khắc người ấy sẽ
giới thiệu ông Lê là viện sĩ thông tấn. Không ngờ, người này giỏi tiếng Pháp và cẩn
thận hơn hẳn ông Lê nên đã tìm đọc website chính thức của Viện hàn lâm Bi ký và
Mỹ văn Pháp để tìm hiểu ngọn nguồn. Nhờ vậy, ông ta đã giới thiệu được
những nét quan trọng của Viện này.và gọi
đúng nghĩa của chữ correspondant là thông tín viên. Vì ông Lê cũng nhầm
lẫn như một số người khác, nghĩ
rằng, Correspondant cũng là Membre correspondant như ở Nga mà lâu nay người ta vẫn dịch là Viện sĩ
thông tấn. Nếu không có sự nhầm lẫn như
thế thì chắc hẳn
ông đã căn dặn hoặc thương lượng với Ban biên tập ngay khi ông báo tin để không bị lộ bí mật như vậy.
Danh hiệu “thông tín viên” của GS
Phan Huy Lê đã được giảng giải rất
rành mạch trong bài Lược khảo về
các tên gọi.”viện hàn lâm” và “viện sĩ”
cùng nhứng nhầm lẫn tai hại, với
những cứ liệu rút ra từ website chính thức của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn
Pháp. Đó là sự thực không ai có thể chối cãi, là điều không thể đảo ngược.
2. Mạo
xưng Viện sĩ hàn lâm Pháp, đánh lừa cả
nước
Đến lúc đọc bài
báo trên Xưa & Nay số 383,
trang 8, ông Phan Huy Lê mới biết danh hiệu thực của mình chí là
thông tín viên, không phải là viện sĩ
như ông đã hiểu lầm. Sự thật đó khiến
ông cụt hứng. Ông bèn quyết chí mạo xưng là viện sĩ. Danh hiệu thật của ông Phan Huy
Lê bằng tiếng Pháp là Correspondant
étranger de l’Académie des Inscriptions et Belles Lettres, ông bèn thêm một
chữ Membre ở đàng trước để trở
thành Membre correspondant de l’Académie des Inscriptions et Belles Lettres rồi từ đó dịch sang tiếng
Viêt là Viện sĩ thông tấn của Viện hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn.
Khi đã lách được cái danh viện sĩ rồi, ông xưng luôn là Viện
sĩ hàn lâm Pháp. ..
Việc tạp chí Xưa & Nay đưa tin GS
Phan Huy Lê được bầu làm thông tín viên nước ngoài của Viện hàn lâm
Văn khắc và Văn học Pháp là một điều hết sức bất ngờ khiên ông Phan Huy Lê
chưng hửng, nhưng đó là sự thực. Nếu là
người trung thực, ông Phan Huy Lê phải
cảm ơn người đồng nghiệp đã “mở mắt” cho mình và tiếp nhận sự thực đó.
Nhưng, ông ta đã không chọn cách ứng xử
lương thiện như vậy. Thế là, ông lấy lại bình tĩnh, nén nỗi bực tức để bắt tay
vào cuộc vận động ráo riết với ý chí sắt đá, quyết mạo xưng là“viện sĩ hàn lâm Pháp”, rồi bắn tin
đến các cơ quan thông tin mạnh nhất để
phổ biến đến khắp mọi ngành, mọi địa phương, mọi người, Từ ngày 07/7/2011 trở đi, hàng ngàn trang
thông tin điện tử dồn dập đưa tin về việc GS Phan Huy Lê trở thành Viện sĩ hàn lâm Pháp. Sau đây, xin nêu
một số ví dụ:
Ngày 07/7/2011, báo điện tử
VietNamNet đăng bài Pháp bầu nhà sử học hàng đầu VN là viện sĩ (http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/29303/phap-bau-nha-su-hoc-hang-dau-viet-nam-la-vien-si.html)
Ngày 07/7/2011, báo điện tử Đất Việt,
diễn đàn của Liên hiệp các hội khoa học và
Kỹ thuật Việt Nam đăng bài GS Phan Huy Lê chính thức trở thành viện sĩ
danh dự Pháp
(http://baodatviet.vn/Home/congdongviet/
GS-Phan-Huy-Le-chinh-thuc-tro-thanh-vien-si-danh-du-Phap/20117/153916.datviet)
Ngày
08/7/2911, báo điện tử của Chính phủ
đăng bài Giáo sư Phan Huy Lê trở thành
Viện sĩ hàn lâm Pháp (http://baodientu.chinhphu.vn/Home/Giao-su-Phan-Huy-Le-tro-thanh-Vien-si-han-lam-Phap/20117/91210.vgp)
Ngày 08/7/2011, trang điện tử
của tạp chí Tia sáng đăng bài Giáo sư Phan Huy Lê trở thành Viện sĩ hàn lâm
Pháp (http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&News=4190&CategoryID=4)
Ngày
08/7/2011, báo điện tử vnExpress
đăng bài GS Phan Huy Lê được
vinh danh là viện sĩ Pháp (http://vnexpress.net/gl/khoa-hoc/2011/07/gs-phan-huy-le-duoc-vinh-danh-la-vien-si-phap/)
Ngày
11/7/2011, bản tin của Nhà xuất bản tri
thức đăng bài Giáo
sư Phan Huy Lê trở thành Viện sĩ hàn lâm Pháp ( http://nxbtrithuc.com.vn/viet-nam/145-gs-phan-huy-le-tro-thanh-vien-si-vien-han-lam-phap
)
Ngày 16/7/2011, báo điện tử của Đảng cộng sản Việt Nam
đăng bài Giáo sư Phan Huy Lê - Niềm tự hào của
giới sử học nước nhà, với câu mở đầu là: Lần đầu tiên có một người của ngành Khoa học xã hội Việt Nam
trở thành Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp. (http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30129&cn_id=468867).
Nên nhớ rằng, ở Pháp, các Viện sĩ hàn lâm Pháp được coi là những “Người bất
tử” (Immortels), là những vĩ nhân của
nước Pháp và của thế giới.
Tuy tạp chí Xưa & Nay
số 383 đã cho GS Phan Huy Lê một liều thuốc đắng vì nó đã tiết lộ
chính xác danh
hiệu thật ông ta, nhưng dẫu sao, vẫn còn có sự may mắn chô ông, bởi
hai lẽ. Thứ nhất là, tạp chí này có số phát hành không lớn, số độc giả
không nhiều nên “tin xấu” chỉ loang ra
trong phạm vi hẹp. Thứ hai là, tạp chí
này trực thuộc Hội Khoa học Lịch sử mà ông Lê là chủ tịch, nên khi đã
lỡ in ra và
phát hành một phần
nhỏ, ông có thể hãm lại ngay. Sau
khi ông Phan Huy Lê cùng những
người thân tín tổ chức những cuộc họp trọng thể để chúc mừng ông trở
thành viện sĩ hàn lâm Pháp, vị biên tập viên kia đành phải “đính chính”
bản tin đúng của mình, đúng theo ý
muốn của ông Phan Huy Lê.
Qua nhiều ngày nỗ lực thông báo khắp
nơi, tin về việc GS Phan Huy Lê trở thành viện sĩ hàn lâm Pháp đã được
đồng loạt đăng trên hàng trăm tờ báo
và tạp chí cùng hàng ngàn bản tin điện tử.
|
Đến ngày
25 /11/2011, “Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển , Hội Khoa học
Lịch sử Việt Nam cùng phối hợp tổ chức buổi gặp mặt thân mật với sự tham gia
đông đảo và nhiệt tình của các nhà khoa học, các bạn đồng nghiệp, sinh viên cũ và mới của GS Phan Huy
Lê tại Hội trường Lê Văn Thiêm, 19 Lê Thánh Tông, Hà Nội.” (Xưa & Nay,
số 384, tr. 16)
Cuộc mạo xưng danh hiệu Viện sĩ hàn lâm Pháp của GS Phan Huy Lê, với sự cộng tác đắc lực của GS Đinh Xuân Lâm và của nhiều vị giáo sư đàn em khác tưởng như đã thành công mỹ mãn và đã đánh lừa được cả nước. Nhưng, sự gian dối không thể che mắt mọi người mãi mãi. Đầu tháng 10 năm 2012, bài Lược khảo về các tên gọi “viện hàn lâm “ và “viện sĩ” cúng những nhầm lẫn tai hại (đăng trên tạp chí Nghiên cứu và Phát triển số 7 năm 2012 và xuất hiện trên mạng Internet), với lập luận chặt chẽ cùng những cứ liệu xác thực, đã chứng minh và khẳng định rằng GS Phan Huy Lê chỉ là thông tín viên nước ngoài của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn ở Pháp, không phải là viện sĩ. Sau bài báo ấy, chúng tôi tiếp tục tìm kiếm các tài liệu liên quan và đã phát hiện thêm rằng, danh hiệu viện sĩ hàn lâm Pháp của ông Phan Huy Lê là một sự mạo xưng liều lĩnh. Đúng là lúc đầu, vì thiếu hiểu biết nên ông Phan Huy Lê đã dịch chữ correspondant (thông tín viên) thành “viện sĩ thông tấn”. Nhưng khi đã được ông bạn đồng nghiệp ở tạp chí Xưa & Nay giải mê và “mở mắt” cho mình, ông ta không vượt qua nổi căn bệnh hiếu danh nên đã dấn bước vào việc mạo xưng.
GS Phan Huy Lê và phu nhân cùng chụp ảnh
lưu niệm với cán bộ, lãnh đạo Trường Đại
học KHXH&NV, Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển, Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam : (Ảnh NA/USSH)
III.
Nhọ nhem lắm rồi, lầy gì lau cho sạch?
Danh hiệu Thông tín viên của ông Phan Huy Lê là hoàn toàn chính xác. Ông
Phan Huy Lê chỉ là Thông tín viên nước ngoài của Viện hàn
lâm Bi ký và Mỹ văn ở Paris . Bài Lược khảo về các tên gọi ‘viện hàn lâm “ và
“viện sĩ” ...đã chứng minh điều đó một cách rõ ràng. .Đến nay, chúng ta còn biết thêm rằng, ông Phan Huy Lê đã cố ý mạo xưng
là viện sĩ thộng tấn của Viện hàn lâm
Bi ký và Mỹ văn, rồi nâng lên
thành Viện sĩ hàn
lâm Pháp. Đó là những tội lỗi
rành rành, không thể chối cãi. hoặc
tẩy rửa. Vậy mà vẫn có kẻ trơ trẽn tìm cách vu cáo người khác để lau mặt cho ông Phan Huy Lê.
Ngày 25/11/2012, trên bản tin điện tử
của khoa Văn học và Ngôn ngữ của trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn t/p
HCM , tại địa chỉ
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=3681%3Av-nhng-sai-lm-tai-hi-ca-ong-le-mnh-chin&catid=100%3Avn-hoa-lch-s-trit-hc&Itemid=161&lang=vi
đã đăng bài Về “những sai lầm tai hại” của ông Lê Mạnh
Chiến của GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
(Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học quốc gia Hà Nội) để phản bác
và lkết tội tác giả của bâì Lược
khảo về các tên gọi ‘viện hàn lâm “ và
“viện sĩ” ...
Ông Nguyễn Quang Ngọc viết:
.....
Trong bài viết của mình, ông Lê Mạnh Chiến đưa ra cách dịch của cá nhân
để loại trừ tất cả những nhà khoa học Việt Nam được các Viện Hàn lâm nước ngoài
bầu làm “Membre étranger” (cho chỉ là “Thành viên nước ngoài”) hay “Correspondant
étranger” (cho chỉ là “Thông tín viên nước ngoài”). Theo ông tất cả các danh
hiệu “Viện sĩ nước ngoài” hay “Viện sĩ thông tấn nước ngoài” đều là “những nhầm
lẫn không nhỏ trong việc sử dụng tên gọi Viện sĩ” và Việt Nam chưa hề có ai là
Viện sĩ cả, tất cả đều là “gọi nhầm, hiểu nhầm”
Tôi không
bàn luận về toàn bộ bài viết cùa ông Lê Mạnh Chiến mà chỉ đi vào một trường hợp
mà tác giả cố tình lấy làm ví dụ cụ thể. Tôi cũng xin được gạt ra ngoài những
lời lẽ không được văn hóa của tác giả, để công luận phán xét. Tôi viết về
trường hợp GS Phan Huy Lê mà tôi có điều kiện biết khá cặn kẽ. Tuy nhiên, ngay
trong trường hợp cụ thể này tôi cũng chỉ tập trung vào một số nội dung cốt lõi
mà thôi.
Sau đó, ông Ngọc đã căn cứ theo một số cuốn từ điển như Pháp-Việt từ điển (1936) của GS Đào
Duy Anh, Dictionnaire FranÇais-Vietnamien của Ủy ban Khoa học xã
hội do Lê Khả Kế chủ biên (1981), Từ điển Việt-Pháp của Viện Khoa học xã
hội do Lê Khả Kế, Nguyễn Lân chủ biên (1994) và Từ điển bách khoa Việt Nam của
Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam (tập IV,
2005).nhằm chứng minh rằng ông
Lê Mạnh Chiến đưa ra cách dịch của cá nhân để loại trừ tất cả những nhà
khoa học Việt Nam được các Viện Hàn lâm nước ngoài bầu làm “Membre étranger”
(cho chỉ là “Thành viên nước ngoài”) hay “Correspondant étranger” (cho chỉ là
“Thông tín viên nước ngoài”).
Một điều rất đáng lưu ý là ông Nguyễn Quang Ngọc chỉ dựa vào
các cuốn từ điển để phản bác, mà hoàn toàn
né tránh mọi lý lẽ mà tác giả Lê
Mạnh Chiến đã trình bày rất rõ ràng khi dịch các danh hiệu “Membre étranger” là thành
viên nước ngoài và “Correspondant
étranger” là thông tín viên nước
ngoài. Trong khi đó, tác giả Lê Mạnh Chiến đã căn cứ vào quy chế và lời
diễn giải về các ngạch thành viên ở các
viện hàn lâm để dịch các danh hiệu ấy..
Về các
ngạch thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga (và Liên Xô trước đây,
cũng như của các viện hàn lâm ở các nước Đông Âu sao chép theo khuôn mẫu Liên Xô), tác giả Lê Mạnh
Chiến viết:
【【 Sau đây, tôi xin viện dẫn mục Члены РАН trong bài Росси́йская акаде́мия нау́к (Viện hàn lâm khoa học Nga) tại từ
điển Wikipedia tiếng Nga (mà mọi người sử dụng Internet đều rất dễ tìm
thấy) để diễn giải về các ngạch thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga.. Đó
cũng là quy định của Viện hàn lâm khoa
học Liên Xô trước kia.
. Члены РАН (Nguồn : http://ru.wikipedia.org/wiki/Российская_академия_наук)
Членами Российской академии наук являются действительные
члены РАН (академики) и члены-корреспонденты
РАН. Главная обязанность членов Российской академии наук состоит в том, чтобы
обогащать науку новыми достижениями. Члены РАН избираются общим собранием
академии. Членами Российской академии наук избираются учёные, являющиеся
гражданами Российской Федерации. Члены Российской академии наук избираются
пожизненно. Действительными
членами РАН избираются учёные, обогатившие науку трудами
первостепенного научного значения. Членами-корреспондентами РАН избираются учёные, обогатившие науку
выдающимися научными трудами.
По состоянию на 23 декабря 2011 года
среди членов РАН были 531 академик и 769 членов-корреспондентов.
(Последнее
изменение этой страницы: 15:35, 22 сентября 2012)
Xin đổi chữ РАН (Росси́йская акаде́мия нау́к)
nghĩa là Viện hàn lâm khoa học Nga thành chữ RAS (Russian
Academy of Siences) và
chuyển đoạn văn trên đây sang tiếng Việt, như sau:
Các
thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga
Các thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga (RAS) gồm có các thành viên
chính thức (các viện sĩ - akademiki) và các thành viên thông tấn. Trách nhiệm
chủ yếu của các thành viên RAS là phải đóng góp cho khoa học bằng những thành
tựu mới. Hội nghị toàn thể của Viện hàn lâm bầu ra các thành viên của Viện. Các nhà bác học được bầu làm thành
viên RAS phải là công dân của Liên bang Nga. Các thành viên RAS được bầu
suốt đời. Các nhà bác học đã hoàn thành những công trình có ý nghĩa khoa học hàng đầu để cống hiến cho
khoa học thì được bầu làm thành viên
chính thức (trở thành viện sĩ). Các nhà bác học đã góp những công trình khoa
học xuất sắc cống hiến cho khoa
học thì được bầu làm thành viên thông tấn.
Theo tình trạng đến ngày 23/12/2011, trong số
các thành viên của RAS đã có 531 viện sĩ và 679 thành viên thông tấn (LMC dịch)
(Sự
thay đổi gần đây nhất của trang này là vào hổi 15h23’ ngày 22.0.2002)】】
Như vậy, theo từ điển Wikipedia tiếng Nga thì Viện hàn lâm khoa học Nga có hai ngạch thành viên. Thứ nhất là thành
viên chính thức (действительные
член, nếu dịch thật sát nghĩa thì gọi là thành viên thực nhiệm), là akademik,
là viện sĩ. Thứ hai là thành viên thông
tấn (член-корреспондент), có tư cách thành viên thấp hơn, chưa phải là thành
viên chính thức, chưa phải là viện sĩ. Bởi vậy, nếu gọi họ là viện sĩ thông
tấn. thì sai, danh hiệu “viện sĩ” (akademịk) phải dành cho thành viên chính
thức.
Thực ra,
còn có một ngạch thành viên nữa nhưng
có lẽ ít quan trọng nên từ điển Wikipedia
tiếng Nga đã vbỏ
qua, đó là thành viên nước ngoài (tiếng Nga gọi là иностранные члены),
nhưng trên Wikipedia tiếng Anh thì có
nhắc đến
Theo quy chế của Viện hàn lâm khoa học Nga,
có hai điều đáng chú ý:
1.
Chỉ riêng các thành viên
thực nhiệm mà tiếng Nga gọi là действительные члены mời được gọi là академики, là các viện sĩ;
các thành viên thông tấn (члены-корреспонденты)
không được gọi là академики nên không thể gọi
là viện sĩ thông tấn.
2.
Các viện sĩ và các thành viên thông tấn của Viện hàn Lâm khoa học Nga đều phải là những người mang quốc tịch Nga
Vậy thì người Việt Nam
không thể là viện sĩ của Viện hàn
lâm khoa học Nga , mà chỉ có thể là thành viên nước ngoài của Viện hàn lâm này
mà thôi. Đối với các nước XHCN
Đông Âu cũng vậy. .
Về danh hiệu “thông tín viên” của ông Phan Huy Lê, tác giả Lê
Mạnh Chiến viết:
【【....tôi tìm đọc bài viết về Académie des Inscriptions et Belles-Letres
trong Wikipedia tiếng Pháp. Văn bản này được chỉnh lý lần cuối cùng vào ngày
02/9/2012, trong đó không có một chữ nào nói đến membre-correspondant hoặc
correspondant của Viện này. Tôi lại tìm đọc Liste des membres de l'Académie
des inscriptions et belles-lettres de l'Institut de France.tức
là Danh sách các thành viện của Viện
Bi ký và Mỹ văn ở Pháp, nơi mà các báo đưa tin là GS Phan Huy Lê được bầu
làm viện sĩ thông tấn nước ngoài.
Theo danh sách này, từ khi thành lập
(năm 1663) đến ngày 02/9/2012, cả
thảy có 670 vị là thành viên người Pháp (viện sĩ), trong đó
có ghi rõ chức vụ, nghề nghiệp, lĩnh vực nghiên cứu, năm sinh, năm mất, năm
được bầu làm viện sĩ. Năm 2011, Viện đã bầu 3 viện sĩ là FranÕois Déroche (sinh năm 1954), Jean Guilaine (sinh năm 1936) và Véroniquee Schiltz (sinh năm 1942). Năm 2012, Viện cũng bầu 3 viện sĩ là Pierre Gros (sinh năm 1939),
Jehan Desanges (sinh năm 1929)
và Jacques Verger (sinh năm 1943). .
Bên cạnh danh sách này, còn kèm theo
danh sách Associés (chúng tôi tạm
dịch là các cộng sự viên, hay thành viên cộng sự), Associés libres (cộng sự viên tự do) và Associés étrangers (cộng sự viên nước ngoài).Tất
cả các danh sách này đều không có tên GS
Phan Huy Lê. Trong danh sách Associés étrangers, chúng tôi thấy có tên ông Norodom
Sihamoni, đương kim Quốc vương Căm-pu-chia (sinh năm 1953, được bầu chọn từ năm 2008)
Cần nhớ rằng, từ năm 1663 đến nay, Viện
này đã 4 lân thay đổi tên và 5 lần thay đổi quy chế về thành viên, trước đây có
khi gồm vài ngạch viện sĩ và vài ngạch cộng sự viên. Hiện nay, có một ngạch
viện sĩ người Pháp và một ngạch thành
viên cộng sự, người nước ngoài.
Như vây, GS Phan Huy Lê không có tên
trong danh sách các viện sĩ và các cộng sự viên (associés) của Académie des Inscriptions et Belles –Lettres.
Vì không có ngạch thành viên thông tấn nên không có gì bám víu để từ đó có thể cố ý dịch sai, biến ông thành
viện sĩ thông tấn. rồi nhích dần lên viện sĩ.
Để tìm cho rõ danh vị của GS Phan Huy
Lê trong Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn,
tôi phải tìm website chính thức
(Official website) của viện này tại
địa chí: http://www.aibl.fr/?lang=fr
)
Tìm đến trang chủ của Website này, click vào mục
MEMBRES (hoặc tìm trực tiếp tại địa chỉ:: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr thì sẽ thấy một trang nói rõ về các ngạch
thành viên, như sau:
Membres L’Académie des
Inscriptions et Belles-Lettres se compose de cinquante-cinq académiciens de
nationalité française et de quarante associés étrangers.
Elle comprend également cinquante correspondants français
et cinquante
correspondants étrangers.
L’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres
réunit en son sein des personnalités de qualification exceptionnelle, hautement
représentatives. Les académiciens sont des savants élus à vie par leurs pairs
en raison de la qualité de leurs travaux dans les disciplines relevant de la
compétence de l’Académie (archéologie, histoire, philologie et leurs multiples
branches et spécialités), de leur puissance de travail ainsi que de leur
renommée internationaleLorsqu’un fauteuil d’académicien est déclaré vacant par
suite de décès, l’Académie décide, à la majorité des suffrages exprimés, de
l’opportunité de pourvoir à son remplacement ; si tel est le cas, le
Bureau propose une date pour
l’élection
du nouveau membre, sinon, une nouvelle délibération a lieu sur la question
après un délai de six mois. Contrairement à une règle généralement de mise dans
le monde académique, il n’y a pas d’appel à candidature à l’Académie des
Inscriptions et Belles-Lettres, chaque académicien ayant la liberté de proposer
un candidat dont il fait distribuer les titres et travaux. L’élection a lieu au
scrutin secret et à la majorité absolue des académiciens présents.
Les associés étrangers, élus selon le
même principe et souvent membres des Académies les plus prestigieuses de leur
pays, sont choisis parmi les maîtres les plus éminents à travers le monde. Quant
aux correspondants, ils assurent un rôle de relais de l’information
scientifique auprès de l’Académie et participent à sa vie et à ses travaux;
choisis par les académiciens, ils constituent un vivier de personnalités de premier
plan parmi lesquelles l’Académie a pris l’habitude de recruter souvent ses
nouveaux membres. (Nguồn: http://www.aibl.fr/membres/?lang=fr)
Dịch sang tiếng Việt::
Các thành viên (của Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn)
Viện
HL Bi ký và Mỹ văn gồm có 55 viện sĩ (académiciens) có quốc tịch Pháp và 40
cộng sự viên nước ngoài. Nó còn bao gồm 50 thông tín viên (corresondants) người
Pháp và 50 thông tín viên nước ngoài.
Viện HL Bi ký và Mỹ văn tập hợp các nhân vật đạt trình độ nghiệp vụ
ngoại hạng có tính đại diên cao. Các
viện sĩ là những nhà bác học được những người đồng đẳng bầu suốt đời do
phẩm
chất của những công trình của họ trong các bộ môn thuộc thẩm quyền của
Viện (khảo cổ học, lịch sử, ngữ văn học, cùng nhiều ngành và nhiều
chuyên
khoa của chúng), do năng lực làm việc và thanh danh quốc tế của họ.
Khi một chiếc ghế bành (fauteuil)
viện sĩ được tuyên bố là khuyết vì chủ
nhân đã qua đời, Viện sẽ theo đa số những
ý kiến được bày tỏ để quyết định cơ hội bổ nhiệm người thay thế; trong trường
hợp đó, Văn phòng sẽ đề nghị một ngày để bầu thành viên mới, nếu không, thì
phải có một cuộc thảo luận về vấn đề này sau thời hạn sáu tháng. Khác với quy
tắc thường được áp dụng trong giời học thuật, không có việc kêu gọi ứng cử vào
Viện Bi ký và Mỹ văn, mỗi viện sĩ được tự do đề cử một ứng cử viên, giới thiệu
các chức vị và các công trình của người
ấy. Việc bầu chọn được thực hiện bằng cách bỏ phiểu kín và theo đa số tuyệt đối
của các viện sĩ có mặt.
Các cộng sự viên nước ngoài, được bầu theo đúng nguyên tắc như vậy, và
thường là viện sĩ của các Viện có uy tín nhất ở nước họ, được chọn trong số
những bậc thầy nổi tiếng nhất trên thế giới. Còn về các thông tín viên (correspondant),
họ giữ vai trò trạm thông tin khoa học
bên cạnh Viện HL Bi ký và Mỹ văn
và tham gia sinh hoạt cùng các công việc của Viện; họ được các viện
sĩ bầu chọn, họ hợp thành một nhóm nhân
vật quen thuộc hàng đầu để từ đó, Viện
tuyển chọn các thành viên mới, theo thói
quen thường có. (LMC dịch)
Qua đoạn văn trên đây, chúng ta biết
rằng, các cộng sự viên nước ngoài (Associés étrangers) là những nhà bác
học lớn có tầm cỡ ngang hàng với các
viện sĩ người Pháp, nhưng họ không có danh hiệu viện sĩ vì họ không mang quốc
tịch Pháp. Nếu gọi họ là “viện sĩ nước ngoài” thì chưa đúng về ngôn từ, vì người Pháp không gọi
họ như vậy, nhưng đúng về thực chất. Còn các correspondant, phâỉ dịch chính xác là thông tín viên, hay người truyền
tin vì họ được xác định là các trạm thông tin khoa học bên cạnh Viện HL
Bi ký và Mỹ văn. So với viện sĩ, họ có cương vị thấp hơn rất nhiều, họ cũng
không được bầu suốt đời (thông tín viên Francisco Rico, người Tây Ban
Nha mà GS Phan đã thay thế, sinh năm 1942, vẫn đang sống). Họ cũng không phải
là những ứng cử viên sẵn có để chờ khi có viện sĩ qua đời thì sẽ được chọn lựa.
GS Phan Huy Lê được chọn làm người truyền tin nước ngoài ngày 27/5/2011 cùng với 7 người khác. Trước
đó một năm rưỡi, ngày 06/11/2009, Viện này cũng đã thay 8 người truyền tin nước ngoài và 8 người truyền tin trong nước.】】
Xin bổ sung một chút, Ông Francisco Rico
đã được bầu làm associé étranger (cộng sự viên
nước ngoài) ngày 04/6/2010, ở “ghế bành” của Dietrich von BOTHMER.
Ông
Nguyễn Quang Ngọc nên chú ý đến
câu này:trong Quy chế về thành viên của viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn:: Còn
về các thông tín viên (correspondant), họ giữ vai trò trạm thông tin khoa
học bên cạnh Viện HL Bi ký và Mỹ
văn và tham gia sinh hoạt cùng các công
việc của Viện (Nguyên văn bằng
tiếng Pháp: Quant aux correspondants, ils
assurent un rôle de relais de l’information scientifique auprès de l’Académie
et participent à sa vie et à ses travaux).
Chỉ riêng việc xác định chức danh “thông
tín viên” cho ông Phan Huy Lê, tác giả
Lê Mạnh Chiến đã phải tra cứu từ Quy chế
về các
loại thành viên của Viện hàn lâm
Bi ký và Mỹ văn, vừa dịch vừa giải thích hết
gần 1400 chữ, kể
cả phần
nói về các ngạch thành viên của Viện hàn lâm khoa học Nga, tác giả này đã viết
hơn 2000 chữ. Thế mà ông Nguyễn Quang Ngọc viết là “ông
Lê Mạnh Chiến đưa ra cách dịch của cá nhân để loại trừ tất
cả những nhà khoa học Việt Nam được các Viện Hàn lâm nước ngoài bầu làm “Membre
étranger” (cho chỉ là “Thành viên nước ngoài”) hay “Correspondant étranger”
(cho chỉ là “Thông tín viên nước ngoài”)....” Còn ông Ngọc thì cặm cụi tra từ điển bằng tiếng Việt. để vạch rõ “sai
lầm” của ông Lê Mạnh Chiền. Điều đó đủ
thấy trình độ học lực và phương
pháp nghiên cứu của ông GS TS Nguyễn Quang Ngọc.
Nên nhớ rằng, trong nghề dịch thuật, các từ điển (nhất là từ điển song ngữ) chỉ
là tài liệu tham khảo, nhiều khi người ta
phải tra cứu hàng chục bộ từ điển mới tìm được một nghĩa thỏa đáng. Đối
với những từ
khó, những thuật ngữ phức tạp, có
khi người ta phải tra rất nhiều
bộ từ điển bản ngữ kết hợp với văn cảnh cụ thể mà nhiều khi cong
lúng túng.. Vậy mà ở đây không thấy ông
Ngọc sử dụng một bộ từ điển nào bằng tiếng Nga
hay tiếng Pháp. Trong các văn bản pháp quy, đối với những khái
niệm hay những thuật ngữ quan trọng, người ta đều diễn giải rõ nghĩa của
chúng, và nhất thiết phải căn cứ vào đó để hiểu hoặc để dịch sang ngôn
ngữ khác. Cặm cụi tra cứu từ điển (nhất
là từ điển song ngữ) để hiểu và để dịch là công việc của học sinh tiểu
học. Học sinh tú tài thời Pháp thuộc chẳng có ai làm công tác “dịch thuật”
kiểu như
thế, chưa cần nói đến những
người có học vấn cao hơn.
Ông
Nguyễn Quang Ngọc đã chỉ trích phê phán tác giả Lê Mạnh Chiến một cách
không đàng hoàng. Ông ta không bám theo lý lẽ của tác giả này để phê
phán hay “phản biện” mà tự “luận tội” một cách vu vơ, lại còn dám xúc
phạm tác giả này là có
“những lời lẽ không được văn hóa” nhưng không nêu được bằng chứng gì cả.
Bởi
thế, bài Lược khảo... của tác
giả Lê Mạnh Chiến vốn từng được đăng trên bản tin khoavanhoc-ngonngu.edu.vn đã bị gỡ xuống để thay bằng bài của ông
Ngọc. Nếu tác giả Lê Mạnh Chiến đã phạm
“những sai lầm tai hại” thì cứ để nguyên bài ấy cho độc giả đối chứng, sao lại phải xóa đi? Tuy
chưa đến mức gọi là “ngậm máu phun
người” nhưng những thứ mà ông Ngọc phun
ra cũng chẳng sạch sẽ gì.
Điều tệ hại nhất của ông Ngọc ở
đây là sự sai lầm nghiêm trọng về kiến
thức và phương pháp kèm theo sự vu cáo
tác giả Lê Mạnh Chiến một cách thiếu căn
cứ, mờ ám..
Ông Nguyễn Quang Ngọc và cả ông Phan Huy Lê, nếu
muốn bác bỏ lời phán xét của tác giả Lê Mạnh Chiến thì
hãy đọc cho kỹ bài Lược
khảo về các tên gọi “viện hàn lâm” và
“viện sĩ” cùng những nhầm lẫn tai hại, sau đó mới liệu sức liệu tài mà
“phản biện” nhé.
Một chi tiét rất nhỏ nhưng
cũng cần nhắc đến. Ông Ngọc thấy có chữ
“fauteuil” (ghế bành) ở câu “Viện hàn lâm Bi ký và Mỹ văn đã chỉ định
tiên sinh làm Thông tín viên nước ngoài tại
ghế bành mà trước đây thuộc về
Francisco Rico”.trong Thư thông báo gửi tới ông Phan Huy Lê, rồi
coi đó như là bằng chứng về địa vị “viện sĩ”
của ông Phan Huy Lê. Xin thưa với ông Ngọc rằng, trong ngôn ngữ xã
giao, về những điều vụn vặt,
người ta sử dụng những từ ngữ cho đẹp thêm cũng không sao. Nhưng, trong
“Giấy chứng nhận” chức danh thông tín viên của ông Phan
Huy Lê, có câu
Nommé le 27 mai 2011 correspondant étranger à la place de
Francisco Rico (Được chỉ định ngày 27
tháng 5năm 2011, làm thông tín viên nước ngoài tại vị trí của Francisco
Rico). Trong klhi đó, “Giấy chứng nhận” của ông Francisco Rico thì ghi: Élu, le 4 juin 2010, associé étranger de
l’Académie des Inscriptions et Belles-Lettres, au fauteuil de Dietrich
von BOTHMER. (Được bầu ngày
04/5/2011, làm Cộng sự viên nước
ngoài của Viện hàn lâm Bi ký
và Mỹ văn, tại ghế bành của ông Dietrich
von BOTHMER. Thế đấy, ông GS TS Nguyễn Quang Ngọc ạ.
GS
Nguyễn Quang Ngọc đã hét sức cố gắng lau rửa mặt mũi cho GS Phan Huy Lê. Tuy nhiên, với phương pháp
không sạch và vật liệu không sạch, làm sao mà lau rửa được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001