Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

9 con đường Liên-Âu: Thâu cả châu về một mối ( 1 - 3 )

9 con đường Liên-Âu: Thâu cả châu về một mối [1]



|
Lộ trình xuyên nước Pháp và Đức bằng đường xe lửa.  Bắt đầu từ thành phố Frankfurt > Amsterdam > Hannover > Paris > Marseille > Montpellier > Nimes > Paris > Munich > Stuttgart > Mannheim > Mainz > và kết thúc ở Frankfurt. (Nguồn: Bản đồ Planning Map of Europe của AAA)
Lộ trình xuyên nước Pháp và Đức bằng đường xe lửa.
Bắt đầu từ thành phố Frankfurt > Amsterdam > Hannover > Paris > Marseille > Montpellier > Nimes >
Paris > Munich > Stuttgart > Mannheim > Mainz > và kết thúc ở Frankfurt.
(Nguồn: Bản đồ Planning Map of Europe của AAA)
Ký Sự Tản Mạn Hè 2013 
HỒI MỘT:  THĂM NƯỚC PHÁP

Cá nhân tôi đã viếng thăm châu Âu bảy lần kể từ năm 1985. Mỗi lần chỉ đi xem có một thành phố. Hè năm nay (2013), Vĩnh Thanh Thảo và tôi làm một cuộc viễn du bằng xe lửa tốc hành, đi xe thường (TER) hoặc xe TGV chạy cực nhanh (vận tốc 320km/giờ, tiếng Pháp gọi là Trains à Grande Vitesse, viết tắt TGV), trong vòng 5 tuần lễ, xuyên qua hai xứ Pháp và Đức. Đây là hai quốc gia đầu đàn của Liên-hiệp châu Âu (hay Liên-Âu, European Union, EU). Chuyến đi tuy dài và hơi mệt mỏi vì chúng tôi ăn uống và ngủ nghỉ thất thường, nhưng được gặp gỡ, hàn huyên và trò chuyện cùng đồng bào người-gốc-Việt qua 10 thành phố; rồi lại được bằng hữu hướng dẫn đi thăm danh lam thắng cảnh ở các địa phương, nên chuyến đi này trở thành đầy thú vị và ý nghĩa.
Xe lửa TGV (320km/giờ)
Xe lửa TGV (320km/giờ)
Nền kinh tế thế giới đang hồi thở ra nên gây sự khó chịu cho nhiều cá nhân, gia đình và đất nước trên toàn cầu. Tăng trưởng là ‘hít vào’. Lạm phát cao và thất nghiệp nhiều là ‘thở ra’. Liên-Âu là một khối thị trường chung gồm 28 anh em quốc gia, đùm bọc nhau dưới một mái chợ. Chợ Liên-Âu này gồm có: vài xóm nhà ngói như Anh, Pháp, Đức, Thụy-sĩ, Bỉ, Hà-lan, Đan-mạch …; xóm nhà lá như Ý-đại-lợi, Bồ-đào-nha, Latvia, Malta, Estonia …; và xóm nhà cháy như Hy-lạp, Tây-ban-nha… Không những phải lo cho nội bộ không-đồng-đều của khối, chợ Liên-Âu (hay còn gọi là Chợ Tây, Tây là Tây-phương) còn phải chung vai đối phó với Chợ TàuChợ Mỹ trong bối cảnh tam-quốc-chí thời cao-kỹ (high technology) đang ganh đua tranh giành trong thế kỷ 21.
Chúng tôi đi thăm hai xứ hàng đầu của Liên-Âu: ĐứcPháp, để quan sát cùng học hỏi nghệ thuật lãnh đạo của nhà nước, cũng như thăm viếng dân tình thế thái của người-gốc-Việt trong hai xứ này. Pháp đã cố công thiết lập và Đức đang gắng sức bảo quản ngôi chợ Liên-Âu. Tính đến năm 2011: Pháp chứa khoảng 300 ngàn người Pháp-gốc-Việt (người Pháp-Việt); Đức chứa khoảng 150 ngàn người Đức-gốc-Việt (người Đức-Việt). Trên thế giới có 4 triệu người-gốc-Việt sinh sống ngoài VN. Bài ký sự này gồm hai hồi: Hồi Một viết về xứ Pháp và Hồi Hai về xứ Đức.


Vì đại nghĩa không màng danh lợi,
Luận anh hùng chớ kể dại khôn.
Văn minh xứ Pháp ta tôn
trọng: làm vừa đủ, chơi cho sướng đời!
Đi Pháp kỳ này, tôi quyết tâm xuống miền nam cho bằng được để thăm Marseille, tìm lại bóng dáng của một người bà con trong đại gia đình của bà tôi, mà tôi chưa có dịp thấy mặt. Bà Ngoại tôi hồi còn sống (1960) có kể lại cho con cháu nghe về cuộc đời của ông-cậu tôi (ông là em-bạn- dì của bà tôi). Đó là Ông Tám Xuân (Nguyễn Văn Xuân, 1904-1965). Vào đầu thập niên 1920, đúng lúc ông Tám tôi 19 tuổi, đô con, rất khỏe nhưng ít học, được lính Tây ở Chợ Đệm mộ sang Pháp làm lính chiến vì lúc bấy giờ mẫu quốc Pháp đang thiếu quân binh phục vụ cho các chiến trường thuộc địa.
Sau thế chiến thứ hai, từ Marseille ông Tám viết thơ về thăm mẹ (bà-cố-ngoại tôi), cho biết là ông đã lấy vợ đầm và định cư ở lại Marseille vì được chính phủ Pháp thưởng công chiến trận trong quân đội viễn chinh của Pháp (1948). Ông Tám làm lính lê-dương bên châu Phi (Africain légionnaire) nên chính phủ Pháp tưởng thưởng cho vào quốc tịch. Theo lời bà cố tôi thì ông Tám muốn về thăm mẹ già ở quê hương ViệtNam lắm, nhưng lúc bấy giờ bà cố tôi rất giận ông Tám vì ông ham chơi không chịu học hành và ngỗ nghịch hồi còn nhỏ; lớn lên, lại đi làm chiến binh cho Tây, rồi theo mácxít, còn lấy thêm vợ đầm, nên bà cố bảo ông Tám: “Mầy mê Tây và cộng sản, đừng có về gặp tao!”
Bà ngoại tôi còn cho biết là ông Tám đau khổ lắm vì không có con với bà đầm, lại thêm bịnh hoạn vì thương tích chinh chiến bên châu Phi, và nhất là bà cố tôi giận không muốn cho nhìn mặt. Có một chi tiết nhỏ mà tôi vẫn còn nhớ rõ ràng là, ông ngoại tôi nói cho mẹ tôi biết là ông Tám Xuân đi theo cộng sản đệ-tứ thuộc nhóm ông Tạ Thu Thâu, vì ông Tám có viết thư chiêu dụ ông ngoại tôi khoảng đầu năm 1950.
Nhưng ông ngoại tôi không chịu nghe theo lời ông Tám vì khi còn thanh niên, ông ngoại tôi đã đi theo đường hướng của cụ Phan Châu Trinh rồi. Nhóm Tạ Thu Thâu cũng đấu tranh giành độc lập cho ViệtNam, nhưng bị phe cộng sản đệ-tam của Hồ Chí Minh theo Stalin tiêu diệt nhóm đệ-tứ chết ráo. Hai mươi năm sau thế chiến thứ hai, ông Tám Xuân chết bịnh ở Marseille vào năm 1965, thọ được 62 tuổi.
Tôi thương tiếc cho số phận của Ông Tám Xuân. Sinh-bất-phùng-thời (được sinh ra trong một thời kỳ đen tối). Tôi muốn đi thăm bến tàu Marseille, hải cảng đã nhận hàng chục ngàn con dân ViệtNam qua Pháp làm chiến binhcông binh. Cũng tại Marseille, bến tàu đã đưa chiến binh ViệtNam trong đạo quân viễn chinh Pháp qua châu Phi cai trị dân Sénégal, Madagascar, Algéri, Marocco … Cũng tại cảng Marseille này, nhiều lính Pháp-gốc-Việt trở thành công dân Pháp sau chiến tranh, ở lại Pháp, lập gia đình với người địa phương và xây dựng nghề nghiệp tại đây, miền nam nước Pháp. Và tôi muốn đi thăm bến tàu Marseille vì nó cũng là bến tàu lịch sử gắn bó cuộc đời của ông-cậu tôi.
  1. Đến Bến Tàu MARSEILLE
Tưởng tượng lại hình bóng của Ông Tám Xuân trong đầu tôi vẫn không thắng nổi cơn đói trong bụng vào một buổi sáng đẹp trời của Marseille, nên tôi phải kiếm cái gì lót dạ trước đã. Tôi rất thích bánh mì baguette của Pháp, loại vỏ thiệt cứng bên ngoài, gõ u đầu; nhưng bên trong ruột thì mềm và dai, và toàn thân bánh phải còn nóng hổi.
Tôi vội vọt xuống đường, chạy ra một tiệm boulangerie (tiệm chuyên môn làm bánh mì) ở đầu phố cách khách sạn chừng 200 mét, vớt về hai ổ bánh mì còn thiệt nóng, mới ra lò. Ổ thường: ốm và dài, giá 80 xu. Ổ mập hơn, hai đầu vót nhọn rất cứng, loại mà tôi thích nhất, giá 85 xu đắt hơn ổ thường 5 xu vì nướng lâu hơn và công vót nhọn hai đầu. Thêm (beurre), vài miếng thịt nguội, một cái trứng ốp-la, một tách cà-phê, và không quên nước tương maggi, thế là tôi đã có một buổi ăn sáng sang trọng nhất thế giới!        
Tây ăn bánh mìnước tương y như Ta ăn cơmnước mắm. Maggi là tên hiệu nước tương nổi tiếng của Chợ Tây Liên-Âu, gốc từ xứ Thụy-sĩ, và các nước Pháp, Đức, Hà-lan đều có hãng chế biến riêng của mỗi xứ. Nhưng theo khẩu vị chủ quan của tôi thì maggi làm tại Pháp là ngon hơn hết. Maggi Hà-lan có loại hơi cay cay, nhãn hiệu viết thêm chữ ‘hot’, chứa trong chai thiệt nhỏ với giá chưa tới 1 Euro, dùng để nêm vào trứng gà ốp-la thì ô-là-la, hít hà, ngon tuyệt cú mèo!
No bụng rồi, tôi bèn lấy xe điện (tramway) ra thăm hải cảng Marseille … Ngày xưa, dân ngoại đi tàu vào xứ Pháp đầu tiên phải dừng lại một bến hải quan nhỏ (ancient port de quarantaine) trên đảo Ile Pomègues thuộc quần đảo Frioul (Archipel du Frioul) để kiểm dịch, trước khi cho lên bờ
Ngày nay thì các đảo này trở thành địa điểm du ngoạn, cách bờ độ nửa tiếng, ta phải mua vé mới có thể ra thăm viếng lâu đài tù Château d’If , xây năm 1524.
Tượng đài tử sĩ Porte de L’Orient – Cổng Phương Đông
Tượng đài tử sĩ Porte de L’Orient – Cổng Phương Đông
Theo đường chim bay từ Château d’If ngoài đảo thẳng vào trong bờ, thành phố Marseille cho dựng cổng đài kỷ niệm tử sĩ của các đạo quân lê-dương Pháp chết trận ở châu Á và châu Phi (Porte de L’Orient). Cổng đài nằm kế bên đại lộ Corniche Président Kennedy (CPK), nhắm thẳng ra biển khơi, xung quanh có nhiều nhà nghỉ mát cho khách du lịch ngắm cảnh. Con đường CPK chạy quanh co uốn khúc dọc theo bờ biển, đi ngang qua vài bãi tắm, thật là hữu tình!
Porte de L’Orient, nếu hiện hữu vào 100 năm trước, khi đế quốc Pháp còn đang là một mẫu quốc nhất nhì trên thế giới, cổng thường phải chứng kiến cảnh ly biệt, chia tay của những chàng thanh niên Pháp với ước mộng giang hồ, hoặc phải theo chính sách xâm lăng của Bộ Thuộc Địa lên đường chinh chiến từ cảng Marseille. Ngược lại, từ chiến trường bên trời Á-Đông và Bắc-Phi, đâu đó vang lên giọng giã từ của bà mẹ tiễn đưa con về chốn vô định:
Tàu súp-phờ-lê một, còn than còn thở
Tàu súp-phờ-lê hai, còn đợi còn chờ
Tàu súp-phờ-lê ba, tàu ra cửa bắc
Má nhớ thương con mà nước mắt
với mủi dãi chảy ròng ròng!
(Câu hò bình dân Nam bộ, khuyết danh, tả cảnh người mẹ nhớ thương con khi tàu Pháp chở con đi lính hoặc đi làm công từ bến SàiGòn qua bến Marseille. Hành trình này thường mất cả tháng trời). [Ghi chú: súp-phờ-lê = souffler (tiếng Pháp) = thổi, hú còi. Tàu chở khách hú còi làm hiệu ở các bến tàu khi tàu rời bến hoặc cặp bến. Tàu thường làm hiệu đến 3 lần].
Marseille là một thành phố cổ, lâu đời nhất trên đất Pháp. Cách nay 2600 năm, xứ Hy-lạp (Greece) và sau đó là xứ La-mã (Roman Empire) đã thay phiên nhau cai trị vùng đất này, cho đến năm 600 thì Marseille mới được độc lập, biến thành tỉnh lỵ của xứ Pháp. Vì địa điểm rất tốt của Marseille với khí
hậu nắng ấm ôn hòa, lại thuận lợi trong việc giao thông cho các vùng đất bao quanh bờ biển Địa-trung-hải (Mediterranean Sea), nên hải cảng Marseille trở nên sầm uất trong việc thương mại và giao dịch giữa Pháp đối với các quốc gia thuộc miền trung và nam của châu Âu.
Hiện nay, Marseille là thành phố lớn thứ nhì, chỉ đứng sau kinh đô Paris của nước Pháp, với dân số gần 1,6 triệu người. Dân Pháp-gốc-Việt sinh sống tại Marseille và các vùng phụ cận có khoảng trên dưới 30 ngàn người (chiếm 10% tổng số người Việt trên đất Pháp). Họ gồm nhiều thành phần khác nhau, dựa vào thời điểm di dân của từng thời kỳ đặc biệt trong lịch sử ViệtNam.
Trong thời thế chiến thứ hai, Đức chiếm toàn xứ Pháp và dội bom phá nát thành phố Marseille (1942) vì đây là cứ điểm chiến lược quan trọng của Pháp. Thành phố bị thiệt hại nặng, nhưng có một ngôi nhà thờ Đức Bà (Notre Dame, dùng để chỉ Đức Mẹ Maria) được cất trên cao điểm, may mắn lại không bị hề hấn gì cả. Có lẽ quân Pháp lúc bấy giờ quá yếu, không đặt súng cao xạ phòng không tại cao điểm nhà thờ Notre Dame, nên phi cơ Đức không dội bom tại đây.
lo trinh duc phap 5
Ngày 25 tháng 8 năm 1944, Marseille được phe Đồng-minh giải phóng, dân địa phương thêm vào tên ‘de la garde’ cho nhà thờ, có nghĩa là ‘quan phòng’ (trông chừng bảo vệ). Tên nhà thờ đổi thành Notre-Dame De La Garde. Trên đỉnh cao chót vót của nhà thờ, giáo dân đặt tượng Đức Mẹ (Bonne Mère) bằng đồng trát vàng để thờ phụng (xem tượng mẫu).
Để có một tầm nhìn tổng quan trên thành phố, anh bạn Rolland lái xe đưa chúng tôi lên thăm nhà thờ Đức Bà, cao điểm nhất của thành phố để nhìn xuống toàn khu thị dân.
Thấy từ trên cao rồi, bây giờ chúng ta có thể hạ sơn (xuống núi) để: xem xe cộ, coi phố xá, thăm nhà ga và bến tàu, thử hàng quán, dạo chợ trời, và lội-bộ-xem-bông (thay vì cưỡi-ngựa-xem-hoa) trong thành phố Marseille. Nếu không đi xe hơi riêng, thì có nhiều cách để hạ sơn: mướn xe đạp, xe gắn máy; đi xe điện nổi (tram), xe điện ngầm (métro) hoặc xe buýt; hoặc xử dụng lô-ca-chân!
Kinh tế Marseille đang hồi thở ra, giá cả mắc mỏ, thất nghiệp trên 10%, thành phố chỉ sống nhờ vào kỹ nghệ du lịch. Năm nay, hè 2013, thành phố Marseille quảng cáo là đã được châu Âu bình chọn làm Marseille-Provence, European Capital of Culture 2013 (www.marseille-provence2013.fr) theo tài liệu Marseille – City Centre Map and Guide của Sở du lịch Marseille; nên cả thành phố tưng bừng sửa soạn lễ hội, triển lãm, văn nghệ và ăn nhậu suốt cả hai tuần cuối tháng 6. European Capital of Culture có nghĩa là ‘Thủ đô văn hóa của châu Âu’. Ít tiền thì ít, mà chơi thì cứ chơi! Miễn sao dân tình cảm thấy vui sống.
Marseille là thủ đô văn hóa của châu Âu? Khoan đã! Có thật như vậy không?
Theo tôi, có có không không! Có là có trên quảng cáo thương mại, có cho thêm khách du lịch, đem lợi tức vào cho thành phố. Còn không là không thể đại diện cho toàn bộ châu Âu; sinh hoạt văn hóa của Anh, của Đức, của Ý, và của … trong Âu châu bỏ đi đâu? Theo tôi thì: thủ đô văn hóa phải mang nhiều bộ mặt, chớ không thể chỉ có một mặt Marseille, mặc dù đây là vùng đất cổ, có từ thời Hy-lạp. Năm 2013 là thủ đô văn hóa Marseille, năm tới có thể chuyển sang thành phố khác, của xứ khác trong Liên-Âu. Như vậy thì mới OK!
Từ khách sạn, hai chúng tôi lấy xe điện tramway T-1 xuống ga Noailles, rồi dùng lô-ca-chân đi dọc theo đại lộ La Canebière xuống thẳng bến tàu (Quai de Rive Neuve) để thăm tình hình. Trời nắng nóng nhưng có gió biển thổi vào mát rượi. Dân Tây khoái nghỉ hè Marseille là vì vậy!
Dạo một vòng chung quanh khu bến tàu (Quai du Port – Vieux Port)
Dạo một vòng chung quanh khu bến tàu (Quai du Port – Vieux Port)
Ngày thường mà du khách vẫn tấp nập, khách ngồi ăn trong tiệm thì vắng mà đứng/đi ăn ngoài đường thì đông. Các tòa nhà thuộc thế kỷ 20 vẫn sừng sững trơ gan cùng tuế nguyệt, tuy nhiều bức tường đã xám xịt vì khói xe hơi bám dính. Ngay bến tàu, một vài ngư phủ đang chuẩn bị lưới-và-chì để ban chiều sẽ ra khơi. Họ đánh bắt qua đêm ngoài khu quần đảo Frioul, và sáng sớm trở vào bờ để bán hải sản cho ông-đi-qua-bà-đi-lại bên đường. Kiểu buôn bán này rất hấp dẫn cho du khách như xem show trình diễn. Nhà nước có chương trình tài trợ cho các ngư dân để hấp dẫn cảnh quan du lịch. Sinh hoạt văn hóa và kinh tế trở thành bạn đồng hành tại cảng.
Lê la một vòng bến tàu dài chừng 5 km, mất 2 tiếng đồng hồ là tạm xem gần hết quang cảnh. Cảm thấy kiến cắn bụng và nghe theo lời dặn của anh Rolland, chúng tôi bước ngược trở lại ga Noailles để chọn lựa buổi ăn trưa, vì gần đó có khu chợ trời của người Pháp-Hồi (dân Pháp-gốc-đạo-Hồi) rất sầm uất và giá cả ẩm thực bình dân hơn khu du lịch bến tàu. Ở đây cũng có cả dân Việt mình làm ăn, buôn bán. Tính ăn uống xong rồi, chúng tôi sẽ lội bộ ra bến tàu lần nữa!
Dạo chợ trời Noailles
Đa số người Pháp-Hồi là dân gốc châu Phi, giống dân da đen và theo đạo Hồi (nhất là vùng Bắc- Phi). Thế kỷ trước, họ cũng như ta, bị đế quốc Pháp bắt/tuyển đi làm công binh hay chiến binh; cũng có một số trí thức đi du học; sau đó họ ở lại Pháp và trở thành công dân Pháp. Họ sang Pháp nhiều hơn chúng ta vì ở gần nước Pháp hơn và thuộc nhiều sắc dân khác nhau như: Algérie, Maroc, Tunisie, Madagascar, Sénégal … Ngày nay, người Pháp-Hồi (Pháp-đen) hay Pháp-Việt (Pháp-vàng) đều thuộc dân thiểu số của nước Pháp. Họ có quyền lợi và bổn phận giống y như của một công dân như người Pháp-trắng, trên cơ sở pháp lý.
Nhưng trên thực tế xã hội, vì căn bản giáo dục và nền tảng kinh tế của hầu hết dân thiểu số còn yếu thấp hơn dân Pháp-trắng nên gánh nặng xã hội (social burden) lúc nào cũng chồng chất lên ngân sách của nhà nước cầm quyền, tạo thành những vấn nạn kỳ thị sắc tộc một cách biểu kiến. Biểu kiến có nghĩa là hiện ra thấy được bên ngoài, nhưng không phải là vấn đề bản chất.
Vài người bạn của tôi không đồng ý về quan niệm xã hội này. Họ cho kỳ thị là sách lược của chính phủ tây phương da trắng và là vấn đề bản chất. Tôi suy nghĩ khác với các bạn đó. Tôi nói về , còn họ nói về thuật. Sách lược vẫn có thể được thay đổi theo khung thời gian bởi tùy thuộc vào dân trí và khả năng lãnh đạo của nhà nước. Nhưng trên các trang giấy này, không phải là chỗ biện luận của tôi về sự kỳ thị sắc tộc của nước Pháp.
Chưa hết! Còn vấn đề tôn giáo và lịch sử nữa: giữa Hồi-giáoThiên-chúa-giáo! Dân da trắng đa số theo đạo Thiên-chúa, còn dân Bắc-Phi đa số theo đạo Hồi. Cuộc thánh chiến đã dai dẳng cả ngàn năm qua trong quá khứ, kéo dài cho đến ngày hôm nay và tràn lan khắp toàn cầu, mặc dầu cả hai đạo đều cùng chung một gốc. Bạn nào có rảnh, hãy tìm xem phim Kingdom of Heaven (Thiên Triều, 2005) kể lại các cuộc ‘thập-tự chinh’ (The Crusades) để biết thêm về thảm cảnh giữa hai tôn giáo này. Liên-Hiệp-Quốc (LHQ) đang có các ủy ban hòa giải tôn giáo để giúp cho thiên hạ sống thanh bình hơn. Tôi lúc nào cũng hy vọng vào nỗ lực của LHQ: dùng đối thoạilòng nhân từ. Loài người chúng ta có sự lựa chọn nào khác hơn phương cách của LHQ không?
Tự nhiên tôi chợt nhớ đến dân tộc Chăm thuộc xứ Champa xa xưa của miền trung ViệtNam. Xin lỗi bạn đọc nha! Cho phép tôi miên man chút đỉnh về đạo Hồi, vì nó có liên hệ bắn-súng-cà-nông-không-tới với cuộc đời của tôi. Cậu của ông ngoại tôi, mẹ tôi dạy gọi bằng ông-cố-cậu (hoặc ngắn hơn là Ông Cố). Ông cố tôi (18 tuổi) người tỉnh Thái Bình, dắt ông ngoại tôi (6 tuổi, đã mất hết bố mẹ ngoài Bắc) vào Nam định cư tại tỉnh Phan Rang thuộc miền Trung hồi đầu thế kỷ 20. Ông cố tôi lớn lên làm thầy thuốc Nam, rất giỏi về nho-học, và lấy bà vợ người Chăm trẻ đẹp, tôi gọi bằng Bà Cố. Bà Cố (1900-1960) rất hiền hậu, dễ thương và ca múa điệu Chăm hay lắm! Ông bà cố không sinh được mụn con nào.
Tôi nhớ mãi trong ký ức: hồi tôi 11 tuổi (1959), Bà Cố dẫn tôi đi thăm Tháp Chàm rồi diễn giải cho tôi biết rằng, dân Chăm tổng hợp cả 3 đạo: đạo Phật, đạo Ấnđạo Hồi lại làm một, và xứ Champa đã sống hòa bình qua nhiều thế kỷ. Ông Cố tôi dạy chúng tôi rằng, dân Đại-Việt mình cũng rất hay vì đã tổng hợp được cả 3 đạo: đạo Phật, đạo Khổngđạo Lão, không thua gì khả năng tổng hợp tôn giáo của dân Chăm. Phải chi LHQ nghiên cứu thêm về diễn trình tam-giáo-đồng-nguyên của Champa (Phật-Ấn-Hồi) và Đại-Việt (Khổng-Phật-Lão) thì hay biết mấy!
Ông Cố (1890-1970) và ông Ngoại (1902-1978) tôi là người theo đạo Thiên-chúa, nhưng sau đó, ông ngoại tôi bị rút phép thông công vì đánh ông trùm xóm đạo. Lý do: ông tôi theo phong trào tân dân (hoặc duy tân) của cụ Phan Châu Trinh, ổng cầm đầu một nhóm bạn trẻ trong xóm, hễ thấy đàn ông con trai còn để tóc dài, búi tó củ nừng, thì đè xuống và dùng kéo cắt đi. ‘Tân dân’ là làm cho dân mới ra! Và hớt tóc ngắn là hành động của nhóm trẻ tân dân. Rủi cho ông tôi là đè nhằm ông trùm mà cắt. Lại còn cả gan cãi lại lời thầy cả (linh mục), nên phải bị đuổi đi.
Ông Ngoại tôi bỏ miền Trung, một mình đi vô miền Nam. May quá! gặp bà tôi (1904-1986) ở vùng Chợ Đệm, gần SàiGòn. Xa xóm đạo mà gần được đào. Mẹ tôi được sinh ra (1927) và lớn lên tại Hóc-Môn (18 Thôn Vườn Trầu) với tên thánh theo Chúa là Ana. Và khi mẹ tôi mất đi (2005) tại thành phố Portland, bang Oregon – Mỹ quốc, thì có pháp danh quy-y theo Phật là Diệu Hương. Bà có tới hai cái bảo hiểm. Chuyện còn dài lắm, kể hoài không dứt …
Trở lại vụ ông Ngoại tôi bị buộc phải rời đạo và bỏ xóm đạo. Ông thuận đường xuôi nam vào tận SàiGòn (1922) để sinh sống! Ông làm nghề lính cha lửa (đội viên cứu hỏa, pompier, fireman) từ thời Pháp thuộc, làm qua đến thời ViệtNam được độc lập (1954), và nghỉ hưu dưới thời tổng thống Ngô Đình Diệm (1962). Ông rất can đảm trong nghề chữa cháy vì không sợ lửa. Bằng chứng là bà tôi còn giữ các giấy ban khen của cơ quan cấp trên tặng thưởng cho ông.
Nhưng tôi thán phục sở thích và nghề tay trái của ông Ngoại. Đó là nghiên cứu và đoán số tử vi về thế sự và thời cuộc: nào là cộng-hòa, cộng-sản; rồi đệ-tam, đệ-tứ; đủ thứ trên đời. Sau năm 1975, dưới thời cộng sản nắm quyền, ông Ngoại tôi sinh buồn phiền và lâm trọng bệnh khi gia đình mẹ tôi bị đổi tiền, và vì thuộc giai cấp tư sản nên bị đánh (1978), còn các cậu tôi thì bị bắt đi tù vì làm lính hải quân của ViệtNam Cộng-hoà (VNCH). Ông mất cuối năm 1978 tại SàiGòn.
Trong đời, ông Ngoại tôi tâm đắc với Ông Bảy Trấn (Nguyễn Văn Trấn, 1914-1998), một người em-bạn-dì khác của bà Ngoại tôi. (Bà tôi là con Bà Cố Tư, ông Bảy Trấn là con Bà Cố Năm, còn ông Tám Xuân là con Bà Cố Sáu. Ngoại-tổ của tôi có tới 5 người con gái). Ông Bảy Trấn đi theo đệ-tam cộng sản, được huấn luyện bên Nga. Bà Ngoại và các cậu tôi không ưa ông Bảy, cho rằng ổng dữ dằn. Chỉ có ông Ngoại tôi là thông cảm hoàn cảnh và nói chuyện đời được với ông Bảy. Ông Ngoại tôi dặn con cháu rằng: sông-có-khúc-người-có-lúc; có lúc rồi ông Bảy sẽ hồi tâm!
Ông Bảy Trấn hồi trẻ là người vô thần, trước khi mất thì rửa tội đi theo Thiên-chúa giáo. Về lại SàiGòn năm 1975, ông Bảy Trấn bất đồng chính kiến với chính sách nhà nước. Và ông rất hối hận. Hối hận chỉ vì lòng yêu nước muốn đánh giặc Tây mà đi lầm đường theo cộng sản đệ-tam. Ổng chê là Hồ Chí Minh không có đầu óc và tư tưởng gì ráo, chỉ biết tranh giành quyền lực; đấu thì rất hay, còn xây thì dở ẹt! Ông Bảy chết trong cô đơn, thọ 85 tuổi (1998). Còn hai cậu em của mẹ tôi là Cậu Ba (thương phế binh VNCH) và Cậu Sáu, sau này vượt biển tỵ nạn cộng sản sang Mỹ (1980 &1983) đã trở thành hai nhà sư Phật giáo. Hai cậu tôi luôn cầu nguyện cho ông Tám Xuân, ông Bảy Trấn và linh hồn tử sĩ được siêu thoát nơi miền cực lạc.
Viết lại những giòng chữ này, tôi không thể cầm được nước mắt khi ôn lại cuộc đời của ông bà,  cha mẹ và giòng họ thân thương của mình bị vướng mắc trong vòng nghiệt ngã giữa cộng-hòa và  cộng-sản. Hai sản phẩm của người ngoài, khiến anh em một nhà phải nồi-da-xáo-thịt!
Ngày hôm nay, tôi kính trọng và yêu thương dân Bắc-kỳ, Trung-kỳ, Nam-kỳ và cả Hoa-kỳ trên đầu và trong tim của mình. Xin tạm chấm dứt chuyện dài tôn giáo, chuyện Nam-Bắc-Trung, chuyện chính trị cộng-hòa và cộng-sản, và về cuộc đời các tiền nhân của tôi. Khi nào thuận tiện và có duyên thì tôi sẽ thuật tiếp.
Cám ơn bạn đọc đã cho phép tôi đi lạc đề trong vài ba trang vừa qua!
lo trinh duc phap 8
Trở lại chuyện dân Pháp-Hồi ở Marseille. [Hàng quán chợ trời có] thịt cá, rau cải và trái cây, tươi tốt ê hề. Tuy chật hẹp và bề bộn nhưng thực phẩm được chế biến tại chỗ, chúng tôi tha hồ lựa chọn món mình thích, mua rồi đem vô tiệm ngồi ăn ngon lành và thoải mái. Tôi thích trái và dầu olive, được ướp đủ loại theo kiểu Á-rập; lại thêm trái chà-là (date) còn tươi, dính chùm từ Algérie gửi qua, mùi vị thơm phức và ngọt lịm. Cắn một cái, khoái tới già. Ngon hết ý luôn!
Rất tiếc là trong tiệm không có nước đá cho thức uống, nên khách Mỹ-Việt như Vĩnh Thanh Thảo phải chịu khô héo trong vài ba giây, lại nghe không hiểu tiếng Á-rập của bà chủ quán nên phải ú ớ trong dăm ba phút. Nhưng chúng tôi trả đúng tiền, không trả giá, khiến người sản xuất được hài lòng mà kẻ tiêu thụ cũng thong dong! Ngồi trong tiệm ăn, ngó ra bên ngoài, tôi không cảm thấy vui mắt cho mấy!
Bên này: áo quần, mùng màn treo phơi nắng lổn ngổn trên tường của khu chung cư (giống như khu bình dân phơi quần áo bên HồngKông). Bên kia: vài ba bà hành khất bế con chờ sự bố thí của khách qua đường (isolated incidents, trường hợp đơn lẻ). Xin các bạn Pháp-Việt quý mến của tôi khoan vội nổi nóng về hình ảnh của những người kém may mắn. Vì bên thành phố San José – Cali, chỗ tôi ở, có cả xóm homeless (vô gia cư), sống nhờ ăn xin. Xứ nào cũng có ăn mày. Không riêng gì ở Marseille, hay ở đâu khác!
Ăn uống ở chợ Pháp-Hồi xong, chúng tôi lội bộ ra bến tàu một lần nữa để xem cho hết quang cảnh cảng Marseille. Ngoài bến tàu, một số thiên hạ ung dung đua nhau đi chơi. Chỉ cách vài ba khúc đường, vài người kém may vẫy vùng tìm chỗ sống. Hai cảnh đời lộn ngược. Giống như bức ảnh tôi chụp được do sự phản ảnh của tấm kính được dùng làm trần nhà của công viên để dân chúng tụ tập vui chơi, ngay kế bên cạnh bến tàu.
Thiên hạ ung dung đua nhau đi chơi ngoài bến tàu, nhưng là đi bộ ngắm cảnh, không ai chịu trả tiền ngồi xe đạp, và rất ít khách ghé vào tiệm mua hàng hay tặng phẩm. Tôi để ý đến một bảng quảng cáo dựng trước cửa một tiệm bán dầu thơm (mỹ phẩm). Bảng viết bằng tiếng Pháp, có phụ đề Anh-ngữ, nhắm vào du khách không-nói-tiếng-Pháp: Parfum – Prices melt like snow in the sun !!
Xin bạn đọc tra tự điển dùm.
Đúng là kinh tế du lịch của Marseille cũng đang trong thời kỳ xuống dốc ngay trong thời kỳ thiên hạ đi nghỉ hè. Mua xài, mua sắm, mua khoe; trong ba thứ mua ấy, chúng tôi chỉ mua xài! Trời ít mây, hơi nóng, nắng không gắt, gió biển thổi man mát, đi bộ dọc đường Quai du Port thật lý tưởng cho những người đang thiếu vitamin D3 như tôi.
Tượng của Dalí trên lộ Quai du Port và nhà thờ Cathédrale de La Major
Tượng của Dalí trên lộ Quai du Port và nhà thờ Cathédrale de La Major
Sừng sững giữa đường là một bức tượng đá khoả thân của bà đầm. Bả cụt đầu, cụt tay và cụt chân với chữ Dalí trên khối bệ, chắc ‘Dalí’ là tên của Salvador Dalí (1904-1989), điêu khắc gia nổi tiếng khắp châu Âu. Lại có tượng hai con kiến làm bằng đồng, bò trên bụng bà đầm, hướng tới một trái banh bầu dục cũng làm bằng đồng, màu vàng đục. Trái banh bầu được đặt ngay trước rốn bà đầm. Tôi chịu thua, không hiểu gì hết!
Lạ thì có lạ, hay thì chưa chắc đã hay, vì tùy ở độ nhìn chủ quan của khán giả đánh giá. Ai muốn hiểu sao thì hiểu. Nhiều khi giá trị của tác phẩm ở chỗ: không ai hiểu gì cả! Đôi khi hỏi ý tác giả, tác giả trả lời: tao còn không biết, huống chi gì mầy! (tạm dịch hai chữ moitoi, thân mật trong tiếng Pháp, thành ra tao mầy trong tiếng Việt).
Xa xa là đôi nóc vòm của nhà thờ Cathédrale de La Major nổi tiếng ở Marseille. Cặp giò của chúng tôi đã bắt đầu than phiền, nhưng cũng ráng lết đến nhà thờ này để xem và học hỏi cho biết, vì nhà thờ Cathédral de La Major (1852) được xây trước cả nhà thờ Notre-Dame de La Garde (1864).
Sức mạnh của đế quốc Pháp vào những thế kỷ trước là dựa trên lực lượng súng đạn của đạo quân viễn chinh, nhưng đây là sức mạnh cứng (cương-lực). Còn sức mạnh mềm (nhu-lực) là văn chương nghệ thuật, là niềm tin tôn giáo với những nhà thờ kính cẩn và trang nghiêm.
Marseille là chứng nhân của thời đại. Ngàn năm trước, Marseille là hình ảnh cho sự xâm lăng của đế quốc Hy-lạp và La-mã. Ngàn năm sau, Marseille là phản ảnh của đế quốc Pháp đi xâm lăng phương Đông (Hình 11). Rồi đế quốc La-mã đã đi về đâu? Không còn hiện hữu nữa. Diệt người khác cũng là tự diệt chính mình!
Rồi đế quốc Hy-lạp đang đi về đâu? Rầu lắm! Hiện Hy-lạp rất khốn đốn về kinh tế. Ngày xưa là đế quốc, còn ngày nay thì đi ăn chực. Ngân hàng trung ương Liên-Âu phải châm tiền vào giúp nhà nước Hy-lạp để cứu nguy cho xã hội. Lực sản xuất của thị trường thì ít, mà mức tiêu thụ của nhà nước thì quá nhiều, tiền đâu mà đài thọ cho đầy? Giới thợ thuyền thì tiêu điều, còn giới công chức thì phì nhiêu, của đâu mà cung ứng cho đủ?
Tượng Colonies d’Asie. Đài thuộc địa Châu Á
Tượng Colonies d’Asie. Đài thuộc địa Châu Á
Đức và Pháp phải chịu đựng thêm nhiều lắm! Vài anh thầy rùa kinh tế của Mỹ, bênh vực Chợ Mỹ, dùng phép phân tích lợi-hại (cost-and-benefit analysis) về hiện tượng kinh tế toàn cầu, rồi thúc dục Hy-lạp rút chân ra khỏi Liên-Âu để xé lẻ, gây chia rẽ phá Chợ Tây. Pháp và Đức còn lâu mới trúng kế độc của Mỹ. Đối với Hy-lạp, Liên-Âu (đứng đầu là Đức và Pháp) phải vừa-giúp-vừa-dạyvừa-dụng-vừa-dưỡng thì mới được.
Và với lòng quảng đại lo cho việc chung, rồi nền kinh tế Pháp sẽ đi về đâu? Hãy đợi đến khi qua thăm xứ Đức ở Hồi Hai thì sẽ rõ.
Ngồi nghỉ trong nhà thờ Cathédrale de La Major, tôi nhắm mắt cầu nguyện cho Ông Tám Xuân, cho Ông Bảy Trấn; cho bà con Marseille của mình (công binh, chiến binh Việt trong thế kỷ 20 và dân Pháp-Việt trong thế kỷ 21); cho nhân dân nước Hy-lạp, nước Pháp và nước Đức; và cho đồng bào ViệtNam tại quê nhà được thiên hạ thái bình. Đâu đâu cũng sống an lành. Chúng ta không sửa đổi được quá khứ, nhưng có thể dự định cho tương lai, nếu thông được bài học của lịch sử.
Một ngày dài đáng ghi nhớ tại cổ cảng Marseille đã trôi qua. Chúng tôi chuẩn bị đi đến thành phố Montpellier để thăm một người bạn Pháp-Việt khác.
© Trương Như Thường
© Đàn Chim Việt
(còn tiếp)
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/79263/9-con-duong-lien-au-thau-ca-chau-ve-mot-moi/2013/09
=======================================================================
9 con đường Liên-Âu: Thâu cả châu về một mối [2]




|
Ký Sự Tản Mạn Hè 2013 
HỒI MỘT :  THĂM NƯỚC PHÁP
phần 1
2.  Ghé Thăm Bạn Hiền Tại MONTPELLIER
Chúng tôi lấy xe lửa thường TER của SNCF từ Marseille đi Montpellier, cách 150 km, mất một tiếng rưỡi đồng hồ và tốn 29.5 Euro đôla (1 Euro đô = 1.32 USA đô) cho một bận đi. Montpellier hiện hữu từ năm 985, hiện nay là thành phố lớn thứ 8 của Pháp và có hơn ¼ triệu dân. Montpellier nổi tiếng vì có trường y khoa lâu đời nhất châu Âu, được xây dựng từ thế kỷ thứ 13.
Sau thế chiến thứ hai (sau 1945) con cháu của người Việt sinh sống ở miền nam nước Pháp học lên cao, rồi các đợt du học của sinh viên miền nam ViệtNam dưới thời VNCH [Đệ-nhất (1954) và Đệ-nhị (1963) cộng-hòa] tiếp tục theo trường Y Khoa Montpellier (Faculté de Médecine), tạo nên một số y sĩ người Việt tốt nghiệp ở đây. Anh Nguyễn Thành Khương đã tốt nghiệp y sĩ vào đầu thập niên 1970 ở trường này, nay đã về hưu. Năm trước, chúng tôi hân hạnh được quen biết với anh Khương, được anh mời đến thăm quê hương thứ hai của anh, và được anh làm thổ địa hướng dẫn đi thăm phong cảnh vùng này.
lo 1
Trước hết, anh Khương muốn giới thiệu cho chúng tôi biết ngôi trường y khoa mà ảnh đã trải qua và làm việc cả chục năm trời trong bệnh viện, nằm trên Boulevard Henri IV. Chúng tôi dùng xe trem (tramway) tới khuôn viên đại học, rồi đi bộ vô trường. Kiến trúc cổng nhà thương (Hopital Général) rất cổ kính, chắc cũng cả trăm năm. Nó nằm đối diện với những dãy học khu cao ba, bốn tầng lầu. Hai bên đường đầy cây xanh cho nhiều bóng mát. Xe hơi đậu chật nứt mà không thấy bóng dáng con người. Chắc là thầy và trò đang gò bài trong lớp. Đi hết cuối đường là đến khu nội trú của sinh viên. Băng qua đường là một vườn bông đầy thơ mộng.
Tên của vườn bông này là Jardin des plantes de Montpellier và nó được thiết lập từ năm 1593 kể từ đời vua Henry IV. Vườn này còn xưa hơn cả vườn bông của Paris (1626) và hiện do phân khoa thảo-học (botany) của L’Université Montpellier I điều hành. Dưới gốc một cây to sát cạnh lề đường là một xe bán phó-mát (fromage) và thịt nguội, còn xe kế bên thì bán toàn rau cải tươi, theo kiểu chợ trời. Tôi không thấy nhà hàng chung quanh học khu này. Chắc là học trò nghèo
thích loại quán cốc lưu động như vầy. Hồi xưa tôi đi học cũng sống như vậy. Ít khi đi ra quán ăn,
ngoại trừ muốn làm le với đào! Có sao nói vậy, người ơi!
Hết khu đại học, chúng tôi lội bộ tiếp sang công viên Place Royale du Peyrou, kế bên trường y khoa, không xa cho lắm! Place Peyrou được xây dựng hồi thế kỷ 17 từ trên địa điểm cao. Đứng trên cao điểm của công viên, ta có thể nhìn xa cả một phần của thành phố chung quanh. Ở hướng đông của Place Peyrou là khải hoàn môn Arc de Triomphe, chỉ cách nhau bởi con đường Boulevard du L.Vialleton.
Arc de Triomphe (1691)
Arc de Triomphe (1691)
Ở giữa công viên Peyrou có tượng của vua Louis XIV (1638-1715) cưỡi ngựa rất uy nghi, và cuối vườn có nhiều kiến trúc ảnh hưởng từ thời La-mã, với hai hàng cây cao rợp bóng. Các nấc thang lên xuống đài Château d’Eau bị lem ố vì phong sương và rêu mốc. Trong tương lai chắc phải tốn thêm ngân sách nhà nước để bảo trì các di tích này. Và cuối công viên là Saint-Clément Aqueduct (cầu cống dẫn nước) dài 800 mét nổi tiếng, được xây theo kiểu La-mã vào năm 1772. Nhưng sao khu lịch sử này vắng vẻ quá, chẳng lẽ bà con du khách không còn để ý đến thời vàng son của đế chế Pháp quốc?  Chúng tôi nhủ lòng ngày mai sẽ viếng các khu có đông người hơn. Ra ngoài chợ chắc sẽ thấy số đông!Hôm sau, chúng tôi đi thăm hai khu trung tâm hiện đại hơn. Đó là khu chợ Polygone và khu gia cư Antigone. Kiến trúc phố xá khá đẹp. Khu nhà ở được xây theo hình vòng cung thật rộng rãi, lại có vài biệt thự với kiểu mái hiên cong cong, chìa ra bên ngoài không giống ai. Thật là lạ! Hồi xưa, tôi đã theo nghề xây cất mà nghĩ hoài cũng không ra cách làm. Mái cong cong, giống như đôi mắt mơ-huyền của người đẹp, được gắn thêm cặp lông mi giả. Hết chỗ chê!
Còn khu chợ thương mại thì được xây dựng với cổng vào bằng loại kính râm, trông mát mắt và rất thẩm mỹ. Tuy mới 6 giờ chiều mà chợ búa lại vắng hoe, không thấy thiên hạ qua lại. Hôm qua tôi đã đoán sai. Tưởng ngoài chợ thì đông người. Có lẽ kinh tế sa sút nên bán buôn cũng không còn đông đúc. Thôi thì đi xem cảnh cũng được!
lo 5
Có bản đồ trong tay, chúng tôi cứ tha hồ lội bộ, chừng nào mẳng-hai-cái-cỏi (tức là mỏi hai cái cẳng) thì dừng lại chừng mươi phút, dùng đôi tay xoa bóp cặp chân chút xíu cho giãn gân cốt, rồi lên đường đi tiếp. Thường thì tôi hay dừng chân ở mấy tượng đài kỷ niệm để chiêm nghiệm và nghiên cứu thêm chuyện hay, việc lạ, trong thiên hạ, hầu kể lại cho các bạn nghe.
lo 6
Thí dụ tượng thứ nhất: hình người đang cõng một con ngựa chết (hay đang bệnh). Dưới bệ tượng có bảng ghi như vầy: ORLANDO FURIOSO / Apel Les FERNOSA (1889-1988) / D’aprés l’Arioste / Poète italien du XVIème Siecle.  Ông Apel Les Fernosa sinh tại Barcelona năm 1889, là một điêu khắc gia từ Tây Ban Nha. Ông chỉ được nổi tiếng sau khi sang sống tại Paris và được quen với Pablo Picasso. Một trong những tác phẩm đặc sắc của Fernosa là Orlando Furioso.  Orlando Furioso là tên của một thiên hùng sử thi (epic poem) do Ludovico Ariosto (1474-1533) người Ý sáng tác, và được William Stewart Rose (1775-1843) dịch thuật và trình làng vào năm 1823-1831.  Còn về ý nghĩa của tượng hình này thì xin cho bạn đọc được quyền phát triển.
Thí dụ tượng thứ nhì: hình nữ thiên thần với đôi cánh nhưng bị cụt đầu, được đặt trước Place de l’Europe. Dưới bệ có hàng chữ: Victoire De Samothrace. Đây là tên của nữ thần chiến thắng trong thần thoại Hy-lạp vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, và bức tượng điêu khắc này được sao lại từ bản chánh rất nổi tiếng (cũng bị cụt đầu), hiện đang được cất giữ ở bảo tàng viện Louvre của thủ đô Paris. Không biết cái đầu của bà tiên này trôi về đâu rồi?
Công trường Place de la Comédie nổi tiếng nhộn nhịp cũng ở gần đây, nên chúng tôi quá bộ cho biết tình hình. Đây là khu cổ với nhiều khu nhà xưa cũ. Giữa đường đi: xe hơi, xe trem và người bộ hành chen lẫn vào nhau như một khúc hòa tấu lạc điệu. Không đèn đường xanh đỏ báo hiệu, không tiếng kèn xe inh ỏi ồn ào, cũng không thấy bóng dáng cảnh sát đâu cả, thế mà mọi việc đều trôi chảy êm xuôi, một cách an nhiên tự tại.
Người Pháp, đặc biệt là dân Pháp sống ở Montpellier, khác hẳn một trời một vực với dân Parisien. Thiệt tình, tôi không biết ai hiền hơn ai! Nhưng xét bề ngoài thì Montpellier có lẽ hiền hơn. Đây là thành kiến chủ quan của tôi, mà nhiều khi trúng phóc!
Gần bên công trường Place de la Comédie là một vài biệt thự xây theo kiểu hiện đại, cao hơn khu nhà cổ và hình thù cũng lạ hơn. Với số dân ngày càng gia tăng, một số kiến trúc mới được xây dựng chen lẫn vào những dãy phố cũ kỹ tạo cho Montpellier thành loại tân cổ giao duyên.
Hệ thống xe điện tramway (xe trem) gồm có 4 đường chính, được dùng làm công quản chuyên chở cho địa phương, có thể đưa cư dân đến mọi địa điểm trong thành phố Montpellier. Cả 4 tuyến này đều đi ngang nhà ga Saint-Roch, rồi từ đây có thể dùng xe lửa để đi khắp mọi miền nước Pháp. Nhà ga này đang được chỉnh trang, xây cất cho lớn thêm, và xử dụng các bảng thông báo thời biểu toàn bằng điện tử hiện đại. Montpellier muốn biến các dịch vụ chuyển vận hành khách giữa thành phố to và thành phố nhỏ một cách dễ dàng, thuận lợi.
Cách trang trí trên vỏ xe trem (xe điện tramway) rất là lạ. Có xe sơn đủ màu technicolor (đỏ, cam, vàng, xanh, lam, chàm, tím) và có chiếc sơn toàn bông hoa tươi thắm. Các kiểu sơn này không lòe loẹt và chói mắt bằng các chiếc xe đò bên Bangkok – Thái-lan.
Sáng sớm ngày mai, chúng tôi sẽ thử leo lên tuyến xe trem số 2, và ngồi từ trạm đầu tiên đến trạm cuối cùng, trước là để cảm giác xe chạy êm đến độ nào, và sau là để thấy rõ được một phần của vòng thành phố. Mỗi lần leo lên xe chỉ tốn có 1.8 Euro mà thôi!   
Và anh bạn lãng tử người Madagascar trên chuyến xe trem
Và anh bạn lãng tử người Madagascar trên chuyến xe trem
Tôi ca không hay, nhưng rất hay ca! Và ca rất lớn trong phòng tắm. Đang đợi xe trem (tramway) tuyến số 2, bỗng thấy một anh chàng lãng tử, cũng đang đợi xe trem, tay ôm đàn guitar thùng và tự dạo lên điệu xì-lô-róc (slow rock), tông đô thứ, nghe buồn não nuột, nhưng rất gợi cảm; tôi nổi hứng ê a ca bài Diễm xưa của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (lời Việt) theo điệu nhạc lắc lư (rock) và chầm chậm (slow). Lắc lư chầm chậm nên gọi là điệu ‘slow rock’ (xì-lô-róc). Tiếng hát và tiếng đàn guitar quyện lẫn vào nhau, đón chào buổi sớm mai không thua gì chim hót ngoài sau vườn.
Đây là lần đầu tiên tôi hát ở chỗ công cộng, tại trạm đón xe trem, không một khán giả ái mộ vây quanh, ngoại trừ ca sĩ Vĩnh Thanh Thảo đang đứng chụp hình và phải xem màn biểu diễn bất-đắc-dĩ của chúng tôi. Đây cũng là lần đầu tiên tôi trình diễn với một nghệ sĩ ngoại quốc mà tôi chưa biết danh tánh. Nhưng không sao! Giọng tôi cao vút, ăn khớp với điệu nhạc trầm buồn. Cặp chúng tôi có thể trở thành một show hát của nghệ sĩ hè phố trên kinh đô Paris! Chỉ thiếu là một cái nón lá sấp ngửa đặt dưới sàn đất, chờ khách mộ điệu đoái hoài. Ở đời: ai mà biết được !?$
Tiếng bánh xe nghiến nghe ken-két đã đem chúng tôi về thực tại. Chúng tôi bước lên xe, nhạc công tùy hứng và ca sĩ gan lì, cả hai bắt tay nhau rồi tự giới thiệu. Ảnh là người Pháp-gốc-Madagascar, nói tiếng Pháp và sinh ngữ phụ là tiếng Anh. Tôi người Mỹ-gốc-Việt, nói tiếng Anh và sinh ngữ phụ là tiếng Pháp. Hai người giao lưu với nhau bằng sinh ngữ phụ của mình. Mạnh ai nấy nói và cấp độ hiểu nhau thì tùy hỉ. Tôi còn khoe là tôi cũng có thể ca bài Diễm xưa bằng tiếng Nhật, vì hồi xưa tôi có chu du bên Nhật. (Tôi rất rành tên các món ăn sashimi bằng tiếng Nhật). Ảnh lại khen: tôi hát không tệ! Ngược lại, các cháu tôi bên Mỹ, mỗi lần nghe tôi ca, chúng thường chê: bác ca, không những tệrất tệ! Ở đời: ôi! hơi đâu mà nghe tiếng thị phi @%&#Tên của anh bạn lãng tử là Ranaivoson Jacques “Coco”. Có lẽ Coco là biệt hiệu văn nghệ của anh Jacques. Tôi sẽ nhớ mãi tên của anh ta, vì không có anh thì biết ai dám bạo gan đánh đàn cho tôi hát? Và vì 100 năm trước đây, xứ của anh Coco (Madagascar) và xứ của tôi (ViệtNam) đều nằm dưới ách thống trị của đế quốc Pháp. Cha ông chúng tôi đồng cảnh ngộ. Ngồi chung trên xe trem độ 15 phút thì phải chia tay. 15 phút phù du! Quí mến nhau sao cho vừa!
Tôi suy nghĩ vẩn vơ về anh Coco, về dân tộc Madagascar, về 100 năm về trước, về sự tinh ranh của đế quốc Pháp, về phương pháp cai trị thuộc địa của đế quốc Pháp. Đế quốc Pháp nói riêng và các đế quốc thực dân nói chung. Chúng đều giống nhau một điểm: lấy dân xứ này đi đàn áp dân xứ khác. Thí dụ: đem lính chà-gạch-mặt sang cai quản ViệtNam, rồi đem lính an-nam-mít sang cai quản châu Phi, và cả hai đạo quân không-phải-là-người-Pháp đều đặt dưới trướng chỉ huy của các vị sĩ quan nhà nghề người Pháp được xuất cảng từ mẫu quốc.
[Ghi chú 1: chà-gạch-mặt = người da đen từ châu Phi, theo các bộ tộc có tập tục gạch mặt khi thành niên (khoảng 12 tuổi), để chứng tỏ mình là người gan dạ. Chà là gọi tắt của chữ chà-và (Java: đọc là ‘chà-và’, thổ dân da đen của xứ Nam-dương, Indonesian, sống trên đảo Java). Ai đó, đã gọi lầm lộn người da đen ở châu Phi và người da đen ở Java, vì thấy màu da đen của hai bên giống nhau. Thiên hạ theo đó mà gọi trật.
Ghi chú 2: an-nam-mít = annamite (tiếng Pháp, nghĩa là dân An-nam), tên gọi từ quan Pháp thuộc địa dùng để chỉ người ViệtNam vì họ ghi theo sách vở của Tàu. Đời nhà Đường của Tàu (thế kỷ 7) khi đô hộ dân Lạc-Việt thì đặt tên là An-nam Đô hộ phủ; và khi đô hộ dân Cao-ly (Triều-tiên, Đại Hàn) thì đặt tên là An-đông Đô hộ phủ. Tây học theo sách Tàu, gọi dân Ta là An-nam. Từ an-nam-mít là ký âm của annamite xuất hiện từ đó].
Xe trem có nhiều toa. Khi chạy qua một đoạn đường cong, toa này đùn/dồn toa kia làm cho hành khách cảm thấy toàn thân bị giật. Ngồi trên toa chỉ còn hai đứa tôi, còn anh bạn đột xuất Coco thì đã đi rồi! Chúc anh Coco được nhiều điều may mắn.
Nếu anh là một nghệ sĩ hè phố thì tôi ước cho anh trôi dạt tới những chỗ nghỉ mát như Marseille, Nîmes, Le Grau-du-Roi để cho du khách thưởng lãm. Ngày mai chúng tôi sẽ đi chơi vùng Nîmes và Grau-du-Roi. Hy vọng trái đất tròn, chúng tôi còn gặp Coco ở đó. Lần tới, nếu gặp ảnh, tôi sẽ hát tặng bài Giấc mơ ChaPi, nhạc và lời của Trần Tiến. Tôi đã bắt chước được giọng ca khàn khàn và cao vút y như của ca sĩ Y-Moan (đã qua đời), một nghệ nhân hiếm quý thuộc vùng rừng núi Tây nguyên của ViệtNam. (Bài Diễm xưa tôi dùng tông đô, còn bài này sẽ xài tông la):
…..  Ở nơi ấy 
Họ đang sống cuộc sống yên bình   ai nghèo  cũng có cây đàn ChaPi,
Khi rung lên vài sợi dây, đàn đã đong đầy,
 hồn người Raglai.
Ôi Raglai  những rừng cây ngọn núi mang tiếng đàn
ChaPi i ì i í
Ai yêu tự do
 yêu rừng xanh  thì lên núi  nghe đàn  ChaPi i ì i í
Tôi yêu
ChaPi không còn cô đơn  không buồn  không vui.
Tôi nghe
ChaPi  chợt thấy nao lòng  vì một giấc mơơớ   ôi Chapi  …..

Tôi thích bài ca này vì dân tộc Madagascar và ViệtNam là dân thiểu số ở Pháp, giống như anh Y-Moan là thiểu số ở ViệtNam. Ở Pháp, dân thiểu số sống hạnh phúc vì nhờ chính sách nhà nước dân chủ đãi ngộ. Còn làm dân thiểu số ở ViệtNam như dân Tây nguyên, dân Chăm, hay dân Khơ-me thì tội nghiệp lắm! Họ đang bị đàn áp và bạc đãi dữ dội: đất đai bị cướp đoạt, văn hóa bị hủy diệt và việc thờ phụng bị khinh miệt. Ai muốn biết thêm chi tiết, xin mời qua thăm dân oan ViệtNam đang lánh nạn cộng-sản tại Thái Lan. Tôi biết anh Y-Soái bên đó. Đông lắm!
Dân Tây nguyên còn cây đàn ChaPi và một giấc mơ: ai yêu tự do, yêu rừng xanh thì lên núi
Ai yêu tự do và yêu rừng xanh thì hãy lên núi… Không biết lên núi để làm cái gì?
Nhà nước cộng-sản ViệtNam đánh lộn thì hay mà xây dựng thì rất tệ! Thật ra, nói đánh lộn hay, cũng không đúng hẳn. Ngày xưa, sáu bảy chục năm về trước, nhờ lợi dụng được tình tự yêu nước của dân tộc, nên mới cự nổi với Tây; còn bây giờ đối với Tàu thì nhát như cáy! Lý do là không lo tạo nội lực, chỉ sống nhờ tá lực (sức của người khác) thì sức đâu mà đánh. Loanh quanh ba cái mẹo vặt như xài ‘nặc danh’, ‘chia để trị’, ‘đu dây’ theo đủ 36 kiểu (tam-thập-lục-kế) của Tôn- Ngô binh pháp thì Tàu cộng nó đâu có e ngại! Trung-cộng là thầy của Việt-cộng mà! (theo lời ông Bảy Trấn kể lại).
Đụng cái gì cũng đổ thừa tại tàn dư chiến tranh. Sao không chịu ngó qua Nam Hàn, Nhật Bổn và Đức quốc kia kìa. Xứ họ cũng bị chiến tranh và tan tành xí quách, mà chỉ sau đôi ba chục năm là khôi phục được liền. Sao không chịu học cách xây chí nhân và dựng đại nghĩa của thầy Nguyễn Trãi? hay kiểu muốn-bắt-thì-hãy-thả-ra của thầy Lão Tử phương Nam?
1.     Thăm Cổ Thành NÎMES

Anh Khương đã bỏ nghề lái xe, nhưng rủ anh Paul là người Pháp-trắng (gốc Pháp-Ý, dân Pied-Noir từ Tunisie về) đã về hưu trong nhóm bạn thích chụp hình, đưa chúng tôi đi thăm cổ thành Nîmesbãi biển Le Grau-du-Roi. Đây là hai nơi nổi tiếng của miền Nam nước Pháp cho khách du lịch. Tôi là tay chụp hình tài tử, thấy đâu chụp đó, và phương tiện là cái máy Canon – PowerShot SD750 cũ kỹ. Còn hai anh bạn tôi thuộc loại nhà nghề, có chân trong hội nhiếp ảnh, trang bị đủ loại máy móc tối tân hiện đại, ngó vô bản lãnh là thấy có vẻ nặng nề và bộn bạc.
Nếu bạn đọc nào chưa hài lòng về những bức ảnh tôi chụp được trong bài ký sự này thì xin vui lòng gửi tặng cho tôi một máy chụp hình khác, mới hơn, tốt hơn và mắc hơn. Tôi rất cảm ơn, nhưng vẫn không chắc bảo đảm được phẩm chất đẹp hơn máy cũ, vì hình chụp là phản ảnh của con mắt, còn khả năng nhiếp ảnh của tôi thì chỉ biết dựa vào ngón trỏ bấm nút của mình. Xin quý bạn thông cảm! Tôi thuộc loại ‘lô-tách’ (low-tech), chỉ biết nhắm rồi bấm.
Tất cả hình ảnh trong bài là do tôi chụp. Thỉnh thoảng để làm rõ nghĩa hơn, tôi xử dụng thêm một vài bức mượn bên ngoài. Nhưng rất ít. Tất cả tài liệu và hình ảnh trích dẫn đều được trưng nguồn để cung ứng giá trị cho bài ký sự theo hai tiêu chuẩn của trường quy: 1. tính hiệu lực (validity) và 2. tính khả tín (reliability).

Giải-trí-trường La-mã của thành phố Nîmes, xây dựng vào thế kỷ thứ 2 [l’Amphithéâtre Romain de Nîmes] Nguồn  http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/83/N%C3%AEmes%2C_Centre_ville.jpg
Giải-trí-trường La-mã của thành phố Nîmes, xây dựng vào thế kỷ thứ 2
[l’Amphithéâtre Romain de Nîmes]
Nguồn http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/83/N%C3%AEmes%2C_Centre_ville.jpg
Nîmes là thành phố rất cổ. Khảo cổ học cho biết, đã có thổ dân (gốc dân Gaulois, tổ tiên của người Pháp bây giờ) ở đấy cả mấy ngàn năm trước công nguyên vào thời đại Đồ Đồng. Đạo quân viễn chinh của La-mã đã dùng đất này làm thuộc địa, tạo thành điểm tựa cho con đường nối liền từ đế quốc La-mã sang đất Tây-ban-nha vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên.
Kiến trúc đồ sộ nhất của Nîmes là Giải-trí-trường La-mã (l’Amphithéâtre Romain) đã được dùng làm công trường giác đấu từ cuối thế kỷ thứ 1, và nhiều thế kỷ sau lại có thêm màn đấu bò. Giác đấu là trò vui của dân La-mã khi xem người giết người (gladiator), thường là dân nô lệ. Còn đấu bò là trò vui của dân Tây-ban-nha (Spain) khi xem người giết bò mộng; nhưng đôi khi, tay đấu bò (torero, matador) gặp số xui, bị bò báng lòi ruột như chơi! Khi Nîmes thuộc về đất Pháp rồi thì l’Amphithéâtre được dùng cho những buổi hòa tấu âm nhạc ngoài trời (concert).
Hiện thời, thành phố đang bỏ tiền để sửa chữa lại hội trường sau cả ngàn năm phong trần, hầu hấp dẫn thêm du khách và khách đến nghe nhạc. Trong khi chờ đợi năm sau sẽ sửa xong thì đã có ba, bốn bạn homeless (vô gia cư) đến dựng lều ngủ tạm qua ngày.
Giải-trí-trường La-mã được dùng làm chỗ đấu bò trong quá khứ (thế kỷ 19), nên trước cửa vào hội trường, một bức tượng bằng đồng tuyệt xảo được dựng lên. Từ nét mặt cho đến y phục của tay đấu bò này được trình bày một cách chi tiết và tỉ mỉ, khiến du khách ghé xem luôn trầm trồ và thích đứng chụp hình chung với bức tượng. Đi dạo chung quanh vòng đai của hội trường, chu vi dài khoảng 365 mét, giữa trời nắng chang chang thì mệt quá!
Chúng tôi ghé qua quán nước bên đường, đối diện với giải-trí-trường, để tìm một ly nước giải khát. Quán lại không có nước đá !?$  Uống xong, anh Paul hỏi bằng tiếng Pháp: voulez-vous visiter Les Jardins de la Fontaine? Tôi trả lời bằng tiếng Mỹ, và nhờ anh Khương đứng ở giữa làm thông ngôn: đi đâu cũng được, miễn là có bóng cây thì OK! Thế là mọi người đồng ý kéo nhau đi thăm Vườn bông Les Jardins de la Fontaine.

Khương & Paul và T & T
Khương & Paul và T & T
Anh Paul là dân địa phương ở đây đã mấy đời, cho biết: trước cổng vào vườn bông là bãi đậu xe ngầm dưới đất, lớn nhất thế giới! Wow! Không biết anh bạn Pháp-trắng này nói giỡn hay nói chơi đây? Không biết QPark (tên của bãi đậu xe) này chứa được bao nhiêu xe mà đòi giành giải quán quân nhất thế giới. Bên Mỹ, bãi đậu xe ngầm lớn nhất dưới đất là bãi đậu của công ty Microsoft ở Redmond, bang Washington; nó chứa tới 5000 chiếc xe.
Pháp với Mỹ cãi nhau từng li từng tí, từ hồi Mỹ lập quốc tới giờ (1776). Trước đây, trong quá khứ qua nhiều thế kỷ, Pháp với Anh cũng tranh giành từng tí từng li; may mà nhờ cách nhau một con biển, nên lâu ngày cơn giận dữ từ từ nguôi dần. Đến khi dân Mỹ đánh nhau với đế quốc Anh giành độc lập, thì Pháp lại đem quân mình giúp cho Mỹ, phần nào tạo cơ hội để Mỹ chiến thắng. Rồi khi Pháp bị Đức đánh chiếm hồi đệ nhị thế chiến, thì Mỹ cũng đổ bộ ở Normandie, hy sinh biết bao sinh mạng. Có qua có lại, mới toại lòng nhau, nên dĩ hòa vi quý!
Xin trở lại việc đi thăm vườn bông Les Jardins. Trong vườn trồng rất nhiều cây, nên đầy bóng mát. Thiên hạ tụ năm tụ ba ngồi quanh gốc cây to để nghỉ ngơi, trò chuyện hoặc ăn trưa. Rất thanh nhàn và yên tĩnh! Lại có hồ nước nữa, thật là nơi chốn lý tưởng cho các bạn thích ngồi thiền, sau một ngày làm việc đảo điên ngoài phố. Vườn này xây nhiều kiến trúc có từ hồi thế kỷ thứ 18, nhất là dựng các tượng người đứng hai bên đường dẫn vào công viên, như chào đón khách thập phương đến viếng cảnh.
Dưới hồ nước có một bầy cá koi (giống cá Nhật Bổn) đang bơi lội nhởn nhơ. Rất thảnh thơi và nhàn hạ! Anh Paul bèn hỏi tôi: anh không phải là cá, sao anh biết nó nhàn hạ? (lại qua lời thông ngôn của anh Khương). Tôi bèn bắt chước thầy Trang-Tử, đi một hơi: anh không phải là tôi, sao anh biết tôi không biết là cá nó nhàn hạ? Bỗng nhiên, một cặp ngỗng trời (thiên nga) từ trên không sà xuống mặt hồ, khiến bầy cá thơ ngây lặn mất. Và tôi cũng mất hứng lý sự cùn luôn!
Ở một góc công viên là một dàn sân khấu lộ thiên đang được dựng lên với một hệ thống âm thanh và ánh sáng tối tân để chuẩn bị cho một buổi trình diễn hòa nhạc kích động. Tôi biết là họ sẽ chơi nhạc kích động, vì có tới hai dàn trống nguyên bộ (complete drum set). Tôi hồi còn ở trung học cũng có chơi đánh trống, nên ngó vô là biết liền, khỏi cần suy diễn.
Trống Tây, trống Tàu, tôi đều đánh ráo! Trống Tây là để chơi ‘nhạc đại chúng’ (popular music), còn trống Tàu là để múa lân. Tôi không thích dùng chữ ‘nhạc sến’ vì không đúng nghĩa, đụng chạm tâm lý nhiều người. Tôi thường dùng chữ ‘nhạc đại chúng’ nhiều hơn và càng tránh chữ ‘nhạc quần chúng’ vì có người tưởng rằng ‘thiếu áo’ (ngược lại với quần).
Trong vườn bông này còn có Tháp Magne (La Tour Magne) được xây khoảng 10 năm sau khi Đền Nữ Thần Diana (LeTemple de Diane) được dựng lên năm 25 trước công nguyên. Các đền đài này đều là kiến trúc của La-mã thời cổ đại còn sót lại. Cách đây trên hai ngàn năm, những tảng đá nặng cả chục người khiêng, không biết làm sao mà các nghệ nhân La-mã, thật ra là dân nô lệ của La-mã, có thể nâng lên cao, chồng chất vào nhau mà không dùng đến hồ keo, để có thể tạo nên một lâu đài tuyệt kỹ như thế! Tôi liên tưởng đến dân Ai-cập với kim-tự-tháp và dân Champa cùng tháp Chàm vào thời xa xưa.

Người xưa đâu? Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu! [Trích lời theo bài ca Hận Đồ Bàn của nhạc sĩ Xuân Tiên]
Người xưa đâu? Mà tháp thiêng cao đứng như buồn rầu!
[Trích lời theo bài ca Hận Đồ Bàn của nhạc sĩ Xuân Tiên]
Đền nữ thần chỉ còn một phần nóc, bốn bề là vách đứng trơ vơ. Ngoài cổng vào đã có lời dặn, cẩn thận khi đi vào trong đền. Một mắt tôi ngó lên trần đền, rảo bước nhẹ nhàng và lẹ làng, một mắt tôi nhắm vào máy chụp hình, ngón tay bấm lia lịa, và cặp cẳng luôn sẵn sàng trong tư thế để vọt, trong trường hợp bị đá rớt đè.
Chung quanh đền là lớp tường thành đã đổ nát, chỉ còn lại bệ gốc. Nhiều cây cao chen mọc tự nhiên với bóng mát che nắng cho con đường đất sạch sẽ, dắt dạo quanh ngôi đền. Dưới chân tường, cây cỏ mọc xanh rì. Thành phố cho trồng thêm một vài khóm hoa kiểng đua sắc chen màu, khiến khách nhàn du cũng tức cảnh sinh tình:
Rừng hoang vu! Vùi lấp bao nhiêu uất căm hận thù
Ngàn gió ru! Muôn tiếng vang trong tối tăm mịt mù.
(Nguồn: Hai câu đầu trong bài ca Hận Đồ Bàn của nhạc sĩ Xuân Tiên, điệu boléro)
Ngoài bờ rào ngôi đền thần nữ, tôi thấy có một phần cột đá, dài hơn năm thước, được kê nằm trên mặt đất. Chắc là cột cái của cổng vào đã bị gãy đổ. Trước cổng thấy vẫn còn một cây cột cái đứng sừng sững, nhưng chỉ cao có phân nửa.
Chúng tôi bắt đầu mỏi chân, chen lẫn với đói bụng. Quyết định: không lên đèo đến Tháp Magne trên cao điểm, vì cần thêm cả tiếng đồng hồ để leo. Chắc phải đi tìm một quán ăn trưa với vài món lót dạ ngay. Anh Paul biết đường ra phố, dẫn đầu đi trước. Chúng tôi đi xen ngang những ngõ hẻm chật hẹp. Không một bóng cây, nhưng đầy những bức tượng nghệ thuật. Dân Pháp tự hào về nghệ thuật đắp tượng của mình là phải!
Một cách chung chung thì người Pháp rất thích các tượng khoả thân. Tôi cũng thích nữa! Anh Paul chụp lia lịa. Anh Paul ở trong nhóm chụp hình nhà nghề của thành phố mà! Anh Khương và tôi cũng đua nhau bấm máy các bức tượng. Còn Vĩnh Thanh Thảo tuy đói meo, nhưng vẫn cố gắng, hoặc đứng, hoặc ngồi một cách điệu bộ để làm người mẫu chụp hình, khi có lời mời.
Nhà cửa san sát vào nhau. Hẻm phía sau nhà, xe hơi đậu đầy, không thấy ai lai vãng. Còn hẻm phía trước nhà thì lai rai một vài người quá bộ. Có người ngồi bệt trước sân nhà để nghỉ mệt. Cuối lộ đường là một thánh đường nho nhỏ. Nếu không quá đói thì tôi sẽ ghé vào nhà thờ để cầu nguyện và nhớ thương về người thân đã khuất. Còn bây giờ thì, xin lỗi, dĩ-thực-vi-tiên!  
Bên trong nhà, đồ đạc không biết trưng bày hoặc diện mạo như thế nào, mà cổng vào và cửa cái bên ngoài thông vào nhà, trông rất trang nhã, đàng hoàng và bệ vệ. Thường là cửa hai cánh, bằng sắt nặng hoặc bằng gỗ tốt. Dân Pháp tự hào về nghệ thuật nhà cửa của mình là đúng!  
Ăn trưa xong, chúng tôi rảo bước chung quanh khu phố nhỏ, vừa xem các cửa hiệu, vừa xem dân tình, và nhất là, vừa cho tiêu hoá mấy ổ bánh mì Tây, ngon nhất thế giới! Hàng quán nhỏ nhắn, xinh xắn, chỉ coi qua cho biết giá cả . Thứ gì cũng mắc. Mắc quá trời!
Mắc thì mắc, nhưng vì thèm cà-rem (ice cream), nên tôi cũng thử một muỗng nhỏ kem vanilla của địa phương cho biết, giá 2 €. Kem Pháp không ngon bằng kem Mỹ. Cả đời tôi lớn lên với cà-rem Mỹ, ai nói gì thì nói, cà-rem Mỹ vẫn ngon hơn cà-rem Pháp. Và cà-rem California, đối với tôi, vẫn là ngon nhất thế giới  !
Thử kem Nîmes rồi, thì đã 2 giờ trưa. Chúng tôi lại lội bộ tới đền thờ La Maison Carrée. Đây là nhà thờ La-mã, xây dựng vào năm thứ 4 sau công nguyên. Nhà thờ gồm có hai phần. Phần một: phía trước đền (ngoại đền = portico, pronaos) với vùng đất rộng bao quanh bên ngoài, là nơi công cộng để thiên hạ tụ tập. Phần hai: phía trong đền (nội đền = shrine room, cella) với các bậc thang có lính La-mã gác dàn ngoài để bảo vệ cho hàng tư tế hành lễ bên trong.
Đền thờ La Maison Carrée
Đền thờ La Maison Carrée
Maison có nghĩa là Nhà. Carrée có nghĩa là vuông vức, hình thể có bốn cạnh vuông. Hình chữ nhật và hình vuông trong hình học đều có thể gọi là ‘carrée’ (ca-rê).
Ngày nay, đền thờ không còn dùng làm chỗ thờ phụng nữa, mà là thắng cảnh để khách thập phương đến thăm viếng. Các cột của phần ngoại đền đã bị hư hại toàn diện, chỉ còn để lại một vài gốc bệ mà thôi, còn phần nội đền thì vẫn còn tốt. Du khách có thể ngồi vòng ngoài đền, bây giờ trở thành các quán ăn, để uống cà-phê và ngắm cảnh thiên hạ: ông-đi-qua-bà-đi-lại; hoặc có thể mua vé vào trong đền để xem lại các tài liệu về những di tích lịch sử của thành phố Nîmes như các trận giác đấu và các trận đấu bò giải trí, vào thời cổ đại và cận đại.
© Trương Như Thường
© Đàn Chim Việt
(còn tiếp)
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/79312/9-con-duong-lien-au-thau-ca-chau-ve-mot-moi-2/2013/09
=======================================================================
9 con đường Liên-Âu: Thâu cả châu về một mối [3]


|
Ký Sự Tản Mạn Hè 2013 
HỒI MỘT :  THĂM NƯỚC PHÁP
phần 1
Phần 2
Hóng Gió Ngoài Bãi Biển LE GRAU-DU-ROI
Thăm cổ thành Nîmes như vậy là tương đối khá đầy đủ. Chúng tôi ra xe để lái đến bãi biển Le Grau-du-Roi vào buổi chiều, nhưng trời mùa hè còn nắng và sáng lắm! Anh Paul lái chừng 45 phút là ra tới biển. Le Grau-du-Roi là một thành phố nhỏ, chưa tới một chục ngàn dân, nhưng có được hai bãi biển và một làng đánh cá sầm uất. Đường vô bến tàu rất hẹp, du khách phải đậu xe bên ngoài rồi đi bộ vô làng. Phải băng qua một cái cầu quay. Tới giờ tàu đánh cá về bến thì cầu được điều khiển quay thành 90 độ để có đường cho tàu đi qua, còn người ta và xe cộ phải đứng chờ. Tàu cá vô trước, bộ hành nối bước theo sau.
Bến tàu Le Grau-du-Roi
Bến tàu Le Grau-du-Roi
Dọc theo hai bên thủy lộ là các dãy nhà gạch, cũ kỹ, cao không quá ba tầng đã được xây cất gần một trăm năm nay. Le Grau-du-Roi ban đầu chỉ là một làng đánh cá nhỏ vào cuối thế kỷ 19 bởi các di dân người Ý. Và vì nhờ có bãi biển tốt dài đến 18 km, nên đầu thế kỷ 20 thiên hạ tụ lại thành một nơi nghỉ hè/mát lý tưởng. Khách sạn mọc cao sáu bảy tầng ngay trước mặt bãi.
Tôi thích ngắm cảnh tàu cá về bến vào buổi chiều tà. Từng đàn chim hải âu bay lượn sau đuôi tàu để chờ ngư phủ quẳng cá hư thúi xuống nước. Mùi cá tanh trộn lẫn tiếng chim đang tranh giành, tạo thành một cảnh tượng sinh tồn tự nhiên. Bối cảnh này được phụ họa bằng một điệu nhạc hoà tấu thật chói tai, nhưng tất cả khách vãng lai đều muốn dừng chân đứng lại để thưởng thức.
Qua cầu quay rồi, đi dọc theo thủy lộ độ 500m là ra tới bờ biển. Bãi biển thật diệu hiền vì ít song. Người tắm biển không đông mặc dầu trên bãi khá nhộn nhịp. Tôi thử dọc nước. Ồ nước còn lạnh quá! Hèn gì ít người xuống tắm biển. Anh Paul còn cho biết, vì bờ biển khá dài và có nhiều cồn cát khuất nẻo, nên nếu lái xe lên phía tây của làng chài thì có vài bãi tắm khoả thân. Ảnh hỏi muốn đi xem khoả thân nữa không? Kỳ này là tượng thịt da, chớ không phải là tượng đất đá như ở Les Jardins. Nhưng tất cả chúng tôi đều mệt mỏi quá rồi vì đi bộ cả ngày, từ sáng đến chiều, nên tôi xin khất lại kỳ sau. (Thật ra, trong bụng tôi nghĩ khác: ông già Paul đang mắc bịnh tim, đi chơi thường kéo theo ông già bác sĩ Khương đi kèm. Nhỡ ông Paul có bề gì thì đã có ông Khương cứu thương kế bên. Hai ông này mà gặp một rừng da thịt, lỡ lên cơn giật nguy kịch cùng lúc thì làm sao tôi cứu cho kịp! Chớ tôi đâu có mỏi mệt gì đâu mà từ chối đi xem bãi biển khỏa thân).
Trên đường trở về chỗ đậu xe, dọc theo thủy lộ, quán ăn đồ biển (sea food), các tiệm bán quần áo và sản phẩm kỷ niệm mọc lên như nấm để cung ứng nhu cầu cho du khách. Mấy tay ngư dân, mặt mày sạm nắng, vẻ mặt khắc khổ, xăm mình đầy chỗ, ngồi cạnh chai bia trông thật thư giãn! Tự nhiên tôi chợt nhớ đến cuộc đời và số phận của ngư phủ ViệtNam.
Ước gì cuộc sống của ngư dân người Việt tại làng Lý Sơn (tên cũ là Cù lao Ré ở miền Trung) cũng được thoải mái bằng một ly bia như các ngư dân đồng nghiệp tại làng Le Grau-du-Roi. Ngư dân ViệtNam luôn sống trong phập phồng bởi các ‘tàu lạ’ (made in China).
Trên đường trở về khách sạn sau một ngày thật dài thưởng ngoạn, tôi miên man liên tưởng tới chuyện của xứ người, rồi của xứ cũ của mình! Ngày mai, chúng tôi rời miền nam nước Pháp để thăm lại kinh đô Paris trên miền bắc. Thành thật cảm ơn anh Khương và anh Paul. Nhiều thật nhiều. Những người bạn nối-vòng-Trăm-Việt tuyệt vời! Chúng tôi đi du lịch cũng là đi du học về tình hình của đất nước các anh:
Khí hậu miền nam nước Pháp thật dễ chịu và các tỉnh nhỏ chứa đầy di tích lịch sử. Theo hướng trục từ nam lên bắc, người Hy-lạp đã đến chiếm đóng Marseille của dân bản địa để làm đầu cầu cho đế quốc vào năm 600 trước công nguyên. Nhiều thế kỷ sau đó, tới phiên người La-mã tây- tiến lên cư ngụ vùng Nîmes, cũng để dựng đường đế quốc sang Tây-ban-nha (Spain). Sự tiến hóa và hùng mạnh thời cổ-đại của Hy-lạp và La-mã đã góp phần hình thành tạo nên nền văn minh trung-đại cho người Pháp sau này. Do đó, khi thăm viếng Paris, kinh đô của ánh sáng trên cực bắc nước Pháp, chúng ta cảm nhận phảng phất đâu đây sắc thái văn minh của Hy-lạpLa-mã tự xa xưa, nhiều ngàn năm về trước.
Ngày nay, người La-mã đã không còn hiện hữu nữa vì đã hòa nhập và biến thể thành đất nước Ý (Italy). Còn người Hy-lạp thì dặm-chân-tại-chỗ và đất nước họ trở thành yếu kém trên mọi mặt sinh hoạt về kinh tế và chánh trị. Ngược lại, sự tiến bộ của đất nước Pháp cũng như lòng vị tha của dân tộc Pháp, được xem như hậu duệ của Hy-lạp và La-mã, đã đóng góp nhiệt thành vào mái nhà chung Liên-Âu. Tính hóa giải và liên hợp của nước Pháp về phương pháp đồng thuận là bài học lãnh đạo đáng trân trọng cho loài người ghi nhận.
Đặc biệt người Châu Á phương Đông đã học hỏi được những gì từ người Châu Âu phương Tây? Và đặc biệt hơn nữa là, với chính sách bành trướng hung hãn và thiển cận của giới lãnh đạo Trung-cộng hiện nay, đang luôn lăm le tiến chiếm vùng Đông-Nam-Á sẽ đưa Á Châu và thế giới đi về đâu? Lãnh đạo Châu Á phải xử Trung-cộng như thế nào?
Nhà nước Việt-cộng gọi Trung-cộng là ‘tàu lạ’ là đúng, bởi vì họ đâu có biết gốc gác của Trung-cộng từ đâu ra. Lạ là phải. Nguồn gốc của Trung-cộng và Trung-quốc thì lạ hoắc đối với giới lãnh đạo ViệtNam. Nhưng cổ sử của dân tộc ViệtNam thì đã tỏ rõ. Lãnh đạo đất nước cần phải biết gốc gác của sự việc thì mới toàn triệt được nhân quả về sau. Cái gốc nằm trong sự hiểu biết, chứ không phải ở họng súng GDP! Còn tàu ngầm, hàng không mẫu hạm với những thứ máy bay tàng hình chỉ là chuyện nhỏ! Khi con người tháo chạy, thì, họ bỏ lại tất cả!
Trung-cộng, hậu duệ của xứ Tần (China), có còn nhận thức được nền văn hóa vay mượn của mình từ những dân tộc nông nghiệp Bách-Việt tự phương Nam hay chăng? Văn hóa của Hoa Hạ từ đâu mà ra? Lịch Rùa, điểu-trùng-văn từ đâu mà có? Thực chất hay bản chất của Hán-tộc là gì?
Cái hậu quả xứ Tần bị Nhà Nguyên, Nhà Thanh cai trị đã từ nguyên nhân nào mà rước vào vùng trung-nguyên? Song song với những tiến bộ biểu kiến về kinh tế bề ngoài, Trung-quốc đã học hỏi được những gì từ lịch sử xã hội đen tối bề trong vào cuối đời của các Nhà Châu, Nhà Tần và Nhà Hán? Cũng vậy, nếu lãnh đạo Trung-cộng không biết ứng dụng con đường dân-chủ-hóa qua các phương pháp đa nguyên, đa chiều đồng thuận như Liên-Âu đối với lân bang, thì vấn nạn ngoại-ưu-nội-hoạn của Tàu-cộng (bên ngoài thì sầu muộn còn bên trong thì luống cuống) ngày càng thêm chồng chất!
Xin tản mạn sơ qua một vài nét đan thanh về lịch sử trung-bang, để Ta và Tàu cùng nhau suy ngẫm!
4.     Trở Lại PARIS
Paris, kinh đô của ánh sáng, của văn minh. Tôi thích lắm! Tôi đã thăm viếng Paris nhiều lần: từ cảnh đi dạo dọc bờ sông đến ngồi thuyền chun qua các gầm cầu (La Seine); từ việc tung tăng trong vườn bông xanh mát (Le Jardin du Luxembourg) cho đến những buổi trưa ngủ gục trong các bảo tàng viện khảo cổ để xem trống đồng (Le Musée Guimet);  …..
 ….. xem những đoạn phim quay về Đông Dương cả trăm năm trước (Musée et Jardin Albert-Kahn); rồi vừa đi vừa lết, cả ngày chưa hết trong các bảo tàng viện nghệ thuật (Musée du Louvre); từ việc ngồi uống cà-phê và đấu láo tào-lao cùng bạn hữu trong các khu sinh viên gần trường đại học (Quartier Latin); …..
….. từ việc đến thăm các nhà thờ nổi danh (Notre-Dame du Paris), chen chân vào không lọt; từ việc leo lên ngọn tháp bằng kim loại đen xì, cao ngất (La Tour Eiffel), giống như chuột tý trèo cây cau; từ việc lội bộ ba tiếng đồng hồ, không bản đồ trong tay, để tìm cho ra ngôi mộ của hoàng đế ViệtNam cuối cùng (mả vua Bảo-Đại); từ việc ngồi ăn nhậu bốn năm tiếng đồng hồ trong các gia đình Pháp-Việt, làm tới đâu ăn chơi tới đó, thật là nhàn hạ quá cỡ …..  Còn nhiều thứ lắm, tôi nhớ chưa ra hết!
À, còn việc leo lên leo xuống các hầm métro:
tuyến dọc rồi lại tuyến ngang,
tuyến thẳng tuyến chéo, thăm ban suốt ngày …
(thăm ban, phải bỏ thêm dấu nặng thành thăm bạn, mới có nghĩa),
rồi đi các chuyến xe buýt đêm miễn phí, rồi lạc đường, vân vân và vân vân. 
Mộ Vua Bảo Đại (tBt chụp)
Mộ Vua Bảo Đại (tBt chụp)
Mỗi kỳ viếng thăm là châm thêm được một vài bài học. Kỳ này tôi ghi nhận được nhiều điều mới, xin chia sẻ (có lúc tôi dùng chia xẻ, cả hai đều đúng) cùng các bạn:
5.1   Nhà thuốc tây (pharmacie) đầy đường;
5.2   Thăm anh Nguyễn Gia KiểngNhóm Thông Luận;
5.3   Viếng Château de VincennesMosquée de Paris; và
5.4   Quang cảnh trên đỉnh đồi Montmartre.
4.1    Góc đường nào cũng có nhà thuốc Tây (Pharmacie)
Không biết khi nào chương trình ObamaCare bên Mỹ dám chơi cú này như ở bên Tây: góc đường nào cũng có tiệm thuốc Tây. Thiên hạ vô mua sắm, đa số đưa thẻ y tế ra cà, nhà nước lãnh đủ! Tiệm thuốc vừa bán dược phẩm, kèm theo mỹ phẩm, thỉnh thoảng tôi thấy có bán luôn cả ba cái đồ xài lặt vặt trong nhà. Không biết có hợp pháp/lệ hay chăng? Sức khỏe dân Pháp tương đối tốt, mấy bà mấy cô Pháp-Việt nhìn thon gọn, ít xồ xề, trông thấy mê, chắc do cách thức ăn uống và thuốc men đầy đủ. Còn tập thể dục, tôi nghĩ, chỉ là chuyện phụ!      
Còn mấy ông bạn Pháp-Việt của tôi ở dưới Marseille thì hết chỗ nói rồi. Nhìn sơ qua là thấy già trước tuổi. Ông nào ông nấy cũng nhậu thường thường, cao đường cao mỡ và cao máu, chỉ có tuổi thọ là chưa chắc cao. Tôi kể chuyện thật, xin quý vị Marseille đừng giận! Đây chỉ là thống kê chủ quan, mang tính cà-chớn, và thiếu sót của tôi. Tôi chỉ hỏi thăm sức khỏe của vài người bạn của mình (sample), rồi tổng quát hóa ra tất cả mọi người (population). Cái trật của tôi là ở chỗ quơ-đũa-cả-nắm. Xin quý vị thông qua. So ra, vẫn còn thua thống kê của nhà nước cộng-sản nói chung, và của ngân hàng nhà nước nói riêng, về các số liệu nợ nần.
Nhớ lại cả tuần ở dưới Marseille, anh Rolland dắt chúng tôi đi thăm mấy gia đình ViệtNam làm chủ quán ăn, nên ngày nào cũng có tiệc tùng và cụng ly, nhất là lối ăn-bao-bụng (all you can eat) về đồ biển. Các chủ quán làm ăn rất khấm khá. Càng nhiều tôm cua thì phải cần nhiều thuốc trị liệu cholesterol. Vô pharmacie là có ngay, không cần toa bác sĩ. Quá đã! Tha hồ mà ăn nhậu!
Cách vài ba con đường là có một nhà thuốc tây (Pharmacie)
Cách vài ba con đường là có một nhà thuốc tây (Pharmacie)
Vùng phụ cận và ngay tại Paris đã có nhiều gia đình Pháp-Việt rất thành công trong thương trường pharmacie mà tôi quen biết, thí dụ như các chị TNS, NGK, hoặc các anh NQN, HCT. Có người có đến hai, ba tiệm. Chính mắt tôi thấy, bà con cư dân địa phương chào hỏi anh NQN rất thân tình khi gặp nhau ở ngoài đường. Dân Pháp thật đáng mến! Tình cảm và thuốc men vẫn là hai mặt giao chỉ của thực thể tâm sinh lý.
Thuốc men bên Pháp đầy đủ nhờ ở sách lược bảo vệ y tế cho toàn dân của xứ Pháp. Vật giá tuy cao hơn ở Mỹ nhiều, nhưng dân chịu đóng thuế, nên nhà nước có tiền chi trả, nhờ vậy cuộc sống thoải mái, dễ chịu hơn. Dân Pháp-Việt ít bị siết nhà, ít bị vỡ nợ, ít lên voi xuống chó, ít tâm lý trầm cảm như dân Mỹ-Việt. Mức sống Mỹ cao hơn mức Pháp, và lối sống Pháp đã hơn lối Mỹ. Thành ra mức sống (standards of living) và lối sống (ways of living) là hai chuyện khác nhau, như âm-dương hai mặt. Nhưng nếu biết điều hòa: có chuyện thì cùng nghe và có việc thì cùng làm, chớ có bỏ nhau! Tuyệt chiêu!
Dân Mỹ-Việt lâu ngày cũng bị Mỹ-trắng-hóa, bị chia ra làm hai phe: cộng hòadân chủ. Dân chủ thì theo ObamaCare, còn theo phe cộng hòa (không tăng thuế, giảm chi tiêu) thì không thích phe dân chủ (đánh thuế cao, tăng dịch vụ). Tôi đứng trung dung, thuộc phe Mỹ-vàng và tự hào vì có ông tổng thống là Mỹ-đen (đầu tiên trong lịch sử Hoa-kỳ). Đứng trung dung nghĩa là, thứ nhất: phải tăng cao thuế như ở Âu châu để khỏi mượn nợ (national debt) quá cỡ, chịu chơi chớ không chơi chịu; thứ nhì: phải giảm chi tiêu, có bao nhiêu xài bấy nhiêu, thắt lưng buộc bụng. Nếu theo sách luợc kiểu trung dung như của tôi thì đố ai dám bầu cho tôi làm tổng thống!
4.2    Thăm vợ chồng anh chị Nguyễn Gia Kiểng và các bạn trong Tập Hợp Đa Nguyên
Xin có vài lời phi lộ trước khi quý vị đọc tiếp phần này. Đây là lần đầu tiên trong đời, tôi có dịp trò chuyện cùng anh Nguyễn Gia Kiểng, nổi tiếng về chuyện ‘hòa hợp hòa giải’ gì đó. Và chúng tôi cũng khẳng định là chưa nhận được một cắc bạc nào từ gia đình ảnh chỉ, để tung hô. Tôi nghe tiếng anh Kiểng và nhóm Thông Luận đã từ lâu. Khen, chê, đầy đủ từ mọi phía. Vài người bạn đã giới thiệu chúng tôi với nhóm của ảnh. Tôi thích học hỏi nên thử đối thoại lần đầu cho biết. Chúng tôi được chào đón bằng một buổi tiếp xúc thân mật và cởi mở bởi nhóm anh Kiểng; được đối đãi bằng một buổi cơm thanh đạm nhưng rất ngon miệng vì đang đói, và vì mấy ngày trước ăn toàn thức ăn tây; rồi tối đó được ảnh lái xe đưa tới nhà một thân hữu khác để nghỉ qua đêm.
Tôi nhỏ lớn sống ở Mỹ, một xứ dân chủ. Mà tối thiểu người dân phải có quyền ăn nói trong một xứ dân chủ. Tôi rất thích ‘được ăn nói’ và trao đổi với anh chị Kiểng. Vợ ảnh đãi chúng tôi một chầu ăn bún bò thật là ngon. Còn ảnh thì cho một tràng nói lý, cãi hoài chưa hết ý! Hễ tôi nói áo trắng thì ảnh trình bày cảnh áo đen, và khi bàn tới áo đen thì ảnh nhảy qua việc áo trắng. Người không quen thông luận và phản biện, chắc chắn là không hợp với sự năng động của anh Kiểng. Nhóm bạn thành viên của anh Kiểng cũng rất vui vẻ và dễ thương, nhưng chưa biết thương có dễ hay không? Chưa thử thành ra chưa biết!
Khi bàn sang văn thơ thì anh Kiểng rất uyên bác và kể chuyện thật dí dỏm. Nhưng tôi lại thích hàn huyên và trao đổi với ảnh về chuyện thời sự, vì nó kích thích mình suy nghĩ thêm và nhìn vấn đề rộng hơn. Tuy nhiên, phương pháp luận nghiên cứu của ảnh chưa được tròn đầy, nên vài chỗ còn thiếu. Còn hành động theo ảnh là chuyện sau bức màn nhung, và xin hạ hồi phân giải!
Tôi mê câu này của nhà tư tưởng Voltaire (1694-1778) của Pháp (đã được dịch sang Anh văn): I do not agree with what you have to say, but I’ll defend to the death your right to say it (tôi không đồng ý với điều gì anh nói, nhưng tôi quyết bảo vệ cho đến chết quyền được nói của anh). Chỉ có đảng cộng-sản độc tài đương thời là muốn độc quyền ăn nói, còn ai nói chuyện ngược lại là có chuyện lớn. Ở ViệtNam, ở tù như chơi.
Tôi chấp nhận quyền ăn nói của anh Nguyễn Gia Kiểng về ý nghĩ hoà-hợp-hoà-giải theo lý của ảnh; không như báo chí cộng-sản đã chụp mũ và lên án anh ta nhiều lần. Trong tương lai, nếu anh Kiểng có dịp qua Mỹ thì tôi sẽ mời gọi anh ta nói chuyện trước bà con người Việt về Việt-cộng, về Tàu-cộng, về con đường dân-chủ-hoá đất nước ViệtNam để chúng ta cùng nghe … và cùng cãi, trong tinh thần huynh đệ đoàn kết, tương kính tương nhượng.
Chuyện ngoài đường kéo tôi vướng vào việc trong nhà. Trước khi Ông Ngoại tôi mất, ông dặn các cậu tôi (là quân nhân thời VNCH) đừng chấp ông Bảy Trấn đã lầm lỡ theo cộng-sản. Ông Bảy Trấn đã theo đệ-tam là vì ông Sáu Nhâm (em ổng) đã bị Pháp chặt đầu, và trong lúc khốn cùng, hết đường trốn chạy giặc tây nên mới bay theo cộng-sản, núp dưới bóng Việt-Minh. Chớ không phải ông ấy khoái chí hay hiểu biết gì về cộng-sản. Tánh ông Bảy cương nghị, thể nào ổng cũng tỉnh ngộ, quay đầu chống lại, rồi làm gương cho cả nhóm đàn em rút ra khỏi đảng mà coi!
Quả đúng như vậy! Ở đời thì nhân-vô-thập-toàn, không ai là tuyệt đối hoàn hảo cả. Lầm đường lạc lối là chuyện thường, chuyện của hoàn cảnh. Biết lỗi và dám đứng dậy để sửa đổi mới là chuyện ngon lành, chuyện của tình thương và trí tuệ! Sau 1975 trở về Nam, ông Bảy chơi với mấy nhà tu hành miền Nam, rồi viết báo, viết sách, và đấu tranh đòi nhà nước cho báo chí tự do, mặc người đời khen chê:
Vì đại nghĩa không màng danh lợi.
Luận anh hùng chớ kể dại khôn.
Còn nếu như chúng ta chọn/tự làm người khôn mà ngồi núp trong/một góc. Mang lý tưởng cộng- hòa mà ôm sầu hận, lại thiếu sách lược và ngán hành động, đụng đâu chỉ trích đó thì khó có thể thay đổi được thời cuộc, ngoại trừ giải bày cho tâm lý mặc cảm của mình được phôi pha đôi chút. Mặt tiêu cực của các diễn đàn trên mạng, tuy mang danh ‘chính nghĩa’, lại chính là liều thuốc an thần, tích cực chữa bệnh hội chứng cho các cây viết nặc danh sầu muộn. Vừa leo lại vừa teo! Nghe những vị nặc danh phê bình anh Kiểng trên các trang mạng ảo, là việc làm không công bằng và quang minh đối với những người bất đồng chính kiến trong một xã hội dân chủ.
Ông Ngoại tôi tuy bất đồng chính kiến với hai người em vợ là ông Tám Xuân theo lính tây và ông Bảy Trấn theo cộng-sản (cũng là sản phẩm của tây), nhưng không bao giờ Ngoại tôi xem họ là kẻ thù. Dặn con cháu không nên trả thù ai hết, vì đó là con đường bất-báo-vô-đạo của ông tôi, dù cho mẹ tôi bị tán gia bại sản, và các cậu tôi bị tù đày nhục nhằn bởi chính sách thiển cận của lãnh đạo cộng sản. Trong nhà đã ôn hoà như vậy, huống chi chuyện ngoài đường.
Các ông Bảy Trấn, Tám Xuân, ông Ngoại, mẹ tôi, và cậu thứ ba của tôi đều đã ra người thiên cổ, còn lại cậu thứ sáu, hiện là nhà sư, thì hằng ngày luôn tụng niệm cho thế giới yên bình và các tiền nhân được siêu sinh tịnh độ. Tôi viết chuyện người, chuyện đất nước và luôn luôn nhớ đến chuyện thứ tha trong nhà! Chúng quyện vào nhau như hình với bóng, không tách ra được. Khi trong nhà chưa biết cách hoà để tu dưỡng nội lực thì đừng trách gì ngoại bang tha-hoá chúng ta.
Thôi! Thăm anh Kiểng và nhóm Tập hợp Đa nguyên như vậy là đủ rồi! Đợi dịp có duyên, khi gặp nhau trong cuộc họp mặt dân chủ nào khác thì chúng ta sẽ bàn tiếp.
5.3   Xem lâu đài Château de Vincennes, rồi đi ăn nhà hàng Mosquée de Paris
Lâu đài Château de Vincennes
Lâu đài Château de Vincennes
Lâu đài này khá to, được bắt đầu xây từ năm 1150 dưới thời vua Louis VII (1120-1180) và sau đó tiếp tục xây lớn thêm vào thế kỷ 14 và 15 trong các thời kỳ trung cổ. Nó được dùng làm cổ thành, cung điện, nhà tù và khu quân sự, tùy theo sở thích của các vị vua cai trị. Vua Louis IX (1214-1270) đã khởi quân thập-tự chinh (crusades) từ Vincennes hai lần để xâm lăng các xứ Hồi giáo ở Bắc-Phi: lần nhất (1248) bị quân Ai-cập bắt và được chuộc mạng, lần nhì (1269) thì bị bịnh chết tại xứ Tunisie.
Lâu đài này đã chứng kiến biết bao thăng trầm, tranh giành quyền lực của thời đại quân chủ trong lịch sử Pháp. Chung quanh lâu đài là hào sâu cả chục thước, thời xưa chứa đầy nước với cọc nhọn dưới đáy để giữ thành hoặc gây khó khăn cho tù vượt ngục; thời nay thì khô cạn và cỏ mọc xanh rì trên thân không biết bao nhiêu cốt khô đã ngã gục. Chân tôi vừa nhàn hạ đi dạo quanh bờ thành mà đầu óc tôi vừa loạng choạng nghĩ về mấy ông vua thời quân chủ: dân trong nước mấy ổng còn hổng tha, huống hồ gì dân Rệp (Arabe, Á-rập), dân Mít (Annamite) ở ngoài xa. Quả báo là tới thời dân nổi loạn, ông vua Pháp lại bị dân chặt đầu.
Vua chúa lãnh đạo của Pháp kém xoay sở bằng vua chúa lãnh đạo của Anh. Hoàng-gia Anh biết được sức mạnh của người dân. Cách mạng dân chủ Pháp phải trả đầy xương máu chỉ vì lãnh đạo vô minh. Bài học lịch sử của Tây phương có ơn ích gì cho Đông phương hay không? Giới lãnh đạo độc tài của Trung-cộng và Việt-cộng rồi sẽ ra sao trong tương lai? Bãi đáp an toàn cho cộng đảng như thế nào tùy thuộc vào nội lực công phu đổi mới tiến vào con đường dân-chủ-hoá.
Đi bộ được một tiếng đồng hồ rồi! Bây giờ đã thấy đói, bèn nhớ tới Tú Minh đã gọi hồi sáng rủ cùng nhau đi ăn cơm tối.
Trương Như Thường, Vĩnh Thanh Thảo, Tú Minh
Trương Như Thường, Vĩnh Thanh Thảo, Tú Minh
Thật là bất ngờ gặp được ca-nhạc-sĩ Tú Minh, người cùng quê với chúng tôi ở San José, ngay tại thủ đô Paris mỹ lệ này. Tú Minh qua thăm bà nội bị bịnh nặng ở Pháp chỉ có vài ngày rồi trở về Mỹ. Sẵn dịp anh chị Khánh-Khanh, bạn nghệ sĩ của Tú Minh, là dân thổ địa trên 40 năm tại Paris rủ đi ăn cơm Trung-Đông (thức ăn của dân Hồi, cơm tối tiệm Rệp) tại quán Mosquée de Paris rất đặc biệt (Hình 34). Tụi tôi OK liền!
Vừa gặp bạn hiền, lại thêm bạn mới, vừa thưởng thức đặc sản lạ, còn gì quý giá cho bằng! Đúng là ‘hữu-duyên-thiên-lý-năng-tương-ngộ’ (khi có duyên với nhau thì dù có xa ngàn dặm cũng gặp nhau được). Để tôi viết kể về thức ăn trước, rồi về người sau, vì tôi đang đói bụng. ‘Dĩ-thực-vi-tiên’ (cái ăn là hàng đầu) mà! ‘Tiên’ là ông tiên hay bà tiên [], và ‘tiên’ cũng là đi trước [], tùy theo cách mình viết chữ Nho/Hán. Chữ Hán từ chữ Nho mà ra. Chữ Nho thường là ‘đồng-âm-dị-nghĩa’: âm nói giống nhau mà ý nghĩa lại khác nhau vì do cách viết khác nhau! Tôi xài âm Hán-Việt hơi nhiều, thí dụ như: dĩ-thực-vi-tiên, đồng-âm-dị-nghĩa, nội-ưu-ngoại-hoạn
Tiếng Việt thiên về âm nói, còn tiếng Tàu thiên về chữ viết. Tiếng Hán-Việt là âm đọc chữ Nho/Hán/Tàu theo kiểu của người Việt. Người Bắc-kinh, Quảng-đông, Triều-châu, Phúc-kiến, Triết-giang đều không hiểu âm Hán-Việt; do đó, âm Hán-Việt là của riêng chúng ta.
Trong đoạn này, tôi xài nhiều thành ngữ Hán-Việt, xin bạn đọc đừng hoảng vì tôi sẽ diễn giảng. Có khi tôi còn ‘cut’ (cắt) và ‘paste’ (dán) chữ Tàu vào bài viết của mình nữa. Nhưng có bạn hiểu nhầm, tưởng tôi là dân Ba Tàu, nhất là họ của tôi là Trương, nên càng dễ lầm lộn hơn nữa. Bạn đó cứ ngỡ tôi là giòng dõi Trương Giốc, Trương Phụ hay Trương Phi gì đó bên Tàu. Khi tôi hỏi ngược lại, có biết Trương Chi (trong truyện Trương ChiMỵ Nương) vào thời Hùng-vương hay không, thì bạn đó lại bí! Để tôi bật mí thêm gia phả bên nội tôi cho bạn đọc được rõ.
Ông nội tôi là Trương Tựu, cha tôi là Trương Bổn Thắng, và tôi là Trương Bổn Tài bút danh Trương Như Thường. Bà nội tôi là Võ Thị Thân, lấy ông tôi ở Sa-đéc. Bà tôi thuộc dòng dõi còn sót lại của tướng Võ Tánh. (Võ Tánh theo phò Nguyễn Ánh đánh không lại quân Tây Sơn đành tự vẫn, chứ không chịu đầu hàng). Ông và cha tôi là dân vùng Tiền-giang đều mất ở tuổi 33. Cha tôi và tôi đều mồ côi cha lúc 10 tuổi. Giòng bên nội tôi bị sớm đứt đoạn, nên tôi lớn khôn trong lòng ông bà ngoại và mẹ hiền, với sự đùm bọc của các dì, cậu. Chỉ nghe người lớn nói lại: ông nội tôi là dòng dõi con cháu của tướng Trương Định, dưới thời vua Tự Đức. Cả giòng họ không chịu theo tây, cứ đánh hoài cho tới chết. Hết tuồng! Đủ thanh minh thanh nga rồi chưa hỡi bạn?
Nếu bạn có laptop, biết xài internet và cho tôi nửa tiếng đồng hồ thì tôi có thể chỉ cho bạn viết và hiểu được tiếng Tàu. Nếu bạn chịu nghe tôi thuyết trình 4 tiếng đồng hồ thì tôi sẽ dẫn giải ‘tiếng Tàu’ là từ tiếng Nôm của Ta mà ra. Cả âm nói lẫn chữ viết. Nôm có nghĩa là Nam, phương nam, thí dụ Quảng Nôm chính là Quảng Nam. Nôm có trước, Nam có sau. Bạn thân tôi là các nhà nghiên cứu ngữ học Nguyễn Cung Thông và Đỗ Ngọc Thành rành sáu câu về vụ này. Người Tàu cộng-sản hiện tại viết chữ giản-thể (simplified form) càng làm cho văn hoá Trung-cộng xuống thấp/cấp, vì kiểu viết đơn giản làm mất đi ý nghĩa nhân bản sâu sắc của thời xưa.
Nếu bạn cho tôi 8 tiếng đồng hồ thì tôi sẽ kể lại cho bạn nghe về nền văn minh Trung-Hoa phát xuất từ miền nam Bách-Việt. Ông bạn Hà Văn Thùy của tôi ở ViệtNam còn đang viết lại sử của Trung-quốc nữa kia kìa! Văn hoá tiến từ Nam lên Bắc cả chục ngàn năm về trước, rồi bị chính trị đè từ Bắc xuống Nam mới độ hai ngàn năm nay. Đủ lấy le (show off) chưa?
Ý tưởng của tôi nhảy tùm lum phải không bạn? Đã đề tựa là ký sự tản mạn mà. Tản mạn là rời rạc, không có tập trung. Ghi lại sự việc (ký sự) một cách không đầu đuôi, chỉ nhắm vào khúc giữa, khúc liên hệ, chuyện nọ xọ ra chuyện kia. Bạn hiểu/nhận ra được sự liên hệ giữa một rừng sự việc là tâm đắc với tôi rồi đó. Bây giờ trở lại món ăn ở tiệm Mosquée de Paris, vẫn còn kịp!
Mosquée có nghĩa là đền thờ Hồi giáo. Đúng rồi, Mosquée de Paris: bên trong là đền thờ, bên giữa là phòng sinh hoạt văn hóa, còn bên ngoài là quán ăn và nơi thưởng thức uống trà. Nhiều dịch vụ khác nhau dưới chung một mái nhà. Quán ăn rất nổi tiếng về món ăn đặc sản của dân Bắc-Phi (Morocco, Tunisia, Algeria, Liban và Mauritania … vốn là thuộc địa cũ của Pháp, theo đạo Hồi). Đó là món couscous và thịt trừu/cừu non, nướng rất thơm ngon.
Dân Á-Đông thì mê ăn cơm, còn dân Bắc-Phi thì thích ăn couscous (đọc đại là ‘cút-xơ-cụt-xờ’). Cút-xơ-cụt-xờ là một loại lúa mì (durum wheat), màu vàng hạt nhỏ (nhỏ hơn hạt gạo tấm của ta), dùng để hấp hay nấu, rồi ăn chung với rau cải, hay với canh, hay với các loại cá thịt, nhất là thịt cừu non, thì khá ngon! Tên khoa học của cút-xơ-cụt-xờtriticum turgidum durum, đọc đại là ‘tri-ti-căm-tuột-giờ-i-đăm-đuy-răm’; muốn dễ nhớ dễ thuộc thì liên tưởng đến trị-tí-cúm, cạo-gió-dùm, dù-cho-rụm.
Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, đọc đi đọc lại cụm từ này 10 lần thì chắc chắn sẽ thuộc lòng. Tôi bảo đảm với bạn, kết quả 150% vì hồi nhỏ tôi học môn thực-vật-học (botany) theo lối học thuộc lòng kiểu này, nên đã được đậu vớt (đậu nhờ cho thêm điểm, cứu vớt lên), có nghĩa là cô giáo cho đậu vì thương tình (dễ sai dễ bảo), chứ không phải vì tôi thông minh nhớ dai!
Một số người Việt chưa ăn được thịt trừu vì cho nó có mùi. Không phải vậy đâu! Ăn thua là ở đầu bếp. Tôi xực hết cả dĩa cơm couscous với thịt trừu nướng một cách ngon lành tại quán Mosquée de Paris. Lẽ dĩ nhiên phải có thêm vài giọt nước tương maggi và chút xíu ớt. Món couscous thịt trừu hấp dẫn không thua gì món cơm-tấm-bì-thịt-nướng của ViệtNam mình. Cảm ơn anh chị Khánh-Khanh đã giới thiệu món ăn truyền thống của dân Bắc-Phi cho chúng tôi.
lo 06
Ăn cơm couscous xong (tôi không dùng chữ cút-xơ-cụt-xờ nữa mà sẽ xài chữ gốc) còn có màn uống trà Hồi. Mùi vị của trà Hồi (chắc cũng nhập cảng từ vùng Bắc-Phi) không ngon và dịu bằng trà Tàu hay trà Ta. Nhưng cách rót trà của anh bồi bàn thì thiệt là lạ! Anh ta rót từ thấp kéo rút lên cao mà không đổ một giọt nước nào ra khỏi ly. Tôi tưởng là dễ, bắt chước một cái, nước đổ ra ngoài, văng tung tóe. Thật là bừa bãi. Thấy dễ vậy mà không phải là vậy!
Ngoài thức ăn lạ miệng, quán Mosquée còn cho thực khách một khung cảnh ấm cúng, có nhiều cây kiểng trong tiệm, tạo nên chỗ nghỉ ngơi thư giãn, thanh bình và thoải mái. Chắc chủ nhân người Pháp-Hồi của tiệm này khá rành về nghệ thuật chiêu đãi trong thời đại mới, không giống như bối cảnh giật giành tại vùng Trung-Đông (Middle East) dầu sôi lửa bỏng như hiện nay.
Dân Bắc-Phi mà Pháp đến xâm chiếm hồi thế kỷ 19 đã có nền văn minh nông nghiệp cả 5000 năm trước công nguyên, trước cả thời Hy-lạp và La-mã rớ tới MarseilleNîmes, trước cả khi quốc gia Pháp thành hình.  Và ngày nay, các xứ Bắc-phi vẫn còn chậm phát triển, Hy-lạp lại lặn hụp trong nợ nần, và Pháp đang phải gồng gánh nhiều hậu quả xã hội, đặc biệt là các vấn nạn đối với Hồi giáo và các sắc dân theo đạo Hồi, đã kéo dài từ thời thập-tự-chinh đến giờ.
5.4    Nhà thờ tâm linh bên trong, Nghệ sĩ ngoài đường và Hoạ sĩ hè phố tại Montmartre
Sáng sớm tinh sương chúng tôi lên đường viếng thăm nhà thờ Basilique du Sacré-Ceur. Nhà thờ này rất đặc biệt, kiến trúc theo kiểu nóc vòm, nên được gọi là basilique. Basilique tiếng Pháp lấy theo tiếng gốc Latin là basilica, có nghĩa là đền thờ Thiên-chúa-giáo với kiến trúc nóc tròn làm trục ở giữa cho toàn khối nhà, tượng trưng cho trung tâm của mọi sinh hoạt xã hội.
Basilique du Sacré-Coeur de Montmartre
Basilique du Sacré-Coeur de Montmartre
Basilique du Sacré-Coeur de Montmartre được xây cất từ 1875 và xong năm 1914 trên đỉnh đồi Montmartre cao nhất thành phố Paris để dân chúng thờ phụng trái tim linh thiêng của Đức Chúa Jesus (sacré-coeur, sacred heart). Thay vì chạy xe thẳng lên nhà thờ trên đỉnh đồi, chúng tôi dừng xe dưới chân đồi, rồi lội bộ và leo lên mấy trăm bậc thang, tiêu hết calorie từ bơ sữa của buổi ăn sáng. Nam thanh nữ tú đi lô-ca-chân như chúng tôi khá đông, từ mọi con đường nhỏ, trực hướng nhà thờ mà thẳng tiến.
Đúng như quan niệm xã hội của các kiến trúc sư truờng phái basilica: chung quanh nhà thờ là mọi sinh hoạt khác. Trước mặt nhà thờ là hằng trăm khách thập phương đang ngồi trên các bậc thềm cao điểm. Khách nhìn xa xuống cả thành phố náo nhiệt dưới trần, và nhìn gần vào con đường tiểu lộ ngay trước mặt, được dùng như một sân khấu lộ thiên cho các nghệ sĩ hè phố biểu diễn ngoạn mục.
Tài nghệ mấy anh nghệ sĩ ngoài đường thật tuyệt chiêu! Bên này: một nghệ sĩ Pháp-đen đội nón trắng và mặc quần trắng, một tay đang leo cột đèn, còn tay kia vờn banh thật lanh lẹ. Quả banh chưa bao giờ rơi xuống đất. Đúng là cao thủ! Bên kia: một nghệ sĩ Pháp-trắng vẽ mặt trắng nhưng mặc quần đen, đang huýt còi chọc khán giả băng ngang đường, rồi lại nằm trườn trên mặt đường chận xe cộ. Vừa nực cười lại vừa nguy hiểm. Nhỡ mà ô-tô cán qua mình thì e khó sống, mà dầu có sống thì chắc cũng khó nuôi!
lo 09
Ngang hông nhà thờ Sacré-Coeur là mấy quán nhậu và cả một chợ họa sĩ đang miệt mài cho tác phẩm của mình. Vĩnh Thanh Thảo và Thu Sương sung suớng đứng cạnh một kiều nữ đang dạo phong cầm (đàn accordion) một cách thong dong với một dàn chậu bông giả/giấy vây quanh. Điệu nhạc valse (waltz) lả lướt từ tiếng đàn mà hai cô nỡ lòng nào chịu đứng im, không nhúc nhích. Uổng thật! Một, hai, ba – bấm! Ngày mai rửa hình sẽ cho lên trang bìa.
Họa sĩ vẽ hình ở khuôn viên Montmartre cạnh bên hông nhà thờ khá đông. Độ vài chục mạng, đủ các gốc Tây, Tàu và Ta. Họ gồm nhiều loại trường phái khác nhau và giá cả thì trên trời dưới đất, tùy theo mấy ổng hay bả đang đói hay no. Một bức tranh chân dung theo kiểu truyền thần, giá thấp từ 50 € (chưa chắc đẹp) đến giá cao 90€ (cũng chưa chắc vừa ý). Mấy bức hình vẽ mẫu, trông rất đẹp, nhưng làm sao biết nó giống người thật? Chọn họa sĩ thì hên xui may rủi. Ba năm trước (2010), tôi được anh Marek Waniek vẽ cho một bức, may mắn, rất ưng ý. Bạn xem hình vẽ của tôi, đăng quảng cáo ở trang cuối bài. Đẹp biết dường nào (yamaham, già-mà-ham) !!!!! Vĩnh Thanh Thảo tốn bộn tiền cho hai ông họa sĩ vẽ hình mình, nhưng không biết có vừa ý hay chăng!
Quý vị đã biết/nghe qua xã-hội-quan của phái basilica: nhà thờ là trung tâm của mọi sinh hoạt xã hội, và đã thấy hình ảnh của hàng quán, nghệ sĩ và họa sĩ vây chung quanh nhà thờ trên đỉnh Montmartre như một bằng chứng sinh động. Tôi không nghĩ như vậy. Tôi nhìn cách khác!
Mô hình xã hội quân bình, theo Việt-học, có dạng ngũ-hành: năm nguyên lý vận hành con người và xã hội với nguồn gốc văn minh nông nghiệp của Bách-Việt, xuất hiện cả chục ngàn năm về trước. Minh chứng nguồn gốc về ngũ-hành là của Ta sẽ được trình bày ở sách khác. Không phải bây giờ và ở đây. Chúng ta không đủ thời giờ và trang giấy để tóm lược nguồn gốc trong bài này.
Nhà thờ không phải là trung cung của xã hội, nhân-tâm mới đóng ở vị thế trung tâm. Nhân-tâm là một mặtvòng trongbốn mặt sinh hoạt ở vòng ngoài xã hội là: văn (văn hoá), kinh (kinh tế), chính (chính trị), giáo (giáo dục). Nhà thờ hay chùa chiền, chỉ là mặt văn hoá, thuộc vòng ngoài. Trong (tức là tâm) và ngoài (tức là tài) hợp vào nhau tạo thành một lũy lực (synergy) tiến bộ cho xã hội (hợp-nội-ngoại-chi-đạo). Ý kiến chữ-tâm-kia-mới-bằng-3-chữ-tài của cụ Nguyễn Du trong Truyện Kiều là chưa ổn vì đã chọn một bỏ một!
Cụ Nguyễn Du sinh-bất-phùng-thời, tâm của cụ và của nhiều cụ khác cùng thời đã có, nhưng tài thì chưa đủ, nên lúc nào quý cụ cũng cảm thấy lực-bất-tùng-tâm (sức mình không đủ để theo kịp con tim của mình). Con tim cho ta viễn kiến (vision) và tài năng chính là khả năng hiện thực (competency) của mình. Chỉ có tâm mà thiếu tài thì hay đi lạc đường hoặc làm không nổi. Lãnh đạo thiển cận của Ta và Tàu trong quá khứ đề cao ‘chữ tâm’ và xem nhẹ ‘chữ tài’ nên bị Tây nó đẩy văng lật gọng trong cả thế kỷ.
Nghĩa bóng của chữ tài là bốn mặt văn-kinh-chính-giáo, thuộc về phạm trù tổ chức và lãnh đạo học. Tu luyện nhân-tâm là điều kiện cần và mài dũa tứ-linh là điều kiện đủ để thăng tiến xã hội: chữ-tâm-kia-hợp-cùng-bôn-sắc-tài. Bôn sắc bốn. Bốn mặt của chữ tài: văn-kinh-chính-giáo!
Bà con đừng nghĩ là tôi chê Truyện Kiều. Không! Trăm lần không! Vạn lần không! Truyện Kiều là một áng văn chương tuyệt tác của thời đại. Tôi chỉ muốn chia sẻ một vài ý nghĩ, khác với nhân sinh quan của cụ Nguyễn Du, và nhất là, khác với học phái basilica. Xã hội gồm hai vòng tròn (vòng trong và vòng ngoài) với tâm là nhân-tâm thuộc vòng trong và tâm thì có-có-không-không; còn tài thì ở vòng ngoài, luôn hiện diện và cần tôi luyện. Dù sao, chúng ta vẫn mãi ghi nhớ lời dặn dò đạo lý của cụ Nguyễn Du:
có tài mà cậy chi tài,
chữ tài liền với chữ tai một vần.
Mặt tiêu cực của chữ tài là chữ tai. Tại sao chúng ta không thấy mặt tích cực của chữ tài là chữ khai. Cũng là vần ai, như khai dân trí của cụ Phan Châu Trinh. Và nếu không có tài để khai dân trí, thì không thể chấn hưng khíhậu dân sinh được. Cái thế kẹt của giới lãnh đạo cộng-sản đương thời là xem mình như ‘thiên tài’, mang tính độc đảng độc quyền với đỉnh cao của trí tuệ qua bộ chính trị:                             
mất mùa là tại thiên tai,
được mùa là tại thiên tài đảng ta.
2010 @ Montmartre – Paris
2010 @ Montmartre – Paris
Lãnh đạo cộng-sản đã xem mặt sinh hoạt chính trị (mặt chính) – thực chất chỉ là một trong bốn cái tài của văn-kinh-chính-giáo vòng ngoài – như đỉnh cao hoặc là trung tâm của vũ trụ, thì chết một cửa tứ rồi! Xe hơi bốn bánh mà chỉ bơm đầy có một thì làm sao xe chạy ngon cho được? Hậu quả mọi mặt xã hội ViệtNam hiện nay đang bị suy đồi và xuống cấp đà thấy rõ. Sự sai thiếu của tư duy cộng-sản là nguyên nhân chính vì học thuyết mácxít không được tròn đầy.
Trên đường xuống đỉnh Montmartre để trở về nhà, đầu óc tôi luôn tản mạn với chữ tâm, chữ tài, chữ tai và chữ khai, mà không dè lại bắt gặp chữ phở. Tiệm Phở Tài bên đây đường, tiệm Phở Tài Tài bên kia đường, và nguyên một tấm bảng quảng cáo bánh mì baguette trên tường trong khi bụng tôi đang đói meo, thì hết chịu nổi rồi! Hai tiệm này cách nhau chỉ vài bước, không biết họ có bà con hay ân oán giang hồ, tranh thương gì với nhau. Hai tiệm đều mang tên Tài, nhưng không có liên hệ gì đến tôi. Tuy tôi không biết nấu phở nhưng cả đời mê ăn phở. Cơm, phở, bún, … và bánh mì tây là những món nuôi sống tôi hằng ngày.
Đang nghĩ miên man về thức ăn trên đường về, bỗng hiện ra hình ảnh một ông tây đang nằm ngủ ngay dưới cầu thang kéo (escalator) của một khu chợ, kéo tôi về với thực tại. Ăn được ngủ được là tiên. Không biết ổng ăn uống gì chưa, mà thấy nằm ngủ một cách ngon lành. Tôi cũng không biết đây có phải là dân vô gia cư (không nhà cửa), đụng đâu ngủ đấy hay không! Giữa đường giữa xá công cộng mà có cả một tấm nệm nhỏ (mattress) để nằm ngủ … thì sướng hết chỗ nói rồi. Đúng là cảnh màn trời nệm đất (không phải chiếu đất)! Chung quanh ông ta là vài ba cái túi xách tay đựng đầy quần áo và chắc cũng còn đủ thức ăn trong đó. Dân xứ giàu chết vì bịnh chứ ít ai chết vì đói.
Thôi! Tôi không muốn ghi tiếp nữa, để mai từ giã xứ Pháp đi viếng xứ Đức, rồi sẽ viết thêm. Tạm biệt bạn đọc. Chấm dứt Hồi Một: Thăm xứ Pháp. Mai sẽ viết tiếp Hồi Hai: Viếng xứ Đức.

© Trương Như Thường
© Đàn Chim Việt
—————————————————–
Chân Thành Cảm Tạ Quý Ông Bà và Quý Anh Chị Đã Giúp Sức
Cho Chúng Tôi Trong Chuyến Sinh Hoạt Việt-Học
Hè 2013 tại Pháp Quốc và Đức Quốc
Gia đình Dr. Nguyễn Quốc Nam  .  Lâm Hoàng Tùng .  Gia đình Trần Phước Lý
Dr. Nguyễn Văn Trần  .  Bùi Đình Đại  .  Thu Sương & Lam Sơn 719
Gia đình Nguyễn Gia Kiểng  .  Dr. Nguyễn Thành Khương & Paul
Phạm Đức Bình  .  Dr. Thục Quyên  .  Bùi Lộc  .  Hồ Thành Công và Nhóm 008
Dr. Dương Hồng Ân  . Vũ Ngọc Yên  .  Dr. Patrick Thanh Nguyen-Brem
Gia đình Vũ Đình Hải . Lâm Đăng Châu  .  Sông Lô  .  Dr. Nguyễn Mạnh Hùng
Phạm Quốc Phong  .  Phạm Quốc Phương  .  Gia đình Trần Mỹ Nga
và nhiều bạn khác chưa nêu tên.
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/79423/9-con-duong-lien-au-thau-ca-chau-ve-mot-moi-3/2013/09
========================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001