Nguyễn Văn Thành – Cậu Ấm phản kháng
Cụ Nguyễn văn Thành đúng là một Cậu Ấm. Cụ sanh năm1921 tại Huế. Con trai của Quan Phủ Nguyễn văn Thọ tùng sự tại Thành phố Vinh dưới thời Pháp thuộc và mẹ là một hoàng thân triều Nguyễn. Năm 17 tuổi, Nguyễn văn Thành tình nguyện gia nhập lực lượng lính thợ làm Giám thị-Thông ngôn theo lệnh tuyển mộ cưỡng bách của chánh quyền bảo hộ. Ông phải nhờ cha xin đặc cách vì thiếu tuổi. Năm 1939, ông qua tới Marseille cùng với 20 000 lính thợ, đại đa số là nông dân, không biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ. Năm sau, Pháp thua trận, những người này không còn làm việc cho công binh xưởng quân đội pháp mà được Sở Nhân công Bản xứ (M.O.I) thuộc Bộ Lao động, đem bán cho xí nghiệp tư.
Từ đây, họ bị gởi đi làm công nhân không chuyên môn ((ONS) ở các nơi, từ Toulon qua tới Bordeaux, luôn luôn thuộc phân nửa phia Nam nước Pháp. Tức trên phần lảnh thổ của Chánh quyền Vichy.
Tới năm 1952, chỉ còn hơn 1000 người chọn ở lại Pháp sanh sống. Cụ Nguyễn Văn Thành là một trong những người này.
Cậu Ấm phản kháng
Khi nhà cầm quyền bảo hộ đặt xong nền cai trị ở Việt Nam, nhận thấy hệ thống chánh quyền quân chủ có những cái hay của nó, người pháp tạm thời giữ lại và chỉ đặt quan chức pháp ở vị trí lãnh đạo. Quan chức việt nam luôn luôn làm phó. Thân phụ Cụ nguyễn văn Thành ở Vinh làm Phó Tỉnh, đứng đầu là một quan chức người Pháp.
Trong nhà, Nguyễn Văn Thành là con trai cả và con cưng nên ông thường xử sự với các em như ông là một thứ bạo chúa. Trái lại, đối đải với người ăn người làm trong phủ, ông tỏ ra thân thiện và những người này cũng dành cho ông nhiều quí mến.
Bà vú chăm sóc ông, thương yêu ông, cho ông nhiều ấu yếm hơn mẹ ruột đối với ông. Sống trong phủ, ông không khác một hoàng tử nên ông chẳng biết gì nhiều ở bên ngoài.
Một hôm, ông đi dạo chơi ra bên ngoài một mình. Một thiếu niên người pháp, trạc tuổi ông, đi ngược chiều với ông. Lề đường rộng đủ cho hai người tránh nhau và đi tiếp . Khi đi ngang qua ông, bỗng thiếu niên người pháp cặp cổ ông và thoi vào mặt ông mấy cái đau điếng vừa văng tục chửi ông bằng tiếng Việt. Khi thiêu niên pháp buông ông ra, ông co giò chạy thẳng về nhà. Đây là lần đầu tiên ông bị kẻ lạ hành hung thô bạo. Ông âm thầm lấy làm tức giận và xâu hổ với chính mình. Tại sao không phản ứng kịp thời? Con quan, ông xưa nay nghĩ chẳng có ai dám đụng tới mình. Sự thô bạo xảy ra vừa rồi làm cho ông thấy tự ái bị tổn thương lại vừa sợ hãi. Con người ông như rã rời, suy nhược.
Trong trường tây, Cậu Ấm Thành không được học chút gì về Việt Nam. Con quan lại làm việc cho Nhà nước Đại Pháp nhưng ông vẫn cảm thấy mình là người Việt Nam. Nhờ làm bạn với người giúp việc trong nhà, ông học được về những vị anh hùng dân tộc như Hưng Đạo Vương, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, …tất cả đều chống lại quân xâm lược Tàu giành lại độc lập cho đất nước. Những điều học được ở những người giúp việc đem lại cho ông một tinh thần tự hào.
Sau vụ bị thiếu niên tây đánh, ông thường lân la tới khuya với những người giúp việc. Nhờ đó ông như được thức tỉnh. Ông càng cảm thấy cần biết thêm nhiều những giai thọai về anh hùng ái quốc dân tộc. Nhứt là chuyện các vua phảng kháng chống Tây. Các vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân làm cho ông say mê tìm hiểu.
Từ đây, ông cảm thấy ghét đi học và muốn bỏ học. Ông thường trốn học.
Hằng ngày, mẹ ông kiểm soát bài vở của ông. Biết ông trốn học, bà bắt ông năm dài xuống, lấy roi mây đánh vào đít ông, mỗi lần từ 4,5 roi trở lên tùy theo lỗi nặng nhẹ. Đau điếng nhưng ông vẫn lơ là việc học vì ghét cái học theo Tây ở nhà trườn .
Trong số người ăn người làm trong nhà, ông kính trọng và thương hơn hết là Bà Vú và Chú Kéo. Ai cũng gọi « Chú Kéo » vì công việc làm của chú là kéo xe đưa ông bà phủ đi và Cậu Ấm Thành đi học hằng ngày. Gọi Chú Kéo thành quen nên mọi người không ai nhớ tên thật của chú nữa.
Chú Kéo là người khiêm tốn, kín đáo, ngay thẳng. Không bao giờ chú xuất hiện trước người khác, nhưng lúc nào cần là có chú ngay. Chú chẳng những được người ăn người làm trong phủ kính trọng mà cả ông bà phủ cũng lắng nghe ý kiến của chú. Khi khuyên ai việc gì, chú thường nói lại những lời xưa nhưng chú dùng rất chính xác làm cho người nghe dể hiểu và dễ nhớ.
Cậu Ấm Thành rất sung sướng và an tâm bên cạnh Chú Kéo và Bà Vú. Hai người luôn luôn chịu lắng nghe Cậu, cả đôi khi la rầy Cậu khi Cậu có lời không phải hay hành động không phải. Cậu Thành rất thích chơi với An, con trai Chú Kéo. An lớn hơn Thành vài tuổi, không biết chữ, nhưng thông mình. Chơi với Thành, An luôn luôn khéo léo nhường nhịn Thành mà không chạm tự ái của Thành.
Cậu Thành thương yêu những người này và được những người này hết lòng thương yêu lại. Cậu cũng muốn cha mẹ, gia đình Cậu cũng đối xử và được đối xử như vậy, nhưng tập tục chỉ cho con người ta bổn phận và tuân thủ.
An, con trai Chú Kéo, thông minh nhưng không được đi học. Ngày kia lớn lên sẽ nối nghiệp Chú Kéo, tiếp tục phục vụ gia đình chủ . Lớp người này chỉ mong có được việc làm, tận tụy làm việc để việc làm được bền vững nhờ chủ thương . Họ nghĩ thân phận của họ đã được an bài như vậy nên không dám mong đợi một sự thay đổi tốt hơn. Điều này làm cho Cậu Ấm Thành không khỏi nghĩ ngợi với một nỗi buồn rìêng khó tả.
Mặc dầu ở tuổi thiếu niên, Cậu Ấm Thành đã bắt đầu nhận thấy sự bất công và bất bình đẳng giữa người với người cùng lứa tuổi, những người cùng ở chung trong một nhà. Cậu cảm thấy bị dày vò bởi thân phận người ăn người làm. Vào làm việc cho một gia đình giàu có, quyền thế, là tìm được cho bản thân và gia đình cơm ăn, chổ ở tránh nắng mưa nhưng cũng từ đây bắt đầu thân phận kẻ ăn người ở phụ thuộc vào chủ từ thế hệ này qua thế hệ kia. Cậu Ấm Thành hiểu như vậy nhưng lại không dám đem nói chuyện với cha mẹ điều Cậu khám phá.
Một hôm Cậu Ấm Thành đem sự thắc mắc của mình nói ra với Chú Kéo. Chăm chỉ lắng nghe nhưng Chú Kép không trả lời thẳng với Thành, mà chỉ nói vắn tắt « Cậu muốn tôi nói điều gì với Cậu bây giờ! Chúng tôi nghèo và chúng tôi may mắn được việc làm ở đây. Cha mẹ Cậu đối xử với chúng tôi đầy tình nghĩa. Chúng tôi phải biết giữ sự trung tín đối với gia đình Cậu.
Cậu nhìn thấy An thông minh, lanh lẹ nhưng nó không biết chữ . Và sẽ không bao giờ nó biết chữ được. Lúc nào đó, tôi mong ông bà sẽ cho phép nó thay thế tôi tiếp tục phục vụ gia đình Cậu. Làm công việc kiếm cơm này, nó chỉ cần có cặp giò khỏe là đủ!
Cậu Ấm Thành cảm thấy như có sự cay đắng trong lời nói của Chú Kéo. Chú phải buồn lòng chớ vì Chú đã không tạo được tương lai cho con. Cậu nghĩ tiếp những người ăn ở trong nhà được gia đình Cậu nuôi ăn, nuôi ở, phát quần áo, thương mến thật lòng đi nữa, nhưng họ vẫn không thể làm chủ được chính thân phận của họ. Tình trạng lệ thuộc này có thể liên tục kéo dài qua nhiều thế hệ.
Những suy nghĩ này đã manh nha ở Cậu Ấm Thành ý niệm đầu tiên về tinh thần phản kháng chống lại một cái gì mơ hồ bất công, một sự pha trộn truyền thống, cơ chế xã hội, kẻ giàu người nghèo, sự phí phạm tài nguyên con người, …
Quyết định thôi học
Môt hôm Cậu Thành lấy quyết định thôi học. Cậu đem nói với mẹ quyết định của Cậu. Bà lắng nghe và không phản ứng . Cậu viết thư báo tin cho cha vì lúc bấy giờ gia đình ở tại Huế, chỉ trừ cha của Cậu ở ngoài Vinh vì công vụ. Như vậy Cậu Ấm Thành học chưa xong hết chương trình Trung học phổ thông.
Biết được quyết định nghỉ học của Cậu Thành, ông viết thư cho Cậu, thư viết bằng tiếng pháp, chấp nhận quyết định của con vì ông biết con trai cả của ông không thể tiến thân theo văn nghiệp, càng không thể theo quan trường. Ông chỉ muốn biết con của ông lúc này muốn điều gì, có chọn lựa gì? Ông đồng ý Cậu Thành có thể làm nghề tay chân vì, theo ông, không có nghề xấu, chỉ có con người xấu. Ông gởi Cậu Thành cho một ga-ra để học nghề sửa xe hơi. Biết đâu ngày kia, Cậu Thành không trở thành một ông chủ.
Nhưng Thành cũng bỏ học nghề.
Tháng 7/1939, Hoàng đế Bảo Đại đưa ra lởi kêu gọi để tuyển mộ 20 000 người tình nguyện qua Pháp làm việc . Không phải đánh giặc, mà làm việc trong công binh xưởng. Ở Việt Nam người ta chỉ biết lờ mờ là Pháp đang sửa soạn để đánh Đức quốc xã của Hitler vì người có bộ râu cứt mũi đó muốn chiếm cả thế giới và thống trị mọi người.
Số người tình nguyện hưởng ứng lời kêu gọi của Hoàng Đế Bảo Đại quá ít nên chỉ mấy hôm sau, nhà cầm quyền pháp làm áp lực lên nhà vua đổi lời kêu gọi thành lệnh động viên. Những người tình nguyện chỉ ai nói được ít nhiều tiếng Pháp. Thế là Cậu Ấm Thành ghi tên tình nguyện đi Tây làm Giám thị-Thông ngôn.
Việc động viên thanh niên từ 18 tới 45 tuổi làm mất đi những cột trụ gia đình, gây xáo trộn đời sống xã thôn. Đúng là phép vua thua lệ làng. Dân làng bèn thay thế cột trụ gia đình bằng vị thành niên hoặc ngưòi lớn tuổi và mất năng xuất lao động.
Chánh quyền ở làng đồng lõa trong việc gian lận này, miễn làm sao nộp đủ số người yêu cầu đồng thời họ cũng kiếm được chút tiền còm bỏ túi. Vả lại việc gian lận lại giúp cho nhiều gia đình không bị mất lao động chủ lực. Cả hai đều có lợi.
Có một trường hợp cưòi ra nước mắt. Người cha của một gia đình đi làm ăn xa, bị bắt đưa tới một trại tập trung chờ ngày xuống tàu đi tây. Ở đây, một buổi sáng tạp dịch, ông đối mặt với người con trai ở nhà cũng bị bắt theo lệnh động viên. Thế là cà hai cha con đều chờ ngày xuống tàu đi Tây một lượt.
Từ nay, đi xa, đi qua xứ Tây, ý nghĩ này cứ chiếm lấy đầu óc Thành. Đi khỏi xứ đối với Thành như một tia sáng lóe lên ở đầu đường hầm bên kia. Hay đi để không còn nghĩ ngợi gì cả, hay đúng hơn, để làm một cử động. Hay phạm một cử động. Đi tới đâu, không quan trọng vì Thành không ao ước phải tới nơi nào. Thành đi không phải để tìm một giải pháp.
Càng ngày, đầu óc Thành càng bám chặc vào ý nghĩ ngông cuồng này « Rời khỏi đây, đi tới một nơi khác, ngay cả tới cái chết đi nữa cũng được ».
Cậu Ấm Thành tới nhà người yêu – Cậu yêu thầm lặng – để từ giả nhưng Cậu không dám gặp, chỉ dừng lại cách nhà lối hai mươi thước để thấy bóng dáng nàng bên cửa sổ. Vậy cũng đủ lắm rồi!
Thành đi ra ngoài Vinh với cả gia đình để gặp cha. Trong bữa cơm đầu tiên, Thành lấy giọng cứng rắn thưa lại với cha lần cuối cùng quyết định của mình đi Tây theo lời kêu gọi của Vua Bảo Đại. Mặc dầu lời can gián của cha mẹ, Thành vẫn cương quyết giữ quyết định của mình. Thấy không thể thay đổi được ý kiến của Thành, mẹ của cậu bèn lo hành trang cho cậu. Cha cậu lo giấy tờ. Thấy chưa đủ tuổi, ông đặt vấn đề với nhân viên tuyển mộ, và nêu lên luôn, mắt của Thành cận thị nặng, hi vọng hồ sơ tình nguyện của Thành sẽ bị từ chối. Nhưng viên Trung sĩ Phòng tuyển mộ ghi vào hồ sơ «Hồ sơ tốt, chấp thuận» .
© Nguyễn thị Cỏ May
© Đàn Chim Việt
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/79875/nguyen-van-thanh-cau-am-phan-khang/2013/09
=======================================================================
Cậu Ấm Nguyễn văn Thành M.O.I thực dân và M.O.I CS Hà Nội
Tiếp theo phần trước
Ra khỏi Văn phòng tuyển mộ, với thẻ chứng nhận chánh thức Giám thị-Thông ngôn, Cậu Ấm Nguyễn văn Thành thật sự bắt đầu thấy mở ra trước mắt một đời sống mới, tốt xấu, hay dở, chưa biết. Nhưng mặc kệ, miễn thoát ra khỏi cái khung cảnh hiện tại là đủ. Có một điều làm cho Cậu thấy sung sướng là Cô Tình, người từ bấy lâu nay Cậu thầm yêu mà không dám nói ra, khi biết tin Cậu tình nguyện đăng đi Tây, đã gắt lên là « Cậu điên mới làm như vậy » . Theo Cậu Thành, điều đó có nghĩa là Cô Tình cũng đã « để ý » đến Cậu. Chớ không phải vô tình. Mà đúng. Sau này, cô ở vậy đợi ngày Cậu Thành về nước.
Cùng đi chung với Thành có Sanh là người anh họ. Sanh cũng tình nguyện và hứa với cha mẹ của Thành là đi theo để chăm sóc và bảo vệ Thành. Hai người đã thành công khắc phục sự phản đối của hai gia đình theo quyết định của họ. Sanh và Thành không vì vậy mà lấy làm hài lòng. Họ cảm thấy thấm thía một nỗi buồn trước sự thất vọng của những người từng yêu thương họ và họ cũng yêu thương.
Thành không làm sao quên được lời trách cứ ngắn gọn của chú Kéo «Thành là kẻ đào nhiệm» . Vì Thành từ bỏ vai trò trưởng nam trong gia đình?
Những ngày mới
Từ nay, tức sau khi chánh thức đuợc tuyện mộ, mọi người phải vào trại ở chờ ngày xuống tàu. Trại là những dãy nhà dài cất trên một cuộc đất rộng, chung quanh rào kín mít bằng dây kẽm gai. Sanh hoạt ở trại theo nề nếp tổ chức tập thể như nhà binh. Những tân tuyển ở trại được chia thành Đội (Compagnie). Mỗi Đội đặt dưới quyền chỉ huy của một người pháp hay Việt Nam quốc tịch Pháp. Chức vụ của họ là «Commandant» (Không phải là Thiếu tá, mà là người chỉ huy – Đội trưởng). Mỗi đội gồm có 10 Toán (Groupe). Mỗi Toán có 25 công nhân không chuyên môn (ONS = Ouvrier Non Spécialisé) do một Giám thị-Thông ngôn trách nhiệm .
Chánh quyền Pháp-Việt xếp những người «được tuyển mộ» theo địa phương để dể nhận diện. Người ở Bắc mang danh số ZT (Z là chỉ chung những công nhân không chuyên môn, T = Tonkin, Bắc kỳ), ZA chỉ Trung kỳ ( A=Annam) và ZCo chỉ Nam kỳ (Co=Cochinchine ). Mỗi kỳ còn ghi thêm nơi tuyển mộ, tức Tỉnh. Như ZAN là Annam, N=Nghệ an. Sau cùng là con số thứ tự của mỗi công nhân: ZAN5 (An-nam, Nghệ an, Công nhân số 5).
Những người được «trúng tuyển» ( nói theo vc), có người dưới tuổi động viên đi lính, có người quá tuổi động viên nhưng không ai khiếu nại được.
Hai Giám thị Sanh và Thành, tuy nhỏ tuổi hơn nhiều người trong Toán của họ, đều được cả Toán kính nể. Có khi được kính nể chỉ vì người có ăn học, biết tiếng tây, làm Sếp của họ, theo tập quán xã hội có từ lâu đời. Nhưng riêng trong trường hợp này, đối với Sanh và Thành, hai người thật sự được cả Toán tín nhiệm và cảm tình .
Qua ngày thứ ba sau khi nhập trại, viên Đội trưởng họp các Giám thị lại để ban chỉ thị: «Các Giám thị phải hướng dẫn toán viên của mình chào cờ mỗi sáng thứ hai và đi thành hàng ngay ngắn theo tiếng đếm một, hai, một, …. ». Nói xong, viên Đội trưởng đúng ngay ngắn, nhịp chân cái cắc và chào, quay lại thẳng người rồi mới đi.
Nhận chỉ thị xong, Thành không khỏi buồn cười . Những người bị bắt đưa tới đây đều sanh sống ở nhà quê, giữa đồng ruộng, họ quen đi bờ ruộng hay lội dưới ruộng nước, thì làm sao họ có thể đi theo cơ bản thao diễn như lính được. Nên Giám thị Sanh và Thành bảo Toán của họ hãy đi theo họ, giữ hàng lối đàng hoàng một chút và đừng nói chuyện. Có vài Toán khác thấy có lý nên cũng bắt chước theo, mặc kệ chỉ thị của viên quân nhân Tây kia vì quá hăng say.
Mọi người nói không ra lời
Các Giám thị dẫn Toán của mình tới kho nhận lãnh đồng phục, quần áo ấm, giày, vớ. Nhân viên thủ kho người Việt, sính nói tiếng Pháp hơn tiếng Việt tuy nói chuyện với những người nhà quê không biết cả quốc ngữ. Vì tiếng Pháp vốn biểu hiện quyền lực. Thủ kho hỏi công nhân mang giày số mấy, số quần áo, số nón, …Chẳng những họ không hiểu gì hết, mà có hiểu, họ cũng không biết họ phải mang giày số mấy, đội nón số mấy, …Suốt đời họ đi chơn đất, đầu đội nón lá, …
Giám thị Thành vô cùng chán nản. Anh liền can thiệp để giải quyết cho mau. Anh nói với mấy viên thủ kho là những người này không hiểu tiếng tây, tiếng u gì hết. Hãy phát cho tôi quần áo số, …giày những số …, nón, mũ những số … Các toán viên tiến tới nhận lãnh và mang về trại.
Mọi người mang giày chỉ trong ít lâu đều bị phồng chân, không thể đi được. Giám thị đành xin đặc cách cho họ đi chân không cho tới ngày lên tàu đi Marseille.
Ngày rời trại để lên xe chở tới bến tàu Đà Nẵng, người thân của Thành tới từ gĩa. Mọi người không ai cầm được nước mắt. Ai cũng nói rất ít. Có lẻ vì bị nghẹn lời. Thành nhìn mẹ, thấy sự âu yếm của người mẹ trong ánh mắt.
Mặc dầu rất đau lòng, Thành cố giữ vững tinh thần trong lúc này. Vì không phải chỉ có một mình Thành, mà còn những người đồng bào cũng bị bốc rời khỏi gia đình, xứ sở đang nạp mạng cho guồng máy thực dân. Họ còn đáng thương hơn vì không biết chữ, không biết gì hơn đời sống cơ cực của họ hằng ngày ở đồng ruộng.
Ngày 13 tháng 12 năm 1939 mọi người lên đường. Bữa ăn trưa hôm ấy đều còn lại rất nhiều vì không ai nuốt vô. Tất cả nghẹn vì khóc không ra tiếng. Nhiều người có cặp mắt nhìn ngơ ngác.
Vượt trùng dương
Trên tàu Yalou đi Marseille, mọi người đều ở dưới hầm. Ngủ trên sạp gỗ. Không được phép lên trên boong. Mọi người phải chia nhau làm tạp dịch giữ vệ sinh chung. Nhưng vì thiếu phương tiện nên không thể giải quyết được mùi hôi thúi và dơ bẩn. Trong ít lâu, có nhiều người bị bịnh do thiếu vệ sinh tối thiểu. Một phái đoàn đại diện gồm mươi Giám thị xin gặp Thuyền trưởng đưa yêu sách về chế độ ăn uống, thuốc men, vệ sinh. Mấy ngày sau đó, bữa ăn có khá hơn nhưng vấn đề vệ sinh và thuốc men cho bịnh nhân vẫn chưa được cải thiện. Rồi bị «Cò mồi » Việt gian đứng ra lập Ban Đại diện khác, nịnh chủ Tây, phản bác những yêu sách của Ban Đại diện chơn chánh. Chẳng lẽ hiện tượng chia rẽ trong sinh hoạt cộng đồng người việt ta đã có từ khá lâu rồi sao?
Trong hầm tàu, bỗng xuất hiện một thanh niên vừa đi giữa đồng đội vừa ca hát, với gương mặt trông như ngây ngô. Không ai quan tâm tới anh ta cho lắm. Chỉ ít lâu sau, anh chàng vừa hát, có khi hò huế, lân la tới gần Giám thị và nói nhỏ nhằm sách động tổ chức biểu tình chống đối, ở trên tàu và cả khi lên bờ. Anh bị phát hiện và bị bắt nhốt ngay vào phòng tối. Tới Djibouti, tàu dừng lại. Mọi người được phép lên boong hứng gió 15 phút. Riêng với anh này, phòng giam của anh được mở cửa sổ (hublot). Anh bèn thò hết đầu ra ngoài để vừa thở, vừa nhìn xa. Tàu kéo neo, sợi dây neo đánh anh đứt đầu. Thẩm quyền trên tàu thông báo cái chết vì tai nạn. Chuyện cũng bị quên lãng trong vài ngày sau đó .
Chúng tôi là MOI
Chánh quyền Vichy không muốn nuôi những công nhân việt nam nữa mà không có lợi gì hết nên chỉ thị cho M.O.I (Main d’Oeuvre Indigène) thuộc Bộ Lao động tìm cách bán công nhân này cho các xí nghiệp còn hoạt động ở Miền nam như xưởng kỹ nghệ, mỏ than, ruộng muối, nhà máy hóa chất, nông trại chăn nuôi, chủ trồng nho làm rượu, …Công nhân làm việc cật lực, người lãnh lương là M.O.I. Và M.O.I chỉ trợ cấp hằng tháng cho họ mươi quan (francs) không đủ hút thuốc lá (1 đồng bạc đông dương – 1 piastre bằng 27 quan pháp lúc bấy giờ). Nên mọi người ai cũng tự nhiên thừa nhân mình mới thiệt là MỌI. Ngày nay, cũng có M.O.I ở Việt nam, cũng bán công nhân ra ngoại quốc, gọi là xuất khẩu lao động, cũng ký hợp đồng với chủ thuê, lấy tiền và chỉ để lại cho công nhân không đủ sống, … M.O.I ở Việt Nam, cũng giống như thực dân pháp, cũng là Bộ Thương binh Xã hội và đảng cộng sản, nhưng khác hơn là M.O.I ở Việt Nam vừa bán sức lao động vừa bán nhân phẩm của hằng trăm ngàn công nhân lấy tiền bỏ túi riêng. Và công nhân lại là nhân dân của chế độ.
Toán của Thành, của Sanh và 3 Toán khác gồm 120 người, với 5 Giám thị, được đưa về làng Prendeignes thu lượm hột dẻ (trái Chataigne, thường gọi là trái Marron – Nên nhớ hột Marron ăn được là hột Chataigne. Thời khó khăn do chiến tranh, thiếu bột mì, dân chúng vùng quê lấy hột chataigne xay ra bột làm bánh mì nên ngày nay, có người còn giữ cách gọi «hột bánh mì»). Xe lửa đưa mọi người tới nhà Ga Figeac. Về làng Prendeignes, thuộc Tỉnh Lot, còn 8km nữa, mọi người phải đi bộ vì không có phương tiện chuyên chở công cộng.
Đi trên đường làng, mọi người đều cảm thấy thoải mái, hít thở không khí trong lành, nhìn thấy đồng ruộng, nương rẫy, tay sờ những thân cây bên đường. Nhớ lại những ngày giam mình trong hầm tàu, trong trại tạm cư, ai cũng không khỏi rùng mình. Bỗng mọi người đều lấy làm ngạc nhiên là đường xá trống trơn, không bóng người đi. Nhà nhà đều đóng cửa kín mít. Không nghe cả tiếng chó sủa. Có cảm tưởng như một vùng hoang sơ không người ở.
Địa điểm hẹn nhau là trường học để chờ người chủ làm tới nhận lãnh. Chỉ vài phút sau, Ông xã trưởng tới với ông Đội trưởng kêu các Giám thị vào Văn phòng xã để gặp những người muốn mướn công nhân. Năm nông dân đồng ý mướn công nhân lượm trái chataigne từ nay cho tới cuối tháng muời một. Họ ký hợp đồng với Đại diện M.O.I, dẫn công nhân về nhà với họ. Chỗ ở là những gian nhà trống, nơi để mùa màng. Trên gác là nơi để rơm. Công nhân cảm thấy dể chịu khi ngửi lại mùi rơm rạ khô. Họ lấy gác rơm làm chỗ ngủ. Rơm thay nệm rất tốt. Còn bếp, nồi niêu, … ? Hỏi chủ nhà mới biết ông Đội trưởng bảo những thứ này, những người Việt Nam không cần vì họ sẽ tổ chức đời sống của họ theo tập quán riêng của họ.
Sau khi hiểu, ông chủ nhà đem tới đầy đủ dụng cụ nhà bếp. Đời sống của công nhân ở đây liền được tổ chức theo ý kiến chung của mọi người.
Sáng ra, mỗi người lãnh một cái bao lớn, đi ra vườn lượm hột chataigne cho tới chiều, đầy bao, vác về .
Dân làng sợ bị chinois (Ba Tàu) ăn thịt
Thành tìm hiểu tại sao dân làng trốn trong nhà khi những người của Thành vừa tới. Họ sợ người xa lạ Á châu là những người còn dã man, có thể ăn thịt họ. Để giải tỏa sự sợ hãi vô lý này, Ông xã trưởng hội ý với Cha Sở và Thầy giáo – Tam đầu chế biểu hiện văn hóa chánh trị của nền Cộng hòa Pháp, nay bị bải bỏ – tổ chức một trận bóng chuyền giữa công nhân Việt Nam và thanh niên trong làng. Sau buổi giao hảo này, dân làng chẳng những không còn sợ hãi, trái lại còn cảm mến những người gốc nông dân chất phát bị bắt buộc rời khỏi gia đình, ruộng vườn, qua đây làm công cơ cực mà không lương. Từ đây, dân làng chia nhau, mời những công nhân, ngoài giờ làm việc, tới nhà họ chơi, uống cà-phê, ăn bánh, cả quà biếu với những thổ sản như thịt nguội, bánh mì, trái cây, rau cải, …
Trong lúc công nhân lượm hột chataigne cho đầy bao, các Giám thị len lỏi lên chân đồi, theo lời hẹn hôm trước, tìm các thôn nữ đang ngồi chăn đàn cừu của mình gặm cỏ trên cánh đồng. Các thôn nữ thích nghe kể chuyện về Việt Nam xa xôi, đôi mắt mơ màng như muốn tìm về nơi đó cho biết rõ hơn. Các chàng Giám thị ngã mình xuống cỏ, nằm dài, đầu gác lên đùi thôn nữ, kể chuyện dài Việt Nam cho tới chiều …
Cậu Ấm Thành nằm gác đầu lên đùi cô thôn nữ chăn cừu, nhớ lại «Những bức thư Hè» của Alphonse Daudet, lúc ở nhà còn đi học, Thành đọc thấy thú vị vô cùng. Thành từng mơ ước được sống trong đó. Giờ đây, Thành thấy cái hiện tại của Thành mới thật sự thú vị …
© Nguyễn thị Cỏ May
© Đàn Chim Việt
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/80031/cau-am-nguyen-van-thanh-m-o-i-thuc-dan-va-m-o-i-cs-ha-noi/2013/09
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001