Nhà báo Phạm Chí Dũng: Phong trào dân sự tại Việt Nam đã chín muồi
Nhà báo, tiến sĩ Phạm Chí Dũng. RFI/Capdevielle
Tại
Việt Nam vào tháng 8/2013, luật gia Lê Hiếu Đằng đã đề xuất việc thành
lập đảng Dân chủ Xã hội, chấm dứt sự độc quyền của đảng Cộng sản Việt
Nam về chính trị. Ý kiến này được nhiều người ủng hộ và thảo luận sôi
nổi. Đến cuối tháng 9/2013, một tuyên bố về các quyền dân sự và chính
trị do một nhóm trí thức vốn là những người khởi xướng Kiến nghị 72 phổ
biến trên mạng.
Chúng tôi đã đặt câu hỏi với nhà báo tự do, tiến sĩ Phạm Chí Dũng tại thành phố Hồ Chí Minh về các vấn đề trên.
RFI: Kính
chào nhà báo Phạm Chí Dũng, rất cảm ơn anh đã nhận trả lời phỏng vấn
RFI Việt ngữ. Thưa anh, ở Việt Nam đang diễn ra những cuộc tranh luận về
việc nên lập đảng chính trị mới hay theo phương thức xã hội dân sự nhằm
cải thiện không khí dân chủ. Quan điểm của anh như thế nào ?
Nhà báo Phạm Chí Dũng:
Theo quan điểm của cá nhân tôi, ngôi nhà nào cũng cần phải có móng. Xã
hội dân sự với các phong trào của nó sẽ mang tính thiết thực hơn là mô
hình đảng phái độc lập còn khá mơ hồ ở Việt Nam.
Lịch
sử Việt Nam đã trải nghiệm không biết bao nhiêu lần về chuyện thừa thãi
lòng nhiệt huyết nhưng lại thiếu tính hành động. Một đảng Dân chủ Xã
hội hay nhiều đảng phái khác có thể được khởi xướng, thậm chí có thể
hình thành ít nhất trên danh nghĩa mà không bị nhà cầm quyền cô lập,
trong bối cảnh tác động về dân chủ và nhân quyền của cộng đồng quốc tế
đã trở nên mạnh mẽ hơn hẳn nội lực phản ứng của chính quyền. Tuy nhiên,
ai cũng biết rằng muốn hoạt động được, và hơn thế là triển khai thành
công tính tư tưởng cùng phương châm hành động của nó, tổ chức đảng lại
cần phải có lực lượng.
Cho đến nay, lực lượng
cho một đảng phái vẫn là một câu hỏi để ngỏ trong lòng những người nhiệt
thành muốn thay đổi nhưng chưa biết làm thế nào. Thậm chí để tiến hành
một cuộc cách mạng xã hội, người ta cần phải đổi mới chính mình trước
khi bàn đến việc thay đổi người khác.
Khác hẳn
với định chế đảng phái chính trị, xã hội dân sự với các phong trào dân
sự không nhắm đến một cuộc tranh đua, giành đoạt về quyền lực đối với
chính thể đương nhiệm. Đặc biệt trong bối cảnh thể chế chính trị một
đảng được coi là “duy nhất” ở Việt Nam, mối lo về cạnh tranh chính trị
càng trở nên nhạy cảm và quá khó xử.
Với sứ mệnh
được mặc định của mình, xã hội dân sự chỉ nhằm làm cho chính quyền nhận
ra được những sai lầm trong chính sách và quá trình thực hiện chính
sách, từ đó tiến hành hủy bỏ hoặc điều chỉnh những chính sách, nhân sự
thực hiện, làm gần gũi và đồng cảm hơn giá trị “của dân, do dân và vì
dân”.
Ôn hòa, bất bạo động, tránh đổ máu là
những đặc trưng trong phương pháp hoạt động của xã hội dân sự và các
phong trào dân sự. Chính phương châm này đã loại trừ tâm trạng lo lắng
đầu tiên của những người muốn tham gia phong trào dân sự là liệu họ có
bị sách nhiễu hoặc thậm chí bị bắt bởi những hoạt động thuần túy xã hội
của mình.
Cũng cần nhắc lại ngay sau đề xuất
thành lập đảng Dân chủ Xã hội của ông Lê Hiếu Đằng vào tháng 8/2013,
nhiều trí thức đã nổi lên tranh luận về câu hỏi “Thời cơ đã chín muồi chưa?”. Nhưng ngay lập tức, những người khác hỏi lại “Thế nào là chín muồi?”.
“Chín
muồi” cũng vì thế đã trở thành lời thách đố lớn nhất nếu thiếu người
khởi xướng có uy tín và năng lực hành động. Và cho dù có được người khởi
xướng thì lại thiếu lực lượng điều hành và cốt yếu hơn thế nữa là không
có nổi lực lượng thừa hành.
Nhưng dễ dàng hơn
nhiều so với mô hình đảng phái chính trị, hoạt động của phong trào dân
sự với mục tiêu xã hội có thể được chấp nhận ở mức khiêm tốn, tự lượng
sức mình và thỏa mãn nhiều hơn hẳn những điều kiện về “chín muồi”.
RFI: Như vậy theo anh đang có những điều kiện nào cho sự chín muồi của một phong trào dân sự ở Việt Nam?
Với tôi thì rõ ràng đó là nhu cầu xã hội, yêu cầu của nhân dân.
Câu
trả lời rõ rệt nhất cho độ chín muồi đến thời điểm hiện tại vẫn là
“lòng dân”. Nước lên thuyền lên, nhưng nước xuống thì thuyền cũng phải
xuống theo – Nguyễn Trãi đã dạy như thế và cũng có không biết bao nhiêu
bài học lịch sử nhưng lại không được thấm nhuần vào những cái đầu đặc
sệt lúc nào cũng chỉ nghĩ đến quyền và tiền.
Kinh
tế lụn bại, tham nhũng ghê rợn chưa từng thấy, xã hội nhiễu nhương đạo
lý, chính trị bất nhất đạo đức, tình cảm của người dân chuyển từ bức xúc
đến phẫn nộ rồi tràn sang phẫn uất. Trong bối cảnh đó u uất đó, những
người muốn có một sự thay đổi lớn lao về thể chế chính trị không phải là
ít.
Xã hội dân sự là một trong những phương cách tốt nhất để tạo nên sự thay đổi cấp thiết ấy.
Hãy
làm sao để người dân nhận ra rằng được sinh ra từ lòng xã hội dân sự,
các phong trào dân sự không phải là một khái niệm cao siêu mà giai cấp
nông dân và công nhân không thể với tới được.
Ngược
lại, hoạt động dân sự trong xã hội dân sự là những gì thiết thân và gần
gũi nhất với đời sống dân sinh, nhằm hỗ trợ giải quyết một cách thấu
tình đạt lý những bức xúc của dân chúng liên quan đến nhiều chủ đề thiết
thực trong hiện tồn Việt Nam như Hiến pháp, tham nhũng, đất đai, môi
trường, biển đảo, quyền lợi người lao động, thị trường, các chính sách
công bất hợp lý…
Có quá nhiều những vấn đề cần
phải giải quyết trong bối cảnh chính quyền không có đủ năng lực và ngày
càng mất đi sự công tâm cần có, để bảo đảm việc chấp nhiệm một cách công
bằng. Đó cũng chính là nhu cầu xã hội đang nảy sinh trong lòng xã hội
Việt Nam đương đại, đòi hỏi phải có những tác động phi chính phủ, tức
hoạt động nằm ngoài khuôn khổ của đảng và chính quyền, giúp cho người
dân nhận thức được bản chất của những mâu thuẫn, khó khăn, xung đột và
tìm cách giải quyết phần nào những mối nguy đó.
Có
một ví dụ điển hình là vào giữa năm 2013, một tác động ngoại biên đã
gây dấu ấn đáng kể đối với giới doanh nghiệp ở Việt Nam. Đó là vụ cáo
buộc của Tổ chức phi chính phủ lớn thứ hai trên thế giới – Global
Witness - đối với Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai về những khuất tất của tập
đoàn này liên quan đến đất đai, môi trường và điều kiện sống của nông
dân ở Campuchia. Cho tới nay, vụ việc này dù chưa có đáp số cuối cùng,
nhưng rõ ràng hình ảnh của Hoàng Anh Gia Lai đã bị giảm sút khá lớn
không chỉ trong thương trường nội địa, mà cả trên thương trường quốc tế.
Với lý do đó, chắc chắn những dự án mà Hoàng Anh Gia Lai đang tiến hành
ở Campuchia và Lào sẽ phải được chính tập đoàn này điều chỉnh sao cho
bớt bị dư luận phản ứng.
Cũng có hàng ngàn ví dụ
tương tự trong hai mươi năm qua ở Việt Nam, kể từ thời điểm bắt đầu
đường parabol hướng lên của thị trường bất động sản và kéo theo rất
nhiều vụ thu hồi đất không thỏa đáng, trái pháp luật và sau này là bất
chấp đạo lý đối với nông dân. Tất cả những mâu thuẫn đó đã tích tụ đủ
dày để biến thành ý thức phản kháng của một bộ phận nông dân bị mất đất,
biến họ thành dân oan và tạo nên mối xung khắc, dẫn tới xung đột với
giới quan chức chính quyền tại nhiều địa phương. Vụ việc thu hồi đất hết
sức bất công tại huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên năm 2012 mà hậu quả còn
kéo dài đến nay là một bằng chứng điển hình. Chính những xung đột đó
đang rất cần đến sự giúp đỡ của các tổ chức dân sự có kiến thức về pháp
luật và lòng trắc ẩn với đồng loại.
Hoặc với vụ
chôn thuốc trừ sâu xuống lòng đất của một doanh nghiệp ở Thanh Hóa có
tên là Nicotex Thanh Thái bị phát hiện vào tháng 9/2013, người dân đã có
đủ bằng chứng, báo chí và dư luận phẫn nộ, song các cơ quan chức năng
vẫn trù trừ một cách rất đáng nghi ngờ. Vì sao vậy? Phải chăng đã có
những mối quan hệ khuất lấp nào đó giữa thủ phạm gây án ung thư cho
người dân địa phương với một vài cơ quan hay những quan chức nào đó?
Điều rõ ràng là nếu vụ việc này xảy ra ở những nước phát triển và có xã
hội dân sự trưởng thành như Mỹ hay Anh, Pháp, chắc chắn các tổ chức phi
chính phủ đã không để yên, cho dù nhà chức trách địa phương có tìm cách
bao che.
RFI: Theo nhận xét
của anh, thì thái độ và cách hành xử thường bị chỉ trích là vô cảm của
chính quyền đã tác động đến tâm lý người dân như thế nào?
Tác
động một cách tiêu cực! Ở Việt Nam, trong khi vai trò độc đảng đã đi
vào lối mòn và gây ra nhiều hậu quả về đặc quyền và đặc lợi, tình trạng
hoàn toàn thiếu đối trọng chính trị và vai trò của xã hội dân sự đã kéo
theo tình trạng thiếu minh bạch trở thành một cố tật, và cố tật này xem
ra rất khó được chữa lành. Luôn đứng gần chót bảng tổng sắp các nước có
độ minh bạch thấp nhất của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, giới quan chức
Việt Nam từ nhiều năm nay đã ép tính minh bạch ngược chiều với đà tăng
vọt lợi nhuận của các nhóm lợi ích độc quyền về xăng dầu, điện lực, các
nhóm lợi ích thị trường như bất động sản, chứng khoán, và các nhóm lợi
ích chính sách như Vinashin và Vinalines.
Dù
chẳng hề có một con số khảo sát hay điều tra nào từ phía các cơ quan nhà
nước, nhưng bằng vào quá nhiều phản ứng xã hội đã dồn dập xảy ra ở Việt
Nam, đặc biệt là vụ một người dân là Đặng Ngọc Viết xả súng trả thù cán
bộ quản lý đất đai ở tỉnh Thái Bình vào tháng 9/2013, rõ ràng tâm lý
phản kháng của một bộ phận dân chúng đang có chiều hướng vượt qua lằn
ranh sợ hãi và có thể biến thái thành hành vi mất kiểm soát.
Đặc
thù tâm lý trong xã hội Việt Nam là lòng dân càng bất mãn thì phản ứng
của người dân càng lúc càng trở nên thiếu kềm chế. Trong một số vụ việc
mấy năm gần đây, đã xuất hiện dấu hiệu vượt khỏi tâm lý kềm tỏa sợ hãi
để bước đến tâm trạng phản kháng, thậm chí sẵn sàng đối đầu, cho dù đó
chỉ là hành động đối kháng tự phát chứ không được tổ chức. Có thể nêu ra
hàng loạt vụ việc người dân phản ứng về đất đai ở nhiều địa phương như
Nam Định, Bắc Giang, Hưng Yên, Nghệ An… và ngay tại ngoại thành Hà Nội,
rất gần với tổng hành dinh của Chính phủ và Bộ Chính trị của Đảng. Vụ
Đặng Ngọc Viết chính là một điển hình cho lòng phẫn uất đã biến thành tự
phát vô cảm đến mức bất chấp của dân oan, đối diện với thói vô lương
tâm của giới quan chức địa phương.
Hoặc vụ Mỹ
Yên và cách hành xử “côn đồ hóa” của những người bị người dân cho là thẻ
ngành không mang sắc phục, đã làm dấy lên làn sóng phản ứng có khuynh
hướng “tử vì đạo” của vài trăm linh mục và nửa triệu giáo dân vùng Nghệ
An, cùng lòng hiệp thông chưa từng thấy giữa các giáo phận trong cả
nước. Sau vụ tranh chấp đất đai tại nhà thờ Thái Hà ở Hà Nội vào năm
2011, có thể nói vụ Mỹ Yên chỉ thiếu chút nữa đã thổi bùng ngọn lửa đối
đầu công khai và sẵn sàng chết vì đạo của giáo dân đối với chính quyền
địa phương, mà rất có thể dẫn tới hậu quả không thể nào lường hết nếu
xung đột tiếp tục leo thang.
Mà các tôn giáo và
giới tín đồ lại là một thành tố không thể thiếu của xã hội dân sự. Trong
lịch sử, các tôn giáo ở Việt Nam như Công giáo, Phật giáo, Tin lành,
Cao đài, Phật giáo Hòa hảo… đã đóng góp cho xã hội nhiều giá trị tinh
thần lẫn vật chất cho người dân, đúng với tiêu chí cho người nghèo và vì
người nghèo. Vậy nếu những hoạt động từ thiện xã hội của các tôn giáo
bị ngăn cản và bị cấm đoán thì sao? Lẽ tự nhiên, đó chính là lúc bản
thân các tôn giáo và cả những giới không tôn giáo thấy cần phải hòa
quyện với nhau để đấu tranh đòi lại sự công bằng, ít nhất là công bằng
cho đúng với những mỹ từ “tốt đạo đẹp đời” hay “kính Chúa yêu nước” mà
Nhà nước ưa phô diễn.
Nhức nhối xã hội và những
tiền đề hỗn loạn xã hội – điều kiện cần cho xã hội dân sự hình thành –
đã hội tụ đủ, thậm chí tràn ứ. Vấn đề còn lại chỉ là các phong trào dân
sự ở Việt Nam sẽ khởi sự như thế nào mà thôi.
RFI: Theo anh thì xã hội Việt Nam đã có những tiền đề nào cho phong trào dân sự?
Có
thể xem phong trào phản biện Bauxite từ năm 2007 là tiêu điểm đầu tiên
mang dấu ấn của nhóm trí thức xuất thân từ lòng đảng, nhưng đậm nét cách
tân và có quan điểm cách mạng hơn nhiều so với những lề thói cũ. Công
cuộc phản đối dự án khai thác bauxite của Trung Quốc cũng có thể có ý
nghĩa không kém thua so với 11 cuộc biểu tình chống sự can thiệp của Bắc
Kinh vào Biển Đông vào năm 2011. Một trong những biểu hiện hiệu quả và
bền vững nhất mà nhóm trí thức phản biện Bauxite đã làm được là duy trì
được trang mạng Bauxite Việt Nam tồn tại trong suốt 5 năm qua, cho dù
phải chịu không ít áp lực từ phía chính quyền và ngành công an.
Đến
đầu năm 2013, nhóm Kiến nghị 72 sinh ra và phát triển tại Việt Nam lại
là một hiện tượng có vẻ như đột biến, nhưng thực chất là tuân theo đúng
quy luật biện chứng “lượng đổi dẫn đến chất đổi”. Sau nhiều năm không
nhận ra một sự thay đổi và cải thiện đáng kể nào từ phía đảng và chính
quyền, giới trí thức bất đồng tiên phong đã phải chỉ thẳng một điều cốt
tử: một khi nền chính trị Việt Nam không có đối trọng - được thể hiện
bởi những lực lượng vật chất - những chính sách bất hợp lý về tư tưởng
và bất công về quyền lợi của nó chỉ có thể dẫn dân tộc đến hố sâu phân
hóa và tự triệt tiêu động lực tiến bộ. Có thể coi sự hình thành của
“Kiến nghị 72” liên quan đến điều 4 Hiến pháp là dấu mốc cực kỳ quan
trọng cho việc khởi xướng tiền đề của hoạt động xã hội dân sự ở Việt Nam
trong tương lai.
Sau “Kiến nghị 72”, một số
blogger trẻ cũng đã khởi phát phong trào 258 – một hoạt động mà về hình
thức chỉ là tiếp xúc và trao bản tuyên bố phản đối điều 258 Bộ luật hình
sự cho các cơ quan đại diện ngoại giao nước ngoài và một số tổ chức
nhân quyền quốc tế, nhưng thực chất là bày tỏ thái độ phản đối công khai
đối với chính quyền theo tinh thần minh bạch hóa và tác động thay đổi
chính sách của xã hội dân sự.
Cũng chủ yếu từ
năm 2011 đến nay, hoạt động truyền thông xã hội tại Việt Nam đã hình
thành một cách dày dạn và tỏ ra can đảm hơn hẳn hoạt động thông tin lề
trái ở Trung Quốc. Số người viết ngày càng nhiều, nhưng quan trọng hơn,
số bài viết có chất lượng và có sức lan tỏa, tính kết nối với hệ thống
truyền thông quốc tế ngày càng tăng. Truyền thông quốc tế lại tác động
đến nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế và chính phủ các quốc gia hàng đầu
về dân chủ và nhân quyền, tạo nên hiệu ứng tác động ngược lại đối với
nhà cầm quyền ở Việt Nam.
Chính hiệu ứng “trong
ra ngoài vào” như vậy đã thực sự làm nên một đối trọng về áp lực dư luận
đối với hệ thống báo đảng, khiến cho các cơ quan tuyên giáo từ trung
ương đến địa phương không thể xem thường truyền thông xã hội. Trong một
số trường hợp liên quan đến “Kiến nghị 72”, hai vụ tuyệt thực của Cù Huy
Hà Vũ và Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, vụ bắt rồi thả Phương Uyên, đề xuất
thành lập đảng mới của ông Lê Hiếu Đằng… giới báo chí lề đảng đã phải
chọn cách đứng trước vành “đối chất” thay vì phẩy tay bỏ qua vào những
năm trước.
Truyền thông xã hội lại là một thành
phần đương nhiên của xã hội dân sự. Đó cũng là lý do để có thể tạm thời
kết luận rằng một phần quan trọng và có thể có tính quyết định của xã
hội dân sự đã manh nha và đang dần khởi sắc ở Việt Nam, cho dù chân đứng
của nó có lẽ còn khá lâu nữa mới vững chắc và đồng vị tại một điểm
thống nhất nào đó.
RFI: Thưa anh, đối với sự hình thành xã hội dân sự ở Việt Nam. yếu tố nào mang tính quyết định: yếu tố đối nội hay đối ngoại?
Nội
lực tất yếu là yếu tố quyết định trong dài hạn. Nhưng trong ngắn hạn,
điều kiện sơ sinh cho xã hội dân sự lại đến từ cộng đồng quốc tế và trào
lưu dân chủ hóa trên thế giới.
Nhìn sâu vào bản
chất, tình hình chính trị ở Việt Nam vào năm 2013 đã thay đổi khá nhiều
so với những năm trước, tuy chỉ là một sự thay đổi rất kín đáo mà không
dễ nhận ra và càng khó để lượng định. Tuy nhiên, nếu hệ thống lại những
hoạt động đối ngoại giữa Việt Nam với các quốc gia như Mỹ, Pháp, Anh,
và với cả công đồng Công giáo Vatican, có thể thấy là một độ mở chính
trị dường như đã được nhà nước Việt Nam cam kết với quốc tế, dẫn đến kết
quả tuy chưa khả quan, nhưng đã có nét đột biến từ việc bất ngờ thả nữ
sinh Phương Uyên ngay tại tòa án Long An – sự kiện diễn ra chưa đầy một
tháng sau chuyến đi Washington của ông Trương Tấn Sang.
Xu
hướng đối ngoại và góc mở đối nội cũng cho thấy nếu vào tháng 8/2013,
ông Lê Hiếu Đằng và nhóm cộng sự bền tâm và có đủ lực lượng để lập nên
chính đảng Xã hội Dân chủ, sự việc chưa từng thấy này cũng khó tạo ra
một cái cớ đủ tính pháp lý để chính quyền phản ứng mạnh mẽ, tức có thể
bắt giam hoặc đàn áp những người khởi xướng lập đảng.
Hướng
mở về đối ngoại kéo theo độ mở về chính trị và cho thấy chưa bao giờ từ
năm 1975 đến nay, Nhà nước Việt Nam lại “cần” đến cộng đồng quốc tế như
bây giờ. Nhu cầu thiết thân về quyền lợi và quyền lực như thế đang liên
quan trực tiếp đến các chủ đề hấp dẫn như Hiệp định đối tác kinh tế
xuyên Thái Bình Dương – TPP, và cả lời hứa hẹn về “đối tác chiến lược
toàn diện” từ phía người Mỹ, trong đó trước mắt là một vài động thái
liên minh quân sự giữa Việt Nam và Hoa Kỳ để giảm thiểu tác động rất
tiêu cực từ người bạn láng giềng tham lam có truyền thống ở phương Bắc.
Một
động thái khác đáng chú ý sau cuộc gặp Obama – Sang, vào ngày
27/8/2013, phái đoàn Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã công bố 14 lời hứa
về nhân quyền của chính phủ Việt Nam trước Chủ tịch Đại hội đồng Liên
Hiệp Quốc, trong đó có cam kết đầu tiên và quan trọng nhất: “Thông qua
các chính sách và các biện pháp để đảm bảo tốt hơn tất cả các quyền căn
bản về kinh tế, xã hội, văn hóa, dân sự và chính trị theo thông lệ quốc
tế đã công nhận”.
RFI:
“Thông lệ quốc tế đã công nhận” có thể hiểu là Công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị, công ước quốc tế về chống tra tấn…
Vào
cuối tháng 9/2013, một tuyên bố về các quyền dân sự và chính trị đã
được nhóm trí thức độc lập, cũng là những người khởi xướng “Kiến nghị
72”, phổ biến trên mạng.
Hiển nhiên là những
tiền đề đầu tiên của xã hội dân sự đang hình thành ở Việt Nam, trong bối
cảnh Nhà nước Việt Nam đang dần phải chấp nhận những giá trị phổ quát
về nhân sinh, nhân quyền và dân chủ của cộng đồng quốc tế. Đó cũng là lý
do để có thể cho rằng đã có những tín hiệu cho thấy một số lãnh đạo của
đảng và chính quyền, tuy chưa công khai biểu hiện quan điểm vì lý do
chưa muốn hoặc vẫn bị áp lực bởi “chủ nghĩa kinh viện tập thể”, vẫn đang
có xu hướng “xoay trục” sang phương Tây và dần chấp nhận đường hướng
một mô hình xã hội dân sự nào đó trong tương lai cho Việt Nam, với vai
trò nhà nước pháp quyền đang được đặt ra và có giá trị tối thiểu như một
cụm từ mang tính thời thượng.
Sau chuyến đi của
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Washington vào tháng 7/2013 và tiếp
theo đó là chuyến đi của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến Paris và New York
vào tháng 9/2013, tín hiệu về xu hướng “xoay trục” như thế ngày càng lộ
diện.
Đó cũng là lý do để có thể cho rằng tỷ lệ
thuận với khuynh hướng “xoay trục” sang phương Tây, một nhận thức mới
mẻ đang dần hình thành trong não trạng của một số lãnh đạo cao cấp:
trong tương lai gần, một lực lượng trí thức có tính độc lập tương đối
với hệ tư tưởng của đảng, có thể là cần thiết được duy trì mà không bị
sách nhiễu hoặc bắt bớ, với mục đích tạo nên một ráng hồng dân chủ nào
đó cho khuôn mặt của chế độ, cũng là nhân tố có thể mang lại thiện cảm
với các tổ chức và quốc gia trên thế giới quan tâm đến vấn đề dân chủ,
nhân quyền và xã hội dân sự ở Việt Nam. Trong trường hợp cần thiết, lực
lượng trí thức độc lập này cũng có thể là cầu nối trong – ngoài để một
số quan chức cao cấp Việt Nam “dễ ăn dễ nói” hơn với các tổ chức quốc
tế.
Tác động quốc tế và điều được xem là “biến
đổi khí hậu nội địa” chính là điều kiện cần và cực kỳ quan yếu để các
phong trào dân sự có thể thành hình thành khối ở Việt Nam, trong bối
cảnh được coi là “nhạy cảm” hiện thời mà không quá lo lắng về chuyện
thành viên của họ bị bắt bớ hay bị truy tố vì tội danh “lật đổ có tổ
chức”.
RFI: Làm thế nào để các phong trào dân sự có thể được xây dựng nhanh chóng và lan tỏa được ở Việt Nam?
Khác
rất nhiều với tính chuyên biệt về tư tưởng và thành phần của đảng phái
chính trị, phong trào dân sự luôn là một định chế mở có tính hợp lý để
có thể thu hút, quy tụ rộng rãi sự đóng góp của các thành phần, không
chỉ người dân mà còn cả trí thức và các quan chức trong đảng – những
người vốn đã ở thế “trung dung”, bức xúc với hiện tình dân tộc và muốn
tìm một con đường nào đó để đời sống của họ đỡ vô nghĩa hơn.
Một
khi được hình thành, các phong trào dân sự có thể là ngôi nhà của người
nông dân, công nhân, tiểu thương, và cả giới sinh viên đang muốn tìm
một lối thoát để phụng sự dân tộc. Ở nhiều nơi và vào nhiều thời điểm,
xã hội đang chứng kiến hiện tượng “tụ tập đông người”, từ các bà tiểu
thương đến những nhóm sinh viên và trí thức, từ các nhóm dân oan hàng
ngày túc trực ở trụ sở công quyền đến những người công nhân nhóm họp đòi
quyền lợi về thu nhập… Tuy nhiên tất cả những hiện tượng tổ nhóm như
thế vẫn còn rất phân tán và mang tính tự phát, hoàn toàn có thể tan vỡ
như bong bóng xà phòng nếu không được định hướng và duy trì sự tồn tại.
Định
hướng và những mục tiêu thiết thân của xã hội dân sự cùng các phong
trào của nó về dân sinh, dân quyền, dân chủ và dân trí chắc chắn là sự
gắn bó không thể tách rời đối với quyền lợi của đại đa số người dân
trong số 86 triệu dân số Việt Nam giờ đây. Số còn lại, dù chưa có con số
thống kê chính thức, nhưng có thể chỉ chiếm 10-15%, là những người có
bổng lộc thông qua phương tiện chức vụ, cùng những người giàu có mà
không muốn lâm vào tình thế rủi ro để đổi lấy sự minh bạch.
Nếu
đại đa số nhân dân được kết nối với nhau và được định hướng trong cuộc
đấu tranh phản biện xã hội, tính lan tỏa và sức ép mà các phong trào dân
sự tạo ra sẽ được nhân lên gấp nhiều lần. Ứng với những điều kiện ở
Việt Nam và so sánh với kinh nghiệm đã tích lũy ở Liên Xô cũ và nhiều
nước Đông Âu vào thập niên 90, nhóm trí thức phản biện độc lập có vai
trò khởi phát, dẫn dắt, nhưng lực lượng trí thức trong đảng và hệ thống
nhà nước mới là nhân tố quyết định để tác động đối với đảng và chính
quyền, tạo ra một thay đổi đủ lớn về chính sách, con người và cả thể
chế.
Ứng với tình hình Việt Nam, một số đánh giá
mang tính ước đoán cho biết hiện thời có ba nhóm quan điểm chính. Nhóm
thứ nhất gồm khoảng 30% trí thức trong đảng và nhà nước, bao gồm cả quan
chức, được xem là nhóm “trung thành” và có quyền lợi thiết thân với
chức vụ và các đặc quyền trong hệ thống. Ngược lại, nhóm thứ hai có
khoảng 20% trí thức trong các cơ quan nhà nước, không phải đảng viên
hoặc vẫn là đảng viên, nhưng có tư tưởng cấp tiến, muốn thay đổi, song
chưa có điều kiện để thể hiện quan điểm và hành động của họ. Nằm giữa
hai khuynh hướng vừa đề cập là nhóm thứ ba với khoảng 50% trí thức trong
đảng và nhà nước - những người không gắn bó đặc biệt với quyền lợi và
chức vụ, mang quan điểm trung dung. Nếu thực tế gần đúng với những tỷ lệ
đó thì một xã hội dân sự được tổ chức tốt sẽ có thể thu hút đến ít nhất
phân nửa số trí thức đang làm việc cho hệ thống của đảng và nhà nước.
Muốn
xã hội dân sự được rút ngắn cung đường khởi động, yếu tố đoàn kết phải
là con ngươi của phong trào phản biện, phong trào dân sự và do đó của xã
hội dân sự trong tương lai ở Việt Nam. Tình trạng xa cách giữa nhóm trí
thức phản biện độc lập với các trí thức trong đảng và hệ thống nhà nước
như hiện thời là yếu huyệt nguy hiểm nhất trên con đường cải hóa các
mục tiêu xã hội và chính trị, gây loãng tác động điều chỉnh chính sách
và càng làm cho đời sống dân tình trở nên khốn khó, bức bách hơn.
Bức
bách thách đố đối với những người hoạt động dân chủ ở Việt Nam lại là
phải tạo ra được bầu không khí tranh luận thật sự dân chủ trong đa
nguyên tư tưởng, gạt sang một bên những đố kỵ, tị hiềm, ganh ghét hoặc
nói xấu lẫn nhau – những biểu hiện vẫn luôn bị coi là một thói xấu trong
lịch sử văn hóa của người Việt.
Chỉ có đoàn kết
mới làm tăng được sức mạnh của những người muốn thay đổi và mới tạo ra
được sự đổi thay. Đoàn kết càng nhanh thì lộ trình ban đầu cho dân chủ
Việt Nam sẽ càng được rút ngắn, cho dù con đường dẫn đến sự thay đổi
toàn diện vẫn còn rất lâu dài.
RFI: Trong hoàn cảnh Việt Nam, các phong trào dân sự có thể làm được những gì thiết thực?
Có
rất nhiều việc phải làm. Hành động chính trị - xã hội là việc lên tiếng
bảo vệ chủ quyền biển đảo, hạn chế sự phụ thuộc của nền kinh tế và
chính trị Việt Nam vào Trung Quốc; phản biện chống tham nhũng và các
nhóm lợi ích, nhóm thân hữu; thúc đẩy Quốc hội sớm ban hành Luật biểu
tình, Luật lập hội, Luật trưng cầu dân ý; thúc đẩy tiếng nói của trí
thức độc lập tại Quốc hội; thúc đẩy tính hợp hiến và hợp pháp hóa của
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tôn giáo; phản biện đối
với các điều luật chính trị hóa hành vi phản phản biện như điều 79, 87,
88, 258 trong Bộ luật hình sự; phản biện đối với điều kiện giam giữ phạm
nhân trong các trại giam; hỗ trợ tinh thần và vật chất cho các gia đình
có người bị giam giữ, liên quan đến yếu tố chính trị…
Còn
hành động kinh tế - xã hội là bảo vệ quyền lợi của nông dân trước hành
vi trưng thu đất đai bất hợp pháp và vô lối; phản biện đối với chủ đề sở
hữu trong Luật đất đai và cơ chế thu hồi đất đối với các dự án kinh tế -
xã hội; bảo vệ quyền lợi của công nhân và thị dân về điều kiện làm việc
và an sinh xã hội; đấu tranh chống tác động tiêu cực của một số doanh
nghiệp đối với môi trường tự nhiên… Thái độ lên tiếng của phong trào dân
sự cũng không thể bỏi qua việc phản biện đối với một số vấn đề kinh tế
gay gắt như nợ công quốc gia; nợ và nợ xấu; tính độc quyền của kinh tế
quốc doanh và một số tập đoàn; ngân hàng; các thị trường đầu cơ như
vàng, bất động sản; những ngành có liên quan mật thiết đến người tiêu
dùng như điện, xăng dầu, nước…
Và để tự nâng
mình lên, các phong trào dân sự cũng phải phản biện với chính những
tiếng nói phản biện thiếu tinh thần xây dựng và đoàn kết trong giới hoạt
động dân chủ ở Việt Nam và hải ngoại.
RFI: Tuy
nhiên nhiều vấn đề mà giới trí thức phản biện nêu ra cho tới nay vẫn có
vẻ nặng về tính lý thuyết. Làm thế nào để có được một phong trào dân sự
có hiệu quả trong đời sống?
Dĩ nhiên
phong trào phản biện của giới nhân sĩ, trí thức và các phong trào dân sự
phải cần thỏa mãn điều kiện đủ là làm sao hình thành càng sớm càng tốt,
chọn lựa những người đứng đầu có uy tín và có năng lực hành động, đồng
thời tạo dựng được nhân lực điều hành và thừa hành để có thể tương tác
với vận động xã hội và thích ứng với những ưu thế mới trong tình hình
mới.
Muốn đạt được các mục tiêu chiến lược đó,
trước mắt hoạt động của phong trào dân sự cần nhích thêm một bước: không
chỉ là diễn đàn trên mạng, mà phải hình thành các nhóm công khai trong
đời sống theo phương châm ôn hòa, bất bạo động.
Ngay
từ bây giờ, đang rất cần đến một sự kết nối có tính thành tâm, hữu dụng
và bài bản giữa các nhóm trí thức phản biện độc lập, trí thức trong
đảng với các nhóm dân sự tiêu biểu của nông dân, công nhân, tiểu thương,
sinh viên, tín đồ tôn giáo trong nước, cùng khối trí thức và kiều bào
Việt Nam ở nước ngoài.
Cuộc hành trình của phản
biện xã hội và xã hội dân sự ở Việt Nam trong ít nhất 20 năm tới không
chỉ là một sự thay đổi về tương quan kinh tế - chính trị, mà còn là một
cuộc cách mạng về văn hóa và dân trí cho các tầng lớp nhân dân.
Hãy
đừng nghĩ xã hội dân sự phải là một cái gì đó to tát với những cuộc bàn
luận bất tận về học thuật và vĩ mô. Sau khi Diễn đàn xã hội dân sự của
nhóm 72 ra đời, một blogger trẻ là Phạm Lê Vương Các đã bày tỏ chút nuối
tiếc: hàng trăm trí thức có tên tuổi đồng ký tên ủng hộ diễn đàn này
thực ra có thể làm được một điều gì đó xứng đáng hơn là chỉ bàn luận.
Trên mạng đã có quá nhiều diễn đàn, và giờ đây điều cần thiết là hành
động chứ không chỉ là nói. Một hành động rất nhỏ bé như hình thành một
phong trào nhặt rác ngoài đường phố có thể còn có ý nghĩa hơn cả việc
ngồi bàn luận chính trị theo cung cách salon…
Nhặt
rác chính là một hành động không thể thiết thực hơn trong nỗi bức bối
hiện thời. Dù mới chỉ một ít người nhặt rác, song hiệu ứng lan tỏa của
đám đông sẽ khiến thay đổi về nhận thức và tình cảm, để đến một lúc nào
đó người dân và đảng viên sẽ ý thức về việc cần phải quét rác như thế
nào.
Với tôi, chúng ta, tất cả các bạn hãy hành
động, hành động và hành động! Vì dân sinh, dân quyền, dân chủ và dân
trí! Thay đổi của xã hội cũng là hệ quả cho phản biện và cơ hội cho dân
chủ. Phải thay đổi về não trạng để có thể cống hiến cho xã hội nhiều hơn
nữa. Phong trào dân sự và những điều kiện cho một xã hội dân sự ở Việt
Nam đang nằm trong xu thế và lộ trình khởi động trong 3-4 năm tới. Và
nếu được tổ chức tốt, phong trào này có thể góp sức cho xã hội về những
triển vọng lạc quan trong tương lai dài hạn của dân tộc.
RFI: Xin rất cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng đã vui lòng nhận trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ hôm nay.
Nguồn: Viet.rfi.fr
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:59
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/nha-bao-pham-chi-dung-phong-trao-dan-su.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001