TS Trần Công Trục trả lời ông Mai Thái Lĩnh về thác Bản Giốc
Tiến sĩ Trần Công Trục
(GDVN)
- Cá nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu
hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ sao
cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của
quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông
ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.
Lời
Tòa soạn: Ngày 7/9/2013 Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được e-mail
phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh, tác giả bài viết "Sự thật về thác Bản
Giốc" được chúng tôi đề cập trong bài báo “Sự thật về Thác Bản Giốc” và nhận thức sai lầm về chủ quyền lịch sử” do phóng viên Hồng Thủy phỏng vấn Tiến sĩ Trần Công Trục và Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng tải ngày 3/9.
Nhận
thấy vấn đề đang được dư luận đặc biệt quan tâm, theo dõi và đòi hỏi có
những thông tin khách quan, rõ ràng, Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đã
trao đổi với Tiến sĩ Trần Công Trục, ông Trục đồng ý trả lời các câu
hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản Giốc mà
bài báo hôm 3/9 đã đề cập.
Nội
dung email phản hồi của ông Mai Thái Lĩnh về bài báo đã được ông Mai
Thái Lĩnh công bố rộng rãi trước đó, do đó chúng tôi không nhắc lại,
trong nội dung bài trả lời Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ tập trung làm rõ
các câu hỏi, chất vấn của ông Mai Thái Lĩnh xung quanh vấn đề thác Bản
Giốc, và đây cũng là tâm điểm chú ý của dư luận. Tôn trọng nguyên tắc
khách quan, thông tin đa chiều, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài
trả lời ông Mai Thái Lĩnh của Tiến sĩ Trần Công Trục.
Qua
Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, tôi nhận được e-mail phản hồi của ông
Mai Thái Lĩnh đưa ra 5 vấn đề chất vấn xung quanh bài trả lời phỏng vấn
của tôi đối với Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam hôm 3/9.
Trên
tinh thần tôn trọng sự thật khách quan, cùng nỗ lực thu hẹp khoảng cách
sự khác biệt trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ, củng
cố khối đại đoàn kết toàn dân và tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của công
luận quốc tế trong vấn đề bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam trên
Biển Đông hiện nay, chúng tôi đã đưa ra những phân tích những NHẬN THỨC
về quá trình đàm phán phân giới cắm mốc trên biên giới phía Bắc với mong
muốn cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác từ những người trực
tiếp tham gia công việc này đến dư luận.
Trong
quá trình đó chúng tôi có sử dụng bài viết “Sự thật về Thác Bản Giốc”
của ông Mai Thái Lĩnh để làm sáng tỏ vấn đề dư luận đang quan tâm, chúng
tôi không nhằm vào mục đích công kích bất kỳ cá nhân nào, chỉ mong muốn
tìm kiếm sự đồng thuận thông qua việc NHẬN THỨC đúng đắn những gì đã
diễn ra ngày hôm qua để rút ra bài học cho ngày hôm nay và ngày mai
trong công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền hợp pháp của dân tộc. Xin trao
đổi cùng ông Mai Thái Lĩnh và dư luận quan tâm xung quanh 5 câu hỏi
nhưng tập trung vào 3 vấn đề đã nêu ra trong phản hồi của ông Mai Thái
Lĩnh, như sau:
Thứ nhất, việc đưa vấn đề Sam
Rainsy và nhóm chính trị đối lập Campuchia bám vào CHỦ TRƯƠNG “chủ quyền
lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch sử” để lật lại quá trình
đàm phán phân giới cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia đã diễn ra một
cách công khai, minh bạch và đúng luật để “đòi” Việt Nam “trả” cho người
Campuchia các bộ phận lãnh thổ của Việt Nam như đảo Thổ Chu, Phú Quốc,
thậm chí là toàn bộ miền Nam vào bài trả lời phỏng vấn nhằm phân tích
kỹ, phân biệt sự khác nhau giữa CHỦ TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh
thổ trên cơ sở “chủ quyền lịch sử, quan điểm lịch sử và bằng chứng lịch
sử” (mà trong dư luận hiện nay còn nhiều người lầm tưởng rằng đó là chủ
trương của chúng ta trong giải quyết tranh chấp Biển Đông) với CHỦ
TRƯƠNG giải quyết tranh chấp lãnh thổ dựa trên cơ sở luật pháp và thông
lệ quốc tế, trong đó có sử dụng các “chứng lý lịch sử có giá trị pháp
lý”.
Cá nhân tôi đã nhiều lần phân tích công
khai về sự khác biệt đó bởi rất nhiều người trong thực tế còn mơ hồ giữa
2 CHỦ TRƯƠNG này, dẫn đến đánh đồng hoặc lẫn lộn dẫn tới những hậu quả
nguy hiểm, đó chính là quan điểm chính thức của Trung Quốc ở Biển Đông
hiện nay cũng như phe đối lập Campuchia ở biên giới Tây Nam mà thực tế
không ai chấp nhận được.
Về việc này, nhiều học
giả quốc tế đã có những bình luân, đánh giá rất khách quan; chẳng hạn,
theo Giáo sư Mohan Malik, việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền bao trùm
tới hơn 80% diện tích Biển Đông dựa vào yêu sách “yếu tố lịch sử” đang
đi ngược lại với UNCLOS mà chính nước này đã phê chuẩn năm 1996. Hay nói
cách khác, các tuyên bố ngang ngược từ quan chức trong chính quyền Bắc
Kinh nhận các đảo, đá và các rạn san hô trên Biển Đông là “lãnh thổ từ
thời xa xưa” của Trung Quốc; hay việc nước này in cả “đường lưỡi bò” phi
pháp lên hộ chiếu và bản đồ mới đây đã trái với tinh thần của UNCLOS về
việc bác bỏ các yêu sách “dựa trên lịch sử”.
Do
đó, mặc dù Trung Quốc trắng trợn yêu sách hơn 80% Biển Đông là “vùng
nước lịch sử” của họ, thì theo cách đó, Mexico cũng được độc quyền chiếm
vịnh Mexico, hay Iran đòi Vịnh Ba Tư, và Ấn Độ lấn Ấn Độ Dương y như
vậy. Tóm lại, theo giáo sư Mohan Malik, “vấn đề lịch sử” là rất phức tạp
và không thể giải thích một cách dễ dãi. Ngay cả khi các yêu sách lịch
sử có giá trị nào đó, thì Mông Cổ còn có thể yêu sách tất cả các khu vực
tại châu Á, vì họ đã từng chinh phục các vùng đất của châu lục này.
Quan
điểm nhất quán của Việt Nam trong đàm phán giải quyết tranh chấp lănh
thổ dù là ở biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam hay trên Biển Đông đều
chủ trương thông qua đàm phán hòa bình, theo nguyên tắc thỏa thuận, phù
hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Chúng ta không dựa vào quan
điểm “chủ quyền lịch sử, danh nghĩa lịch sử hay bằng chứng lịch sử”
chung chung để giải quyết tranh chấp như nhiều người còn đang nhầm lẫn.
Chúng ta chỉ sử dụng các bằng chứng, chứng lý lịch sử có giá trị pháp lý
để đấu tranh bảo vệ chủ quyền.
Thông điệp, mục
đích, nội dung xuyên suốt trong bài trả lời phỏng vấn Báo Điện tử Giáo
dục Việt Nam hôm 3/9 đều chỉ xoay quanh vấn đề này, cho nên các tư liệu
nêu trong bài “Sự thật về Thác Bản Giốc” của ông Mai Thái Lĩnh được tôi
đưa ra làm ví dụ để làm rõ sự khác biệt nói trên, chúng tôi không công
kích cá nhân ai, chỉ phân tích, phản biện các quan điểm liên quan đến
“lịch sử”, trong đó có quan điểm của ông Mai Thái Lĩnh. Chúng tôi muốn
làm rõ những điều đó, giải đáp thắc mắc lâu nay trong dư luận do thiếu
thông tin. Những nội dung cụ thể cũng như nguyên nhân của sự khác biệt
trong NHẬN THỨC cùng 1 vấn đề, tôi sẽ lần lượt trả lời phía dưới.
Thứ
2, về các tư liệu lịch sử mà ông Mai Thái Lĩnh nêu ra trong phần đầu
của bài “Sự thật về thác Bản Giốc”, ông Mai Thái Lĩnh cũng đã thừa nhận
trong email phản hồi là nó không nằm trong phạm vi của Công ước Pháp -
Thanh 1887, 1895 mà hai bên đã thỏa thuận dùng làm cơ sở để đàm phán,
thường được gọi là “đường biên giới do lịch sử để lại”. Các tư liệu do
ông Mai Thái Lĩnh trích dẫn chỉ có giá trị tham khảo.
Vấn
đề gây tranh cãi nằm ở chỗ một số tài liệu chính thức của ta được phát
hành trong giai đoạn những năm 1979 trở về sau, trong đó có cuốn tài
liệu “Vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc” và 4 hồ sơ: [1] Tài
liệu về việc Trung Quốc “sửa bản đồ” vào năm 1955-56 để âm mưu chiếm cồn
Pò Thoong và một phần Thác Bản Giốc, [2] Tài liệu về việc xây dựng trạm
thủy văn trên cồn Pò Thoong vào thập niên 1960, [3] Tài liệu về việc
Trung Quốc lấn chiếm cồn Pò Thoong vào năm 1976 và [4] Hai tờ bản đồ
Trùng Khánh số hiệu 6354-IV do Quân đội Nhân dân Việt Nam in vào những
năm 1976 và 1980” được ông Mai Thái Lĩnh sử dụng để bảo vệ luận điểm của
mình xung quanh vấn đề thác Bản Giốc, tôi xin nói rõ như sau:
Về
nguyên tắc chung tôi đã nói rõ trong bài phỏng vấn ngày 3/9 trên Báo
Điện tử Giáo dục Việt Nam cũng như nhiều lần đã phân tích, các tài liệu
ông Lĩnh nêu ra trên đây mặc dù là tài liệu chính thức của các cơ quan
nhà nước Việt Nam ban hành công khai và rộng rãi thời kỳ những năm 1979
nhưng không được xem là “căn cứ pháp lý” được thỏa thuận để làm cơ sở
giải quyết tranh chấp biên giới phía Bắc, vì rõ ràng các tài liệu này
không phải là bộ phận cấu thành của Công ước Pháp - Thanh 1887, 1895 mà
2 nước Việt Nam, Trung Quốc đã thoả thuận lấy làm căn cứ pháp lý để hai bên tiến hành hoạch định biên giới.
Những
người làm công tác đàm phán chúng tôi đã nghiên cứu kỹ các tài liệu ông
Mai Thái Lĩnh vừa nêu nên chúng tôi rất hiểu và chia sẻ những băn khoăn
của dư luận cũng như của ông Mai Thái Lĩnh.
Giai
đoạn cuối những năm 1970, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc hết sức
căng thẳng và cuối cùng dẫn tới xung đột, vấn đề tranh chấp biên giới
trong nhận thức đơn phương của mỗi bên lúc đó rất khác nhau, đây cũng
chính là một trong những cái cớ Trung Quốc vin vào để tấn công xâm phạm
lãnh thổ Việt Nam…
Mọi người đều biết rằng, hệ
thống tài liệu tuyên truyền chính thức của cả 2 phía Việt Nam và Trung
Quốc giai đoạn này, trong đó có những nội dung đề cập đến đường biên
giới trên bộ giữa 2 nước đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi xu thế chính trị
của cả xã hội thời kỳ đó. Hai nước giao tranh, việc phát hành tài liệu
liên quan đến đường biên giới, chủ quyền trong các tài liệu tuyên
truyền ít nhiều đã mất đi tính khách quan, lại được tuyên truyền thường
xuyên và rộng rãi nên những thông tin trong đó ăn sâu vào tiềm thức
người dân. Điển hình là việc ta luôn luôn nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc là
của Việt Nam trong khi người Trung Quốc họ nghĩ toàn bộ thác Bản Giốc mà
họ gọi là thác Đức Thiên là của họ.
Đó là một
thực tế lịch sử đã xảy ra. Có thể những tài liệu tuyên truyền như vậy là
cần thiết, phù hợp trong thời điểm đó khi quan hệ hai bên căng thẳng,
xung đột. Nhưng sau khi đã bình thường hóa quan hệ với chủ trương của 2
bên là “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” thì nó không còn phù hợp
nữa.
Chúng ta “khép lại” nhưng quên mất việc
giải thích, nói rõ cái đúng, cái sai cho dư luận người dân nắm rõ, trong
khi cái đúng, cái sai ấy lại liên quan trực tiếp tới vấn đề tranh chấp
biên giới lãnh thổ sau này, chính điều đó mới tạo ra những khác biệt về
mặt nhận thức dẫn đến băn khoăn trong xã hội về vấn đề biên giới Việt
Nam - Trung Quốc như ngày hôm nay, thác Bản Giốc là một điển hình.
Chúng
tôi những người làm công tác đàm phán về biên giới lãnh thổ, trước khi
đề xuất nội dung thỏa thuận nguyên tắc giải quyết biên giới lãnh thổ
giữa Việt Nam và Trung Quốc, đương nhiên đã nghiên cứu những tài liệu
này, so sánh đối chiếu các nội dung liên quan đến đường biên giới trên
bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc được đề cập trong đó với Công ước Pháp -
Thanh 1887, 1895 và các bản đồ, văn kiện đi kèm 2 Công ước.
Ý
kiến thống nhất từ trung ương đến địa phương đều cho rằng một số nội
dung liên quan tới đường biên giới trên bộ của các tài liệu nêu trên đều
không phù hợp, do đó không có căn cứ để đem ra tranh luận, đàm phán.
Phía Trung Quốc cũng có những tài liệu tuyên truyền tương tự như vậy,
thậm chí còn nhiều hơn ta, nhưng không thể đem những tài liệu này, dù là
chính thống, đặt lên bàn đàm phán.
Chúng ta đã
chấp nhận nguyên tắc dựa vào Công ước Pháp Thanh 1887, 1895 cùng những
bản đồ, biên bản phân giới cắm do Công ước quy định để đàm phán thì phải
tuân thủ. Và về quy trình đàm phán, chúng tôi đã có bài phân tích cụ
thể trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam, trong đó nói rõ đường biên giới
chủ trương do nhóm chuyên gia thực hiện công phu và nghiêm túc đã phải
được các tỉnh có đường biên giới đi qua xác nhận, các bộ ngành có liên
quan xác nhận, trong đó có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, được Quốc hội
chấp thuận thông qua, chúng tôi mới đem đi đàm phán. Điều này có thể trả
lời câu hỏi của ông Mai Thái Lĩnh rằng các nhà đàm phán có tham khảo
các cơ quan liên quan và các tài liệu như ông nêu ra trong bài viết hay
không.
Ở đây, tôi xin nói thêm rằng sự khác biệt
trong nhận thức ngày hôm nay chính là hệ quả của công tác tuyên truyền
ngày hôm qua, khi chúng ta chưa kịp thay đổi, thích ứng theo những diễn
biến mới của thời cuộc. Tôi không phủ nhận những giá trị của các tài
liệu chính thức của ta mà ông Mai Thái Lĩnh đề cập, nhưng nó chỉ có giá
trị trong thời điểm đó và bối cảnh đó, những tài liệu như vậy không thể
mang đi đàm phán. Tôi cũng không đổ lỗi cho ai, chỉ muốn nhấn mạnh rằng
đó là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử có quá nhiều biến động và còn
thiếu nhiều thông tin, nên ngày nay chúng ta cần bình tĩnh để nhìn nhận
lại cho rõ cái đúng, cái sai.
Chúng ta muốn bảo
vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ thì phải hết sức cầu thị, cái gì đúng
chúng ta kiên quyết bảo vệ, cái gì sai, chúng ta phải dũng cảm điều
chỉnh. Có như vậy đàm phán mới có kết quả, nguyên tắc pháp lý mới được
tôn trọng. Tôi tin rằng đại đa số người dân cũng như công luận quốc tế,
khu vực và ngay cả đối tượng đàm phán của chúng ta cũng đều hoan nghênh
thái độ cầu thị này.
Đối với phía Trung Quốc,
những gì họ nêu ra là bất hợp lý, không thuyết phục khi đàm phán biên
giới trên bộ và vịnh Bắc Bộ, chúng tôi đều bác bỏ để tôn trọng và giữ
thỏa thuận nguyên tắc chung. Ngày nay, chúng ta muốn bác bỏ đường lưỡi
bò “lịch sử” của Trung Quốc ở Biển Đông thì chính chúng ta phải sòng
phẳng với nhau về các bằng chứng lịch sử của chúng ta, trong đó nghiên
cứu tìm tòi và đưa ra những bằng chứng lịch sử có giá trị và sức nặng
pháp lý nhất để đấu tranh bảo vệ chủ quyền chứ không thể dựa vào “chủ
trương lịch sử, quan điểm lịch sử hay bằng chứng lịch sử” chung chung
như chính cách Trung Quốc đã và đang làm.
Nói rõ
điểm này, tôi thiết nghĩ không cần phân tích sâu vào khái niệm “đường
biên giới do lịch sử để lại” được đề cập trong các tài liệu mà ông Mai
Thái Lĩnh trích dẫn, độc giả cũng có thể dễ dàng hiểu được tại sao.
Thứ
3, quan điểm ông Mai Thái Lĩnh cho rằng những người đàm phán chúng tôi
đã “mắc mưu Trung Quốc” khi chấp nhận lấy Công ước Pháp - Thanh 1887,
1895 và các bản đồ, văn kiện mô tả đường biên giới được quy định bởi 2
Công ước trên làm căn cứ đàm phán, vì trình độ kỹ thuật thời đó không
thể mô tả, vẽ một cách chính xác đường biên giới, nhất là chưa có tọa độ
địa lý chính xác, chúng tôi xin thưa lại như sau: Nếu cuối thế kỷ 19
Pháp với vai trò Nhà nước bảo hộ của Việt Nam về mặt đối ngoại cùng với
nhà Thanh, Trung Quốc mà phân giới cắm mốc thành một đường biên giới rõ
ràng, hoàn chỉnh và hiện đại như ngày nay thì làm gì còn tranh chấp. Lúc
đó nếu có tranh chấp vì nguyên nhân nào đó thì chỉ cần sau khi thỏa
thuận nguyên tắc chung xong, 2 bên lôi Công ước và bản đồ văn kiện đi
kèm ra đối chiếu là xong, cần gì đàm phán.
Các
bằng chứng lịch sử như bản đồ, thư tịch...chúng tôi đã tham khảo khi
hoạch định đường biên giới chủ trương trước lúc mang đi đàm phán, và khi
trao bản đồ đường biên giới chủ trương 2 bên đã trùng nhau 70%, 30% còn
lại là các khu vực tranh chấp, lúc này mới là giai đoạn đưa các chứng
cứ ra chứng minh. Khi chúng ta đưa ra các bản đồ, thư tịch và bằng chứng
lịch sử khác không nằm trong phạm vi nguyên tắc chung quy định, thì
Trung Quốc họ cũng làm tương tự, và tài liệu của họ còn nhiều hơn ta.
Chưa bàn đến độ chính xác đến đâu, nhưng đàm phán như vậy sẽ rơi vào ngõ
cụt, bế tắc vì đánh mất nguyên tắc chung khi ai cũng khăng khăng là
“bằng chứng lịch sử” của mình đúng.
Dưới góc độ
cá nhân là người trực tiếp tham gia quá trình đàm phán, hoạch định phân
giới cắm mốc biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, vịnh Bắc Bộ, tôi
phân tích cụ thể ví dụ về thác Bản Giốc vừa để cung cấp thêm thông tin
cho dư luận đang quan tâm, thắc mắc, nhưng đồng thời còn muốn nói rõ câu
chuyện đang diễn ra ngoài Biển Đông, để tránh lặp lại những nhận thức
sai lệch không đáng có.
Những chất vấn của ông
Mai Thái Lĩnh, đồng thời cũng là những thông tin tôi nghĩ nhiều người
đang quan tâm tìm hiểu, tôi đã đề cập trong nội dung trả lời này. Nhưng
câu chuyện về biên giới lãnh thổ luôn luôn không hề đơn giản, những ai
quan tâm có thể đọc những bài trả lời phỏng vấn của tôi trên các phương
tiện truyền thông để có thêm các thông tin một cách hệ thống, đầy đủ và
có điều kiện để so sánh, đối chiếu, tìm ra cái đúng, cái sai.
Cuối
cùng, cá nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để
thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề chủ quyền lãnh thổ
sao cho có lợi nhất cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ hợp pháp của
quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông
ngày càng gia tăng và tiềm ẩn những nhân tố khó lường.
T.C.T.
Nguồn: giaoduc.net.vn
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:05
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/ts-tran-cong-truc-tra-loi-ong-mai-thai.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001