Thứ Ba, 30 tháng 10, 2012

Walter Saller - Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 1) 

Bài: Walter Saller
Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba chuyển ngữ

1966 – 1976: Cách mạng Văn hóa

Hè 1966. Thanh thiếu niên nắm lấy quyền lực trong các thành phố Trung Quốc. Học sinh hành hạ thầy giáo của họ cho tới chết, sinh viên làm nhục giáo sư của họ, lứa mới lớn đập nát những tượng đài kỷ niệm của một nền văn hóa lâu đời hàng ngàn năm. Chính Mao đã mở cửa cho cuộc nổi dậy của “Hồng Vệ Binh” này – để lật đổ đối thủ của ông ấy trong Đảng, đập tan xã hội và thực hiện giấc mơ của ông ấy: cuộc cách mạng liên tục.
Khi cô giáo Biện Trọng Vân mặc quần áo vào buổi sáng ngày hôm sau đó, mỗi một cử động đều gây đau đớn, những vết sưng, những lằn roi và những vết bầm tím trên thân thể của bà gây đau rát. Bà cầm lấy cái túi xách, như thể chờ đợi một ngày dạy học bình thường. Bà nhét chứng minh nhân dân vào đấy, thêm quyển sách nhỏ màu đỏ với những câu trích dẫn Mao, bài văn “Người ta trở thành một người Cộng sản tốt như thế nào” của Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ và một quyển nhỏ về “Cuộc cách mạng vĩ đại làm xúc động tâm hồn.”
Đó là ngày thứ sáu, 5 tháng 8 năm 1966.

mao045_resized.jpg
Khủng bố: Cô giáo Biện Trọng Vân (với chồng và ba trong số bốn người con của bà) s là người chết đầu tiên trong số các nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa. Bà làm việc tại một trường trung học nổi tiếng ở Bắc Kinh và bị chính các nữ sinh của mình hành hạ cho tới chết. Những người đấy đã đánh đập và xỉ nhục bà nhiều tuần liền vì cho rằng bà phản bội lý tưởng Cộng sản. Ảnh: GEO Epoche

Người đàn bà 50 tuổi đó sống với chồng và bốn đứa con trong một căn hộ trên đường Fu Wai, số 6, cách nơi làm việc của bà khoảng hai kilômét, trường nữ trung học ở đường Erlong. Đó là một trong những trường trung học lâu đời nhất của Bắc Kinh, một thể chế cho giới tinh hoa mà nhiều con cái của những người có quyền lực đến đấy học. Cả những đứa con gái của Mao cũng học ở đó. Khuôn viên rộng lớn bao gồm văn phòng, lớp học, phòng ngủ cũng như một sân vận động và nằm cách khu vườn Trung Nam Hải của các hoàng đế ngày xưa, nơi Mao ngụ ở sau những bức tường đỏ, vào khoảng một kilômét về phía Tây.
Bian dạy học ở trường này từ 17 năm nay, bà là đảng viên Đảng Cộng sản và cũng là hiệu phó. Nhưng bây giờ thì chính những người học trò của bà đã tuyên bố chiến tranh với bà.
Trường đã ngưng dạy hơn 50 ngày nay rồi. Tường của các ngôi nhà đầy bích báo – những dãy giấy, có những chữ to được viết ở trên đấy. “Trâu quỷ rắn ma hãy cút đi!”, các nữ sinh đã viết như thế. “Giải phóng toàn thể nhân loại là nhiệm vụ không thể chối bỏ của chúng ta!”
Ngày này qua ngày khác, có những bài hát vang ra điếc tai từ loa phóng thanh: “Đông phương hồng. Mặt trời lên.” Các nữ sinh đồng thanh hét to và nắm tay lại thành nắm đấm. Nhiều người trong số họ mặc quần và áo khoác màu xanh, dây thắt lưng nâu với khóa sắt và giày ủng da giống như những người lính. Thêm vào đó là dãy băng đỏ trên cánh tay trái.
Nhóm nữ sinh này tự gọi mình là “Hồng Vệ Binh”; có những người còn chưa quá 14 tuổi. Một trong số những người dẫn đầu họ là Song Binbin, một cô con gái cao gầy với chiếc kính đeo mắt to, con gái của một cán bộ Đảng cao cấp.
Trước đây vài tuần, các cô gái đã xông vào trong căn hộ của Bian, đã dán áp phích lên tường và cửa. “Đồ ma cáo! Đồ Quỷ nữ kinh khiếp! Đừng tưởng mày an toàn!”, họ đã viết như thế bằng mực Tàu trên báo cũ.
Những người xông vào nhà đã khám xét mọi thứ: ghi chép, sách, thư từ. Ngay đến sàn nhà cũng bị họ giật lên. Họ không tìm thấy một manh mối nào cho việc Bian là một kẻ phản bội.
Mặc dù vậy, trong một cuộc họp, họ đã hạ nhục người cô giáo, đá bà ấy và nhét đất vào miệng của bà ấy và sau đó đã phỉ báng bà ấy trong các báo tường: “Mày đã run rẩy như một cái lá, miệng đầy đất sét vàng, đánh khinh như một con heo chết đuối.”
Từ đấy, họ khủng bố Biện Trọng Vân hầu như hàng ngày. Chế diễu, nhổ nước miếng, đánh đập bà ấy. Và những cuộc tấn công của họ mỗi lần một dữ dội hơn.
Hôm qua, vào chiều ngày 4 tháng 8, một đám con gái đã xông vào phòng hiệu trưởng. Họ đã đánh Brian bằng gậy và bằng thắt lưng da, chửi rủa bà là “yêu tinh”.
Bây giờ, bà ấy đến cạnh giường của chồng bà và đưa tay cho ông ấy. Bà im lặng. Hai người là vợ chồng từ hơn 20 năm nay, bà chưa từng bao giờ từ giã như thế trước đây. Rồi Bian rời căn hộ và đi đến trường trên đường Erlong. Đến với những người hành hạ bà.
Vào buổi chiều, các nữ sinh sẽ lại hành hạ bà – và khiến cho bà trở thành nạn nhân đầu tiên đã chết của một chiến dịch sẽ làm cho Trung Quốc tê liệt mười năm trời. “Cuộc Cách mạng Văn hóa vô sản vĩ đại”. Cái trông giống như một vụ nổi điên thì thật sự là đã đi theo tính toán sát nhân của một người đàn ông duy nhất: hàng triệu thanh thiếu niên nổi loạn, đánh đập và giết người, vì Mao Trạch Đông già nua đã khuyến khích họ làm điều đó.
Để trả thù. Để lập trật tự trong đảng của ông ấy. Và để thúc đẩy cuộc cách mạng.
mao046_resized.jpg
Nhiều Hồng Vệ Binh, như ở đây trong cuộc diễu hàng nhân ngày Quốc Khánh 1966, vẫn còn là trẻ con. Ảnh: GEO Epoche.

VÀO ĐẦU NHỮNG NĂM 1960, ảnh hưởng của Mao đến 17 triệu đảng viên Trung Quốc suy yếu dần. Tuy ông ấy vẫn còn là người đứng đầu cỗ máy quyền lực to lớn nhất thế giới, nhưng uy thế, cái mà ông ấy đã có được qua tranh đấu như là nhà lãnh tụ cách mạng và người thành lập nhà nước, không còn bảo vệ ông trước sự bất mãn của các cán bộ được nữa. Ngay đến những người đồng hành thủa xưa từ những ngày của cuộc Vạn Lý Trường Chinh cũng quay mặt đi, như người đã được chỉ định làm người kế thừa ông, chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, hay Đặng Tiểu Bình, tổng bí thư Đảng, hai trong số những người Cộng sản có nhiều quyền lực nhất của Trung Quốc.
Họ yêu cầu chấm dứt những cuộc thử nghiệm gây tai họa, những cái mà người đứng đầu ĐCS luôn bắt buộc đất nước của ông ấy tiến hành.
Chậm nhất là từ mùa Hè 1961, Lưu đã cho rằng cuộc Đại Nhảy Vọt, thử nghiệm của Mao, tăng tốc dẫn dắt Trung Quốc đến Chủ nghĩa Cộng sản, đã thất bại. Trong diễn tiến của chiến dịch này đã có hơn 30 triệu người chết đói, bị đánh chết hay chết do làm việc quá sức, vì Mao đã cải tạo nền nông nghiệp một cách tàn nhẫn, để nuôi dưỡng được con số ngày càng tăng của công nhân công nghiệp. Và vì người nông dân không còn được phép tạo dự trữ để đề phòng cho những lúc đói kém nữa.
Xã hội dao động, kinh tế tê liệt. Tính đáng tin cậy của Mao bị lay động. Bây giờ Lưu và Đặng chờ đợi một sự chừng mực ở ông ấy; đầu tiên là phải thực hiện một trật tự nhà nước Xã hội Chủ nghĩa ổn định, rồi người ta mới có thể xây dựng Chủ nghĩa Cộng sản ở trên đó. Nhưng trước hết là phải chấm dứt nạn đói.
Trong mùa Xuân năm 1962, Lưu dám làm một việc kinh thiên động địa: ông ấy phê bình chính sách của Mao: “Không có Đại Nhảy Vọt tới phía trước”, ông ấy nói trước 7000 cán bộ Đảng, “chúng ta đã rơi lại xa ở phía sau.” Sau chủ tịch nước, cả những đại biểu khác cũng đòi hỏi một thay đổi về chính trị kinh tế.
Mao nhìn đấy như là một sự phản bội tổ quốc. Rằng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn còn chưa phải là thiên đàng Cộng sản Chủ nghĩa, điều đấy không phải là vì ông mà là vì những sai lầm của cán bộ. Những người đấy chỉ tiến hành các chiến dịch một cách ngần ngừ và cẩu thả.
Thế nhưng thế lực của ông ấy đã suy yếu sau thảm họa của cuộc Đại Nhảy Vọt. Vì thế mà ông ấy nhận trách nhiệm cho thảm họa đói ăn trước 7000 cán bộ. Đó là thất bại nặng nề nhất của ông ấy kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Bây giờ ông ấy phải để cho những người chống ông ấy làm việc, mặc dù ông ấy phản đối đường lối của họ.
Và ông nhận ra trong người đồng chí ngày xưa đã cùng chiến đấu với mình, Lưu, đối thủ nguy hiểm nhất của ông ấy. Vì Lưu và những người theo ông ấy đã đảo ngược chính sách của Mao: họ cải tổ lại ngân sách, vì thế mà phải sa thải hàng triệu công nhân thiếu việc làm ra khỏi các nhà máy quốc doanh – dẫn đến việc thành hình một tầng lớp vô sản nghèo khổ mới, gồm giới tội phạm nhỏ và bán dâm.
Thêm vào đó, cán bộ của Lưu làm tăng sản lượng thu hoạch bằng cách cho những người nông dân đang bị gộp lại trong các hợp tác xã được phép mướn và tự gieo trồng trên những đồng ruộng nhỏ. Họ giảm chi phí vũ trang và thay vào đó hỗ trợ cho công nghiệp hàng tiêu dùng. Và họ giảm thời gian làm việc, để con người lại có thời gian thư giản và cho gia đình.
Đất nước hồi phục lại từ những thiếu thốn càng nhiều thì các đồng chí dường như lại càng ít cần đến người “Chủ tịch vĩ đại” của họ chừng đấy. Ảnh hưởng của các nhà cải cách quanh Lưu, Đặng cũng như Bành Chân, thị trưởng của Bắc Kinh, liên tục tăng lên.
Bây giờ Mao phải tính đến việc bị tước quyền lực dần dần. Ông chỉ nhìn thấy “cánh hữu” ở khắp nơi, những người – như Lưu – phản bội lý tưởng cách mạng.
Vì thế mà hai người có nhiều quyền lực nhất của Trung Quốc đứng đối diện với nhau: sếp ĐCS Mao và chủ tịch nước Lưu. Tả chống hữu. Cuộc đấu tranh vì đảng, cái cuối cùng trở thành cuộc Cách mạng Văn hóa, được khai mào. Và Mao tập hợp những người theo ông ấy lại.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Nguồn: Chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Phan Ba dịch

Đọc những bài trước ở trang Trung Quốc của Mao Trạch Đông
Admin gửi hôm Thứ Tư, 10/10/2012 

nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20121010/walter-saller-cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-phan-1
======================================================================
Walter Saller - Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 2)


Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
Trong lúc Lưu còn cải cách đất nước, Mao đã nắm chắc được sự ủng hộ của những người Cộng sản quá khích. Thuộc trong số đó cũng là người vợ thứ tư của ông ấy, Giang Thanh, nguyên là một nữ diễn viên. Trước khi Mao đâm yêu bà năm 1937, bà ấy tự gọi mình là Lam Tần và là một đề tài được ưa thích của giới báo chí lá cải. Từ năm 1963, bà làm việc trong Bộ Văn hóa, nơi bà ấy kiểm duyệt phim và kịch. Mặc dù cá nhân bà ấy vẫn thưởng thức phim truyện nước ngoài đã bị cấm.
 Tranh giành quyền lực: Sau thảm họa của "Đại Nhảy Vọt", Mao bị cô lập trong giới lãnh đạo ĐCS, ông ấy mất ảnh hưởng. Cũng vì vậy mà ông ấy huy động đội Hồng Vệ Binh – đội ngũ ngoài những việc làm khác cũng tấn công các đối thủ của ông ấy ở trong Đảng. Ảnh: GEO Epoche
Tranh giành quyền lực: Sau thảm họa của “Đại Nhảy Vọt”, Mao bị cô lập trong giới lãnh đạo ĐCS, ông ấy mất ảnh hưởng. Cũng vì vậy mà ông ấy huy động đội Hồng Vệ Binh – đội ngũ ngoài những việc làm khác cũng tấn công các đối thủ của ông ấy ở trong Đảng. Ảnh: GEO Epoche

Chồng của bà coi thường khả năng chính trị của Giang, nhưng ông ấy đánh giá cao tính vô lương tâm và cứng rắn của vợ mình: “Bà ấy nguy hiểm chết người và độc hại như một con bọ cạp”, ông ấy phán xét. Đối với ông, đấy là một công cụ toàn hảo để đe dọa các đối thủ của mình. Sau này, Giang sẽ bảo vệ mình: “Tôi là con chó của Mao Chủ tịch. Ông ấy ra lệnh thì tôi cắn.”
Nhưng người trung thành nhất với ông là Lâm Bưu: nguyên soái của nước Cộng hòa Nhân dân, người đánh chiếm Bắc Kinh và là Bộ trưởng Quốc phòng cũng là người chỉ huy “Quân Giải phóng Nhân dân” có lực lượng ba triệu lính – bên cạnh Đảng và bộ máy nhà nước là cột trụ quan trọng thứ ba của quyền lực trong nước.
Người sĩ quan gầy gò đó – sau sự xa cách vào lúc ban đầu thời Vạn lý Trường chinh – từ gần bốn thập niên nay là một đồng minh của Mao: không một ai khác quanh Mao hưởng được một sự tự chủ như thế. Đổi lại, ông ấy đứng cạnh Mao bất cứ lúc nào mà người này cần sự giúp đỡ. Tham vọng của Lâm không có ranh giới. Ông ấy muốn vươn lên trở thành người đàn ông thứ hai của Trung Quốc – và trở thành người kế vị Mao.
Nhờ người lãnh đạo Đảng mà ông ấy mới có chức vụ bộ trưởng của mình. Lâm trả ơn, bằng cách gắn kết những người lính của mình vào viên chủ tịch. Quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”, một quyển sách nhỏ có bìa đỏ với những câu trích dẫn của người sếp ĐCS, là sáng kiến của ông ấy. Bắt đầu từ năm 1964, Lưu cho người phân phát nó cho các sĩ quan và người lính. Đã từ lâu, không chỉ khả năng quân sự của một người nào đó quyết định rằng người này là một người lính tốt, mà cả lòng trung thành của người đó với Mao nữa.
Nhưng mặc dù biết rằng các nòng súng đứng sau lưng mình, ông ấy vẫn không muốn tước quyền lực các đối thủ của ông ấy quanh Lưu Thiếu Kỳ bằng một cuộc đảo chính quân sự. Mà là qua một cuộc cách mạng.
Không phải quân nhân mà chính các nhà cách mạng là những người xua đuổi vô số kẻ giúp đỡ Lưu ra khỏi các chức vụ – những kẻ quan liêu đấy, những người điều hành các phương tiện sản xuất trong các nhà máy và cơ quan như “nhà tư bản”, hưởng đặc quyền và cản trở công cuộc xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.
 Chiến dịch: Hồng Vệ Binh công bố khẩu hiệu của mình trên những tờ báo tường viết tay. Trong đó, họ yêu cầu lật đổ "Băng nhóm Đen", họ gọi đối thủ của Mao là vậy. Ảnh. GEO Epoche
Chiến dịch: Hồng Vệ Binh công bố khẩu hiệu của mình trên những tờ báo tường viết tay. Trong đó, họ yêu cầu lật đổ “Băng nhóm Đen”, họ gọi đối thủ của Mao là vậy. Ảnh. GEO Epoche

Cú đánh đầu tiên của ông ấy là để chống lại văn hóa: “Tất cả các hình thức nghệ thuật – ca kịch, nhà hát, nghệ thuật nhân dân, hội họa và văn học”, người đồng chí cao cấp nhất trong Đảng tuyên bố vào cuối năm 1963, đều là “phong kiến hay tư bản”, ngay cả phần lớn các tác phẩm thành hình dưới chế độ của ông. Cần phải có một nền văn hóa mới, ông ấy yêu cầu, “làm sạch” Trung Quốc – khỏi các cán bộ đã xa rời nhân dân.
Trong khi đấy thì Mao rất thích ca kịch Trung Quốc, sở hữu trên 2000 băng thu thanh, nghiên cứu lịch sử của các hoàng đế Trung Quốc và làm thơ. Tuy vậy, ông vẫn nguyền rủa văn hóa “tiểu tư sản” mà không cần phải cố gắng tí nào.
Ông cũng phê bình các phương pháp giảng dạy thường gây nhàm chán trong trường học và đại học – ông muốn tranh thủ giới thanh thiếu niên cho cuộc cách mạng của ông ấy. Vì họ “ít bảo thủ nhất trong suy nghĩ”.
Cho đến nay, ông chống lại đối thủ của ông trước hết là qua những chiến dịch, được tổ chức và thực hiện bởi bộ máy của Đảng. Nhưng bây giờ chính ĐCS lại là kẻ thù – tổ chức thống trị nhà nước và trên thực tế là tất cả những cái khác trong cuộc sống của người Trung Quốc: các ủy ban nhà nước do họ kiểm soát quy định người ta phải làm việc ở đâu và sống trong thành phố nào; họ phân chia cho mỗi người nơi ở và cái ăn; và họ đánh giá, liệu người ta có phải là một đồng chí tốt hay không hay là một trường hợp để cải tạo.
Giới lãnh đạo Đảng tuy chấp thuận cho ông Chủ tịch vĩ đại cuộc Cách mạng Văn hóa của ông ấy – thế nhưng họ không giao cho một người theo Mao lãnh đạo chiến dịch này mà lại giao cho Bành, thị trưởng của Bắc Kinh.
Qua đó mà người Chủ tịch nhận được tòa án của ông ấy. Nhưng vai trò quan tòa của tòa án dị án thì Đảng lại để cho một trong những người theo dị giáo cao cấp nhất đóng: một điều lăng nhục.
 Tôn sùng cá nhân: Với một lần diễu hành bơi lội ở gần Bắc Kinh, những người Cộng sản chào mửng người Chủ tịch Vĩ đại của họ - và đồng thời qua đó cố nhắc đến sức lực hoạt động của con người trên 70 tuổi này. Ảnh: GEO Epoche
Tôn sùng cá nhân: Với một lần diễu hành bơi lội ở gần Bắc Kinh, những người Cộng sản chào mửng người Chủ tịch Vĩ đại của họ – và đồng thời qua đó cố nhắc đến sức lực hoạt động của con người trên 70 tuổi này. Ảnh: GEO Epoche

Trong tháng 10 năm 1964, Nikita Khrushchev, người lãnh đạo ĐCS Xô viết, bị chính các đồng chí của mình lật đổ. Kể từ lúc đấy, Mao càng đa nghi hơn, nhìn thấy người âm mưu, tên phản bội và kẻ thù ở khắp mọi nơi.
Và đối thủ của ông ấy cũng tạo cho ông ấy nhiều cơ hội để mà nghi ngờ.
Vào ngày 3 tháng 1 năm 1965, Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ được xác nhận trong chức vụ của ông ấy. Lúc bổ nhiệm ông ấy năm 1959, người dân hầu như không hề chào mừng ông ấy, nhưng bây giờ, vì ông ấy đã giải thoát Trung Quốc khỏi nạn đói, ông ấy được tôn sùng qua những cuộc duyệt binh lớn. Và hình ảnh của ông ấy được mang đi trên đường phố bên cạnh hình ảnh của Mao. Trong báo chí, bây giờ ông ấy cũng ngang hàng: “Chủ tịch Mao và Chủ tịch nước Lưu là các lãnh tụ mến yêu của chúng ta”, các báo viết.
Một lãnh tụ thứ nhì, trên cùng bậc với chính mình: đối với Mao, đấy là một cuộc tổng tấn công vào vị thế có một không hai của ông ấy.
“Mày nghĩ mày là ai chứ?”, có lần ông ấy đã rít lên như thế với Lưu. “Tao chỉ cần búng ngón tay là sẽ chẳng còn có mày nữa đâu!”
Nhưng Mao đã lầm. Trong mùa Thu năm 1965, ông ấy hầu như bị cô lập trong giới lãnh đạo của ĐCS. Điều này thể hiện ở việc khi ông yêu cầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong đó có đại diện của Đảng, quân đội và các thể chế nhà nước, phải hành động chống Ngô Hàm, phó trị trưởng Bắc Kinh: vì vở kịch được cho là phản động “Hải Thụy bãi quan” mà sử gia đó – một người theo Lưu Thiếu Kỳ – đã viết lời. Ủy ban từ chối lời đề nghị đó. Mao không còn có đa số trong nhóm đứng đầu ĐCS nữa.
Sau đấy, ông ấy dùng đoàn tàu đặc biệt của mình đi về Thượng Hải, một thành trì của “phe tả”. Trong những tháng sau đó, ông ấy ở trong cơ ngơi của mình ở miền Nam Trung Quốc trong Hàng Châu, thăm thành phố Thiều Sơn là quê hương của ông ấy, đi dạo trên núi, tổ chức tiệc khiêu vũ.
Ở nước ngoài, có những nhà quan sát nào đó phỏng đoán rằng người chủ tịch đang bệnh nặng, bị tước quyền lực – hay đã chết nữa. Thế nhưng con người thất lạc đó đang chuẩn bị cuộc phản công của mình từ xa.
Vào ngày 10 tháng 11 năm 1965, một tờ báo ở Thượng Hải đăng một bài phê bình gay gắt vở kịch “Hải Thụy bãi quan”. Chính Mao đã viết nó cùng với vợ của ông ấy và hai người thân cận nữa. Lời kết tội: vở bi kịch mà trong đó một ông quan bị cho thôi chức vì đã phê bình người chủ của mình, là một ám chỉ đến người Chủ tịch, đặt ông ấy cùng hàng với kẻ chuyên chế (năm 1959, Mao đã sa thải Bộ trưởng Bộ Quốc phòng vì người này đã phê bình ông trong một bức thư; từ đấy Lâm Bưu chiếm chức vụ này). Bài viết báo hiệu: cuộc tranh giành quyền lực vẫn còn được tiếp tục.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
Nguồn: Chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản


nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20121010/walter-saller-cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-phan-2
======================================================================
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 3)


Cổ vũ: tháng 8 năm 1966, Mao tiếp đón cô nữ sinh Song Binbin, nhóm của người này đã giết chết cô giáo Biện Trọng Vân. Ảnh: GEO Epoche
Cổ vũ: tháng 8 năm 1966, Mao tiếp đón cô nữ sinh Tống Bân Bân, nhóm của người này đã giết chết cô giáo Biện Trọng Vân. Ảnh: GEO Epoche
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
MỘT THÁNG SAU ĐÓ, Mao tiếp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lâm trong ngôi biệt thự hoàng đế của ông ấy ở Hàng Châu, tròn 200 kilômét về phía Nam của Thượng Hải. Ở đây, ông ấy hứa với người chỉ huy quân đội, rằng sẽ nâng ông ấy lên thành con số hai mới trong Đảng sau khi lật đổ Lưu theo kế hoạch và đập tan những “kẻ hữu khuynh”.
Lâm Bưu trẻ hơn Mao 14 tuổi, tức là cũng có thể có hy vọng, rằng một ngày nào đó sẽ thăng tiến lên đến tột đỉnh. Mối liên kết của hai người giờ đây càng chặt chẽ hơn bao giờ hết.
Mao cố nắm chắc sự giúp đỡ của những người trung thành khác. Rất có thể là ông ấy cũng đã tiếp xúc với Đặng Tiểu Bình trong thời gian này. Vì ông đánh giá cao sự hiểu biết và tài tổ chức của người này. Lúc trước, Đặng đã hỗ trợ cho viên Chủ tịch trong tất cả các chiến dịch chống lại kẻ thù của ông ấy. Thế nhưng sau cuộc Đại Nhảy Vọt, ông ấy không muốn tiến hàng những cuộc thí nghiệm chính trị nữa.
Trong mùa Xuân năm 1966, Giang Thanh vợ Mao yêu cầu trong tuyên ngôn “Giết chết văn hóa” do chính Mao biên tập một cuộc “Đại Cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở mặt trận văn hóa để tiệt trừ những lực lượng đen tối độc tài có khuynh hướng chống Đảng và chống Chủ nghĩa Xã hội”.
Thế nhưng Mao vẫn còn chưa tấn công trực tiếp Chủ tịch nước Lưu. Ông chỉ yêu cầu sa thải một “Nhóm chống Đảng” bốn người, được cho là phá hoại cuộc Cách mạng Văn hóa. Người nổi tiếng nhất trong bốn người đấy là là Bành, thị trưởng Bắc Kinh.
Trong khi đó, Lâm Bưu chuẩn bị điều động quân đội về Bắc Kinh – được cho là để đàn áp một cuộc “đảo chính phản cách mạng” sắp xảy ra.
Dưới tình hình đó, Bộ Chính trị đã họp vào ngày 16 tháng 5 mà trong đó cần phải biểu quyết về danh sách của Mao. Viên Chủ tịch vẫn tiếp tục ở miền Nam Trung Quốc – có lẽ vì ông đã chắc chắn rằng mình sẽ chiến thắng.
Lưu Thiếu Kỳ khai mạc cuộc họp của ủy ban cao nhất trong ĐCS: “Chúng ta nhận được chỉ thị phải thảo luận về văn kiện này, nhưng chúng ta không được phép thay đổi nó”, ông ấy nói. “Điều này không phải là độc tài hay sao?”
Rồi ông hỏi Bành rằng người này có phản đối lời yêu cầu của Mao hay không. Ông ấy phủ nhận. Và rồi ông ấy giơ tay lên như tất cả các thành viên khác của Bộ Chính trị khi biểu quyết về sự sa thải của chính mình.
Thêm vào đó, các cán bộ đứng đầu đang hội họp này ủng hộ cuộc Cách mạng Văn hóa của Mao. Tại sao họ lại biểu quyết như thế, hai ngày sau đó mới rõ, khi Lâm Bưu tiếp tục đe dọa Bộ Chính trị theo yêu cầu của Mao: “Bất cứ ai chống lại Mao”, ông ấy tuyên bố, “sẽ bị Đảng và nhân dân trừng phạt.”
Qua đó Mao đã tạo nên một Bộ Chính trị tuân theo ý muốn của mình. Nhưng các nghị quyết của Bộ Chính trị – cả việc tước quyền lực của Bành Chân – tạm thời vẫn được giữ kín. Mao muốn tiếp tục im lặng, cho tới khi chuẩn bị xong cho cuộc “thanh trừng” lớn.
Một “Nhóm Trung ương của Cách mạng Văn hóa” dưới sự lãnh đạo của vợ Mao bây giờ thay thế cho các nhóm làm việc của Bành đã bị tước quyền lực. Thêm vào đó, Giang Thanh kiểm soát một tòa án có nhiệm vụ tổ chức những vụ bắt giam các đối thủ của Mao.
Và ngay sau cuộc họp của Bộ Chính trị, một chiến dịch báo chí chống lại các “cán bộ xét lại” và “trí thức tiểu tư sản” bắt đầu.
NHƯNG CÁI TRỰC TIẾP phát động cuộc nổi dậy của giới trẻ là một tờ báo tường trong một nhà ăn đại học ở Bắc Kinh, cái cỗ vũ cho “tinh thần cách mạng” và kêu gọi người đọc “phản kích lại băng nhóm đen” quanh Bành.
Mao, người trong dinh thự của mình được thông tin về tất cả các sự kiện quan trọng trong thủ đô, để cho đọc bài viết đó trên đài phát thanh vào ngày 1 tháng 6. Cùng ngày, một bài xã luận do ông yêu cầu được đăng trên tờ “Nhân dân Nhật báo” dưới tít “Quét sạch bọn trâu quỷ rắn ma”: mặc dù trật tự cũ đã bị lật đổ, tác giả ta thán, các “học giả” vẫn cố gắng tranh thủ giới trẻ cho một chính sách hướng về phía sau.
Kêu gọi lật đổ: Khẩu hiệu của sinh viên ngày càng quá khích hơn. Câu khẩu hiệu ở trên tường bên trái trong tháng 9 năm 1967 yêu cầu lật đổ chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Ảnh: GEO Epoche
Kêu gọi lật đổ: Khẩu hiệu của sinh viên ngày càng quá khích hơn. Câu khẩu hiệu ở trên tường bên trái trong tháng 9 năm 1967 yêu cầu lật đổ chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ. Ảnh: GEO Epoche

Người sếp của Đảng muốn động viên hàng triệu học sinh và sinh viên, bằng cách nâng xung đột thế hệ lên thành “mâu thuẫn giai cấp”: giới trẻ cách mạng ở một bên, người trưởng thành thường bảo thủ ở bên kia.
Lời kêu gọi của “Nhân dân Nhật báo” hướng đến thế hệ đầu tiên được sinh ra trong nước Cộng hòa Nhân dân và được giáo dục hầu như hoàn toàn theo các lý tưởng của Mao: một thế hệ sống tốt hơn nhiều cho với cha mẹ của họ – và là một thế hệ mà mặc dầu vậy vẫn hết sức không tự tin. Vì so với các thành tích của thế hệ đi trước thì giới trẻ chỉ có thể thua kém. Thường họ phải nghe những câu chuyện anh hùng của giới cựu chiến binh trong những cuộc trao đổi do nhà nước tổ chức và phải chịu đựng khi những người già mắng nhiếc họ là “cây nhà kính” hèn nhát.
Nhưng họ có thể chứng tỏ lòng tin Cộng sản của họ như thế nào? Thường thì họ chỉ còn những hành động trẻ con như là sự lựa chọn: như trong ký túc xá, các học sinh tranh đua nhau xem ai là người dậy đầu tiên để lau hành lang hay lén giặt quần áo của bạn đồng học. Nhiều thanh thiếu niên viết nhật ký mà trong đó họ tưởng tượng ra hàng nhiều trang về tình yêu cách mạng của họ và để chúng nằm công khai trong phòng của họ hay trong phòng ngủ.
Trong lúc đó, việc đấy đối với họ không phải chỉ là để xứng đáng với các lý tưởng cách mạng, mà là cũng để cho tương lai sự nghiệp của họ. Vì áp lực thành tích chưa từng bao giờ đè nặng như thế. Các cơ hội thăng tiến biến mất dần, vì trường trung học đào tạo ra nhiều học sinh hơn là chỗ học đại học. Có những vùng mà cứ ba học sinh tốt nghiệp phổ thông thì mới có một người đi học đại học.
Liệu một người có được phép đi học đại học hay không, điều đấy không phải phụ thuộc trước hết vào điểm của người đó; cũng quan trọng như thế là gia thế của người đó và hoạt động chính trị của người đó. “Ai ở gần sân thượng cao thì nhìn mặt trăng trước”, đó là một câu châm ngôn, và do vậy mà con cái của đảng viên và những nhà cách mạng lão thành có được những cơ hội tốt nhất; học sinh từ những gia đình “đen”, cha mẹ của họ thuộc giai cấp tiểu tư sản trước khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân, thì ngược lại chỉ có thể tự thể hiện mình qua thành tích xuất sắc và một cuộc sống gương mẫu. Trong các trường học của đất nước có một cuộc cạnh tranh không khoan nhượng.
Không có thời gian cho các vui thú của tuổi mới lớn: thiếu niên không được phép hẹn hò, cai trị ở nhà là cha mẹ, và đi du lịch là việc không thể trả tiển được. Họ được thầy cô của họ huấn luyện theo yêu cầu của Đảng – không hề đếm xỉa đến ý kiến lẫn ước muốn của họ. Cho tới nay, giới trẻ còn không được phép độc lập tham gia chính trị nữa.
Nhưng bây giờ thì vị Chủ tịch Vĩ đại cần đến sự giúp đỡ của họ, sự hỗ trợ của giới trẻ. Trong quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”, ông ấy khen ngợi và ca tụng họ, gọi họ là “lực lượng tích cực nhất, sống động nhất của xã hội” và hứa hẹn với họ: “Thế giới là của các cháu.”
Cuối cùng thì họ có thể bỏ lại những thứ bị bắt buộc, gây chán nản, lại ở phía sau, phá vỡ mọi quy định và chứng minh rằng cả họ cũng là những nhà cách mạng nữa.
Mao, một bậc thầy trong mỵ dân, rất thành thạo trong nghệ thuật biến đổi những động cơ thông tục như sự thèm khát quyền lực của mình và ước muốn báo thù các địch thủ của mình trở thành một mong muốn thiêng liêng. Ông ấy biết người ta khơi lên sự hào hứng hoang dại như thế nào.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
nguồn:https://phanba.wordpress.com/2012/10/14/cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-phan-3/
======================================================================
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 4)


Đối thủ: Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ bị tước quyền lực; cái giá phải trả cho lời phê bình Mao là mạng sống của ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Đối thủ: Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ bị tước quyền lực; cái giá phải trả cho lời phê bình Mao là mạng sống của ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Thông điệp thành công. Vào ngày 2 tháng 6, thanh thiếu niên tại một trường trung học Bắc Kinh cũng treo một tờ báo tường lên. Nó được ký tên bởi “Hồng Vệ Binh”. Các học sinh đe dọa đối thủ của Mao quá khích hơn các sinh viên rất nhiều. “Chúng tôi sẽ dẫm đạp lên các người!”, có thể đọc được ở đó. “Chúng tôi sẽ tàn nhẫn!” Và: “Hãy vứt bỏ các cảm xúc con người!”
Chẳng bao lâu sau, Hồng Vệ Binh được thành lập ở hầu hết các thành phố lớn. Có những người nào đó mặc quân phục cũ của cha mẹ họ, những người khác nhận được quân phục chiến đấu và giày ủng từ kho quân đội. Bắt đầu là ở Bắc Kinh và rồi trên toàn nước, sinh viên và học sinh nổi dậy. Với số đông. Nhiều người bỏ học để thảo luận về cách mạng. Và họ viết báo tường.
Mao mừng rỡ: “Anh sẽ tạo ra sự lộn xộn lớn nhất dưới trời này”, ông ấy viết cho vợ, “để tạo ra trật tự lớn nhất.”
Trong lúc đó, Bộ Chính trị cố gắng hướng cuộc phản đối vào trong khuôn khổ trật tự. Lưu Thiếu Kỳ cho người thành lập những nhóm làm việc – cũng như tại các chiến dịch khác – có nhiệm vụ dẫn dắt phong trào. Thêm vào đó, họ cần phải ngăn chận việc bỏ học và bạo lực.
Thế nhưng các nhóm này chỉ có ít ảnh hưởng đến giới học sinh. Các vệ binh thường xuyên khiêu khích các cán bộ: “Nổi loạn là chính đáng”, họ trích dẫn Mao trên các tờ báo tường của họ – và qua đó đã tìm được một lời biện bạch cho các hành động bạo lực.
Bầu không khí mang tính thù địch. Chẳng bao lâu sau, các thầy giáo đầu tiên đã bị phỉ nhổ. Và bị đánh.
Thân tín: Giang Thanh vợ của Mao là một động lực chính trong cuộc truy lùng những người được cho là phản cách mạng. Ảnh: GEO Epoche
Thân tín: Giang Thanh vợ của Mao là một động lực chính trong cuộc truy lùng những người được cho là phản cách mạng. Ảnh: GEO Epoche
Nhưng không phải tất cả các học sinh đều dùng bạo lực – cũng là vì họ sợ trở thành nạn nhân của những thầy giáo muốn trả thù sau cuộc nổi loạn. Nhưng Mao cũng lôi kéo cả họ về phía của ông ấy: vào ngày 13 tháng 6, ông ấy cho ra quy định, rằng bắt đầu từ bây giờ, trong lúc phân bổ chỗ học đại học cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến “tính vô sản” của những người xin học. Nói cách khác đi: ai muốn học đại học phải tham gia vào cuộc Cách mạng Văn hóa.
Đồng thời, ông ấy cho ngưng dạy học trong trướng. “Giới trẻ nhận được thức ăn”, ông ấy nói. “Với thức ăn, họ có năng lượng, và họ muốn nổi loạn. Họ còn phải làm gì nữa ngoài việc làm náo loạn?”
Bạo lực tăng lên. Vào ngày 18 tháng 6, Hồng Vệ Binh làm nhục 60 giáo sư và cán bộ ở Bắc Kinh. Các “bạo chúa học giả” bị bêu trên các bục gỗ với chiếc “mũ ô nhục” – những chiếc mũ bằng giấy có hình nón có viết những lời mắng nhiếc và lên án. Mãi đến khi một nhóm làm việc can thiệp, “cuộc họp phê bình đấu tranh” mới chấm dứt. Nhưng thường thì các cán bộ của Lưu không thể ngăn chận được những cuộc tấn công. Ở Bắc Kinh, các cán bộ chỉ kiểm soát được có chín trong số 54 trường đại học – ngoài ra, ở khắp nơi họ đều bị đuổi đi.
Sự căm ghét của học sinh và sinh viên hướng đến trước hết là tới những nhà sư phạm với “lý lịch giai cấp xấu”: như chống lại con cái của các địa chủ trước đây – như Biện Trọng Vân.
“Tôi bị tra tấn, bị đánh, bị đá bốn, năm giờ đồng hồ liền”, bà ấy viết cho giới lãnh tụ Đảng. Những người khác khiếu nại ở cảnh sát. Nhưng cả Đảng lẫn cơ quan nhà nước đều không bảo vệ thầy cô. Vì Bộ trưởng Bộ An ninh Công cộng, một người thân cận của Mao, đã ra lệnh cho cảnh sát làm ngơ trước những hành động bạo lực của Hồng Vệ Binh. Vì thế mà cho tới ngày 25 tháng 6, chỉ riêng trong các trường học của Bắc Kinh đã có gần 1000 thầy cô bị đánh đập hay lâm vào trong cảnh ấu đả với học sinh.
Đồng hành: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lâm Bưu tham gia hỗ trợ cuộc cách mạng của Mao – và hy vọng sẽ kế tục ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Đồng hành: Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lâm Bưu tham gia hỗ trợ cuộc cách mạng của Mao – và hy vọng sẽ kế tục ông ấy. Ảnh: GEO Epoche
Mao, người vẫn còn ở miền Nam của Trung Quốc, được tường thuật tỉ mỉ về chiến dịch. Trong một bài thơ, ông ấy ca ngợi cuộc Cách mạng Văn hóa như là “làn sóng chấn động của bão táp và sấm sét, khiến thế giới ngạc nhiên”. Thời khắc tái sinh của ông ấy đã đến rồi,
Mặt trời đã đứng cao trên thành phố Vũ Hán khi Mao bước lên khỏi làn nước màu nâu của Trường Giang vào ngày 16 tháng 7 năm 1966. Sau này, báo chí Trung Quốc sẽ khẳng định rằng người Chủ tịch Vĩ đại đã bơi 15 kilômét trong vòng hơn một giờ đồng hồ. Sau đó, trong một chiếc áo choàng tắm màu trắng, con người 72 tuổi đấy vẫy tay chào những người đang đứng xem. Hàng ngàn người đã đến để nhìn ông ấy. “Lãnh tụ Mao kính yêu của chúng ta rất khỏe mạnh, khiến nhân dân Trung Quốc đầy vui mừng”, tờ “Nhân dân Nhật báo” ca ngợi.
Lần tắm trong Trường Giang là một thông điệp gửi đến các đối thủ của Mao: người Chủ tịch Vĩ đại mạnh khỏe và nhất quyết đấu tranh.
Hai ngày sau đó, ông ấy trở về Bắc Kinh. Còn trong đêm, ông ấy đã gặp những người thân cận, chỉ Lưu Thiếu Kỳ là ông từ chối không cho diện kiến.
Ngay sau đó, Mao giải tán các nhóm làm việc – vì họ muốn dập tắt ngọn lửa nổi dậy. Bây giờ thì không còn ai giữ giới thanh thiếu niên lại cả.
Còn Lưu? Ông ấy phải tự lên án mình trước những người của cuộc Cách mạng Văn hóa, vì những cái được cho là lỗi lầm của các nhóm làm việc. Bây giờ thì ông biết rằng lần lật đổ mình chỉ còn là câu hỏi của những tuần tới đây mà thôi.
Đầu tháng 8, Mao lại triệu tập Trung ương Đảng. Lần họp này đã trở thành tòa án cho các đối thủ của ông ấy. Trong lúc họp, ông ấy lần đầu tiên viết một tờ báo tường. Đó là một cuộc tấn công chống lại “một số đồng chí nhất định”, những người đã vi phạm tinh thần của cuộc Cách mạng Văn hóa – và là một lời kêu gọi Hồng Vệ Binh hãy trừng phạt họ. Tít của tấm áp phích “Oanh tạc các trụ sở!”
Đó cuối cùng cũng là lời tuyên chiến với Lưu, với những người theo ông ấy và tất cả các cán bộ cũ. Nó được đăng vào ngày 5 tháng 8 năm 1966. Ngày cuối cùng trong cuộc đời của người cô giáo Biện Trọng Vân.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
nguồn:https://phanba.wordpress.com/2012/10/16/cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-phan-4/
======================================================================
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 5)


Tẩy não: Ngay đến những đứa bé trong nhà trẻ cũng đã thấm nhuần rằng các em phải chào mừng cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: GEO Epoche
Tẩy não: Ngay đến những đứa bé trong nhà trẻ cũng đã thấm nhuần rằng các em phải chào mừng cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: GEO Epoche
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
VÀO KHOẢNG 13 GIỜ 30 vào cái ngày 5 tháng 8 đấy, nữ Hồng Vệ Binh của trường nữ trung học trên đường Erlong đã đẩy Bian và bốn người đồng nghiệp của bà ra ngoài giữa cái nóng bức của buổi trưa. Họ lặng lẽ đi củng với các nạn nhân của họ đến sân thể thao, để tiến hành một cuộc diễu hành hạ nhục “băng nhóm đen” này. Mặt của bốn thầy cô bị vẽ đầy bằng mực, chỉ còn nhìn thấy mắt và răng. Họ đội những chiếc nón ô nhục trên đầu.
Khi đoàn người tới sân, lượng người đứng xem hẳn đã lên đến một vài trăm.
Bây giờ, những kẻ làm nhục bắt buộc thầy cô của họ phải hét lên: “Tôi đi trên con đường tư bản!”, “Tôi xứng đáng bị đánh!”, “Cái đầu chó của tôi đáng bị đập vỡ!” Tại mỗi một câu, Bian phải đánh vào một cái hót rác; nếu như bà ấy nói không đủ to, các nữ sinh của bà ấy sẽ đánh bà bằng những cây gậy gắn đầy đinh. Vào lúc đầu chỉ có vài chục Hồng Vệ Binh, thế nhưng trên đường đi ngày càng có nhiều cô gái nhập bọn với họ. Chẳng bao lâu sau đó, các nữ sinh chơi một trò chơi khác. Thầy cô của họ bây giờ khuân những cái thùng rác nặng. Ai quá chậm chạp, hạ thùng xuống hay đứng lại, người đấy sẽ cảm nhận được những cây đinh.
Có lẽ đó là sự nóng nực, cũng có lẽ vì kiệt sức: chẳng bao lâu sau đó, Bian không còn có thể chịu đựng gánh nặng của mình nữa. “Tôi phải làm gì bây giờ?”, bà sợ hãi hỏi một nữ đồng nghiệp.
Các nữ sinh đánh bà, cứ đánh và đánh, như trong cơn say. Khi Bian ngã quỵ xuống, một nữ Hồng Vệ Binh đá bà bằng giày ủng quân đội của mình và hét to: “Mày không thoát khỏi tay chúng tao đâu!” Rồi các cô gái ăn kem.
Trong lúc đó, Bian phải lau chùi nhà vệ sinh. Nhưng trước khi có thể cầm lấy cái bàn chải thì bà đã ngất xỉu và quỵ xuống trên sàn gạch men.
“Mày giả vờ!”, người canh gác bà hét lên. “Mày chỉ giả vờ chết thôi!”
Các nữ Hồng Vệ Binh đổ một xô nước lạnh như băng lên người cô giáo, nhưng họ không còn có thể đánh thức bà ấy dậy được nữa. Cuối cùng, các cô gái quẳng thân thể của Bian lên một chiếc xe chở rác. Mặt thủy tinh của cái đồng hồ đeo tay của bà ấy đã vỡ. Kim chỉ giờ ngừng lại vào lúc 15 giờ 42.
Máu rịn ra từ miệng của Bian, mắt trắng dã. Nhưng bà ấy vẫn còn sống.
Mặc dù bệnh viện gần nhất chỉ cách đấy vài bước chân, mãi đến tối người ta mới mang bà ấy đến. Nhiều giờ sau khi bà ấy đã chết. “Không rõ nguyên nhân”, một bác sĩ ghi chú trên tờ khai tử.
Vào buồi tối, c cùng với một vài nữ sinh đồng học đến gặp một bí thư của Đàng ủy Bắc Kinh và tường thuật lại cho ông ấy vụ việc. “Đã thế rồi”, ông ấy nói và khuyên: “Giữ kín tin này, thế thì tác động sẽ có giới hạn thôi.”
Thế nhưng Mao không hề nghĩ đến việc ngăn chận bạo lực lại. “Hãy tin vào quần chúng”, ông yêu cầu ba ngày sau đó trong một phiên họp toàn thể của Trung ương Đảng. “Trong bất cứ trường hợp nào cũng đừng sợ sự lộn xộn. Một cuộc cách mạng không phải là một buổi tiệc chiêu đãi khách, không phải là viết luận văn, không phải là vẽ tranh hay thêu khăn. Nó không thể được tiến hành một cách có chừng mực, có phép tắc, lịch sự và nhân từ. Một cuộc cách mạng là một cuộc nổi dậy, một hành động bạo lực mà qua đó một giai cấp lật đổ một giai cấp khác.”
Đó chính tờ tuyên bố cho phép toàn quyền hành động.
Trong phiên họp, Mao cũng tiếp tục cuộc chiến trả thù các đối thủ của ông: trong lần bầu cho Bộ Chính trị, Lưu Thiếu Kỳ rơi lại xa ở phía sau trong hệ thống cấp bậc của Đàng. Lâm Bưu tiến lên thành số hai mới. Bành Chân bị chính thức cách chức – và tổng bí thư Đặng ngay sau đấy cũng bị tước quyền lực.
Chậm nhất là sau lần xuất hiện này của Mao, đối thủ của ông ấy câm lặng – hay còn biến đổi trở thành những người ủng hộ cuộc cách mạng mới. Không ai còn an toàn nữa.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
nguồn:https://phanba.wordpress.com/2012/10/18/cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-phan-5/
======================================================================
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 6)


Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Bây giờ, người Chủ tịch bắt đầu giai đoạn kế tiếp của cuộc Cách mạng Văn hóa của mình. Vào ngày 18 tháng 8, Mao, Giang và Lâm xuất hiện trên “Quảng trường Thiên An Môn”. Một triệu học sinh đã tụ về để nhìn thần tượng của họ. Họ vẫy quyển Sách Đỏ nhỏ và họ gọi to “Chủ tịch muôn năm!” Và: “Phương Đông hồng!”
Trong số các Hồng Vệ Binh được phép gặp cá nhân Mao cũng có một người 18 tuổi. Tống Bân Bân.
Hạ nhục: Những dấu hiệu của sự nhục nhã lúc nào cũng giống nhau. Những người bị cho là kẻ phản bội bị trét mực và phải đứng nghe chửi mắng. Các tấm bảng công bố danh tính và tội phạm của họ. Ảnh: GEO Epoche
Hạ nhục: Những dấu hiệu của sự nhục nhã lúc nào cũng giống nhau. Những người bị cho là kẻ phản bội bị trét mực và phải đứng nghe chửi mắng. Các tấm bảng công bố danh tính và tội phạm của họ. Ảnh: GEO Epoche

Chính người dẫn đầu nhóm vệ binh đã hành hạ Biện Trọng Vân cho tới chết đó đã đeo cho Mao một cái băng tay của Hồng Vệ Binh. Và qua đó đã nhận ông ấy làm thành viên danh dự trong đội ngũ của họ.
Báo chí tường thuật, rằng Mao đã yêu cầu cô con gái đó, người mà tên của cô ấy có nghĩa là “dịu dàng và lịch sự”, hãy đổi tên mình thành “muốn chiến tranh”. Chỉ qua đên, Tống Yêu Vũ, như cô ta bây giờ thường được gọi, đã trở thành một người nổi tiếng khắp thế giới. Cả trường trung học của cô ấy cũng được đổi tên – thành “Trường Quân sự Đỏ”.
Ở Bắc Kinh, khủng bố đỏ bùng nổ sau lần xuất hiện của Mao, và đội Vệ Binh lên đường để lan truyền nó đi trong các thành phố của Trung Quốc. Các cuộc biểu tình cũng kéo qua trên các đường phố của những thị trấn nhỏ hơn. Với trống, đuốc và pháo. Giới thanh thiếu niên thực hiện nhiệm vụ của Mao giao, xây dựng một xã hội mới và xóa đi “bốn cái cũ”: lối suy nghĩ cũ, văn hóa cũ, thói quen cũ, phong tục cũ.
Đường phố và các tòa nhà công cộng được đổi tên, biển bị đập tan bằng búa và được thay thế bằng biển mới: như “Đường của bốn sự hài hòa”  được Hồng Vệ Binh đổi thành “Đường của bốn cái mới”. Bây giờ Mao cũng xúi giục thanh thiếu niên chống lại các nghệ sỹ, “trí thức” và người khá giả. Và ông ấy ra lệnh cho cảnh sát và quân đội phải tiếp tục để cho đội Vệ Binh hành động.
Người nước ngoài bị rượt đuổi xuyên qua thành phố, ni cô bị trục xuất, nhà ngoại giao bị đánh đập. Ai để tóc dài sẽ bị Hồng Vệ Binh cạo trọc.
Trong cuộc đấu tranh của họ chống những cái được cho là tiêu khiển “tiểu tư sản”, giới thanh thiếu niên quá khích đã thành lập một đất nước không có niềm vui. Họ cấm chơi cờ, trồng hoa và trình diễn múa ba lê, thêm vào đó là sưu tập tem, taxi, quảng cáo bằng đèn neon, ô tô xa xỉ, ảnh của các cô gái, trang sức, nước hoa, áo váy dạ hội – cũng như đi chơi trong vườn bách thú, vì “thú có hại ở đấy ăn những thịt có thể phục vụ cho nhân dân như là thức ăn.”
Họ đẩy những đôi yêu nhau ra khỏi ghế trong công viên, vì những người đấy có một ai đó khác với Mao trong con tim. Và cấm đóng dấu lên trên những tem thư có hình đầu của Mao. Họ xông vào nhà ở, đốt sách, cắt vụn tranh và dẫm nát đĩa nhạc và các loại nhạc cụ. Chỉ riêng ở Bắc Kinh trong tháng 8 và tháng 9 năm 1966 đã có 34.000 căn hộ bị phá tan hoang và 1772 người bị giết chết.
Ở Sơn Đông, các vệ binh đã làm ô uế ngôi đền tại nơi sinh của Khổng Tử, nhà triết học tượng trưng cho nền văn hóa nhiều ngàn năm của Trung Quốc.
Có nhiều thanh thiếu niên được yêu cầu đi trộm cắp để phục vụ cho nước Cộng hòa Nhân dân. Vì vàng, trang sức, tiền bạc bị cướp về sẽ được trưng thu vào công quỹ – cổ vật, sách, thảm, tranh được bán ra nước ngoài. Madame Mao lấy một chiếc đồng hồ bằng vàng 18 carat từ những thứ thu được, vị chủ tịch tự lấy tròn 1000 quyển sách cổ cho thư viện cá nhân của mình. Thường Hồng Vệ Binh nhận được các địa chỉ trực tiếp từ Đảng.
Vào ngày 23 tháng 8 năm 1966, một nhóm xông vào nhà của Hội Nhà văn và bắt giữ hai mươi tác giả – trong đó có Lão Xá, một “nghệ sĩ nhân dân” 69 tuổi. Các Hồng Vệ Binh dùng dây treo những tấm bảng xỉ nhục lên cổ nạn nhân của họ. Rồi họ đánh những người bị làm nhục cho tới một ngôi đền. Ở đấy, họ bị thanh thiếu niên, nhiều người trong số này là thiếu nữ, hành hạ và chửi mắng trước một ngọn lửa.
Những người khác bị đám côn đồ giết chết ngay trong căn hộ của họ, bị hành hạ trong các phòng tra tấn được dựng riêng lên cho việc này trong nhà hát, sân vận động và rạp chiếu bóng. Họ tổ chức những cuộc duyệt binh hạ nhục với họ và hành hạ họ bằng những phương pháp mà họ gọi là “vị trí máy bay”, “xúp ớt”, “băng ghế cọp Nhật”.
Hay họ đẩy họ đến chỗ tự vẫn: trong tháng 9, người ta cho rằng chỉ riêng trong Thượng Hải đã có 704 vụ tự tử vì lý do chính trị. Con cái tố giác cha mẹ và qua đó đẩy họ vào chỗ chết. Và ngay những người con cũng bị bắt buộc phải đến xem hành hình.
Có những tấn bi kịch tàn nhẫn đã xảy ra. Như việc nữ bác sĩ nọ đã dùng dao mổ cắt động mạch máu cổ cha của bà theo lời khẩn nài của ông ấy: để cuối cùng ông ấy cũng có thể được giải thoát khỏi cảnh bị khủng bố và hành hạ. Hia ngày liền, ông ấy đã bị thanh thiếu niên hành hạ trong nhà của ông ấy. Vì ông ấy cho thuê một căn phòng nên đối với họ, ông ấy là một “tư sản”.
Tòa án: Trong tháng 11 năm 1968, con trai của một cựu bí thư Đảng ở Cáp Nhĩ Tân bị lên án công khai là đã bảo vệ cha mình trong một bức thư nặc danh. Người ta treo tấm bảng "Tên phản cách mạng Ouyang Xiang" lên cổ anh ấy. Khi muốn tự vệ, anh ấy bị bịt miệng lại. Vài ngày sau đó anh ấy rơi xuống từ một cửa sổ –  được cho là đã tự tử. Ảnh: GEO Epoche
Tòa án: Trong tháng 11 năm 1968, con trai của một cựu bí thư Đảng ở Cáp Nhĩ Tân bị lên án công khai là đã bảo vệ cha mình trong một bức thư nặc danh. Người ta treo tấm bảng “Tên phản cách mạng Ouyang Xiang” lên cổ anh ấy. Khi muốn tự vệ, anh ấy bị bịt miệng lại. Vài ngày sau đó anh ấy rơi xuống từ một cửa sổ – được cho là đã tự tử. Ảnh: GEO Epoche
Bây giờ, nhiều người Trung Quốc tự tiêu hủy toàn bộ sở hữu của họ. Vì cung cách hành xử của đội Vệ Binh ngày càng hà khắc hơn. Họ tự ý bắt giam “kẻ thù giai cấp”: người bán dạo, xin ăn, cán bộ Đảng, nhân viên nhà nước, phụ nữ nội trợ – hay bất cứ ai họ gặp.
Nguyên do nhỏ nhất cũng đủ là bằng chứng cho “quan điểm phản cách mạng”: vì người ta sở hữu trò chơi mạt chược, sách, bình hoa bằng cẩm thạch hay quần áo cổ truyền; vì người ta không thuộc một lời trích dẫn của vị Đại Chủ tịch, treo một tấm ảnh Mao đã hư hỏng lên hay vô ý dẫm lên một tờ truyền đơn có lời nói của Mao.
Đã từ lâu, sự tôn sùng người Chủ tịch đã có những hình thái lố bịch: chẳng bao lâu sau, mỗi một người Trung Quốc đều phải có một quyển “Mao Chủ tịch ngữ lục”. Tổng cộng có tám tỉ ảnh chân dung, huy hiệu và phù hiệu với hình của ông ấy đã được sản xuất.
Ngay cả trên đồng hồ báo thức hay chén ăn cũng có gương mặt tròn của người Chủ tịch Vĩ đại. Phim tuyên truyền ca ngợi suy nghĩ của Mao như là “quả bom nguyên tử tinh thần”, vâng, còn là phương pháp trị liệu cho bệnh điếc. Mỗi buổi sáng, hàng triệu người Trung Quốc cúi mình ba lần trước bức ảnh của người đứng đầu Đảng và xin chỉ thị của ông ấy cho ngày đấy.
Một vài học sinh thảo luận, liệu bất cứ người Trung Quốc nào cũng phải cần nhận họ của Mao hay không. Những người khác bãi bỏ giao thông bên phải trên một vài đường phố; trong tương lai người ta phải đi ở bên trái, bên của “giai cấp vô sản”. Nhưng những người theo Mao  phải từ bỏ ý tưởng đó: có quá nhiều tai nạn.
Giới thanh thiếu niên cách mạng đối xử với quá khứ của Trung Quốc bằng cuốc, xà beng và búa,  như đập vỡ đầu một bức tượng Phật trong vườn của khu dinh thự mùa Hè của các hoàng đế ngày xưa. Chỉ riêng ở Bắc Kinh, trong số 6843 di tích lịch sử tồn tại qua được cuộc cách mạng đã có 4922 cái bị phá hủy – từ cổng thành cho tới dinh thự.
Bảo tàng và thư khố cháy rụi. Đền thờ và nhà thờ cũng vậy. Nhà thờ Hồi giáo biến thành chuồng nuôi heo.
Trong tháng 12, trước hàng chục ngàn Hồng Vệ Binh đang la hét,  người thị trưởng mới của Bắc Kinh đã thóa mạ hàng trăm cán bộ Đảng như là “cặn bã của Đảng và loài người” – trong số đó có Bành Chân, người tiền nhiệm của ông ấy và Ngô Hàm, tác giả của vở kịch “Hải Thụy bãi quan” (Bành sẽ sống sót qua được cuộc Cách mạng Văn hóa, Ngô ngược lại chết trong tù năm 1969).
Vào ngày 22 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Than, một kẻ thù của Giang Thanh, đã bị một đám đông giận dữ truy đuổi. Với những con dao nhỏ, Hồng Vệ Binh đã cứa nát da của ông ấy, đeo lên cổ của ông ấy một cái lò than nặng, cái kéo ông ấy xuống đất, cuối cùng đánh chết ông ấy.
Bây giờ, cuộc Cách mạng Văn hóa cũng lan đến giới vô sản thành thị. Đặc biệt ở Thượng Hải đã thành hình nhiều nhóm nổi loạn trong nhà máy. Công nhân yêu cầu tăng lương, điều kiện làm việc tốt hơn – và những chuyến đi nghỉ mát được trả tiền, để thu thập kinh nghiệm cách mạng.
Chẳng bao lâu sau đó họ còn cùng với Hồng Vệ Binh chiếm lấy quyền lực trong thành phố lớn này. Trong các thành phố khác, những người nổi loạn đi theo gương mẫu đấy.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
nguồn:https://phanba.wordpress.com/2012/10/19/cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-phan-6/
======================================================================
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (phần 7)


Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
MAO HÂN HOAN VUI MỪNG. Ông ấy đã mơ ước về cuộc Cách mạng Văn hóa và cuộc đấu tranh giai cấp như thế. Nhưng rồi bạo lực bùng phát trong các tỉnh. Vì trong sự lộn xộn cách mạng, ai cũng có thể tuyên bố mình là người nổi loạn. Học sinh, công nhân, những người theo các cán bộ cũ, sinh viên từ những gia đình trung thành với chính sách và con cái của các gia đình tiểu tư sản. Và ngay Hồng Vệ Binh cũng chia rẽ. Các phân nhóm nhanh chóng rơi vào những cuộc cãi vả với nhau.
Nhục nhã: chiếc mụ nhọn bêu rếu những người bị lên án. Có những cán bộ nào đó luôn bị lôi ra giới công cộng, thống đốc Li Fanwu (ở giữa) tổng cộng là 2000 lần. Ảnh: GEO Epoche
Nhục nhã: chiếc mụ nhọn bêu rếu những người bị lên án. Có những cán bộ nào đó luôn bị lôi ra giới công cộng, thống đốc Li Fanwu (ở giữa) tổng cộng là 2000 lần. Ảnh: GEO Epoche

Bây giờ cuộc cách mạng đã thoát khỏi sự kiểm soát của Mao. Vì cả trong các thành phố, những người quá khích thường chống lại các nhóm ôn hòa, là những người bảo vệ các cán bộ được yêu mến hay có nhiều thành công. Cuối tháng 1 năm 1968, Trung Quốc đứng trước một cuộc nội chiến.
Chỉ quân đội là có thể chấm dứt được cảnh lộn xộn. Vì người của Lâm luôn luôn đoàn kết trong hàng ngũ của họ, lúc nào cũng đi theo Mao.
Nhưng nói chung là cuộc cách mạng cần phải đi đến đâu? Có những sĩ quan nào đó bây giờ hoài nghi về chính sách quá khích của Mao. Để ngăn chận sự sụp đổ của nhà nước và nền kinh tế, nhiều người trong giới quân đội nghiên về phía của những người ôn hòa. Và họ nắm lấy quyền chủ động.
Vẫn còn trong tháng 1, giới lãnh đạo quân đội trong tỉnh Hắc Long Giang đã thành lập một “ủy ban cách mạng” bao gồm các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm và một vài Hồng Vệ Binh như là chính phủ địa phương.
Chậm nhất là trong mùa Xuân, Mao, người trước đó gần một năm đã gây ra sự lộn xộn này,  cũng nhận thấy chính mình bị đe dọa bởi việc này. Ông ấy lo sợ lực hút của một bạo lực vô chính phủ, cái có thể kéo phăng đi tất cả. Cả ông ấy, người Chủ tịch Vĩ đại. Vì thế mà bây giờ ông ấy đồng ý đi đến sự chừng mực.
Vào ngày 10 tháng 3 năm 1967, giới lãnh đạo quân đội với sự đồng ý của ông ấy đã tuyên bố rằng trong tương lai tất cả các tỉnh cần phải được điều hành bởi một ủy ban cách mạng. Đấy là lúc quân đội bắt đầu chiếm lấy quyền lực một cách hầu như không che đậy. Vì các ủy ban cách mạng thường do sĩ quan lãnh đạo, được hỗ trợ bởi những cán bộ Đảng có thâm niên. Phe “cánh tả” hầu như không tham gia.
Trong lúc đấy, những cuộc đấu tranh ác liệt của các phe phái với hàng trăm ngàn người tham gia vẫn tiếp tục diễn ra, như ở Thượng Hải, nơi trên 100.000 người “cánh tả” theo chỉ thị của Mao đã bao vây khoảng 25000 đối thủ đang tụ tập trong khu đất của một nhà máy và dùng cây sắt để đánh đập họ. Có hàng trăm người bị thương nặng và chết.
Mao nhận thấy rằng ông ấy không thể thành lập những nhóm cánh tả ở khắp nơi. Cũng chính vì hiện giờ trong một vài vùng không còn ai có thể nói được rằng nhóm nào trong số những nhóm đang tranh dành quyền lực thuộc “cánh tả” và nhóm nào thuộc “cánh hữu”.
Bây giờ, quân đội tái lập trật tự: họ dần dần chiếm lĩnh các tỉnh nổi loạn.
Đội hành hình: Trong tháng 4 năm 1968, những người bị cho là "phản cách mạng" bị xử bắn ở Hắc Long Giang. Cho tới năm 1976, có khoảng ba triệu người là nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: Geo Epoche
Đội hành hình: Trong tháng 4 năm 1968, những người bị cho là “phản cách mạng” bị xử bắn ở Hắc Long Giang. Cho tới năm 1976, có khoảng ba triệu người là nạn nhân của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ảnh: Geo Epoche

Trong tháng 10 năm 1967, Mao cảm ơn Hồng Vệ Binh: họ đã đập tan các cấu trúc quan liêu cũ và qua đó đã làm tròn nhiệm vụ của họ. Nhưng bây giờ ông ra lệnh cho họ tiếp tục đi học ở trường học và đại học – và là với cùng những nhà sư phạm đó, những người trước đây đã bị học sinh phê phán và tấn công.
“Thầy cô phần lớn là tốt”, theo như một chỉ thị. Cả “những người đã phạm lỗi cũng được phép tiếp tục làm việc, nếu như họ sửa đổi cách đối xử của họ”.
Nhưng những cuộc đấu đá lẫn nhau trong giới thanh thiếu niên không để cho người ta chấm dứt một cách đơn giản như thế. Nhiều người vẫn tiếp tục chống lẫn nhau, kịch liệt và thường cả với vũ khí.
Trong tháng 5 năm 1968, con trai cả của Đặng, Phác Phương, bị Hồng Vệ Binh bắt và bị bịt mắt dẫn đến trường Đại học Bắc Kinh. Ở đó, anh ấy phải “nhạo báng” người cha của mình trước một tòa án. Thế nhưng người con trai 24 tuổi khước từ, cuối cùng có thể trốn thoát được và rơi từ cửa sổ xuống – bị liệt nửa người, anh ấy nằm lại trên sân trường. Mãi ba năm sau đó anh ấy mới được phép về Giang Tây, nơi cha mẹ của anh ấy bị lưu đày đến đó, và là nơi mà từ đấy trở đi anh ấy được cha chăm sóc cho mình.
Để làm dịu bớt tình hình, chỉ riêng ở các trường trung học và đại học Bắc Kinh, bây giờ Mao dùng 30.000 công nhân và quân lính. Tuy vậy, những cuộc đấu tranh vẫn thường xuyên bùng nổ trở lại.
Vào ngày 28 tháng 7 năm 1968, ông ấy triệu tập những người dẫn đầu có nhiều ảnh hưởng của Hồng Vệ Binh vào Nhân dân Đại Hội đường. Ông ấy gay gắt khiển trách họ: “Tôi gọi các người đến đây là để chấm dứt bạo lực trong các trường đại học. Trong một vài cơ sở đào tạo cao cấp vẫn còn có xung đột bạo lực. Nếu như có một vài người nào đó không để cho người khác khuyên can mình, thì họ là kẻ cướp. Nếu họ cứ tiếp tục ngoan cố chống lại thì phải tiêu diệt họ.”
Lời đe dọa hết sức rõ ràng: ai bây giờ không tuân lệnh sẽ bị trừng phạt nặng nề. Người Chủ tịch Vĩ đại không còn muốn biết gì về đạo quân đi bộ của cuộc Cách mạng Văn hóa của mình nữa.
Vài tháng sau đó, Mao ra lệnh cho giới thanh thiếu niên “trí thức” của Trung Quốc rời nơi ở của họ và đi về nông thôn – để học hỏi người nông dân, người ta nói thế. Nhưng thật ra thì ông ấy muốn dứt bỏ đám tay sai làm loạn của ông ấy. Hồng Vệ Binh phân tán ra trên khắp miền đất nước Trung Quốc.
Trong khi trật tự dần dần trở lại trong Bắc Kinh, ở các tỉnh vẫn còn luôn xảy ra những cuộc chiến ác liệt giữa những người nổi loạn và quân đội cũng như lực lượng dân quân dưới quyền của họ. Ví dụ như trong vùng Quảng Tây ở miền Nam Trung Quốc, nhiều phần lớn của thành phố Nam Ninh đã bị phá hủy bởi xe tăng. Quân đội Giải phóng Nhân dân tàn phá thành phố Ngô Châu bằng pháo binh và napalm, rồi những người chiến thắng hành hình hàng ngàn người nổi loạn.
Chỉ riêng ở Quảng Tây đã có hơn 70.000 người nổi loạn và thường dân chết, cũng như 30.000 người lính và dân quân. Bằng cách này, Hồng Vệ Binh đã bị đập tan trong tất cả các vùng đất của Trung Quốc. Đó là một cuộc nội chiến đẫm máu mà trong đó không phải những người nổi loạn và Hồng Vệ Binh gây ra những cuộc thảm sát tàn nhẫn nhất, mà là quân đội của Lâm Bưu. Mãi đến mùa Xuân 1969, quân đội cũng chiến thắng trong các tỉnh.
Vào ngày 1 tháng 4, một đại hội của ĐCS tuyên bố rằng cuộc Cách mạng Văn hóa đã “giành được một chiến thắng lớn lao”. Tuy vậy, Lâm Bưu vẫn yêu cầu các đại biểu hãy cảnh giác, vì “giai cấp chiến bại sẽ tiếp tục chiến đấu”.
Mao được tuyên bố trở thành chủ tịch suốt đời, Lâm Bưu là người kế thừa ông ấy. Và Giang Thanh là người phụ nữ đầu tiên được cử vào trong Bộ Chính trị.
Sau ba năm bạo lực khủng bố, người Chủ tịch Vĩ đại lại đứng đầu nước Cộng hòa Nhân dân trong mùa Xuân 1969. Trong liên minh với những kẻ quan liêu và sĩ quan cũ.
(Còn tiếp)
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
nguồn:https://phanba.wordpress.com/2012/10/21/cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-phan-7/
======================================================================
Cuộc chiến của những đứa trẻ con (hết)


Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch từ chuyên san lịch sử “Trung Quốc của Mao Trạch Đông” do GEO Epoche xuất bản
Với “Chiến thắng lớn” của Mao, giai đoạn chiến đấu của cuộc Cách mạng Văn hóa đã chấm dứt – thời gian của những vụ hạ nhục ở nơi công cộng và của cuộc nội chiến. Nhưng thời của những cuộc truy lùng, của những lời kết tội và bắt bớ tùy tiện thì không. Ví dụ như Bộ An ninh Công cộng vẫn còn điều tra mười triệu người cho tới giữa những năm 1970, 3,5 triệu người bị bắt giam. Vì người ta cho rằng họ là những người phản cách mạng hay người thiên tả.
Hân hoan chiến thắng: Năm 1969, Mao lại đứng đầu ĐCS mà không ai dám tranh giành nữa. Ông gửi Hồng Vệ Binh về làm việc ở nông thôn, như ở đây trong vùng Mãn Châu. 16 triệu thanh thiếu niên vì thế mà đã không được đào tạo. Ảnh: GEO Epoche
Hân hoan chiến thắng: Năm 1969, Mao lại đứng đầu ĐCS mà không ai dám tranh giành nữa. Ông gửi Hồng Vệ Binh về làm việc ở nông thôn, như ở đây trong vùng Mãn Châu. 16 triệu thanh thiếu niên vì thế mà đã không được đào tạo. Ảnh: GEO Epoche

Cố gắng của Mao, tiêu diệt những người đồng hành ngày xưa và tạo một xã hội mới, đã khiến cho khoảng ba triệu người chết – thầy cô giáo, học sinh, cán bộ Đảng và Hồng Vệ Binh. Đảng của thời Vạn lý Trường Chinh không sống sót qua được thời hỗn loạn: khi cuộc Cách mạng Văn hóa được tuyên bố chấm dứt vào năm 1976, hàng trăm ngàn cán bộ Đảng đã chết, bị lưu đày hay bị tước quyền lực.
Nền văn hóa cũ của đất nước cũng không còn tồn tại nữa: nhiều tượng hình và đền thờ đã mất đi vĩnh viễn. Cả một thế hệ Trung Quốc lớn lên trong bầu không khí khinh rẻ nghệ thuật, học vấn, kiến thức và lịch sử. Con người mặc áo khoác đồng phục màu xanh nước biển, họ bị cấm mang bất cứ thứ trang sức nào.
Mao chuẩn bị một kết thúc tàn nhẫn cho đối thủ lớn nhất của mình, Lưu Thiếu Kỳ. Người Chủ tịch nước nhiều lần bị hạ nhục công khai. Đích thân ông Chủ tịch đã cho người viết những lời xỉ vả bằng những hàng chữ to lớn lên trên nhà của Lưu; rồi hàng ngàn thanh thiếu niên cắm trại ở nhà của ông ấy, cuối cùng bắt giữ ông ấy và bắt buộc ông ấy phải “tự phê bình”.
Bắt đầu từ năm 1967, ông ấy ốm nặng trong tù biệt lập, bị đói khát và thiếu ngủ hành hạ. “Lưu đánh răng bằng lược và xà phòng, mặc tất lên trên giày và quần lót ra ngoài quần dài”, những người canh gác ông ấy viết cho Mao, người thường xuyên để cho báo cáo về tình trạng sức khỏe của ông ấy.
Tháng 10 măm 1968, khi Lưu không còn có thể tự ăn uống được nữa, Mao để cho Trung ương Đảng khai trừ ông ấy ra khỏi Đảng và tước chức vụ chủ tịch nước. Một năm sau đó, Lưu qua đời trong tình trạng lẫn trí.
Cả Lâm Bưu cũng là nạn nhân của cuộc cách mạng đó, cái mà ông ấy luôn luôn hỗ trợ nó. Năm 1971, ông ấy qua đời trong một vụ rơi máy bay mà cho đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ; lâu nay ông ấy đã có quá nhiều quyền lực đối với người sếp của Đảng.
Ngược lại, một kẻ thù của Mao lại được phục hồi: Đặng Tiểu Bình, người cùng với vợ đã bị lưu đày về tỉnh Giang Tây trong tháng 10 năm 1969 và làm việc trong một nhà máy chế tạo xe máy kéo ở đó. Sau cái chết của Lâm Bưu, ông ấy xin phép được trở về Bắc Kinh.
Trong tháng 3 năm 1973, người Chủ tịch thực sự đã gọi ông ấy trở về và để cho làm phó thủ tướng. Vì Mao cần một chính trị gia có năng lực và vẫn còn được coi trọng trong Đảng.
Giới thanh thiếu niên bị đày đi nông thôn sau cơn say cách mạng trải qua sự thất vọng của một “thế hệ bị đánh mất”. Tổng cộng có tròn 16 triệu người Trung Quốc trẻ tuổi phải sống năm đến mười năm trong những vùng hẻo lánh của đất nước họ. Nhiều người trong số họ không được đào tạo tốt, hầu như không có ai trong số đó học đại học. Phần lớn sau này phải kiếm sống bằng những công việc được trả lương thấp hay hoàn toàn không có việc làm.
Nhiều cựu Hồng Vệ Binh cho tới nay vẫn không nói về những hành động của họ – cũng như Đảng. Tuy ĐCS đã lên án cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1981, nhưng họ không muốn làm rõ các tội phạm. Cuối cùng thì cũng có nhiều con cái của các quan chức cao cấp và trung cấp đã tham gia.
Để không phải tìm nguyên nhân và những người phạm tội, nhiều người Trung Quốc cho tới ngày nay vẫn hiểu điều cấm kỵ lớn nhất trong nước Cộng hòa Nhân dân như là một dạng thảm họa thiên nhiên, như một cơn động đất chính trị đã lay động Trung Quốc dữ dội. Nhưng một trận động đất là số phận.
Trong các thập niên tới đây, họ sẽ không sợ gì bằng một lần lập lại của cuộc Cách mạng Văn hóa. Ngay đến những cuộc biểu tình vô hại đối với họ bây giờ cũng giống như những báo hiệu trước của một hỗn loạn về chính trị.
TỐNG BÂN BÂN, một trong các nữ Hồng Vệ Binh ở trường trung học nữ sinh trên đường Erlong ở Bắc Kinh – trường mà cô giáo Biện Trọng Vân đã bị giết chết ở đấy vào ngày 5 tháng 8 năm 1966 –, rời Trung Quốc năm 1980 để đi học đại học ở Phương Tây. Cô ấy là một trong những người phụ nữ đầu tiên được phép đi học ở một trường đại học Mỹ. Sau này, cô làm việc cho một cơ quan Mỹ. Trong một cuốn phim tài liệu, cô ấy giải thích rằng ngay từ lúc đầu, cô ấy đã chống lại bạo lực, đã không tham gia vào các cuộc khám xét nhà ở.
Trong thời gian từ 1978 đến 1989, Wang Jingyao, chồng góa của Biện Trọng Vân, cố gắng lôi những người có tội trong cái chết của vợ ông ấy ra chịu trách nhiệm trước tòa. Nhưng không thành công.
Trong một cái va li, người giáo sư vẫn còn giữ cho tới ngày nay bộ quần áo mà vợ của ông ấy mặc trong ngày cuối cùng: chiếc áo bị trét đầy mực, quần lốm đốm máu. Trong một cái hộp nhỏ, ông ấy giữ cái đồng hồ đeo tay đã vỡ của bà ấy.
Wang muốn bảo quản các vật đó cho tới chừng nào mà người Trung Quốc rồi cũng bắt đầu nói – về cảnh khủng khiếp đã bắt đầu vào ngày 5 tháng 8 năm 1966 đó.
Bài: Walter Saller; Ảnh: Li Zhensheng
Phan Ba dịch
Giới thiệu tài liệu: Roderick MacFarquhar, Michael Schoenhals, “Mao’s Last Revolution”, Belknap Press: cô đọng một cách xuất sắc 40 năm nghiên cứu về chiến dịch cuối cùng của Mao chống lại chính người dân của ông ấy. Li Zhensheng, “Roter Nachrichtensoldat” ["Người lính truyền tin đỏ"], Phaidon: quyển album ảnh cá nhân của một nhiếp ảnh gia.
nguồn:https://phanba.wordpress.com/2012/10/23/cuoc-chien-cua-nhung-dua-tre-con-het/
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001