Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

3/Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 16 - 22)

Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 16)


Dịch giả: Nguyễn Quang A

Bàn Tròn Ba Lan năm 1989:

Chiều Văn hóa của sự Thay đổi Chế độ được Dàn xếp
(tiếp theo)

Jan Kubik

4. Pha Đền bù: Các cuộc Đàm phán Bàn Tròn và hậu quả trực tiếp của chúng.
(6 Tháng Hai, 1989 – 24 tháng Tám, 1989 [hình thành nội các Mazowiecki]).

Pha này tiết lộ những mâu thuẫn cấu trúc cốt yếu làm nền cho một sự thay đổi xã hội thông qua các cuộc đàm phán của giới tinh hoa: một mặt, trò chơi đàm phán, do sự tất yếu, đòi hỏi phải loại trừ đa số của một phe cho trước. Để là hiệu quả, nhóm đàm phán phải tương đối nhỏ. Mặt khác, “quy mô” của nhóm ủng hộ (cử tri) của mỗi giới tinh hoa (“cơ sở) hay “độ sâu” của sự ủng hộ của nó là một ngón mặc cả rất hùng mạnh. Mỗi elite, vì thế, chăm sóc để nuôi dưỡng sự ủng hộ như vậy hoặc, chí ít, đầu tư rất nhiều nguồn lực vào việc tạo ra một hình ảnh về “cơ sở to lớn” của nó. Như Kuroń, một trong các lãnh đạo của Đoàn kết, đã bảo Castle: “Chúng tôi đe dọa nhau với các cơ sở của chúng tôi.”[1] Như thế, sự đòi hỏi về mặt hậu cần cho việc loại trừ, phải liên tục được đối trọng bởi hình thức nào đó (thuần túy tượng trưng, chí ít) của sự bao gồm (của cơ sở). Hơn nữa, nếu toàn bộ quá trình phải nhận được một tính chính đáng rộng hơn, vào lúc kết thúc của các cuộc đàm phán, logic của sự bao hàm phải ở địa vị cao hơn logic của sự loại trừ; một cơ chế phải được tìm thấy để tái-kết hợp “xã hội” vào quá trình thay đổi. Việc này có thể đạt được thông qua một sự lễ nghi hóa khéo léo. Tóm lại, việc giải quyết sự căng thẳng này giữa sự loại trừ và sự bao hàm xác định kết quả cuối cùng của vở kịch xã hội và cách mà di sản của nó sẽ định hình những phát triển thêm nữa.
Có vẻ rằng sự tác động lẫn nhau năng động căn bản này của sự loại trừ và sự bao hàm xác định các đặc tính khác của pha đền bù trong một vở kịch xã hội được diễn theo một kịch bản của các cuộc đàm phán.
4.1. (Các) Tầm nhìn tượng trưng chi phối của chính thể.
Tầm nhìn chi phối của chính thể trong pha này đã vẫn là hai cực, nhưng một bức tranh về kẻ thù “không thể động đến” đã được thay thế một cách chầm chậm bởi một tầm nhìn về một địch thủ như một đối tác thương lượng. Các cuộc đàm phán là không thể mà không có một diễn đàn tượng trưng về các đặc tính chung. Để tạo ra một diễn đàn như vậy, nhiều diễn viên chính đã tiến hành các hành động thảo luận nhắm tới việc xả những ký ức lịch sử có khả năng bùng nổ. Reykowski đã nói:
Điều kiện khác như vậy [điều kiện của các cuộc đàm phán thành công – JK] mà cũng đã rất quan trọng là nguyên tắc không thảo luận về các vấn đề mang tính biểu tượng. Chúng tôi đã giải quyết tương lai, và tránh tranh cãi về quá khứ. Chúng tôi đã tin, và tôi nghĩ hầu hết chúng ta đồng ý ở đây, rằng nếu chúng ta bắt đầu lao vào các cuộc thảo luận về những cái sai trong quá khứ, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ thứ gì. Chúng ta đã phải chấp nhận sự thực rằng chúng ta nhìn vào các thứ khác nhau từ quá khứ theo những cách khác nhau, và rằng chúng ta đã có tầm nhìn khác nhau về các vấn đề mang tính biểu tượng khác nhau. Đã có những tình huống khi một người nào đó đã không thể nhịn đưa ra một vấn đề như vậy, và sau đó cảm xúc đã bùng lên, nhưng tôi nghĩ chúng tôi đã đoàn kết cố gắng làm suy yếu những cảm xúc này trong các cuộc đàm phán.[2]
Những tầm nhìn như vậy về các đặc tính chung, tuy vậy, phải được đối trọng bởi các hình ảnh về tính chất riêng rẽ. Khác đi, thì một cảm nhận về sự “bán tống bán tháo” hặc thậm chí “trở nên bị sa đọa” nổi lên giữa “cơ sở,” và một số nhà phê phán đối thoại bắt đầu trình bày một chuyện kể về sự phản bội.[3] Như một kết quả, một cách nhìn quả quyết, hai cực về lĩnh vực xã hội-chính trị được thay thế bằng một bức tranh mơ hồ, lờ mờ của giới tinh hoa, mà các mảng của những người đó trước kia hoàn toàn tách biệt bây giờ hơi chồng lấn nhau.
Vì mỗi elite đã phải tự định vị mình trước hai khán giả khác nhau, trước elite định thủ và những người đi theo riêng của nó, người ta sẽ kỳ vọng rằng chúng đã cố gắng để nắm vững nghệ thuật đưa ra những bản sắc khác nhau, tùy thuộc vào tình hình. Ngay cả việc đọc lướt qua các tư liệu đảng và các tuyên bố khác nhau xác minh giả thuyết này. Về phía đảng-nhà nước tôi đã phát hiện ra ba đàm luận (ngôn ngữ) khác nhau về bản sắc:
A. Giới tinh hoa đảng như một đối tác có đầu óc cởi mở, sẵn sàng thỏa hiệp.
Trong vai trò này họ sử dụng ngôn ngữ tạo thuận lợi cho đàm phán.[4]
B. Giới tinh hoa đảng như một nhà chiến lược thực dụng.
Cách diễn đạt này được dùng trong các tranh luận nội bộ (trong Bộ Chính trị hay các hội nghị Trung ương).[5]
C. Giới tinh hoa đảng như một thành viên trung thành của khối cộng sản.
Bản sắc này đã được diễn đạt trong một thành ngữ hệ tư tưởng và được dùng chủ yếu cho sự tiêu thụ bên ngoài.[6] Nổi bật là trong năm 1989, trong chừng mực tốt nhất tôi có thể đánh giá, sự hăng hái ý thức hệ của đàm luận này đã giảm nhiều, so với cả các năm trước đó ở Ba Lan lẫn với các đàm luận “chính thức: của các đảng Tiệp Khắc hay Đông Đức. Sự thực dụng hóa này của đàm luận ý thức hệ được tạo ra bởi ban lãnh đạo của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan xác nhận luận điểm rằng họ đã là các đồng minh thân cận nhất của Gorbachev ở Đông Âu.
4.2. Mối quan hệ chi phối giữa elite và những người đi theo trong Đoàn kết.
Vì trong pha này số các những người dính líu trực tiếp đến quá trình chính trị là hạn chế, quan điểm chính trị về sự loại trừ (ai được vào, ai bị bỏ sót, ai ra các quyết định như vậy) có tầm quan trọng kinh khủng. Lý do chính cho việc này có thể là cái nhất định xảy ra tiếp theo: trong thời kỳ hậu-đền bù, quan điểm chính trị loại trừ của pha đền bù trở thành chủ đề của một cuộc chiến tượng trưng căng thẳng về những diễn giải.
Một số chính trị gia Đoàn kết có vẻ đã nhận ra ý nghĩa này sớm và đã đầu tư rất nhiều năng lượng trong truyền thông với cơ sở của họ. “Các cuộc đàm phán Bàn Tròn đã không chỉ là các cuộc nói chuyện giữa các đại diện của phe đối lập và các đại diện của chính quyền. Chúng cũng đã là các cuộc nói chuyện của chúng tôi với xã hội,” Piotr Nowina-Konopka, một người phát ngôn của Đoàn kết, đã nhận xét.[7] Sau phiên khai mạc của BT, Wałęsa đã đi nhiều trung tâm công nghiệp chính và đã gặp những người ủng hộ tiềm năng tại các cuộc meeting lớn.[8] Như hầu hết các nhà quan sát biểu thị, các nỗ lực tuyên truyền này của các lãnh đạo Đoàn kết đã cực kỳ quan trọng, vì quy mô của cơ sở đã rất không rõ ràng và có vẻ đã yếu. Tuy vậy, có chứng cớ cho thấy rằng khi các cuộc đàm phán tiến triển sự ủng hộ Đoàn kết đã tăng.
4.3. Đảng-nhà nước: mối quan hệ chi phối giữa elite và những người đi theo.
Sự chia rẽ bên trong các cán bộ đảng đã lan rộng.[9] Nhưng các tướng Jaruzelski và Kiszczak đã kiểm soát vững chắc các bộ máy sức mạnh cơ bản, như quân đội và cảnh sát.[10]
Tuy vậy, quyền uy của họ và sự ủng hộ cho các chính sách của họ bên trong đảng cộng sản đã ít rõ ràng hơn. Castle tường thuật rằng “năm mươi đến bảy mươi phần trăm của các đảng viên đã ủng hộ các chính sách tự do hóa,”[11] nhưng bên trong nomenklatura sự ủng hộ này đã yếu hơn. Như Castle tường thuật: “Trong tháng Giêng 1989, ủy viên Bộ Chính trị Stanisław Ciosek đã ước lượng rằng một đa số các apparatchik đã phản đối tự do hóa.”[12] Cái đã giữ vững đảng đã là uy quyền to lớn của Jaruzelski và một ý thức rằng không có lựa chọn khác. Quan trọng, tất nhiên, là Jaruzelski đã có sự ủng hộ của Gorbachev.
4.4. Phương thức tương tác chi phối giữa các địch thủ chính.
Tại giai đoạn này, những tương tác giữa các thành viên của cả hai elite đã tạo ra sự học tập chiến lược sôi nổi. Những định kiến tập thể được thay thế bằng các bức tranh cá nhân hóa của các cá nhân thực; những nhân vật trước đây bị ma quỷ hóa biểu lộ chiều con người của họ.[13] Jaruzelski, chẳng hạn, đã bắt đầu cảm thấy Michnik như một “con bồ câu chiến thuật nhưng là con diều hâu chiến lược.” Gây tò mò, tuy vậy, rằng quá trình này thường được nhắc đến thường xuyên hơn bởi các đại diện của đảng-nhà nước hơn là bởi các đại diện của Đoàn kết.[14] Điều này có thể cho biết rằng khoảng cách giữa bức tranh tuyên truyền và “thực tế” là rõ rệt hơn nhiều bên trong phe cộng sản hơn là giữa các nhà hoạt động Đoàn kết.
4.5. Đặc điểm chính của pha này.
Một sự căng thẳng giữa logic của sự loại trừ (làn nền cho các cuộc đàm phán) và logic của sự bao gồm nằm ở tâm của mối quan hệ thành công của mỗi giới elite với cơ sở của mình.
4.6. Các điểm lý thuyết học được từ pha này.
A. Logic của quá trình đàm phán cần đến những tương tác trực tiếp giữa một số nhỏ những người tham gia. Như một kết quả, nhiều thành viên của elite bị loại trừ khỏi quá trình. Đồng thời, một sự nguy hiểm của sự loại trừ tượng trưng của những người đi theo tăng lên. Thành công của các cuộc đàm phán bên trong giới đóng kín phải “được bán” cho khán giả rộng hơn; một cơ chế của sự bao gồm (tượng trưng) phải được thực hiện.
B. Chiến lược các khoản lợi gia tăng có vẻ hơn hẳn bất cứ lập trường tối đa nào.
5. Sự Lưu danh Chính trị Kép của Bàn Tròn: Sự Phân ly và Hòa giải.

Đoàn kết đã chẳng bao giờ lễ nghi hóa chiến thắng của nó. Vì vậy, Ba Lan đã bước vào một con đường của những biến đổi trọng đại mà không có lễ nghi kết thúc của pha đền bù và không có một sự bao gồm được lễ nghi hóa của “xã hội” vào quá trình chính trị. Sự thiếu rite de passage một nghi lễ chuyển từ “chế độ cộng sản” sang “hậu-cộng sản” có các hậu quả nghiêm trọng cho đời sống công cộng sau 1989 ở Ba Lan.[15]
Những sự chia rẽ cơ bản trong chính trị Ba Lan là “văn hóa” hơn ở các nước Đông Âu hậu cộng sản. Tôi thấy hai sự chia rẽ như vậy: một sự chia rẽ mà mở ra bên trong phe Đoàn kết giữa “các nhà cải cách” và “các nhà cách mạng.”[16] Sự chia rẽ khác tách phe Đoàn kết và những người cộng sản trước kia. Cả hai đã vẫn nổi bật trong suốt thập kỷ qua và giúp giải thích các thủ đoạn trên sân khấu chính trị Ba Lan.
Một cách có ý nghĩa, cả hai sự chia rẽ có nguồn gốc của chúng trong sự bao gồm nghi thức không được thực hiện mà đã được cho là để tạo ra chút ít thống nhất trong xã hội bị chia rẽ. Xã hội này đã tiến hành một sự cố gắng để bỏ đi di sản kép của chính kiến độc đoán của cuối chế độ cộng sản và chính kiến đặc biệt, thuộc ngưỡng kích thích (luminal) của Bàn Tròn. Vì thế, di sản đầu tiên của quá trình Bàn Tròn: chính thể bị cắt ra từng mảnh bởi hai sự chia tách văn hóa không tầm thường.
Thứ hai, đời sống công sau 1989 ở Ba Lan đã được đặc trưng bởi mức tin cậy rất thấp vào các đảng chính trị và một mức tương đối cao của chính kiến phản kháng.[17] Lại lần nữa, gốc rễ của sự bất mãn này với nền chính trị được thể chế hóa có thể nằm ở sự thiếu một kết thúc (được lễ nghi hóa) thích hợp của quá trình BT và sự thiếu vắng của một biểu tượng hay lễ nghi báo hiệu sự ra đời của Ba Lan hậu cộng sản. Những nghiên cứu hiện tồn để lại không nghi ngờ nào rằng đối với những người đánh giá một cách tiêu cực hay phê phán tình hình hiện tại của đất nước, thì BT tượng trưng cho sự bắt đầu của con đường sai trái mà Ba Lan đã đi kể từ sự kết thúc của chế độ cộng sản. Ireneusz Krzeminski, một nhà xã hội học rất mẫn cảm, viết:
Sự chấp nhận đạo đức của các cựu thù (bởi một bộ phận của phe Đoàn kết – JK), kể cả nhân vật tượng trưng, tướng Jaruzelski...đã vẽ những nét cơ bản của những sự chia rẽ chính trị, nhưng trước tiên nó đã gây ra những sự chia rẽ đạo đức (nhấn mạnh của bản gốc - JK) mạnh khác thường và nặng trĩu cảm xúc. Một lời nguyền rủa đạo đức đã được áp đặt lên lẫn nhau bởi cả hai phía. Sự đại diện tượng trưng của xã hội đã bị phá hủy và như một kết quả bức tranh tượng trưng của sự kết thúc trật tự cũ và khởi đầu trật tự mới đã không nổi lên. Một biểu tượng như vậy, mà sẽ ở trong ý thức hàng ngày và có thể tạo thành một tiêu điểm cho các nghi lễ công, trên thực tế không tồn tại; thế mà nó vô cùng cần.[18]
Đối với những người mà có khuynh hướng giải thích thực tế hậu cộng sản theo cách được mô tả bởi Krzeminski, thỏa hiệp BT không được xem như một thành tựu, mà đúng hơn như một thí dụ khác nữa về sự mặc cả tinh ranh mờ ám, nếu không hoàn toàn hiểm độc, đằng sau sân khấu mà đã làm lợi chỉ cho giới tinh hoa của “bọn Đỏ” và “bọn Hồng.”[19] Đặc biệt, họ có khung hướng diễn giải lại các thủ đoạn của elite đàm phán của Đoàn kết như đã có các hậu quả dài hạn có hại (về một tóm tắt, xem Bảng 1).
Bảng 1

Thủ đoạn/kỹ năng chính trị (“Đức hạnh” ngắn hạn?)Sự diễn giải lại khả dĩ như một “điều xấu” dài hạn
Tài năng cho và sự cởi mở đối với việc học mang tính chiến lượcSự thiếu “xương sống”
Chủ nghĩa hiện thực: chủ nghĩa tiệm tiến về các bước và về các mục tiêuSự thiển cận, sự hèn nhát, sự nhượng bộ
Sự loại trừ đa số khỏi đấu trường đàm phán (sự bắt buộc kỹ thuật?)Giao dịch thỏa thuận bè phái


Di sản thứ ba của Bàn Tròn là ít tượng trưng và mơ hồ hơn và mang tính định chế-thủ tục hơn. Như Michael Kennedy biện luận dài trong bản thảo của mình,[20] Bàn Tròn, dẫu được “khép lại” một cách thích hợp hay không, đã cung cấp cho Ba Lan một mô hình hay một kịch bản, mà tạo thành một hòn đá tảng của nền dân chủ nghị viện vững chãi của đất nước và sự thực hành chính trị phi-bạo lực rõ rệt.[21] Vì thế, nghịch lý cuối cùng của Bàn Tròn: những sự chia rẽ văn hóa có khả năng bùng nổ, sâu sắc (sự phân ly) gây ra bởi Bàn Tròn thường được chuyển qua các cơ chế chính trị không-phá vỡ (hòa giải) mà cũng có nguồn gốc trong quá trình Bàn Tròn.[22]
6. Tóm tắt kết luận (xem cả Bảng 2).
1. Một phân tích về chiều văn hóa của sự thay đổi xã hội được đàm phán phải tập trung, tối thiểu, vào bốn tác nhân chính trị (elite đương nhiệm, những người đi theo đương nhiệm, elite thách thức, những người đi theo thách thức) và ba mối quan hệ: Giữa cả hai elite và giữa mỗi elite và cơ sở của nó. Trò chơi đàm phán được chơi đồng thời theo các tuyến của cả ba mối quan hệ.
2. Trò chơi đàm phán, do tất yếu, đòi hỏi phải loại trừ (để có hiệu quả, các nhóm đàm phán phải tương đối nhỏ). Chính kiến loại trừ (ai được vào, ai bị bỏ sót, ai ra các quyết định như vậy) là có tính quyết định, nhưng cái là đặc biệt quan trọng là liệu các cuộc đàm phán có kết thúc với một sự bao hàm (tượng trưng, được lễ nghi hóa) của một công chúng rộng hơn (những người đi theo) đối với quá trình chính trị hay không. Hoạt động chính trị của thời kỳ sau-đàm phán ở chừng mực lớn đã được xác định bởi cách mà theo đó vấn đề được giải quyết.
3. Sự thay đổi xã hội (chế độ) được trụ đỡ bởi một sự biện chứng không ngớt giữa phân cực/đối đầu và thỏa hiệp/đối thoại. Các chiến lược văn hóa của phân cực/đối đầu được sử dụng bởi các elite đàm phán để (1) duy trì các bản sắc tách biệt của họ và (2) rèn luyện các mối quan hệ với những người đi theo họ. Các chiến lược văn hóa của thỏa hiệp/đối thoại là cần thiết để giữ cho các cuộc đàm phán với elite thù địch tiếp tục.
4. Sự thay đổi xã hội được đàm phán, vì thế, bị đè nặng bởi hai sự căng thẳng: (1) giữa sự loại trừ và sự bao gồm và (2) giữa phân cực/đối đầu và thỏa hiệp/đối thoại.
5. Chủ nghĩa tiệm tiến (hay gia tăng dần) có vẻ là một cơ chế mà cho phép các tác nhân tiến lên phía trước và lèo lái giữa cả hai đối cực của cả hai logic mà không bỏ cái nào cả.
6. Nhằm tạo thuận lợi cho các cuộc đàm phán, thuật hùng biện và chủ nghĩa tượng trưng, chứa các kịch bản văn hóa được áp dụng bởi cả hai elite, phải tiến hóa từ từ (việc học mang tính chiến lược). Một sự thay đổi đột ngột nhất thiết tạo ra những cáo buộc về “làm phản.”
7. Wagner-Pacifici đã lưu ý rằng “Turner, đã nghĩ một cách tiến bộ về các vở kịch theo bốn cách (không nhất thiết loại trừ nhau): (1) các vở kịch xã hội như sự tiết lộ các cấu trúc và mối quan hệ xã hội đang xảy ra nhưng thường lờ mờ, (2) các vở kịch xã hội như các phương thuốc chức năng (được thử) cho các xã hội trong khủng hoảng, (3) các vở kịch xã hội như các thời điểm phản tỉnh cho các xã hội trong khủng hoảng, và (4) các vở kịch xã hội như những thời điểm ngưỡng kích thích tiềm năng của sự biến đổi xã hội.”[23] Sự khái niệm hóa bốn lần này của vở kịch xã hội giúp tóm tắt tầm quan trọng của Bàn Tròn Ba Lan.
Thứ nhất, quá trình BT đã tiết lộ độ sâu của sự phân ly giữa Đoàn kết và đảng-nhà nước và bản chất của mối quan hệ giữa cả hai elite và cơ sở tương ứng của họ. Thứ hai, các cuộc đàm phán BT đã có chữa trị sự khủng hoảng, đã mở ra một sự thay đổi chế độ một cách hòa bình, và đặt Ba Lan lên một quỹ đạo chính trị rất thành công.[24] Thứ ba, là rõ, rằng sự hoàn tất các cuộc đàm phán BT đã là có thể bởi sự thực rằng cả hai elite đã tiến hành việc tái khái niệm hóa của các bản sắc riêng của họ và đã phát triển các chiến lược mới về tương tác (việc học mang tính chiến lược). Điều này biểu thị sự phản tỉnh nghiêm túc. Thứ tư, dễ để nhận biết rằng quá trình BT đã quả thực thuộc ngưỡng kích thích: các quy tắc của trò chơi mà theo đó nó đã được chơi đã không liên quan mấy đến hoặc các quy tắc của chế độ độc đoán đang rút lui hoặc các quy tắc của nền dân chủ hiện đại đang tới.
Bảng 2

Bất hòa và Khủng hoảngTrước-đền bùĐền bùPhân ly hay hòa giải
Tầm nhìn chi phối của chính thểSự chia tách hai cực: Đoàn kết vs. nhà nước cộng sản (chúng tôi vs. họ)Sự chia tách hai cực vẫn chi phối.
Sự thay đổi về POS
Đưa đối thoại vào từ từ
Các kịch bản văn hóa mới được kiểm tra/một số được áp dụng
Biện chứng của các biểu tượng/ đàm luận về đặc tính chung (elite - elite) và “tính tách biệt” (elite – những người đi theo)Phân cực:
Đoàn kết vs. những người cộng sản trước kia
Đoàn kết: Mối quan hệ giữa elite và những người đi theoBao gồmSự căng thẳng và phân cực tăng lên (một động lực của sự loại trừ được kích)Phân cực (Chính kiến nở rộ về bao gồm/loại trừ)Phân cực (bên trong Đoàn kết) như di sản văn hóa chi phối của “sự loại trừ BT”
Đảng-nhà nước: Mối quan hệ giữa elite và những người đi theoBao gồmSự căng thẳng và phân cực tăng lên (một động lực của sự loại trừ được kích)Phân cực (Chính kiến nở rộ về bao gồm/loại trừ)Bao gồm
Phương thức tương tác giữa hai elite thud địchĐối đầu bên trong bối cảnh độc đoánCác dấu hiệu của việc nối lại quan hệ
Sự đột phá tượng trưng Sự thay đổi từ từ về cách diễn đạt
Đối thoại, tiếp xúc cá nhân, giải ma quỷ hóa
Cả hai cần “chơi” cơ sở tương ứng của họ
Cạnh tranh bên trong các cơ cấu Dân chủ: di sản chính trị của
BT sự phân ly  sự hòa giải
Những quan sát cơ bản/các điểm lý thuyếtXung đột khó trị: tìm kiếm dấu hiệu về sự dễ trịChính kiến văn hóa về sự nhận thức lẫn nhau
Hai động lực cơ bản bắt đầu hoạt động:
Bao hàm/loại trừ đối đầu/đối thoại
Hai động lực cơ bản được tiết lộ: bao gồm/loại trừ đối đầu/đối thoại
Sự khép lại được lễ nghi hóa: Cần thiết cho sự hòa giải?
Sự chia tách văn hóa, mà sinh ra từ việc đã không có sự khép lại được lễ nghi hóa của sự thay đổi hệ thống được đàm phán, chi phối chính kiến sau thay đổi.


Phụ lục 1
Tóm tắt những Cách tiếp cận Cũ và Mới đến Phân tích Văn hóa

Cách tiếp cận cũCách tiếp cận mớiNghiên cứu tập trung vào những cách tiếp cận mới
Văn hóa như một máy ép đúc (của các thái độ và các giá trị)Văn hóa như một bộ đồ nghềa (chứa các kịch bản, các sơ đồ văn hóa)Các văn bản, các đàm luận, các biểu tượng
Lĩnh vực tượng trưng tự nó
Ký hiệu học (Semiosis)
Các biểu tượng trong hoạt động
Bối cảnh
Tục lệ
Biện chứng: các mô hình về các chiến lược hành động đối lại các chiến lược thực
Tập trung vào quá khứ
Hiện tại
Các truyền thống “được truyền lại”
Tập trung vào hiện tại
Tương lai
Các truyền thống được (tái) phát minh, được (tái) dựng
Các cơ chế truyền dẫn (văn hóa, xã hội, và chính trị)
Sự không thay đổi
Sự tiếp tục của các truyền thống: được coi là không có vấn đề
Tính đàn hồi, sự lựa chọn (bên trong các ràng buộc)
Tính liên tục bị đặt thành vấn đề
Các giới hạn của tính dễ uốn và sự đáng tin của các hình thức văn hóa
Sự cố kết “dày” (của một hệ văn hóa)bDự cố kết “mỏng”
Xung đột/căng thẳng (giữa các yếu tố khác nhau của hệ thống)
Văn hóa vs. phản-văn hóa;
Hành động vs. phản ứng lại;
Sự nổi lên và sự duy trì của bá quyền
Các đường ranh giới rõ ràngCác đường ranh giới lờ mờ, yếu, thường bị tranh cãiCác chiến lược duy trì ranh giới
Các mục tiêu của hành độngCác mục tiêu và phương pháp (các chiến lược) của hành độngTính (bất) tương thích của các chiến lược
Hành động của (các) diễn viên: phù hợp với các chuẩn mực
“Logic của sự thích hợp gắn với hành động bắt buộc”c
Hành động của (các) diễn viên: sự lựa chọn bị hạn chế
Logic của các lựa chọn giữa “các kịch bản” được rút ra từ một “bộ đồ nghề văn hóa” bị hạn chế, nhưng tiến hóa liên tục
Các kịch bản, các sơ đồ văn hóa, các chiến lược văn hóa
Tinh thần nghiệp chủ văn hóa


a Swidler.
b Sewell.
c James G..March and Johan P. Olsen, Rediscovering Institutions: The Organizational Basis of Politics (New York: Free Press, 1989), 23.

Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
[1] Castle, Chapter 4, 18.
[2] Communism’s Negotiated Collapse, 141.
[3] Xem sự miêu tả sinh động của Geremek về quá trình này, 146. Hall đã nhận xét trong cuộc thảo luận của ông với Castle (Chapter 4, 16): “Điều quan trọng nhất đã là, xã hội, và đặc biệt phần đó của xã hội mà đã đồng nhất với Đoàn kết và với phe đối lập, đã đừng có ấn tượng rằng đường ranh giới giữa phe chính quyền và phe đối lập đã được xóa bỏ. Điều đó đừng có gây ấn tượng rằng hệ thống đã được biến đổi chỉ như kết quả của việc thâu nạp một bộ phận của elite đối lập trước kia thành elite cầm quyền. Điều đó sẽ có nghĩa là một sự thất bại, một sự thất bại cơ bản cho tất cả chúng tôi, vì chúng tôi đã tin chắc rằng sức mạnh của chúng tôi trên hết là kết quả từ sự ủng hộ xã hội. Đối với xã hội phải là rõ, rằng không quan trọng về tạo ra một Mặt trận Thống nhất Dân tộc mới, mà thay vào đó có hai lực lượng ở đây, mỗi lực lượng được phân biệt về mặt nội bộ nhưng mỗi bên được tách biệt rõ ràng khỏi bên kia: phe chính quyền và phe đối lập.”
[4] Cách diễn đạt/đàm luận này đã được dùng, chẳng hạn, trong các cuộc đàm phán Magdalenka (các thí dụ trong Dubiński, Magdalenka).
[5] Nhiều thí dụ trong Ostatni Rok Władzy.
[6] Xem báo cáo về chuyến thăm của Jaruzelski đến Đông Đức tháng Năm 1989 (Ostatni Rok Władzy, 363-66).
[7] Phỏng vấn của Castle với Konopka, Chapter 4, 12.
[8] Castle, Chapter 4, 9. Phải lưu ý, tuy vậy, rằng Geremek đã đánh giá các nỗ lực truyền thông của Đoàn kết một cách tiêu cực, 145.
[9] Rakowski, Interview Transcript, 10.
[10] Xem thư của Kiszczak cho hội thảo Michigan, tháng Tư 1999.
[11] Castle, Chapter 4, 7.
[12] Ibid.
[13] Reykowski, Communism’s Negotiated Collapse, 140; Gebert, Communism’s Negotiated Collapse, 133 và trao đổi riêng.
[14] Xem, đặc biệt, Staniszewska, Communism’s Negotiated Collapse, 147.
[15] Các hậu quả rơi rớt lại của sự thiếu lễ nghi hóa này của chiến thắng của Đoàn kết được phân tích một cách cẩn trọng bởi một trong những nhân vật chính của vở kịch, Bronisław Geremek, 147-51.
[16] Về sự mô tả của nó xem Grzegorz Ekiert and Jan Kubik, Rebellious Civil Society. Popular Protest and Democratic Consolidation in Poland, 1989-1999 (Ann Arbor: The University of Michigan Press, 1999).
[17] Ibid.
[18] Ireneusz Krzeminski, “Moralne Skutki Transformacji Ustrojowej” (bản thảo, 1999).
[19] Với một số ngoại lệ, “bọn Hồng” là những thành viên của elite Đoàn kết những người đã đàm phán với “bọn Đỏ.”
[20] Xem Kennedy, Cultural Formations of Postcommunism.
[21] Zbigniew Janas đã nhấn mạnh đặc điểm này của BT trong bài phỏng vấn của ông (Interview Transcript, 13).
[22] Reykowski xác nhận quan sát này: theo ông sự phân cực chính trị trước 1989 tiếp tục nhưng nó đã diễn ra trong hệ thống định chế được thay đổi hoàn toàn (Interview Transcript, 1).
[23] Robin Erica Wagner-Pacifici, The Moro Morality Play: Terrorism as Social Drama (Chicago: University of Chicago Press, 1986), 9.
[24] Về điểm này và tầm quan trọng so sánh của nó, xem Kennedy.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:08
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_18.html
=======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 17)


Dịch giả: Nguyễn Quang A

Nhảy múa trên Bãi-Mìn
László Bruszt
Trong bài báo này tôi sẽ đề cập một số khía cạnh về nguồn gốc của tính hòa bình của sự thay đổi chế độ dân chủ ở Đông và Trung Âu. Trong phần một, tôi sẽ tập trung vào tác động của các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan lên những tương tác chiến lược giữa các tác nhân xã hội và chính trị ở các nước khác trong khu vực. Tôi sẽ biện luận rằng các sự kiện cụ thể của sự thay đổi chế độ được đàm phán ở Ba Lan đã là “các tín hiệu” cho các tác nhân chính trị trong khu vực rằng sự thay đổi chính trị một cách hòa bình đã là có thể. Các sự kiện Ba Lan của năm 1989 đã có ảnh hưởng khu vực để làm giảm tính hấp dẫn của việc sử dụng bạo lực, trong khi làm tăng sự rẵn sàng của các lực lượng không thuộc chế độ cho việc huy động, cũng như các nỗ lực của các lực lượng bên trong elite để tìm ra những cách hòa bình để duy trì chí ít một phần quyền lực của họ. Trong phần thứ hai của bài báo, tôi sẽ đề cập đến vấn đề về nguồn gốc của sự thay đổi chính trị hòa bình ở Ba Lan.
Sự tìm kiếm những con đường hòa bình của sự thay đổi chính trị đã một phần được thúc đẩy bởi những cân nhắc thực dụng, dựa trên những đánh giá về tình hình địa chính trị hay sự thay đổi cán cân sức mạnh tương đối giữa elite* và phe đối lập. Chí ít cũng quan trọng, trong việc tìm kiếm các giải pháp hòa bình – đầu tiên ở bên trong phe đối lập và muộn hơn cả giữa các nhà cải cách bên trong chế độ nữa – một vai trò quan trọng đã được đóng bởi sự từ chối bạo lực vì lý do đạo đức. Điều này đã không chỉ là về sự từ chối sử dụng vũ lực để đẩy mạnh các mục tiêu chính trị. Quan trọng đúng như thế là vai trò đã được đóng bởi sự sẵn sàng của các tác nhân để  bước vào hành động chính trị nhằm ngăn cản việc sử dụng vũ lực bởi các lực lượng khác. Hai khía cạnh ngày của nguyên tắc phi-bạo lực đã đóng một vai trò quan trọng ngang nhau. Đã hầu như không có cơ hội cho một sự thay đổi chế độ một cách hòa bình cho đến khi các lực lượng chi phối bên trong chế độ và phe đối lập đã sẵn sàng từ bỏ việc sử dụng vũ lực như một phương tiện để duy trì hay để biến đổi chế độ. Một mặt, một trong những nhân tố mạnh nhất đẩy các tác nhân theo hướng thay đổi chế độ một cách hòa bình đã là sự sẵn sàng để bước vào hành động chính trị để ngăn chặn cơ hội sử dụng vũ lực bởi các tác nhân nội địa khác.
Tại Đông và Trung Âu vào nửa sau của các năm 1980, đã có cảm giác chung rằng ngày của chế độ cũng đang điểm. Tuy vậy, không ai đã có thể tiên đoán sự thống khổ của chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa còn tiếp tục bao lâu nữa hay nó sẽ ra đi như thế nào. Ở hầu hết các nước trong khu vực, những người nắm quyền đã chuẩn bị cho tình thế xấu nhất bằng cách tăng cường các bộ máy đàn áp của đảng nhà nước và bằng gia tăng sự quấy nhiễu các lực lượng đối lập. Ngay cả trong các nước, như Ba Lan hay Hungary, nơi các nhà cải cách cộng sản đã sẵn sàng đưa ra những cải cách kinh tế, đã có các lực lượng bên trong chế độ sẵn sàng sử dụng vũ lực để cứu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Thậm chí cho đến tận 1987, quan điểm chi phối ở Đông và Trung Âu rằng xác suất của sự thay đổi chính trị hòa bình tại các nước trong khu vực đã là tối thiểu, và các cơ hội cho việc tìm ra một lối thoát khỏi các chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa đang suy sụp đã là khá mong manh. Cảm nhận chung của những người tham gia chính trị và các nhà quan sát cả ở bên trong lẫn bên ngoài khu vực đã được bày tỏ khéo nhất bởi công thức, “Ottoman hóa,” được dùng đầu tiên bởi Timothy Garton Ash.[1] Từ “Ottoman hóa” đã là một sự nhắc đến sự tương tự tiềm năng giữa sự suy tàn của Đế chế Thổ Nhĩ Kỳ và Đến chế Soviet. Người ta, do đó, đã có thể kỳ vọng một số nỗ lực để cải cách hệ thống, đi cùng có lẽ với những cuộc nổi loạn và cách mạng thất bại ở ngoại vi của Đế chế, với bạo lực quy mô lớn, nhưng không có bất kỳ kết quả dài hạn nào và không có bất kỳ cơ hội nào để ngăn chặn sự suy tàn kinh tế và chính trị ngày càng lún sâu của toàn Đế chế.
Nhưng đã chính ở Ba Lan, và muộn hơn một chút ở Hungary, nơi đầu tiên bên trong phe đối lập và muộn hơn cả bên trong chế độ các lực lượng mà đã trở nên chi phối là những người đã không chỉ từ chối sử dụng bạo lực, mà cũng sẵn sàng tiến hành hành động chính trị để ngăn chặn bạo lực. Sự thay đổi chế độ được thương lượng một cách hòa bình đã là kết quả của những tương tác chiến lược của các lực lượng này ở hai nước này.[2] Trong khi ở Ba Lan các cuộc đàm phán đã mang lại một sự thể chế hóa được thỏa hiệp của nền dân chủ, ở Hungary thỏa thuận về tổ chức các cuộc bầu cử tự do đã là kết quả cuối cùng của các cuộc đàm phán. Như đã nói rõ ở trên, các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan đã đóng vai trò chi phối trong thúc đẩy các tác nhân ở các nước khác trong khu vực theo hướng các chiến lược dẫn đến sự thay đổi chế độ một cách hòa bình. Mặt khác, chính sự thay đổi chế độ ở Hungary đã làm tăng tính hấp dẫn của các cuộc bầu cử tự do cạnh tranh cho elite, như một cách, cứu quyền lực của họ khỏi tai họa và như một cách hòa bình để ra khỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa đang suy tàn.
“Hiệu ứng Ba Lan”
Vào lúc này có khối lượng lớn tài liệu tham khảo về làn sóng đột ngột và phần lớn không ngờ của sự dân chủ hóa hòa bình trong năm 1989 ở Đông và Trung Âu.[3] Bên trong các tài liệu tham khảo này, có sự đồng thuận rộng rãi về sự tồn tại của những sự kết hợp giữa những sự chuyển đổi khác nhau ở các nước khác nhau trong khu vực. Theo ngôn ngữ của phương pháp luận so sánh, những giải thích thuần so sánh theo chủ nghĩa cấu trúc sử dụng các phương pháp về sự tương tự hay sự khác biệt sẽ là không thỏa đáng trong phân tích những sự chuyển đổi này, bởi vì các trường hợp của các nước là không độc lập. Một cách để mô tả mối quan hệ giữa những sự chuyển đổi này là dùng sự giống nhau của sự khuếch tán hay sự lây lan. Theo một cách tiếp cận như vậy, những kinh nghiệm của các xã hội dân sự mạnh hơn hướng dẫn tiến trình cần được noi theo bởi các công dân trong các nước nơi xã hội dân sự đã yếu hơn nhiều. Sử dụng một cách tiếp cận như vậy, người ta có thể kỳ vọng chỉ những sự khác biệt về định thời gian chứ không về phương thức dân chủ hóa. Một cách tiếp cận khác đã có thể dựa trên một sự hiểu phức tạp hơn về các tác động của những kinh nghiệm của các trường hợp sớm hơn lên những hình mẫu thay đổi trong những trường hợp muộn hơn. Có thể được chứng tỏ, thứ nhất, rằng không chỉ các công dân bên trong xã hội mà cả các tác nhân bên trong elite cũ đã học bằng cách quan sát các quá trình và các kết quả của những tương tác của những người cai trị và phe đối lập ở các nước khác.[4] Các bài học từ các trường hợp sớm hơn đôi khi đã làm thay đổi một cách đột ngột nhận thức về các khả năng, và với điều đó, nhận thức về cán cân lực lượng tương đối giữa các nhà cai trị và phe đối lập. Mặt khác, logic của tương tác chiến lược giữa các trường hợp muộn hơn đã không chỉ được định hình bởi các đặc tính của những thay đổi trước. Nó cũng đã được định hình bởi các đặc trưng của các tương tác bên trong elite và giữa elite và phe đối lập trước khi bắt đầu giải thoát. Như một kết quả, các trường hợp này đã khác nhau không đơn giản ở mức độ mà về tính chất: 1989 đã thấy nhiều sự chuyển đổi với những con đường khác nhau đến các loại khác nhau của các định chế chính trị.[5] Như thế, như sẽ được cho thấy dưới đây, “Hiệu ứng Ba Lan” đã khác nhau trong các nước này phụ thuộc vào các đặc trưng của những tương tác chiến lược giữa các loại khác nhau của các tác nhân chính trị.
Khía cạnh thứ hai của mối quan hệ qua lại giữa các trường hợp này đã là vai trò được đóng bởi các mối quan hệ quốc tế.[6] Một trong những khác biệt chính của những sự giải thoát ở Đông Âu vis-à-vis (đối diện) với những sự giải thoát ở Nam Âu và Mỹ Latin đã là sự thực rằng các nước này đã tạo thành một phần của một đế chế và chúng đã có chủ quyền hạn chế. Như Philippe C. Schmitter và Terry Karl đã lưu ý, “không có một sự thay đổi được thông báo trước và đáng tin trong các chính sách đối ngoại và an ninh của Liên Xô, thì cả sự định thời gian lẫn sự xảy ra của sự thay đổi chế độ không thể giải thích nổi.”[7] Một sự hiểu đơn giản hơn của điểm này sẽ là để nói về “Hiệu ứng Gorbachev,” theo nghĩa rằng chính sự tuyên bố công khai về sự kết thúc của “Học thuyết Brezhnev” bởi Gorbachev mà đã có tác động trong các nước của khu vực làm thay đổi đột ngột nhận thức về dải của các khả năng, và với điều đó, thay đổi đột ngột các chiến lược của các tác nhân chính trị. Diễn giải này, tuy vậy, gây lạc lối. Trong khi sự thay đổi những ưu tiên trong chính sách đối ngoại và an ninh của Liên Xô đã đóng một vai trò quan trọng trong những diễn tiến chính trị muộn hơn của khu vực, tác động của những thay đổi này đã không là trực tiếp, chủ yếu bởi vì mức độ cao của sự không chắc chắn về sự đáng tin của những thay đổi chính sách này. Không chỉ vị trí riêng của chính Gorbachev đã là không chắc chắn cho đến tận cuối 1988, mà cũng đã không biết những thay đổi chính trị đã có thể đi xa đến đâu trong các nước khác, các giới hạn của sự chịu đựng của Moscow đã thế nào, tốc độ và hướng của những thay đổi trong các nước này đã có thể ảnh hưởng thế nào đến vị thế của Gorbachev. Theo ngôn ngữ của lý thuyết trò chơi, tình hình của năm 1989 đã có thể được mô tả theo cách sau đây: với sự hoàn toàn thiếu các thể chế tự duy trì cho phép những cam kết đáng tin và với sự thiếu danh tiếng kiếm được trước đó cho sự tín nhiệm, thì những phản ứng của Moscow đối với những hành động của những người đi đầu tiên là cái thiết lập tính đáng tin của các ý định của các lãnh đạo ở Moscow. Như thế kết luận thứ hai: tính đáng tin của sự thay đổi chính sách ở Moscow được xác lập bởi các sự kiện và kết quả được các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan tạo ra, hay chính xác hơn, bởi sự quan sát các phản ứng của các lãnh đạo ở Moscow đối với các sự kiện Ba Lan và các kết quả của chúng. Như thế, đầu tiên “Hiệu ứng Ba Lan” đã kích hoạt “Hiệu ứng Gorbachev.”
Các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan và các kết quả của chúng đã là các sự kiện báo hiệu quan trọng nhất về dải của những khả năng cho hành động chính trị trong một môi trường địa chính trị hết sức bấp bênh. Trong một tình hình mà trong đó cả những ý định lẫn các giới hạn chịu đựng của trung tâm của Đế chế đã không rõ ràng, thì các sự kiện tạo ra bởi những người đi đầu tiên, các tác nhân Ba Lan trong sự thay đổi chế độ được thương lượng, là cái đã gửi các tín hiệu cho những người Đông Âu, cả cho những người đang cầm quyền lẫn cho dân chúng nói chung. Đấy đã là những tín hiệu quan trọng, làm thay đổi đầy kịch tính các chiến lược của các tác nhân chính trị ở các nước này. Các sự kiện Ba Lan đã là sự chứng minh về dư địa thay đổi cho việc thao diễn hoạt động chính trị bên trong thế giới cộng sản. Chúng đã là các tín hiệu rằng đã là có thể để bắt đầu các cuộc thương thuyết về hợp pháp hóa phe đối lập, để cho phép tự do ngôn luận, để thông qua các luật về tự do lương tâm và tôn giáo hay về quyền tự do lập hội, để ứng cử dưới màu cờ sắc áo của phe đối lập trong các cuộc bầu cử nửa-tự do; rằng đã là có thể cho phe đối lập thắng các cuộc bầu cử và cho những người bên trong chế độ cũ chấp nhận một cách hòa bình một sự thất bại làm bẽ mặt; và cuối cùng, rằng đã là có thể cho phe đối lập để lập một chính phủ. Đấy đã là các tín hiệu cho hàng triệu người trong khu vực rằng đã có một con đường hòa bình để ra khỏi chế độ cộng sản, rằng Moscow đã chịu đựng không chỉ “một sự thay đổi mô hình” của nhà nước xã hội chủ nghĩa, mà cũng chịu chấp nhận một sự thay đổi chế độ chính trị. Mặt khác, các sự kiện và sự thực này được tạo ra bởi các cuộc Đàm phán Bàn Tròn in Ba Lan đã là chứng minh cho những người cứng rắn và các nhà cải cách bên trong các chế độ ở các nước cộng sản khác rằng học thuyết Brezhnev đã hết – họ đã phải đối mặt với các đồng bào của họ, sẵn sàng theo tấm gương Ba Lan cho chính họ.
Tác động giống nhau quan trọng nhất của các sự kiện Ba Lan năm 1989 đã là sự thay đổi đầy kịch tính của những nhận thức về cán cân lực lượng tương đối trong các nước khác của khu vực. Nó đã làm thay đổi nhận thức về cán cân lực lượng tương đối giữa những người thuộc phe cứng rắn và các nhà cải cách và giữa các nhà cai trị và các lực lượng của xã hội dân sự trong các nước này. Nhận thức rằng các nhà cai trị trong nước đã không thể tính đến sự ủng hộ quân sự từ Moscow đã làm thay đổi đột ngột các chiến lược của các tác nhân này, đã làm tăng sự sẵn sàng của các lực lượng bên trong các xã hội dân sự để được huy động, đã làm yếu một cách đột ngột vị thế của các mảng elite mà đã sẵn sàng dùng bạo lực để cứu chế độ khỏi sụp đổ, và đã buộc các nhà cải cách bên trong chế độ để tìm kiếm những con đường hòa bình để duy trì chí ít một phần quyền lực của họ. Tác động cụ thể của các sự kiện Ba Lan, tuy vậy, đã khác nhau từ nước này sang nước khác, phụ thuộc vào logic của những tương tác chiến lược giữa các lực lượng của sự thay đổi chính trị trước khi các sự kiện Ba Lan diễn ra. Vào lúc khi phe đối lập và các nhà cai trị ở Ba Lan đã cam đoan một sự trao đổi về việc hợp pháp hóa các đại diện của xã hội dân sự để lấy việc các lực lượng này ban cho chế độ tính chính đáng nào đó, thì ở Hungary những người theo phái cứng rắn nắm quyền đã bận rộn với việc phi pháp hóa phe đối lập đang nổi lên, và phe đối lập đã bận rộn huy động xã hội dân sự cho việc làm mất tính chính đáng của chế độ.[8] Các sự kiện Ba Lan đã đóng góp làm yếu thêm vị thế của những người theo phe cứng rắn ở Hungary và đã làm mạnh các nhà cải cách sẵn sàng bắt đầu các cuộc đàm phán về sự thay đổi chính trị hòa bình với phe đối lập. Kết hợp với thành công của chiến lược huy động của phe đối lập Hungary, các cuộc Đàm phán Bàn Tròn ở Hungary đã có thể bắt đầu sáu ngày sau chiến thắng bầu cử của phong trào Đoàn kết ở Ba Lan. Nhưng bất chấp những sự giống nhau của họ như những sự giải thoát được thương lượng, các trường hợp Ba Lan và Hungary khác nhau hoàn toàn về các đặc tính thể chế của chính trường được tổ chức lại của họ. Không giống các lực lượng Ba Lan tương ứng của họ, các lực lượng đối lập Hungary đã chẳng bao giờ cảm thấy đủ mạnh để lên tiếng “nhân danh xã hội” và để tiến hành các cuộc đàm phán với những người cai trị về một sự dân chủ hóa được thỏa hiệp. Điểm yếu tự cảm nhận này về tính chính đáng của các lực lượng đối lập đã đẩy họ đến việc đòi các cuộc bầu cử tự do không thỏa hiệp. Mặt khác, chính sức mạnh bầu cử được tự cảm nhận của những người cải cách bên trong chế độ vis-à-vis (đối mặt) với các lực lượng đối lập mới được tổ chức là cái đã khiến cho họ toàn tâm đón nhận ý tưởng  về các cuộc bầu cử tự do – như một phương tiện tiềm năng của việc cứu quyền lực của đảng bằng cách kiếm được tính chính đáng mới và vững mạnh bằng con đường cạnh tranh bầu cử.[9]
Tại Rumania, Bulgaria, và muộn hơn ở Albania, nơi sự đàn áp mạnh các lực lượng đối lập đã ngăn cản sự huy động sớm quy mô lớn của xã hội dân sự, tác động của các sự kiện Ba Lan đã là khác. Trong các nước này, các phần của elite cũ đã tổ chức thành công các cuộc đảo chính cung đình để loại bỏ những người theo phe cứng rắn bên trong chế độ và, cũng học từ trường hợp Hungary, đã sử dụng sự cạnh tranh bầu cử bị hạn chế để chế ngự một cách khốc liệt các đối thủ bầu cử yếu của họ để ở lại nắm quyền.[10] Cuối cùng, tại Đông Đức và Tiệp Khắc, những khác biệt trong logic của những sự tương tác giữa các nhà cai trị và phe đối lập được tổ chức một cách lỏng lẻo đã dẫn đến các cuộc biểu tình công khai leo thang, với các nhà cai trị thiếu cả năng lực hay quyết tâm để dùng sức mạnh quyết định, và như thế dẫn đến sự đầu hàng của các nhà cai trị và sự sụp đổ của chế độ của họ.[11] Xết cho cùng, tác động cụ thể của các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan đã khác nhau chủ yếu phụ thuộc vào các đặc trưng “quốc gia” của những sự tương tác giữa các lực lượng thay đổi chính trị trong các nước đó. Thỏa hiệp được đàm phán ở Ba Lan đã đóng góp cho những con đường khác nhau để giải thoát khỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa: cạnh tranh bầu cử bị hạn chế và cạnh tranh bầu cử hoàn toàn tự do, sự đầu hàng và sự sụp đổ của chế độ.
Nguyên tắc Bất-Bạo động và Nguồn gốc của sự Thay đổi Chế độ một cách Hòa bình
Điều kiện sơ đẳng nhất cho việc bắt đầu sự thay đổi chế độ một cách hòa bình là sự bác bỏ bạo lực bởi các lực lượng có ảnh hưởng, cả ở bên trong phe đối lập lẫn bên trong chế độ. Sự tôn trọng triệt để nguyên tắc bất bạo động chỉ một phần là về sự bác bỏ việc dùng bạo lực như một phương tiện để đẩy mạnh các mục tiêu chính trị của mình; nó cũng là về sự sẵn sàng tiến hành hành động chính trị để ngăn chặn bạo lực bởi bất kể tác nhân xã hội và chính trị nào khác. Hai khía cạnh này của nguyên tắc bất bạo động là quan trọng ngang nhau. Hầu như không có cơ hội cho sự thay đổi chế độ được thương lượng cho đến khi các lực lượng chi phối ở bên trong cả hai phe sẵn sàng từ bỏ việc sử dụng vũ lực như một phương tiện để duy  trì hay để biến đổi chế độ. Mặt khác, một trong những nhân tố mạnh nhất đẩy các tác nhân theo hướng sự thay đổi chế độ được đàm phán có thể là sự sẵn sàng để làm cái gì đó nhằm ngăn chặn hoặc giảm bớt bạo lực bởi các tác nhân trong nước khác.
Tại Đông và Trung Âu của năm 1988, đã có cảm nhận chung rằng những ngày của chế độ cũ đã điểm, nhưng không ai đã có thể tiên đoán sự khốn khổ của chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa còn kéo dài bao lâu và nó sẽ rút lui thế nào. Trong hầu hết các nước của khu vực, những người nắm quyền đã bắt đầu chuẩn bị cho cái xấu nhất bằng cách tăng cường các bộ máy đàn áp của đảng nhà nước và bằng cách tăng sự đàn áp các lực lượng đối lập. Ngay cả trong các nước, như Ba Lan hay Hungary, nơi những người cộng sản cải cách đã sẵn sàng đưa ra những cải cách kinh tế, đã có những lực lượng bên trong chế độ sẵn sàng sử dụng vũ lực để cứu nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng đây cũng đã là hai nước trong khu vực nơi, đầu tiên bên trong phe đối lập và muộn hơn cả bên trong chế độ nữa, các lực lượng đã trở nên áp đảo là những người không chỉ đã bác bỏ việc sử dụng bạo lực, mà cũng đã là những người sẵn sàng tiến hành hành động chính trị để ngăn chặn bạo lực.
Sự từ chối sử dụng bạo lực giữa các lực lượng đối lập trong các nước này có gốc rễ sâu xa. Đối lập dân chủ Hungary, giữa những thứ khác, đã bị ảnh hưởng mạnh bởi các ý tưởng “tiến hóa mới” của đối lập Ba Lan.[12] Hơn nữa, một vai trò trung tâm đã được đóng trong sự mở mang hệ tư tưởng về bất bạo động bởi ý tưởng từ các giới đối lập Ba Lan rằng việc tái lập một chế độ dân chủ và nền pháp trị không thể dựa trên sự thay đổi chính trị bừa bãi.[13] Như trong nhiều nước Mỹ Latin, vào cuối các năm 1970 một bản sắc đối  lập mới đã nổi lên ở Đông và Trung Âu, dựa trên sự bác bỏ cách mạng và bất kỳ hình thức bạo lực nào của sự thay đổi chính trị và tập trung vào các tư tưởng về các quyền con người và các giá trị dân chủ. Các tư tưởng “tiến hóa mới,” bản thân chúng là các sản phẩm của những nỗ lực thất bại trước kia để thay đổi chính trị, đã bác bỏ sự đối đầu trực tiếp với chế độ, vẫn đã dựa chủ yếu vào những cân nhắc thực dụng. Đối đầu với chế độ đã có thể chỉ khiêu khích sự đàn áp và việc sử dụng vũ lực, cả bởi các nhà cai trị trong nước lẫn bởi Moscow. Đối lập phải thử thúc đẩy sự thay đổi trong các lĩnh vực xã hội nơi sự đối đầu trực tiếp với chế độ đã có thể được ngăn chặn, trong các lĩnh vực nơi các yếu tố chi phối của cơ cấu của chế độ chính trị áp bức không bị thách thức.[14]
Tư tưởng về sự thay đổi chính trị bất bạo động, không giống tư tưởng phản-chính trị của chủ nghĩa tiến hóa mới, đã dựa trên các nguyên tắc đạo đức. Lập luận đã là kép. Thứ nhất, cách mạng, và bất kỳ hình thức thay đổi chính trị bạo lực nào, có thể chỉ dẫn đến sự nổi lên của một chế độ áp bức khác. Thứ hai, sự thay đổi chính trị bạo lực có thể không chỉ gây nguy hiểm cho các khả năng nổi lên của một chế độ dân chủ, mà cũng có thể làm xói mòn các cơ hội cho sự duy trì các quyền con người. Vì sao những người sử dụng vũ lực để đẩy mạnh một mục tiêu chính trị lại bị ngăn chặn khỏi sử dụng nó cho mục tiêu chính trị khác? Với sự thay đổi hệ tư tưởng này, sự khác biệt giữa phương tiện và mục đích cũng sẽ biến mất: các phương tiện trở thành đồng nhất với các mục đích. Không phải sự thay đổi chính trị tự nó, mà sự thay đổi chính trị bất bạo động đã trở thành mục tiêu của phe đối lập.
Bác bỏ việc sử dụng bạo lực đã mới chỉ là bước đầu tiên hướng tới sự thay đổi chế độ được thương lượng ở Đông Âu. Bước tiếp theo đã được tạo ra trong nửa thứ hai của các năm 1980, khi cả phe đối lập Hungary và Ba Lan đã tuyên bố công khai sự sẵn sàng của họ để tiến hành đối thoại chính trị với chế độ để ngăn chặn bạo lực. “Khế ước Xã hội,” cương lĩnh chính trị của đối lập dân chủ Hungary, được công bố năm 1987 trong samizdat và đã được Bộ Chính trị của Đảng Công nhân Xã hội chủ nghĩa Hungary (MSZMP) đọc trong ngày tiếp theo.[15]
Ý tưởng về đi đến một “hiệp ước khủng hoảng” giữa chế độ Ba Lan và phong trào Đoàn kết đã được công bố đầu tiên trong năm 1988 bởi nhân vật đối lập hàng đầu, Bronisław Geremek, trong một phỏng vấn cho một trong những tuần báo của chế độ. Cả “Khế ước Xã hội” Hungary lẫn “hiệp ước khủng hoảng” Ba Lan đã là các hệ quả logic và những sự tiếp tục của các tư tưởng được mô tả ở trên và các chuẩn mực đạo đức về sự thay đổi chính trị bất bạo động. Ngoài ra, cả hai đã dựa trên giả thiết rằng đã có các lực lượng bên trong chế độ sẵn sàng tiến hành đối thoại về sự thay đổi chính trị với phe đối lập để ngăn chặn bạo lực.
Quan trọng để thấy rằng hai cương lĩnh này đã không dựa trên nỗi sợ của mối nguy hiểm trực tiếp của bạo lực, mà dựa trên sự sẵn sàng để ngăn chặn khả năng sử dụng bạo lực, hoặc bởi những người bên trong chế độ hay bởi bất kỳ lực lượng xã hội nào khác. Vào nửa sau của các năm 1980 đã là chuyện tầm thường để nói về “các mối nguy hiểm của sự bùng nổ xã hội,” ngay cả trong các báo chính thống của chế độ trong cả hai nước. “Sự bùng nổ xã hội” này, theo các lập luận được dùng khi đó, có thể được kích nổ hoặc bởi các điều kiện kinh tế xấu thêm khi thiếu cải cách kinh tế, hoặc bởi các điệu kiện xã hội xấu thêm do kết quả của việc đưa ra những cải cách kinh tế. Điều này mô tả sinh động về các khả năng của hành động chính trị đã đúng như việc nhảy múa trên bãi mìn: một bước nhảy tồi và có một sự bùng nổ. Đối thoại và đàm phán, trong các cương lĩnh của đối lập Ba Lan và Hungary, đã là các phương tiện và là các mục tiêu: các cuộc đàm phán về sự thay đổi chính trị một cách hòa bình nhằm ngăn chặn bạo lực.
Chắc chắn, cả phe đối lập Ba Lan lẫn phe đối lập Hungary về nguyên tắc đã có thể chọn các chiến lược khác để đẩy mạnh sự thay đổi chính trị. Họ đã có thể chọ chiến lược “chờ xem,” được dẫn dắt bởi cách ngôn “càng tồi, càng tốt.” Thời gian đã ở phía họ: hoặc sự thiếu những cải cách kinh tế hoặc việc đưa chúng vào sẽ đều làm tăng đột ngột sự đối lập với chế độ. Sớm hay muộn, chúng đã có thể dẫn quần chúng đến chống lại các trụ sở của nhà nước-đảng. Bạo lực cũng đã có thể đến, chắc chắn từ phía bên kia – các lực lượng cảnh sát chống lại những công nhân biểu tình một cách ôn hòa được cử đến bởi các apparatchik địa phương đáng sợ hay bởi những người theo phe cứng rắn bên trong chế độ – kích động một sự bùng nổ của bạo lực đám đông. Cả phe đối lập Ba Lan và Hungary đã bác bỏ các giải pháp này, không phải bởi vì họ đã không mong muốn kết quả cuối cùng, mà bởi vì họ đã tin chắc rằng các phương tiện được chọn đã có thể quyết định kết quả, rằng sự đạt được mục đích về sự mở rộng phổ quát các quyền con người và chính trị đã có thể bị nguy hiểm bởi việc sử dụng phương tiện bạo lực. Rốt cuộc, vào nửa sau của các năm 1980 chiến lược của phe đối lập cả ở Ba Lan và Hungary đã đi xa hơn nhiều những cân nhắc thực dụng về không-đối đầu của chủ nghĩa tiến hóa mới. Sự thỏa hiệp được phe đối lập chào mời cho chế độ trong các nước này đã không chỉ dựa trên những cân nhắc địa chính trị thực dụng và/hoặc nhận thức thực tế về cán cân sức mạnh trong nước giữa những người ủng hộ và những người chống đối chế độ. Sự chào mời một thỏa hiệp đã cũng dựa trên lập luận đạo đức. Trong trường hợp của Ba Lan, đằng sau khẩu hiệu của các cuộc đàm phán Bàn Tròn – “tính hợp pháp đối lại tính chính đáng” – đã là ý tưởng rằng, để đổi lấy sự tái-hợp pháp hóa, phong trào Đoàn kết đã sẵn sàng cho chế độ mượn tính chính đáng nào đó, cho dù với cái giá của sự mất mát một phần của tính chính đáng riêng của nó. Bằng cách này, nó đã có thể đóng góp cho sự ngăn chặn bạo lực, vì hoặc sự thiếu hoặc sự đưa ra những cải cách kinh tế. Ở Hungary, các ý tưởng tương tự đã dẫn phe đối lập đưa ra một giải pháp thỏa hiệp cho chế độ.
Trong cả hai nước, các lực lượng không-đối đầu đã là đa số bên trong chế độ. Tuy vậy, những người sẵn sàng tiến hành các cuộc đàm phán với phe đối lập để ngăn chặn bạo lực vẫn đã là thiểu số cho đến đầu năm 1989, và, cho đến rất muộn ở cả hai nước, đã có những lực lượng đáng kể sẵn sàng sử dụng vũ lực để cứu hiện trạng chính trị khỏi sụp đổ. Trong cả hai nước, sự áp đảo của chiến lược không-đối đầu bên trong chế độ đã chủ yếu là kết quả của những đối đầu ác liệt trước giữa xã hội và chế độ. Bị ám ảnh bởi những ký ức của cách mạng 1956, các cuộc đối đầu bạo lực trước với các công nhân đình công và với phong trào Đoàn kết hợp pháp của đầu các năm 1980, cả elite cộng sản Hungary và Ba Lan đã có các lý do chính đáng để theo đuổi các chiến lược mà đã không khiêu khích xã hội. Sự e ngại dùng bạo lực, mặt khác, đã được củng cố bởi các đặc tính của sự phụ thuộc địa chính trị kép của các chính phủ cộng sản ở hai nước này. Thêm vào nỗi sợ hãi về sự can thiệp Soviet về phía các nhà cải cách của chế độ, và muộn hơn, nỗi sợ hãi về sự không-can thiệp từ phía những người theo phái cứng rắn, đã là nỗi sợ hãi ngày càng tăng về mất các khoản tín dụng phương Tây, một nỗi sợ hãi về sự nợ nần gia tăng và sự phụ thuộc kinh tế của các nước này,  kết đôi với sự thay đổi việc đặt điều kiện chính trị phương Tây của việc tiếp tục tài trợ. Cho đến cuối các năm 1980, nỗi sợ hãi gia tăng về “sự bùng nổ xã hội” chủ yếu đã có tác động làm tê liệt elite cộng sản: trì hoãn những cải cách kinh tế cần thiết hoặc, còn tồi tệ hơn, việc đưa ra các chính sách kinh tế tái phân phối với mục tiêu cải thiện tâm trạng xã hội và chỉ gây ra một sự xấu thêm của các điều kiện kinh tế. Mặc dù trong cả hai nước đã có các lực lượng bên trong chế độ sẵn sàng sử dụng vũ lực, chính nỗi sợ hãi gây tê liệt này đã giúp các nhà cải cách ở bên trong chế độ để vô hiệu hóa những người theo phái cứng rắn. Cuối cùng, trong cả hai nước, sự xói mòn nhanh chóng của ý thức hệ chi phối đã đóng góp thêm cho sự mất sức sống của bất kỳ chiến lược nào dựa vào việc sử dụng vũ lực. Việc đơn thuần bác bỏ sử dụng bạo lực, dưới ảnh hưởng của các tương tác giữa chế độ và phe đối lập, đã dần dần kết đôi với sự sẵn sàng để tiến hành hành động chính trị để ngăn chặn bạo lực.
Tóm tắt
Các cuộc đàm phán khéo léo của những người tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan đã có tác động to lớn lên những diễn tiến chính trị muộn hơn ở Đông và Trung Âu. Chúng đã truyền các tín hiệu về dải được tăng lên của các mục tiêu chính trị khả thi. Mặc dù không có nước nào đã lặp lại chiến lược của nền dân chủ được thỏa hiệp – kết quả trực tiếp của các cuộc đàm phán Ba Lan – tất cả các nước này đã bị tác động bởi giá trị tinh thần của sự thay đổi chính trị bất bạo động. Ngay cả kết quả cuối cùng của các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan đã chứng minh việc sử dụng chiến lược về thay đổi chính trị bất bạo động. Một năm sau việc thành lập chính phủ không cộng sản đầu tiên ở Ba Lan, gần như tất cả các nước cộng sản trước kia đã có hình thức nào đó của các cuộc bầu cử tự do hay nửa-tự do. Nhưng trong các nước đó, đã chỉ có hai nước nơi chức thủ tướng đã không rơi vào tay một người cộng sản trước đây: Ba Lan và Hungary.
Sau khi đã nói điều đó, không phải các hệ quả bên ngoài cũng chẳng phải các hệ quả bên trong, mà là các phương tiện được dùng là cái biện minh cho chiến lược chính trị của những người tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan. Vì các phương tiện này – sự thay đổi chính trị một cách hòa bình – đã cũng là các mục tiêu, và vì các phương tiện và mục tiêu này có những nền tảng đạo đức vững chãi, người ta hầu như không thể thấy sự hợp lệ của sự phản đối gần đây đối với các cuộc đàm phán này trên “cơ sở đạo đức.” Một sự bác bỏ các cuộc đàm phán Bàn Tròn Ba Lan chỉ có thể có hiệu lực từ viễn cảnh mà cho phép sử dụng bất kỳ phương tiện nào để đạt được các mục tiêu chính trị đáng mong muốn. Nhưng trên cơ sở này, hầu như là không thể để hiểu rõ làm sao người ta có thể nhận thức dân chủ như không chỉ một phương tiện mà cũng như một mục đích tự nó.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
* Trong tiểu tuận này Bruszt sử dụng elite theo nghĩa hẹp để chỉ giới tinh hoa của chế độ, chứ không để chỉ cả eltite đối lập
[1] T. Garton Ash, The Magic Lantern: The Revolution of ’89 Witnessed in Warsaw, Budapest, Berlin, and Prague, 1st US Edition (New York: Random House, 1990); T. Garton Ash, We the People: The Revolution of ’89 Witnessed in Warsaw, Budapest, Berlin and Prague (Cambridge: Granta Books, 1990).
[2] I. Banac, Eastern Europe in Revolution (Ithaca: Cornell University Press, 1992); L. Bruszt and D. Stark, “Remaking the Political Field in Hungary: From the Politics of Confrontation to the Politics of Competition,” in Eastern Europe in Revolution, edited by I. Banac (Ithaca: Cornell University Press, 1992); T. Garton Ash, Magic Lantern; J. Staniszkis, The Dynamics of the Breakthrough in Eastern Europe: The Polish Experience (Berkeley: University of California Press, 1991).
[3] Xem, chẳng hạn: L. Anderson, Transitions to Democracy (New York: Columbia University Press, 1999); G.A. Babcock and Rand Graduate School, “The Role of Public Interest Groups in Democratization: Soviet Environmental Groups and Energy Policy-making” (Santa Monica, CA: Rand Graduate School, 1997); Banac; A. Bozóki, A. Körösényi, and G. Schöpflin, Post-Communist Transition: Emerging Pluralism in Hungary (London: Pinter Publishers, St. Martin’s, 1992); K. Cordell, Ethnicity and Democratisation in the New Europe (London: Routledge, 1999); T. Garton Ash, The Magic Lantern; J.F. Hollifield and C.C. Jillson, Pathways to Democracy: The Political Economy of Democratic Transitions (New York: Routledge, 1999); M. Kaldor and I. Vejvoda, Democratization in Central and Eastern Europe (London: Pinter, 1999); J.J. Linz and A.C. Stepan, Problems of Democratic Transition and Consolidation: Southern Europe, South America, and Post- Communist Europe (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1996); G. Pridham and T. Vanhanen, Democratization in Eastern Europe: Domestic and International Perspectives (London: Routledge, 1994); Staniszkis; D.C. Stark and L. Bruszt, Postsocialist Pathways: Transforming Politics and Property in East Central Europe (Cambridge: Cambridge University Press, 1998).
[4] Bruszt and Stark.
[5] Bruszt and Stark; Linz and Stepan. Về một thảo luận khiêu khích về nhiều phương thức chuyển đổi, xem công trình của Terry Karl and Philippe S. Schmitter, “Modes of Transition and Types of Democracy in Latin America, Southern and Eastern Europe,” International Science Journal 128: 269-84.
[6] Pridham and Vanhanen; P.C. Schmitter and T. Karl, “The Conceptual Travels of Transitologists and Consolidologists: How Far to the East Should They Attempt to Go?” Slavic Review 53 (1 Spring 1994): 173-85.
[7] Schmitter and Karl.
[8] Bruszt and Stark.
[9] Ibid.
[10] Ibid.
[11] Ibid.
[12] T. Garton Ash, The Uses of Adversity: Essays on the Fate of Central Europe (Cambridge: Granta Books, 1989); J. Kis, Politics in Hungary: For a Democratic Alternative, Social Science Monographs (Boulder, CO: Atlantic Research and Publications, 1989); A. Michnik, Letters from Prison and Other Essays (Berkeley: University of California Press, 1985).
[13] Kis; Michnik, Letters; A. Michnik, A. Grudzinska and G. Mink, La Deuxième Révolution (Paris: La Découverte, 1990).
[14] Michnik, Letters.
[15] Kis.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:01
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_19.html
=======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 18)


Dịch giả: Nguyễn Quang A

Ý nghĩa, Ký ức, và các Phong trào:

năm 1989 và sự Sụp đổ của Chủ nghĩa Xã hội
Stephanie Platz

Nhìn lại, “ý nghĩa” của 1989 liên quan cả đến các sự kiện và đến các phương thức phân tích. Đối với nhiều người, 1989 là một hình tượng về sự suy yếu cuối của chủ nghĩa xã hội Soviet và về sự thống nhất ở châu Âu. Đối với những người khác, nó tương ứng với một chuỗi các sự kiện mà các học giả và các nhà chuyên môn khu vực đã không có khả năng đoán trước cũng chẳng thể giải thích đầy đủ về mặt nhân quả. Thay cho việc cô lập bản thân năm 1989 tôi thích xem các năm giữa 1988 và 1992 như một trục thời gian mà xung quanh nó nhiều sự kiện có tầm quan trọng toàn cầu đã rẽ hướng theo các độ khác nhau. Nghiên cứu về Bàn Tròn Ba Lan và về hội thảo, “Communism’s Negotiated Collapse: The Polish Round Table, Ten Years Later – sự Sụp đổ được Dàn xếp của Chế độ Cộng sản: Bàn Tròn Ba Lan, Mười Năm Nhìn lại,” cung cấp sự thấu hiểu chung về tầm quan trọng của thời kỳ này cho học vấn trong các khoa học xã hội.
Kỷ yếu hội thảo minh họa bằng thí dụ và định hướng cho các cuộc tranh luận quan trọng trong ngành và liên ngành về sự diễn giải và phân tích. Thứ nhất và trên hết, những tường thuật của người tham gia nêu bật những căng thẳng giữa các phương thức quy nạp và suy diễn của việc phân tích và giữa giá trị tương đối của những sự giải thích các sự kiện mà dựa vào cái cá biệt và những sự giải thích có thể khái quát hóa được và trừu tượng. Thí dụ, Thủ tướng Rakowski thấy gốc rễ của Bàn Tròn trong “những nét độc nhất” của lịch sử Ba Lan: “Tất cả điều này cùng nhau đã gây ra…thực tế là sau năm 1956, kể từ đầu năm 1957, Ba Lan đã có thể duy trì tính độc đáo riêng của nó so với tất cả các nước còn lại của khối Soviet, và chính sự độc đáo này tại một thời điểm nhất định, trong năm 76, đã dẫn đến sự xuất hiện của một sự đối lập được tổ chức, đó là Ủy ban Bảo vệ Công nhân.”[1] Tương tự, Đại sứ Ciosek giải thích các ý tưởng làm cơ sở cho Bàn Tròn như “được tạo ra tại một thời điểm cụ thể và điều kiện cụ thể ở Ba Lan.”[2] Ngược lại, những người khác biện luận về mặt các nhân tố cấu trúc, như Giáo sư Chrzanowski, người nói rằng “Bàn Tròn đã không gây ra sự thối rữa trong cấu trúc đế quốc của Liên Xô; đúng hơn nó đã là hệ quả của sự thối rữa đó.”[3] Zbigniew Janas, tương tự, quy nguyên nhân của sự phản đối trong các năm 1980 ở Ba Lan cho “sự thiếu cân bằng giữa các nhu cầu vật chất và sự mong đợi của xã hội và các điều kiện cuộc sống mà hệ thống có thể cung cấp.”[4] Loại giải thích sau coi sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Ba Lan như một chức năng của các lực lượng mang tính hệ thống nhận được từ quy tắc bên ngoài. Kỷ yếu hội thảo không giải quyết được sự căng thẳng giữa các khung khổ giải thích khác nhau, mà gồm cả hai logic, luân phiên nhau cung cấp sự nhìn thấu vào một sự giải thích về 1989 mà được truyền thụ một câu chuyện lịch sử Ba Lan dài hàng thế kỷ và một sự giải thích được truyền thụ các cấu trúc xã hội, kinh tế và chính trị đồng bộ. Những người chủ trương mỗi hệ thuyết (paradigm) có thể chất vấn các giả thiết và những cách bố trí lý thuyết riêng của họ với những tường thuật suy ngẫm của những người tham gia trong các sự kiện.
Đối với các học giả về ký ức tập thể và ký ức lịch sử trong nhân văn học và các khoa học xã hội, kỷ yếu hội thảo thách thức những giả thiết khác. Dù những cải cách được công nhận cho những người nhìn xa trông rộng hặc được dùng để làm mất uy tín của các chính trị gia yếu kém có các hệ lụy sâu rộng cho những câu chuyện tập thể về sự thay đổi và mối quan hệ của hiện tại đối với quá khứ. Theo lời của Giáo sư Kaczyński,
Nhưng liệu đối với thế hệ của các chính trị gia Ba Lan, những người đã đóng vai trò quan trọng trong Đoàn kết, nhưng ai đã nhớ chủ nghĩa cộng sản kỹ hơn nhiều so với thế hệ của tôi, hội chứng...? Ý tôi muốn nói già hơn tuổi bốn mươi lúc đó, thế hệ trước, những người cũng đã nhớ các năm 50 và vẫn còn nhớ những năm chiến tranh thế giới II, phải, họ đã có một hội chứng nào đó, nhưng đã không hẳn là lòng biết ơn đối với kẻ hành hạ mà là một hội chứng suy nghĩ với ký ức. Đã là một quan điểm nào đó, nơi chủ nghĩa cộng sản đã kiếm được một số đặc tính mà làm cho nó có vẻ vô cùng nguy hiểm, ngay cả khi nó không còn nguy hiểm nữa. Và hội chứng suy nghĩ với ký ức đó trong chừng mực nào đó đã ảnh hưởng đến hình dạng của nền chính trị Ba Lan trong giai đoạn đầu của thập niên 90.[5]
“Ký ức tập thể” thường thấm đẫm năng lực giải thích, như trong cách nhìn được bày tỏ bởi Adam Michnik, rằng “Chủ nghĩa yêu nước của chúng tôi là về sự chống lại bất kỳ chế độ độc tài nào. Nó cũng là về ký ức. Chúng tôi đang cố để nhớ rằng trong quá khứ đã không chỉ có thế lực nước ngoài gây ra thất bại của Ba Lan, mà cũng đã là tính hay gây gổ và sự ưu tiên cho lợi ích cá nhân của chúng ta, sự thiếu khả năng của chúng ta để thỏa hiệp nội bộ....”[6]Những ký ức mà được coi là tập thể có thể cũng lỏng, dễ thay đổi, bị tranh cãi, mang tính thế hệ và bị khai thác một cách tường tận. Trong khi sự bất công quá khứ dễ dàng được cho là để thúc đẩy các tập thể hành động, kỷ yếu hội thảo nhắc nhở người đọc rằng các chuyện kể về quá khứ là có tính chọn lọc và thường được áp dụng một cách ẩn dụ hay hoán dụ cho hoàn cảnh hiện tại. Bản thân những người tham gia Bàn Tròn suy ngẫm khác nhau về ảnh hưởng của quá khứ lên các hành động riêng của họ. Vì thế, trong khi “ký ức tập thể” có thể là một nhãn thích hợp cho một diễn ngôn hay ý thức hệ cá biệt, nó không được coi như một tảng đá nguyên khối cho các mục đích phân tích.
Kỷ yếu hội thảo cũng gợi ý sự phản ánh về định nghĩa của một sự kiện đơn độc. Nhiều lần lặp đi lặp lại, các tác nhân, khi bị thách thức với những hệ quả của sự thay đổi chính trị và kinh tế, đã dựng lại sự tự giác của riêng họ trong việc tham gia như đã thuộc về quá trình. Dù cho các điều kiện, mà đã tạo ra Bàn Tròn, đã bắt đầu hàng thế kỷ hay hàng tuần trước phiên khai mạc của nó, những người tham gia ghi lại sự nhận biết phân biệt về bản thân họ như “làm nên lịch sử,” đến mức rằng một số người thậm chí bây giờ vẫn miễn cưỡng coi nó như có hạn, bị chặn, hay đã kết thúc. Những ghi chép của hội thảo làm sống động lại các cuộc tranh luận về cấu trúc, quá trình, và năng lực hoạt động. Trong khi các hồi ký đầy dẫy giữa các nguồn lịch sử, các đối thoại nhìn lại giữa những người đàm thoại về bản chất và ý nghĩa của các hoạt động quá khứ tập thể là hiếm, để nói giảm nhẹ đi.
Đoàn kết có thể được so sánh với các phong trào xã hội và các phong trào dân tộc ở bất cứ đâu từ lập trường của các lý thuyết về tổ chức và sự thay đổi xã hội. Tuy vậy, đặc biệt, làm sáng tỏ để so sánh Bàn Tròn với động học của sự ràng buộc giữa các dân tộc Soviet và nhà nước vào cuối các năm 1980. Trong số này, tôi có thể nói tốt nhất để so sánh với Phong trào Karabagh, trong ba lĩnh vực. Thứ nhất là xã hội học về bản thân phong trào dưới chủ nghĩa xã hội; thứ hai là quá trình thích nghi hay không-thích nghi giữa phe đối lập và nhà nước; và thứ ba là hậu quả – các hệ lụy của các thỏa thuận đạt được cho hoạt động chính trị quốc gia sau 1991 và sự những ảnh hưởng dội lại của những lựa chọn và quyết định được đưa ra bởi các tác nhân chính trị vào thời gian của bản thân phong trào.
Phong trào Karabagh đã nổi lên vào tháng Hai năm 1988 để đáp lại một cuộc bỏ phiếu của Soviet Tối cao Nagorno Karabagh ủng hộ việc chuyển địa vị từ oblast (khu) tự trị bên trong Azerbaijan sang cùng khu ở bên trong Armenia. Cuộc bỏ phiếu này đã phản ánh nhận thức rộng rãi của đa số (tám mươi phần trăm) dân cư Armenian của Nagorno Karabagh rằng oblast của họ đã kém phát triển hay đã phát triển sai bởi chính quyền Azerbaijan. Tuy nhiên cuộc bỏ phiếu của Soviet Tối cao Karabagh đã không được phê chuẩn bởi Azerbaijan (và bây giờ cuộc xung đột sắc tộc-lãnh thổ được nhiều người biết đến đã leo thang thành chiến tranh giữa người Armenian và người Azeri). Một cuộc biểu tình ngày 20 tháng Hai bởi 3.000 nhà môi trường bên ngoài Yerevan đã đưa quan hệ pháp lý của vùng Núi Karabagh vào chương trình nghị sự của nó, và theo tin đồn, đã thu hút đám đông lên đến 150.000 người trong vòng hai ngày. Tinh thần đoàn kết và bình đẳng đã tăng lên giữa những người biểu tình, khi đám đông đã tăng lên 300.000 người. Coi địa vị pháp lý của Karabagh như một trường hợp thử cho perestroika, những người Armenian đã kêu gọi lên Ban chấp hành Trung ương ở Moscow để thống nhất Armenia và Karabagh theo đúng quy trình.
Tại Armenia, quan điểm chống-Azerbaijan lên đỉnh điểm sau các sự cố bạo lực chống lại người Armenian, như các sự cố ở Sumgait (tháng Hai) và Khojalu (tháng Chín). Khi bạo lực phản động chống lại những người Armenian ở Azerbaijan trôi qua không được báo chí Soviet thừa nhận và không bị chính quyền Soviet trừng trị, thì tình cảm tập thể chuyển sang chống lại chính phủ trung ương. Ý kiến chống-Soviet đạt cực điểm sau khi các đội quân va chạm với những người biểu tình trong tháng Bảy, giết chết một sinh viên thú y gần sân bay. Trong tháng Năm, dư luận nhân dân quay sang chống lại chính phủ Soviet Armenia, và, đặc biệt, chống lại Bí thứ Thứ nhất Karen Demirchyan, vì nối giáo cho Moscow theo lợi ích của sự nghiệp và của cải của riêng ông ta hơn là dân tộc của ông ta. Được xem như một trở ngại cho quá trình chính trị minh bạch, sự phê phán Demirchyan đã trở thành đá thử vàng cho các nhà hoạt động đưa dân chủ hóa vào thảo luận phong trào. Không lâu sau đó, lời kêu gọi cho nền độc lập của Armenia đã được đưa vào các cuộc biểu tình.
Phong trào Karabagh đã là một phong trào có cơ sở ở bản thân Armenia, để ủng hộ những người Armenian ở Nagorno Karabagh. Trong năm 1988 và 1989, các trí thức Armenia từ Karabagh và từ Yerevan đã đi đến Moscow như một đoàn đại biểu để thuyết phục Moscow hủy quyết định của Soviet Tối cao Azerbaijan. Thế nhưng các nhà hoạt động phong trào, chủ yếu là các thành viên của giới trí thức Yerevan, đã không luôn luôn là một mặt trận thống nhất. Khi một thành viên của Ủy ban Tổ chức Karabagh lộ ra trong việc ủng hộ sự hợp tác với Demirchyan trong tháng Năm, làm giảm giá trị quan niệm rằng phong trào đã có thể phục vụ như một phương tiện cho dân chủ hóa và rằng chương trình nghị sự của phong trào phải mở rộng xa hơn địa vị của vùng Núi Karabagh, một Ủy ban Karabagh mới đã được lập ra. Tuy các thành viên của nó cuối cùng đã trở thành các quan chức cao cấp của chính phủ độc lập ở Armenia (kể cả Tổng thống Levon Ter Petrossian), chủ nghĩa tích cực phong trào của họ đã không là một phương tiện để đạt tới quyền lực, họ cũng đã không ủng hộ một sự chuyển tiếp ngay sang độc lập. Họ đã có chia sẻ một cam kết đối với việc ra quyết định tập thể và sự minh bạch chính trị. Lúc đó, quan điểm của họ đã khác với lập trường phổ biến, và tư duy của họ đã khác nhau về các vấn đề trải từ chính sách đối ngoại của một Armenia độc lập đến cách thức tổ chức cơ sở, các cuộc họp, và các cuộc đình công.
Ngoài các cuộc mít ting ở quảng trường thành phố, một mạng lưới các ủy ban được lập ra chủ yếu thông qua các nơi làm việc. Các mạng lưới này đã phổ biến thông tin về tình hình và qua đó, các cuộc đình công thuộc những loại khác nhau đã được tổ chức. Bất chấp một số sự giống nhau về cấu trúc bề ngoài rõ nét trong tổ chức của Đoàn kết và Phong trào Karabagh, những người Armenian đã hầu như chưa bao giờ coi Đoàn kết một cách dứt khoát như một mô hình. Đa số, tôi nghĩ, sẽ nói rằng điều này là kết quả của sự thiếu thông tin về Đoàn kết. Tuy vậy, thông quan văn học xuất bản ngầm (samizdat) và các mạng lưới ngầm, những người Armenian đã biết nhiều về và đã nhắc tường minh đến các phong trào ở các nước Baltic. Những dẫn chiếu đến Ba Lan mà tôi quan sát được trong nghiên cứu của tôi về đàm luận chính trị trong thời kỳ đó đã giới hạn ở sự giống nhau giữa các nạn nhân của những tội ác trước đây của các nhà nước (một poster chính trị Armenia liệt kê Buchenwald, Auschwitz và Katyń cùng với những nơi xảy ra bạo lực chống lại những người Armenian). Chắc chắn sự tương phản giữa một phong trào đòi tự quyết dân tộc của một sắc tộc Soviet thiểu số và một phong trào nghiệp đoàn ở Ba Lan hẳn có những sự khác biệt cấu trúc sâu sắc và lớn. Tuy nhiên, tôi thấy những sự giống nhau trong tổ chức ngầm của một phong trào quần chúng bên trong một chế độ toàn trị, đặc biệt khi những người tham gia đã cố gắng tự tổ chức một cách dân chủ bên trong một hệ thống có thứ bậc của các nơi làm việc. Dòng thông tin và sự nổi lên của một đạo lý tham gia ở bên trong các phong trào này đáng nghiên cứu so sánh.
Gần hơn với chủ đề của bản thân Bàn Tròn, là quan trọng để lưu ý rằng sự độc lập cho Armenia đã không được thương lượng, và rằng một di sản của cách mà theo đó Liên Xô đã giải thể là sự đình trệ của những cố gắng để giải quyết xung đột Karabagh. Những người Armenian nói chung đã không thành công trong các cuộc đàm phán của họ với Moscow giữa 1988 và 1990 – đã không truy tố các thủ phạm của bạo lực chống lại người Armenian cũng đã chẳng dàn xếp các đòi hỏi của người Armenian. Các cuộc phản đối ôn hòa đã bị quân đội Soviet cương quyết giải tán, và những tường thuật Armenian về các sự kiện – đặc biệt là xung đột ở Azerbaijan – đã bị kiểm duyệt và/hoặc giải thích sai bởi báo chí Soviet. Phong trào Karabagh đã được thể chế hóa như Phong trào Dân tộc Armenian trong tháng Chín năm 1988, và thành viên của Ủy ban Karabagh Levon Ter Petrossian đã được bầu một cách đại chúng làm Chủ tịch Soviet Tối cao Armenia trong năm 1990. Armenia đã trưng cầu dân ý về độc lập, nhưng đã không trở nên độc lập cho đến tháng Mười Hai năm 1991. Tình hình này gợi lại một chủ đề của kỷ yếu hội thảo, dưới dạng của sự xác nhận rằng sự sụp đổ của chế độ cộng sản đã chẳng bao giờ có thể được thương lượng nếu cả hai bên (chính phủ và phe đối lập) đã không cùng yếu ngang nhau. Các mối quan hệ giữa Armenia và Moscow rõ ràng đã chẳng bao giờ đối xứng. Trong khi sự yếu tương đương giải thích về sự hiệu quả của Bàn Tròn Ba Lan có vẻ (đối với người quan sát bên ngoài này) là sự giải thích phổ biến trong đàm luận chính trị Ba Lan đương đại, nó đáng nghiên cứu bởi các nhà lý thuyết quan hệ quốc tế (các nhà lý luận chuyển đổi quyền lực và những người khác) và các nhà phân tích cấu trúc khác về sự thay đổi chính trị, hệ thống. Những người Ba Lan và Armenian đã có một kẻ thù chung loại nào đó ở Moscow. Vai trò của một cường quốc bên ngoài chi phối trong hoạt động chính trị quốc gia là màu mỡ ngang thế cho sự phân tích cấu trúc và một nghiên cứu về liên minh và bè phái của các đảng chính trị bên trong Ba Lan và Armenia tương đối với Moscow có thể so sánh chính trị và bản sắc dân tộc một cách rộng hơn. Nghiên cứu như vậy cũng đóng góp cho nghiên cứu về phi thuộc địa hóa ở nơi khác trên thế giới.
Một chủ đề thứ ba, đang xảy ra cho sự so sánh là các quỹ đạo sự nghiệp của các lãnh tụ đối lập và cộng sản sau độc lập khỏi Moscow. Như tôi sẽ thảo luận các câu chuyện phổ biến, theo thuyết mục đích, dưới đây trong đó các lãnh tụ đối lập đã dựng mình lên thành những ông trùm tội phạm tiếp theo và những thủ phạm tham nhũng trong thời kỳ mới nhan nhản trong cả hai khung cảnh. Trước độc lập, sự tín nhiệm và uy quyền của các nhà hoạt động đối lập có thể đã được tăng cao bởi sự bắt giữ hay sự đày ải, và họ có thể đã được xem là hiện thân của các đặc điểm hiến dâng cho dân tộc. Sau độc lập, một sự phản ứng dữ dội bảo thủ xem việc chịu rủi ro như vậy là cá nhân chủ nghĩa và tư lợi. Sự hớt “kem” hay “váng” mà các nhà hoạt động Đoàn kết bây giờ bị cáo buộc đã theo đuổi là giống sự phê phán phổ biến đối với các quan chức trong chính phủ Armenia đầu tiên, những người được bầu trên cơ sở cương lĩnh của họ trong Phong trào Dân tộc Armenia. Tôi sẽ không lạc đề ở đây vào một tiểu luận về chính trị đương đại ở Armenia, nhưng sự xét lại, sự tố giác, và sự phục hồi của các lãnh tụ cộng sản trước đây là các chủ đề chung. Cả Đoàn kết (như kỷ yếu hội thảo làm rõ) lẫn Phong trào Karabagh đã đều không như một thể thống nhất trong chương trình nghị sự của nó như chúng đã đôi khi có vẻ. Trong trường hợp của Ủy ban Karabagh, các ủy viên đã bất đồng một cách tế nhị và không tế nhị đến vậy giữa họ với nhau và với công chúng về các vấn đề như bản chất của các mối quan hệ với các nước láng giềng của Armenia (Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Azerbaijan, và Georgia). Một nghiên cứu so sánh mà tách chính trị đảng phái và chính trị cá nhân trong hậu quả của sự cai trị Soviet sẽ là hữu ích trong việc lý thuyết hóa tính chính đáng chính trị tổng quát hơn.
Cuối cùng, Bàn Tròn đưa ra một trường hợp cho nghiên cứu so sánh về những sự can thiệp công khai và che đạy bởi các nhà nước bên ngoài trong sự thay đổi chính trị trong nước. Đại sứ Davis nhắc đến vai trò quan trọng mà cộng đồng di dân Ba Lan-Mỹ đã đóng trong tác động lên chính sách Hoa Kỳ đối với Ba Lan lúc đó,[7] và Helen Davis nói về vai trò của “salon” của bà trong việc giới thiệu các thành viên đối lập Ba Lan với nhau.[8] Cộng đồng di dân Armenian-Mỹ đã đóng một vai trò tương tự trong tác động lên chính sách Hoa Kỳ với Armenia và các láng giềng của nó, như María Torres nhắc chúng ta về cộng đồng di dân Cuba đã ảnh hưởng đến chính sách Hoa Kỳ với Cuba. Những trường hợp này, giữa nhiều trường hợp khác, cho sự thấu hiểu vào chính trị Chiến tranh Lạnh và các cuộc chiến được tiến hành giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong các nước thứ ba. Trong các thí dụ này, quá trình chính trị không thể được xem bên ngoài khung cảnh của cán cân sức mạnh giữa các định thủ Chiến tranh Lạnh.
Bàn Tròn Ba Lan và kỷ yếu hội thảo “sự Sụp đổ được Dàn xếp của Chế độ Cộng sản” cả hai là hữu ích cho việc thảo luận trong lớp học đại học. Tôi dạy một seminar lịch sử cho sinh viên năm áp chót/chót có tiêu đề, “Lịch sử, Ký ức, và Bản sắc,” cũng như một seminar cho năm thứ nhất với tiêu đề “Dân tộc và Liên Xô,” mà khai thác thành phần dân tộc của Liên Xô, sự phát triển và ý nghĩa của chính sách dân tộc Soviet, và sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc trong cuối các năm 1980. Bàn Tròn, và kỷ yếu hội thảo, sẽ khớp khéo vào mỗi trong các cua học này.
Trong cua đầu tiên của hai cua này, trong học kỳ vừa qua tôi đã so sánh phong trào liên-dân tộc Armenian (Phong trào Karabagh) với Đoàn kết trong mối quan hệ với việc sử dụng sự hiểu biết lịch sử (như được mô tả ở trên). Trong trường hợp của cả hai phong trào, các chuyện kể thay thế về quá khứ đã được truyền bá và phổ cập, thách thức những tường thuật chính thức được thừa nhận bởi nhà nước toàn trị. Ngoài ra, trong cả hai trường hợp, việc kể lại chuyện lịch sử dân tộc giải phóng bản sắc “dân tộc” và đã cấp nhiên liệu cho sự huy động sự ủng hộ cơ sở và sự tổ chức của nó. Đặc biệt, tôi đã sử dụng We All Fought for Freedom: Women in Poland’s Solidarity Movement của Kristi Long (cũng như bài báo trước của bà mà đã xuất hiện trong American Ethnologist) để so sánh sự mô tả bằng hình tượng các dấu hiệu đặc trưng Đoàn kết ngầm với hệ thống dẫn chiếu lịch sử được dùng trong các poster chính trị Armenian được trưng bày trong thời gian Phong trào Karabagh giữa 1988 và 1990 (phân tích của tôi về chúng xuất hiện trong luận văn tiến sỹ năm 1996 của tôi về nhân (loại) học tại Đại học Chicago). Bằng những cách này, mà tôi đã mô tả rồi, cả Đoàn kết và Phong trào Karabagh minh họa một cách tế nhị những sự kết hợp giữa lịch sử dân tộc, phổ biến và kinh nghiệm về bản sắc dân tộc.
Xa hơn sự so sánh về các phong trào dân tộc trong khung cảnh xã hội chủ nghĩa, tôi có thể tưởng tượng việc sử dụng Bàn Tròn theo nhiều cách khác – và đặc biệt hơn, tôi có thể hình dung việc dùng kỷ yếu hội thảo “sự Sụp đổ được Dàn xếp của Chế độ Cộng sản.” Sự nhắc đến bản sắc Ba Lan xuất hiện suốt kỷ yếu hội thảo theo những cách mà bào chữa cho các mệnh lệnh để hành động. Các tư tưởng về những người Ba Lan tốt và xấu làm cơ sở cho sự phân biệt chúng tôi-và-họ giữa phe đối lập và chính phủ, và các tác nhân chính trị được đánh giá một cách hồi tố bởi xã hội Ba Lan về mặt hiến dâng cho dân tộc trên cơ sở các hậu quả của các hành động của họ. Những lời của Thủ tướng Rakowski minh họa khéo điểm này. Ông nói về các khuôn mẫu liên quan đến Bàn Tròn, “một mặt, tóm lại, chúng tôi đã có các thiên thần hoàn toàn trắng và mặt khác chúng tôi đã có các thiên thần đen đã bán linh hồn mình cho quỷ. Và quỷ đã ở Moscow. Cho nên đưa tất cả về các phạm trù chính trị, tôi được cho là một loại người Ba Lan tồi tệ hơn, và tôi dứt khoát không thể đồng ý với điều đó. Tôi không tồi hơn tý nào so với người đã la hét hôm kia rằng tôi không được phép nói.”[9] Tương tự Giám mục Dembowski nói, “một người Ba Lan tốt là một người yêu Ba Lan và là một người tốt, tức là một người, trong sự lựa chọn của mình, có tính đến các giá trị đạo đức, người mong muốn phục vụ lợi ích chung của quê hương mình.”[10] Về cùng chủ đề, Konstanty Gebert nhấn mạnh vai trò của bản sắc dân tộc làm cơ sở cho sự trao quyền công dân
Nếu chúng ta tất cả cùng nhau ở trong nó bởi vì chúng ta đều là người Ba Lan, thì những người trong chúng ta mà không phải là người Ba Lan cùng nhau trong nó ít hơn. Rất khó để phát hiện ra điều này, Ba Lan là một nước gần như hoàn toàn đơn-sắc tộc, và các dân tộc thiểu số về thực chất đồng nhất không chỉ với quốc gia Ba Lan, mà với xã hội Ba Lan, nhưng thực ra, chúng ta ở một chừng mực đã tự lừa dối mình bằng tin rằng chúng ta đã thiết lập một xã hội dân sự. Cái chúng ta đã thiết lập là một xã hội dân tộc giả dạng như một xã hội dân sự. Thành công, bởi vì hầu như tất cả các thành viên của xã hội dân sự tiềm năng thực ra là các thành viên của xã hội dân tộc hiện có. Tôi sẽ không dễ dàng từ bỏ xã hội dân tộc này vì lợi ích của sự tinh khiết về ý thức hệ, nhưng tôi nhớ những gì bác của một người bạn thường lặp lại, đừng làm tôi kinh hãi với các dân tộc, tôi muốn sống trong xã hội.[11]
Những người tham gia hội thảo liên tục cưỡng lại khuôn mẫu nhị phân về chúng tôi/họ, tốt/xấu, người Ba Lan/người không Ba Lan với sự tôn trọng cách mô tả đặc trưng phổ biến về các ý định và các hệ quả của các hành động của họ. Khi làm như vậy, họ nhấn mạnh sự đan xen quan niệm về một đàm luận đạo đức liên quan đến dân tộc và xác định tư cách dân tộc và những diễn giải post-hoc (sau) về sự tham gia. Trong nghiên cứu về lịch sử đương đại, chúng ta có thể khai phá những cách mà theo đó đàm luận đạo đức và sự diễn giải quá khứ gần đóng góp cho các tư tưởng về bản sắc dân tộc.
Trong cùng khóa học, tôi cũng lưu ý sinh viên đến sự khác biệt giữa lịch sử và (cái chúng ta có thể gọi là) “Lịch sử” như chúng xuất hiện trong những tường thuật của những người tham gia. Trong sự phân biệt này, “lịch sử” nhắc đến một sự tường thuật đơn sơ về quá khứ, còn “Lịch sử” ám chỉ đến một meta-narrative (siêu-chuyện kể) bao quát mà ngấm ngầm diễn giải các sự kiện cho các độc giả của nó. Những người tham gia Bàn Tròn bày tỏ sự bực dọc với việc sau liên quan đến hội thảo, ngoài mối lo ngại rằng các sự kiện của năm 1989 không bị thần thoại hóa. Thí dụ, Stanisław Ciosek nói,
lịch sử không thể được chia thành nhiều mảnh. Điều đó ngược lại các khuynh hướng tự nhiên của các sử gia, những người muốn tất cả mọi thứ theo thứ tự, muốn số lượng tối đa các sự kiện được thu thập. Tình hình ở Ba Lan, mặt khác, và chủ đề này mà chúng ta đang thảo luận, không thể được đưa vào khung của giai đoạn hai hoặc ba năm, mà chúng ta đang tập trung vào ở đây. Các thứ xuất phát từ cái này sang cái khác, và hậu quả của chúng là vô cùng quan trọng, như thế tôi sẽ làm rối chủ đề của chúng ta một chút với bài phát biểu của mình.[12]
Mối lo ngại này với sự hình thành một di sản cũng bắt nguồn từ những sự lo lắng về những đánh giá đạo đức trong hiện tại. Ciosek nói muộn hơn, “trình bày lịch sử dưới dạng đen và trắng như vậy là không công bằng và có vẻ như đối với tôi rằng cuộc hội thảo của chúng ta phải dẫn chúng ta đến một số đánh giá công bằng và trung thực.”[13] Tương tự, Adam Michnik nói, “chúng ta không nên tạo ra các truyền thuyết. Cái chúng ta phải nói cho người đương thời của chúng ta và đặc biệt cho trẻ em của chúng ta là một bức ảnh thực về thực tế. Và ở đây Bàn Tròn có thể được cảm nhận từ nhiều góc độ.”[14] Trái lại, Tổng thống Kwaśniewski nói rằng sự thực về hội thảo được tổ chức tại Đại học Michigan là “bằng chứng chính, chung cuộc rằng Bàn Tròn là một phần của lịch sử.”[15] Chung đối với các bình luận này là ý kiến rằng quá khứ trở thành “Lịch sử” chỉ với khoảng cách, dù là khoảng cách thời gian hay địa lý. Tính nước đôi về liệu một chuỗi các sự kiện có thể được hiểu đầy đủ hay không sau mười năm biểu hiện các tranh luận lý thuyết và liên ngành về các đơn vị thích hợp của nghiên cứu và phân tích. Đối với các sinh viên, khía cạnh này của kỷ yếu hội thảo có thể được dùng để thăm dò bản chất và các giới hạn của các viễn cảnh: làm sao chúng ta có thể “làm” lịch sử đương đại? Chúng ta phải xa bao nhiêu từ một chủ đề để đưa nó ra phân tích học thuật? Và, những người kể chuyện lịch sử có bao giờ thoát được các lợi ích hay tiền cược trong các câu chuyện họ kể?
Tôi cũng có thể hình dung việc sử dụng kỷ yếu hội thảo “sự Sụp đổ được Dàn xếp của Chế độ Cộng sản” trong cua thứ hai của hai cua liên quan của tôi (“Dân tộc và Liên Xô”). Trong cua này, tôi tập trung ít hơn vào bản sắc tự nó, và nhiều hơn vào những sự phân biệt giữa quá khứ, lịch sử, và việc chép sử. Tôi lấy việc chép sử dân tộc Armenian như một thí dụ, và minh họa những cách mà theo đó các nguồn lịch sử ủng hộ học vấn bút chiến cũng như chính sách. Thí dụ, tôi sử dụng một bộ sưu tập các nguồn sơ cấp liên quan đến địa vị của Nagorno Karabagh (bắt đầu trong thế kỷ thứ mười chín và lần theo dấu vết địa vị của nó như một oblast tự trị ở Azerbaijan cho đến cuối các năm 1980 từ địa vị của nó trong Đế chế Nga). Đọc qua tài liệu sưu tập, tôi gợi ra những bình luận của sinh viên về những gì được đọc lướt từ sự trình bày của các văn bản riêng biệt, cái gì bị mất đi trong việc dịch, những ấn tượng nào nổi lên từ việc đặt cạnh nhau các văn bản mà có thể đã không bắt nguồn từ ngữ cảnh gốc, và các loại nào của các nguồn sơ cấp chúng ta có thể hình dung được lựa chọn từ sưu tập. Sau đó, chúng tôi đọc hai bài báo về xung đột Karabagh – một từ học giả ủng hộ người Armenian và bài khác từ học giả ủng hộ người Azeri – và chúng tôi đi qua chuỗi các sự kiện họ mô tả, từng bước một, để thấy rằng họ đưa ra những sự sắp xếp niên đại khác nhau đáng kể dựa trên cùng một sưu tập duy nhất của các nguồn sơ cấp mà chúng tôi vừa đọc. (Ở đây tôi nhớ lại những lời của Giám mục Bronisław Dembowski liên quan đến trích dẫn Kinh thánh: “tôi lưu ý các bạn đến sự thực rằng trong khi cám dỗ Chúa Giêsu, quỷ Satan đã trích dẫn Kinh Thánh.”!)
Kỷ yếu hội thảo sẽ là hữu ích trong các bài tập giống những bài này. Đầu tiên, chúng cho thấy ký ức về một loạt các sự kiện có thể khác nhau đến thế nào với cách bản chất của các sự kiện đó được nhớ lại bởi các tác nhân những người đã tham gia trong chúng. Thứ hai, chúng cho thấy cùng một chuỗi các sự kiện có thể được diễn giải theo rất nhiều cách ra sao, phụ thuộc và các lợi ích chính trị và cá nhân được gây ra. Thí dụ, những người tham gia Bàn Tròn đã bị tố cáo theo đuổi “việc hớt váng” trong các cuộc đàm phán – làm lệch để thay đổi chính trường cho lợi ích cá nhân hay chuyên nghiệp. Những sự tố cáo như vậy nổi lên trong các tường thuật của những người tham gia, cũng như trong các bình luận từ khán giả. Thế nhưng bản thân những người tham gia chủ yếu đã nhớ lại mức độ rủi ra và bất trắc họ đã phải chịu trong việc đảm đương các cuộc đàm phán và phủ nhận đã bị thúc đẩy bởi tư lợi. Thực vậy, họ đã biện luận mạnh mẽ rằng trong dòng chảy của các sự kiện, những kết quả đã không chắc chắn đến mức khiến cho việc đưa ra các chiến lược cực đại hóa lợi nhuận là không thể để nhận diện. Một vấn đề liên quan là sự khác nhau về quan điểm giữa các thành viên của phe đối lập, giữa những người cộng sản, và giữa hai nhóm này. Không hai cá nhân nào đưa ra một tường thuật giống hệt nhau về Bàn Tròn. Grażyna Staniszewska, một nhà hoạt động Đoàn kết, không đồng ý với nhà phân tích Jane Curry rằng những người tham gia Bàn Tròn đã nghĩ hệ thống được tháo dỡ; cô nói, “tôi nghĩ rằng nếu bất cứ ai đã nghĩ rằng hệ thống được tháo dỡ, thì Bàn Tròn đã chẳng hề xảy ra.”[16] Cô tuyên bố thêm rằng những kinh nghiệm của cô đã khác với những kinh nghiệm của nhà lãnh đạo Đoàn kết Zbigniew Bujak bởi vì cô đã tổ chức Đoàn kết ở vùng núi. Như thế, không chỉ những kinh nghiệm cá nhân khác nhau, mà kinh nghiệm của Đoàn kết ở trung tâm và ở ngoại vi cũng khác nhau về mặt cấu trúc. Cả Ba Lan lẫn phe đối lập đã không thống nhất như đá nguyên khối trong quá trình. Thí dụ này có thể là cơ sở cho một bài tập lớp học trong nhận diện nhiều viễn cảnh bên trong và giữa các nguồn cũng như nhiều cách mà theo đó các nguồn thành văn có thể được dùng. Cuối cùng, kỷ yếu hội thảo đưa ra sự thấu hiểu vào định nghĩa của, hay sự nhận diện về, một “sự kiện.” Lặp đi lặp lại, các diễn giả nhấn mạnh sự thực rằng họ đã cảm thấy mình tham gia vào một “quá trình,” còn các nhà bình luận nhìn lại thì quy các động cơ cho các tác nhân trên cơ sở những kết quả đã biết. Sự cám dỗ để đọc các nguồn theo mục đích luận là mạnh giữa các sinh viên cũng như giữa các nhà bình luận; kỷ yếu hội thảo cho một cơ hội đối với các sinh viên để thẩm vấn bản chất bị chặn của các sự kiện mà thường là ngầm định trong phân tích.
Trong cả hai cua này mà tôi dạy, Bàn Tròn Ba Lan là một nghiên cứu tình huống rất thích hợp cho việc so sánh với chủ nghĩa dân tộc ở Liên Xô vào cuối các năm 1980. Phương tiện của tổ chức cơ sở bất hợp pháp dưới sự cai trị toàn trị, việc khái niệm hóa các quyền dân tộc và các quyền con người bị nhà nước xâm phạm, vai trò của sự bất công lịch sử trong một ý thức hệ để giải phóng, và động học cuối cùng của việc cam kết với nhà nước là các đặc tính chung của các phong trào như vậy. Hơn nữa, bản thân kỷ yếu hội thảo được dùng như một sưu tập các tư liệu sơ cấp mà có thể được khai thác một cách có kết quả để minh họa các vấn đề phương pháp luận và nhận thức luận của phân tích lịch sử.
Để kết luận, tôi muốn nói thêm rằng đọc bản ghi chép kỷ yếu hội thảo đã là một trải nghiệm vừa đắng vừa ngọt ngào, luyến tiếc quá khứ, và cảm động đối với tôi. Nó đã làm sống lại hương vị của các phong trào quần chúng và lời hứa thay đổi mà đã đặc trưng cho những năm đó đối với tôi trong cả nghiên cứu của tôi và đời sống riêng của tôi vì tôi đã trải qua chúng ở Liên Xô. Sự lưỡng lự mà với nó bản thân những người tham gia mô tả đặc trưng những ngày đó bây giờ, sự xem xét kỹ lưỡng và sự đánh giá lại mà họ lệ thuộc vào trong chính trị bình dân, báo chí và trong tâm trí riêng của họ, những sự nghi ngờ và những sự bất trắc mà chế ngự những so sánh về hiện tại độc lập với quá khứ xã hội chủ nghĩa, và sự quy giản hợp lý các sự kiện đó cho sự giải thích tường tận, tất cả làm tôi buồn khi tôi nhớ lại sự hưng phấn và sự sục sôi của việc trao quyền mà đã được trải nghiệm trên quy mô lớn như vậy. Tôi cảm thấy điều này ngoài ý kiến riêng của tôi ra về các hệ thống quản trị tốt hơn và tồi hơn. Đúng hơn, nó là một phản ứng đối với việc thấy sự tin cậy và sự lạc quan nhạt phai đi thành sự mập mờ với sự trôi đi của thời gian. Có lẽ tất cả chúng ta đều luôn luôn tương đối về các hành động của mình, nhưng sự mất đi của sự đoàn kết, phải, vẫn là một sự mất mát.
Tài liệu đọc thêm
Bremmer, I. and R. Taras. Nations and Politics in the Soviet Successor States. Cambridge: Cambridge University Press, 1993.
Connerton, Paul. How Societies Remember. Cambridge: Cambridge University Press, 1989.
Dawson, Jane. Econationalism. Durham: Duke University Press, 1996.
Halbwachs, Maurice. On Collective Memory. Chicago: The University of Chicago Press, 1992.
Hunter, Shireen. The Transcaucasus in Transition. Washington, DC: The Center for Strategic and International Studies, 1994.
Libaridian, Gerard. The Karabagh File. Cambridge, MA: The Zoryan Institute, 1988.
Libaridian, Gerard. Armenia at the Crossroads. Watertown, MA: Blue Crane Books, 1991.
Libaridian, Gerard. The Challenge of Statehood. Watertown, MA: Blue Crane Books, 1999.
Malkasian, Mark. Gha-ra-bagh! The Emergence of the National Democratic Movement in Armenia. Detroit: Wayne State University Press, 1996.
Rappaport, Joanne. The Politics of Memory. Durham: Duke University Press, 1998.
Rost, Yuri. Armenian Tragedy. New York: St. Martin’s Press, 1990.
Suny, Ronald. The Revenge of the Past: Nationalism, Revolution, and the Collapse of the Soviet Union. Stanford: Stanford University Press, 1993.
Swedenburg, Ted. Memories of Revolt. Minneapolis: University of Minnesota Press, 1995.
Trouillot, Michel-Rolph. Silencing the Past: Power and the Production of History. Boston: Beacon Press, 1995.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
[1]Communism’s Negotiated Collapse: The Polish Round Table, Ten Years LaterA Conference at the University of Michigan. April 7-10, 1999. English Transcript of the Conference Proceedings, được dịch bởi Kasia Kietlinska, được biên tập bởi Donna Parmelee (Ann Arbor: The University of Michigan Center for Russian and East European Studies, 1999), 21-22. Số trang trong chú thích dẫn chiếu đến số trang của bản in gốc của bản gỡ băng, mà đã đã được cung cấp cho các tác giả của tập hướng dẫn này để tham khảo. Các số trang này có thể không tương ứng với bản gỡ băng có sẵn trên web hay các phiên bản in sau đó.
[2] Ibid., 60
[3] Ibid., 28
[4] Ibid., 77
[5] Ibid., 186
[6] Ibid., 235
[7] Ibid., 45-46.
[8] Ibid., 50.
[9] Ibid., 164.
[10] Ibid., 11.
[11] Ibid., 214.
[12] Ibid., 40.
[13] Ibid., 64.
[14] Ibid., 126.
[15] Ibid., 245.
[16] Communism’s Negotiated Collapse, 144.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 05:36
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_20.html
========================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 19)


Dịch giả: Nguyễn Quang A

Đàm phán các Chế độ Pháp lý Mới:

Bàn Tròn Ba Lan và Cách mạng được Dàn xếp của Nam Phi
Heinz Klug

Quá trình thay đổi chính trị được thương thuyết mà đã là tiêu điểm của hội thảo của Đại học Michigan “Communism’s Negotiated Collapse: The Polish Round Table, Ten Years Later – sự Sụp đổ được Dàn xếp của Chế độ Cộng sản: Bàn Tròn Ba Lan, Mười Năm Nhìn lại,” dựa trên tiền đề rằng các quá trình này có thể thiết lập các chế độ chính trị mới. Một thỏa thuận được đàm phán để hủy bỏ địa vị đặc biệt của Đảng Cộng sản ở Ba Lan – giống thỏa thuận để thừa nhận các quyền chính trị của tất cả những người Nam Phi – ngụ ý không chỉ một sự thay đổi về những dàn xếp chính trị mà cả một sự thay đổi cơ bản về cấu trúc hợp hiến của chính phủ, về các quy tắc cơ bản của trò chơi chính trị. Từ góc nhìn pháp lý, các sự kiện này tiêu biểu cho một con đường cá biệt cho việc thiết lập một chế độ chính trị và pháp lý mới. Mặc dù cách mạng, sự thất bại quân sự, sự phi thực dân hóa hay các cuộc đảo chính quân sự trong hầu hết thế kỷ thứ hai mươi đã là các điềm báo trước thông thường đối với một sự tái cấu trúc cơ bản của một nhà nước, thế kỷ đã kết thúc với một làn sóng của những thay đổi chính trị gây ra chủ yếu thông qua các quá trình của thương lượng công khai giữa nhà nước và phe đối lập, dẫn đến dân chủ hóa và chuyển giao quyền lực. Rằng những hiện tượng mới này xảy ra ở nhiều nước trên ba lục địa khác nhau ít nhiều đồng thời – bao gồm Chile, Ba Lan và Nam Phi – đã quả thực là độc nhất.
Trong thời gian hội thảo Michigan, Michael Kennedy đã nhận diện một số nét chung cơ bản mà đã đặc trưng cho các quá trình Nam Phi và Ba Lan về chuyển đổi dân chủ, bao gồm: (1) những giới hạn ý thức hệ vốn có lên cải cách nhà nước đơn phương; (2) sự ăn mòn của hệ tư tưởng thống trị, kết đôi với sự huy động quần chúng bởi phe đối lập; (3) sự tồn tại của những đàm luận tôn giáo mạnh mẽ đề xuất tầm nhìn về sự thay thế hòa bình khả dĩ; (4) sự chấp nhận và đi theo một con đường được thừa nhận về mặt quốc tế đến dân chủ hóa; và cuối cùng, (5) việc tạo ra một chính phủ “bị hạn chế về mặt  hợp đồng nhưng được lựa chọn một cách dân chủ.”
Đáng chú ý, “những nét chung” này được nhận diện bởi Michael Kennedy đề cập đến cả các điều kiện tiên quyết của các cuộc đàm phán và các kết quả nhưng đã không đề cập đến bản thân quá trình đàm phán. Phải là nhiệm vụ so sánh để nhận diện những sự tương tự và những sự khác biệt bên trong những chuyển đổi được thương lượng này mà sẽ làm nổi bật ý nghĩa của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn đã bắt đầu ở Ba Lan. Cả những giới hạn ý thức hệ lên cải cách nhà nước và sự xói mòn của ý thức hệ đó trong bối cảnh của sự phản đối quần chúng có thể được đặc trưng như các điều kiện mà dưới đó những người giữ vai trò chính đã nhận ra rằng họ đã không còn có thể tiếp tục cai trị cũng như chẳng thể vẫn ở trong đối lập với bất kỳ lợi thế nào nữa: họ đã ở vị thế cùng yếu. Sự tồn tại của những đàm luận tôn giáo, trong khi là trung tâm ở Ba Lan, có thể không quan trọng đến thế ở nơi khác. Mặc dù Nam Phi là một nước theo tôn giáo sâu sắc và chủ yếu theo Ki tô giáo, tôn giáo đã không cung cấp một tầm nhìn thay thế khả dĩ; những người giữ vai trò chính ở cả hai bên của sự chia rẽ chính trị đã tin rằng họ đã có Chúa ở phía họ và đã dùng các nguồn kinh thánh để biện minh cho các đòi hỏi và hành động mâu thuẫn của họ. Yếu tố thứ tư nhấn mạnh bầu không khí quốc tế mà đã giúp xác định các lựa chọn thực tế sẵn có cho các bên xung đột, và yếu tố cuối cùng đề cập chỉ đến kết quả trực tiếp của các cuộc đàm phán. Tôi sẽ gợi ý rằng có những sự khác biệt cũng như những sự giống nhau quan trọng trong hai trường hợp này.
Trước khi thử làm việc này, tôi muốn trình bày một mô tả ngắn về quá trình Nam Phi. Sau bốn mươi năm của sự cai trị apartheid – một hệ thống ý thức hệ dựa trên các quan niệm phân biệt chủng tộc về ưu thế của người da trắng và đã được xây dựng trên quyền lực chính trị của thiểu số da trắng của Nam Phi – nhà nước Nam Phi đã thấy mình bị cô lập về mặt quốc tế và đối mặt với những mức độ phản kháng trong nước chưa từng có. Bất chấp một số nỗ lực cải cách, kể cả chấp nhận một chính sách phát triển tách biệt cho những người da trắng và những người da đen, và muộn hơn, sự chấp nhận một hiến pháp ba chủng tộc cho các nhóm thiểu số – người da trắng, người Ấn Độ và người “da màu” – sự tiếp tục loại trừ đa số người Phi châu đã loại trừ bất kỳ giải pháp nào cho cuộc xung đột. Mặc dù một loạt các bước – kể cả các cuộc nói chuyện với Nelson Mandela ở trong tù, việc thả một số từ nhân chính trị chủ chốt và thậm chí sự tiếp xúc bí mật với Hội Nghị Dân tộc Phi (ANC) – đã đi trước các cuộc đàm phán, quá trình trên thực tế đã được bắt đầu bởi việc chính phủ đơn phương bỏ việc cấm các phong trào chính trị da đen, kể cả ANC và Đảng Cộng sản Nam Phi. Ngay cả khi đó, chính phủ và ANC đã vẫn rất xa nhau. Trong việc chấp nhận nhu cầu để đàm phán, chính phủ đã cho rằng điểm cốt yếu của họ là một hệ thống chia sẻ quyền lực được ghi trong hiến pháp dựa trên tộc người với quyền phủ quyết được giữ bởi các nhóm thiểu số, kể cả những người da trắng. Mặt khác, ANC đã tin rằng chính phủ phải chuyển giao ngay lập tức quyền lực cho một “chính phủ lâm thời” để trông coi các cuộc bầu cử cho một hội đồng lập hiến được bầu cử một cách dân chủ, mà sẽ có quyền không bị hạn chế để tạo ra hiến pháp hậu-apartheid của Nam Phi.
Thởi kỳ giữa tháng Hai 1990 và việc tổ chức các cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên của Nam Phi trong tháng Tư 1994 giống với kinh nghiệm Bàn Tròn ở Ba Lan. Không giống các bàn tròn Đông Âu, quá trình Nam Phi không thể được xem như một tập hợp đơn nhất của các cuộc gặp giữa chính phủ và phe đối lập. Đúng hơn nó đã gồm – tại mức các cuộc gặp chính thức – ba pha riêng biệt: các cuộc đàm phán về các cuộc đàm phán; các cuộc gặp Codesa mà đã dẫn đến một sự đổ vỡ tạm thời của các cuộc đàm phán; và, cuối cùng, Diễn đàn Thương lượng Đa Đảng mà trong đó các đảng đã thương lượng hiến pháp “tạm thời” và những dàn xếp chuyển tiếp dẫn đến việc tổ chức các cuộc bầu cử đầu tiên. Một khi các cuộc bầu cử được tổ chức và hiến pháp tạm thời có hiệu lực, thì sự chuyển đổi dân chủ bước vào pha tiếp theo – không khác các thời kỳ tiếp sau của sự thay đổi chính trị tiếp tục mà đã đặc trưng cho những kinh nghiệm châu Âu. Sự khác biệt ở Nam Phi sau các cuộc bầu cử, tuy vậy, đã là sâu sắc: sự chuyển quyền lực chính trị từ cũ sang mới chỉ đã tăng tốc, với bất kỳ các cuộc đàm phán nào giữa các đảng trong Hội đồng Lập Hiến và Quốc hội tập trung vào tạo ra Hiến pháp “cuối cùng” năm 1996.
Trong so sánh những kinh nghiệm Nam Phi và Ba Lan, có một số khác biệt quan trọng mà sẽ có ý nghĩa trung tâm lên sự đánh giá của chúng ta về những kinh nghiệm này. Thứ nhất, vai trò của bạo lực và mối quan hệ của nó với quá trình đàm phán là hoàn toàn khác. Thứ hai, mối quan hệ giữa tính liên tục pháp lý và sự thay đổi hiến pháp đã định khung cả bản chất của những đòi hỏi của phe đối lập và lập trường của chính phủ một cách khác hoàn toàn. Thứ ba, cả cơ sở chính thức lẫn phi chính thức cho việc ra quyết định trong các cuộc đàm phán đã khác. Thứ tư, sự hiểu và mô tả đặc trưng của chúng ta về kết quả nêu ra câu hỏi về định thời gian: tại điểm nào chúng ta có thể coi những kết quả của các cuộc đàm phán đã bị thay thế bởi các sự kiện tiếp sau? Cuối cùng, câu hỏi về định thời gian, cả theo nghĩa của các điều kiện cho các cuộc đàm phán – về mặt quốc tế và địa phương – và về mặt quá trình của bản thân các cuộc đàm phán, phân biệt các cơ hội và những ràng buộc lên các bên trong hai trường hợp này.
Không giống kinh nghiệm Ba Lan, mà, bất chấp việc nhà nước áp đặt quân luật và các hành động tàn bạo khác, đã về cơ bản vẫn phi-bạo lực, sự chuyển đổi Nam Phi đã đi cùng với những mức độ bạo lực chưa từng thấy. Thực ra, là công bằng để nói rằng quá trình theo nhiều cánh đã được thúc đẩy và định hình bởi sự leo thang của bạo lực trong thời gian chuyển đổi chính trị và đe dọa bạo lực lớn hơn nếu các cuộc đàm phán thất bại. Bạo lực đã có nhiều hình thức: gần nội chiến ở Kwa-Zulu/Natal giữa ANC và những người ủng hộ Đảng Tự do Inkatha (Freedom Party - IFP); những cố gắng do nhà nước bí mật xúi bẩy để phá vỡ sự tổ chức ANC và giải ngũ những người ủng hộ ANC ở nhiều phần khác của đất nước; một loạt vụ giết và ám sát những người ủng hộ, các nhà tổ chức và các lãnh tụ ANC; và cuối cùng, một sự nổi loạn xấu số bởi những kẻ phát xít mới da trắng những người đã mưu toan trong các tuần trước bầu cử để xúi giục sự ly khai của bantustan* Bophuthatswana như một phần của nỗ lực của họ để dừng sự chuyển đổi. Thế nhưng tác động của bạo lực đã là để xây dựng, theo thời gian, một trung tâm của các nhà hoạt động và các chính trị gia những người đã hiểu rằng con đường tiến lên phía trước duy nhất, và hy vọng duy nhất về giảm mức bạo lực chính trị, đã là tiếp tục sự chuyển đổi dân chủ. Theo nhiều cách, bạo lực, và những phản ứng lại với nó, đã khiến các nhà đàm phán của chính phủ nhận ra rằng mục tiêu của họ về một thời kỳ chuyển đổi không hạn định, hay ít nhất mười lăm năm, đã là không thể biện hộ được – tác động kinh tế và xã hội của bạo lực đã đòi hỏi một sự chuyển tiếp nhanh hơn sang dân chủ hoàn toàn.
Một sự phân biệt quan trọng thứ hai là các giả thiết pháp lý hay hiến pháp mà đã làm nền cho các tập hợp khác nhau của các cuộc đàm phán. Ở Ba Lan, cả chính phủ và phe đối lập đã bước vào các cuộc Đàm phán Bàn Tròn giả sử một quá trình cải cách pháp lý, bắt đầu với việc hợp pháp hóa Đoàn kết và các hệ lụy của nó cho câu hỏi lập hiến chính: địa vị đặc biệt của Đảng Cộng sản bên trong trật tự hiến pháp. Ngược lại, quá trình Nam Phi đã có thể chỉ bắt đầu một khi đã có sự hiểu rằng sự thay đổi hiến pháp cơ bản đã là vấn đề trung tâm. Mặc dù chế độ đã bước vào các cuộc đàm phán với sự tin rằng nó có thể sắp đặt một thời kỳ chia sẻ quyền lực dựa trên sắc tộc, vào thời gian các cuộc đàm phán kết thúc, trật tự hiến pháp “tạm thời” đã được thống nhất bởi các đảng chính đã tạo ra một cách rõ ràng cho một sự cai trị đa số. Mặc dù cả hai quá trình đã dính líu đến một loạt các bước theo hướng dân chủ hoàn toàn, bản chất thuộc địa thực chất của bối cảnh Nam Phi đã làm cho nó hoàn toàn rõ ràng rằng, một khi việc bỏ phiếu được thực hiện bởi đa số người da đen, thì cả hệ thống cũ lẫn các chính trị gia của nó và cơ sở xã hội ủng hộ nó sẽ không bao giờ lại thi hành quyền lực chính trị nữa. Như thế bất chấp sự khăng khăng bởi chế độ cũ ở Nam Phi rằng có sự liên tục pháp lý – tức là, rằng chế độ cũ chính thức ban hành hiến pháp “tạm thời” – không giống Ba Lan, thực tế đã có một sự gián đoạn chính trị ngay lập tức, hoàn toàn, và chung cuộc. Khi Mandela đã đảm đương chức Tổng thống, đã chẳng bao giờ có thể có một chính phủ được bầu, được thiểu số da trắng kiểm soát ở Nam Phi nữa.
Sự khác biệt này được làm rõ hơn bởi sự hiểu bản chất của quá trình ra quyết định được chấp nhận bên trong các cuộc đàm phán Nam Phi và bên trong Chính phủ Thống nhất Dân tộc (Government of National Unity-GNU) “chia sẻ quyền lực” mà đã được long trọng ghi trong Hiến pháp tạm thời. Bất chấp khá nhiều đảng tại Codesa và muộn hơn tại Diễn đàn Thương lượng Đa Đảng, nguyên tắc về “đủ đồng thuận” đã được chính thức chấp nhận như phương tiện bảo đảm sự tiến bộ. Mặc dù khái niệm này đã không được làm rõ hoàn toàn, thực tế nó đã có nghĩa rằng chừng nào chính phủ Đảng Quốc gia và ANC đã thống nhất ở một điểm cá biệt thì đã có đủ đồng thuận. Trong khi việc này đã dẫn đến sự bất bình lớn về phía của IFP, nguyên tắc đã phản ánh có hiệu quả thực tế quyền lực bên trong quá trình. Chính phủ đã tin rằng sự dàn xếp này phải được chính thức cố thủ như cơ sở của sự chia sẻ quyền lực trong nhánh hành pháp của GNU. Tuy vậy, ANC đã khăng khăng rằng các quyết định bên trong nội các sẽ, trong trường hợp không đạt đồng thuận, được đưa ra bởi đa số phiếu. Điều này, kết hợp với sự thực rằng các vị trí bên trong GNU được phân bổ theo tỷ lệ phiếu bầu mỗi đảng đã nhận được trong các cuộc bầu cử, đã có nghĩa rằng các nhà đàm phán đã hiểu rằng mức độ chia sẻ quyền lực được bảo đảm bởi hiến pháp thực ra là khá hạn chế. Đảng Quốc gia cũ sẽ có các ghế trong nội các và như thế tiếp tục kiểm soát một số bộ, nhưng Mandela sẽ tự do để cai trị, và ANC sẽ có khả năng để khẳng định việc thực hiện cương lĩnh riêng của mình. Trong thực tế, việc này đã dẫn đến Đảng Quốc gia rút lui khỏi GNU sớm hơn nhiều trước sự kết thúc được bảo đảm là năm năm và ANC thấy rằng vấn đề thực hiện các chính sách của nó nằm nhiều hơn trong bộ máy công chức, mà các vị trí cũng đã được bảo đảm như một phần của thỏa thuận được thương lượng, và trong sự thiếu của chính nó về năng lực công chức.
Chính yếu tố cuối cùng này, bản chất của chính phủ sau bầu cử, mà cũng phân biệt hai tập hợp này của các cuộc đàm phán. Bất chấp cam kết chính thức về chia sẻ quyền lực ở Nam Phi, thực ra, các cuộc bầu cử 1994 đã thấy sự thay đổi cuối cùng về quyền lực. Trong năm năm tiếp theo, sự chuyển dịch đó đã được củng cố thông qua việc viết hiến pháp cuối cùng và sự biến đổi chậm của hầu hết các định chế trung ương của quyền lực chính trị. Trong khi các di sản của apartheid và thực tế của quyền lực kinh tế và đặc ân là chậm để thay đổi, ở Nam Phi, các cuộc đàm phán quả thực đã dẫn đến một cuộc cách mạng chính trị và hiến pháp. Đáng chú ý, cả sự thực về sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và mức huy động xã hội và chính trị đã đạt được ở Nam Phi bởi phong trào chống- apartheid trong các năm 1980, đã có nghĩa rằng các bối cảnh quốc tế và nội địa mà trong đó các cuộc đàm phán “bàn tròn” Nam Phi đã xảy ra – từ tháng Hai 1990 đến tháng Mười Hai 1993 – đã biến đổi đáng kể rồi và đã hoàn toàn khác các bối cảnh mà trong đó Bàn Tròn Ba Lan đã xảy ra. Mặc dù nhà nước Nam Phi đã áp đặt tình trạng khẩn cấp tàn bạo vào cuối các năm 1980, mức phản kháng chống chế độ và sự huy động xã hội mà đã nổi lên như các điều kiện đã bắt đầu thay đổi trong năm 1989 đã làm cho nó là một bối cảnh hoàn toàn khác bối cảnh của Ba Lan.
Bất chấp những sự khác biệt này, tuy vậy, thật đáng chú ý, căn cứ vào sức mạnh chính trị và quân sự hiển nhiên được giữ lại bởi cả nhà nước Nam Phi và nhà nước Ba Lan, rằng các chế độ cũ không chống nổi một quá trình mà trong đó họ thực tế đã buộc phải ít nhiều từ bỏ độc quyền về quyền lực nhà nước chính thức mà họ đã hưởng một cách chính thức. Về mặt này Bàn Tròn Ba Lan, trong khi đã không hoàn toàn độc nhất (các cuộc đàm phán đã rõ ràng có trên chương trình nghị sự ở Nam Phi vào cuối các năm 1980) đã chuẩn bị cho các nước khác khi họ bắt đầu đi theo con đường tương tự.
Các cuộc Đàm phán Nam Phi
Cuộc cách mạng được thương lượng của Nam Phi đã bắt đầu với việc bỏ cấm các phong trào chính trị. Việc này đã dẫn đến một loạt cuộc gặp gỡ sơ bộ trong đó ANC đã khăng khăng rằng chính phủ thi hành các điều khoản của Tuyên bố Harare, một tuyên bố được quốc tế chấp nhận mà đòi hỏi chế độ apartheid: thả toàn bộ tù nhân chính trị; bỏ việc cấm các tổ chức chính trị; di chuyển nhân viên quân sự khỏi các thị trấn của người da đen; ngừng các cuộc hành hình chính trị; chấm dứt trạng thái khẩn cấp; và hủy bỏ tất cả pháp luật được thiết kế để hạn chế hoạt động chính trị. Trong một loạt “các cuộc đàm phán về các cuộc thương lượng,” bắt đầu với cuộc gặp Groote Schuur trong tháng năm 1990, ANC đã tiến hành các cuộc đàm phán trực tiếp với chính phủ để bảo đảm việc thực hiện các điều kiện tiên quyết Harare. Những thỏa thuận này đã cho phép ANC bắt đầu thiết lập lại một sự hiện diện pháp lý trong nước như một phần của quá trình hướng tới bình thường hóa hoạt động chính trị. Tuy vậy, vào tháng Mười Hai 1990, khi ANC tổ chức hội nghị tham vấn hợp pháp đầu đầu tiên của nó ở Nam Phi trong hơn ba mươi năm, số hội viên hợp pháp tăng nhanh của nó đã phản ứng lại một cách đột ngột với sự gia tăng bạo lực được chỉ huy bởi các lực lượng bí mật và những người ở nhà tập thể do IFP sắp đặt chống lại cộng đồng người da đen. Kêu gọi cầm vũ khí và huấn luyện quân sự, các thành viên và các nhà hoạt động mới này nhắc nhở ban lãnh đạo rằng cuộc chiến đấu vũ trang chống lại apartheid vẫn đã chưa bị đình chỉ một cách chính thức.
Thoạt đầu đã có vẻ rằng ban lãnh đạo ANC sẽ đáp lại áp lực từ các thành viên của mình và đòi hỏi rằng một sự chấm dứt bạo lực được đưa thêm như một điều kiện tiên quyết đối với các cuộc đàm phán. Nhưng không bao lâu đã trở nên rõ ràng từ hình mẫu của bạo lực, đặc biệt là cách, mà theo đó nó tăng cao, trùng với các sáng kiến chính trị của ANC, rằng nếu một sự chấm dứt bạo lực là điều kiện tiên quyết thêm cho các cuộc đàm phán, thì nhà nước sẽ ở vị thế mạnh hơn để kiểm soát sự chuyển đổi. Mặc dù luôn luôn đã phủ nhận, cả ứng xử của các đơn vị cảnh sát và quân đội của chế độ cũ, cũng như những tiết lộ thi thoảng về các dự án bí mật, kể cả việc tài trợ và cung cấp vũ khí cho IFP, đã làm cho nguồn của bạo lực rõ ra. Thay cho việc để cho các tình tiết này sai khiến nhịp độ của các sự kiện, ANC đã quyết định đưa ra sáng kiến và đã thiết lập khung khổ riêng của mình cho chuyển đổi sang nền dân chủ: kêu gọi một hội nghị tất cả các bên; đòi hỏi thành lập chính phủ lâm thời; tổ chức các cuộc bầu cử cho một quốc hội lập hiến để soạn ra một hiến pháp mới; và cuối cùng, bầu một chính phủ dân chủ dưới hiến pháp mới được chấp nhận.
Với việc triệu tập Hội nghị cho Nam Phi Dân chủ (Conference for a  Democratic South Africa – Codesa) vào ngày 20 tháng Mười Hai năm 1991, đã có vẻ rằng Nam Phi đã bước vào giai đoạn cuối của một quá trình mà sẽ mở rộng các quyền chính trị cho tất cả các công dân. Cảm giác tiến bộ này đã tăng lên bởi một sự hội tụ hiển nhiên về ý kiến vì các bên chủ yếu – ANC và Chính phủ – đã thống nhất về nhiều vấn đề cơ bản, kể cả việc thiết lập một nền dân chủ đa đảng trong Nam Phi thống nhất với một luật được bảo vệ kiên cố về các quyền được xét xử bởi một tòa án hiến pháp đặc biệt. Các cuộc đàm phán thực chất đã bắt đầu với việc nhóm họp của năm nhóm công tác của Codesa trong tháng Hai 1992. Các điều khoản tham chiếu của chúng đã bao gồm: sự tái hợp nhất của bốn bantustan được trao sự độc lập dưới thời apartheid (Transkei, Bophuthatswana, Venda và Ciskei - TBVC); tạo ra một chính phủ chuyển tiếp để dẫn đất nước đến dân chủ; một bộ các nguyên tắc lập hiến; một phương pháp cho việc soạn và chấp nhận một hiến pháp mới; và việc tạo ra một bầu không khí cho hoạt động chính trị tự do.
Chính các nhóm công tác Codesa đã gần giống nhất với định dạng bàn tròn của các cuộc đàm phán. Mỗi nhóm công tác, bao gồm một số đại diện của hai mươi bảy đảng phái chính trị khác nhau tham gia vào Codesa, đã gặp nhau trong thời kỳ hàng tháng giữa Codesa I và sự sụp đổ của Codesa tại cuộc họp toàn thể thứ hai của nó. Mặc dù các thỏa thuận đạt được đã không có địa vị chính thức nào sau sự sụp đổ của các cuộc đàm phán, thực ra, nét đại cương cơ bản của sự chuyển đổi đã được thảo luận tại các cuộc gặp gỡ này. Nhằm làm rõ điều này, tôi sẽ tóm tắt ngắn gọn các vấn đề được thảo luận và các thỏa thuận đã đạt được trong các nhóm công tác khác nhau.
Nhiệm vụ chủ yếu của Nhóm Công tác Một đã là việc tạo ra một bầu không khí cho hoạt động chính trị tự do. Nhóm công tác đã tập trung vào giải quyết địa vị của các tù nhân chính trị và những người đi đày, cải cách pháp luật Khẩn cấp và An ninh, điều tiết truyền thông phát thanh truyền hình và đặc biệt Công ty Phát thanh Truyền hình Nam Phi do nhà nước kiểm soát, và thực thi Hòa ước Hòa Hình Dân tộc. Nó cũng đã thảo luận việc tài trợ các đảng chính trị và kiểm soát các lực lượng an ninh trong thời gian chuyển đổi. Về nguyên tắc, tiến bộ đã đạt được về hầu hết các vấn đề này. Vấn đề thả các tù nhân chính trị và sự về nước của những người bị lưu đầy đã được nhận diện như, “một ưu tiên trong việc hoàn thành quá  trình hòa giải,” nhưng đã được quyết định rằng nó có thể chỉ được giải quyết trong các cuộc đàm phán song phương giữa chính phủ và ANC. Dẫu cho nhóm công tác đã thống nhất để đặt sự kiểm soát lên tuyên bố và việc thực hiện các trạng thái khẩn cấp, nó đã đồng ý rằng, “các biện pháp đặc biệt là cần thiết để đối phó với những mối đe dọa sự yên bình và trật tự công trong thời kỳ chuyển đổi.” Sự hiểu của nhóm công tác về vai trò mà tường thuật tin tức đóng trong tạo ra một bầu không khí tham gia chính trị tự do được phản ánh trong thỏa thuận về thiết lập một cơ quan độc lập để điều tiết truyền thông đại chúng. Nhóm Công tác Một đã đồng ý một dải các cơ chế cụ thể để bảo đảm việc thực hiện hiệu quả Hòa ước Hòa Bình Dân tộc, kể cả việc áp đặt các bản án mạnh hơn cho việc sở hữu vũ khí bất hợp pháp hay sự phô trương công khai các vũ khí nguy hiểm. Nhóm Công tác Một cũng đã đồng ý hoãn Bộ luật Cấm Tài trợ Nước ngoài của các Đảng Chính trị cho đến sáu tháng sau cuộc bầu cử không-chủng tộc đầu tiên. Cuối cùng, nhóm công tác đã đồng ý rằng trong thời kỳ chuyển đổi các Lực lượng An ninh phải được đặt dưới sự kiểm soát của một tiểu-hội đồng của [Chính] Quyền Hành chính Chuyển đổi (Transitional Executive Authority – TEA).
Nhóm Công tác Hai đã tìm cách giải quyết vấn đề về biến đổi hiến pháp, mà đã được phân chia ra thành hai vấn đề riêng biệt. Thứ nhất, nó đã tìm cách để thiết lập một bộ các nguyên tắc lập hiến mà sẽ hoàn toàn bắt buộc đối với cơ quan lập hiến được bầu trong tương lai. Thứ hai, nhóm công tác sẽ quyết định về một phương pháp soạn thảo và chấp nhận một hiến pháp mới. Tuy vậy, Nhóm Công tác Hai đã bị giật giữa chính phủ và các đồng minh của nó, những người đã cãi lý biện hộ cho một định nghĩa rộng về “các nguyên tắc lập hiến,” sao cho để bảo đảm rằng phần lớn của một hiến pháp tương lai được thương lượng bên trong Codesa, và ANC và các đồng minh của nó, những người đã cãi lý biện hộ cho một quan niệm hạn chế hơn về các nguyên tắc lập hiến, sao cho để không xâm phạm đến hoạt động lập hiến của một cơ quan lập hiến được bầu. Mặc dù có vẻ đã có sự thỏa thuận về sự bao gồm các nguyên tắc bảo đảm các quyền cá nhân và các quá trình chính trị dân chủ, các nỗ lực để bao gồm các nguyên tắc về thành phần chính phủ và sự phân chia quyền lực bên trong nhà nước đã vẫn còn tranh cãi.
Sự tranh cãi này đã tràn vào cuộc tranh luận về cơ quan lập hiến. ANC đã coi một quốc hội lập hiến được bầu như phương tiện hợp pháp duy nhất để làm một hiến pháp mới. Chính phủ và IFP đã sợ rằng các cuộc bầu cử sẽ gạt vai trò của họ sang bên lề, và đã tìm cách để giải quyết tất cả sự không chắc chắn về một trật tự hiến pháp tương lai tại Codesa.
Đối với chính phủ, điều này sẽ đòi hỏi việc thiết lập một hiến pháp tạm thời và ngưỡng bảy mươi lăm phần trăm cho việc chấp nhận một hiến pháp mới trong một quốc hội lập hiến được bầu. IFP đã phản đối nguyên tắc đối với một cơ quan được bầu và đã khăng khăng rằng chế độ liên bang được bảo đảm về mặt hiến pháp trước bất kỳ cuộc bầu cử nào. Cuối cùng, Nhóm Công tác Hai đã thất bại để đạt thỏa thuận và dồn Codesa vào bế tắc khi chính phủ đã khăng  khăng về đa số bảy mươi lăm phần trăm cho việc chấp nhận một hiến pháp mới còn ANC đã đồng ý bảy mươi lăm phần trăm cho bộ luật về các quyền nhưng đã khăng khăng về bảy mươi phần trăm cho việc chấp nhận một hiến pháp mới.
Nhóm Công tác Ba đã đạt đồng thuận lớn hơn về đất nước phải được cai trị như thế nào trong thời gian chuyển đổi sang dân chủ, đồng ý về một quá trình hai pha. Giai đoạn thứ nhất sẽ bao gồm việc thiết lập Chính Quyền Hành Chính Chuyển đổi (TEA) đa đảng để hoạt động cùng chung với các cấu trúc lập pháp và hành pháp hiện tồn giải thoát khỏi cấu trúc ba viện của chúng, trong khi giai đoạn thứ hai đã là thời kỳ giữa bầu cử và sự chấp thuận một hiến pháp dân chủ. Trong thời kỳ này, cơ quan được bầu sẽ kết hợp các chức năng của cơ quan lập pháp bình thường và cơ quan lập hiến. Ngoài ra đã đồng ý rằng một Ủy Ban Bầu cử Độc lập được thiết lập để bảo đảm bầu cử tự do và công bằng.
Nhóm Công tác Bốn đã tập trung vào tương lai của các bantustan “độc lập” TBVC và đã đồng ý nguyên tắc tái hợp nhất. Mặc dù các bên đã đồng ý rằng các chính quyền TBVC phải nằm dưới sự kiểm soát của Hội đồng Điều hành Chuyển đổi (Transitional Executive Council – TEC), sự xung đột vẫn đã còn về liệu sự tái hợp nhất sẽ còn tùy thuộc vào quyết định bởi dân cư của mỗi thực thể TBVC hay không. Mặc dù ANC và các đồng minh của nó từ chối đồng ý bất kỳ thủ tục nào mà sẽ công nhận đòi hỏi của các thực thể TBVC cho tư cách nhà nước, họ đã chấp nhận rằng bỏ phiếu trong một cuộc bầu cử quốc gia có thể được dàn xếp để chứng tỏ sự ủng hộ hay từ chối tái hợp nhất. Cuối cùng, Nhóm Công tác Năm, mà đã để xác định khung thời gian cho việc thi hành các thỏa thuận Codesa, đã vẫn phụ thuộc vào sự tiến bộ trong các nhóm khác.
Chẳng bao lâu đã trở nên rõ ràng, tuy vậy, rằng sự hội tụ trong ngôn ngữ đã che giấu những sự khác biệt sâu sắc và một chiến lược về phía chính phủ để giữ sự kiểm soát quá trình chuyển đổi và, như thế, để phóng chiếu quyền lực của Đảng Quốc gia cai trị và các đồng minh của nó vào tương lai thông qua sự sắp xếp lập hiến gian lận. Mặc dù tuyên bố thành lập của Codesa đã bao gồm một cam kết đối với một Nam Phi thống nhất [nhưng] không bao lâu sau chính phủ đã diễn giải điều này để chỉ có nghĩa là sự duy trì các đường biên giới được quốc tế công nhận năm 1910 của Nam Phi. Chính phủ đã bắt đầu khăng khăng rằng phải có thỏa thuận trước rằng bất kỳ hiến pháp tương lai nào đều dựa trên tiền đề về một hệ thống chính thể liên bang nghiêm ngặt, dựa trên sự phân chia đất nước thành một số vùng hầu như độc lập thù địch với nhau. Căn cứ vào sự bất bình đẳng chủng tộc và kinh tế quá lớn giữa các vùng khác nhau trong nước, ANC và các đồng minh của nó đã thấy đòi hỏi chế độ liên bang như một mưu toan của chế độ cũ để bảo vệ lợi thế kinh tế và xã hội của người da trắng thông qua việc chia thật sự đất nước thành các vùng khác nhau, một số trong các vùng đó vẫn dưới sự kiểm soát da trắng, do sự chia tách địa lý và chủng tộc được áp đặt bởi apartheid. Chính sự khăng khăng này về chế độ liên bang như một điều kiện tiên quyết cho việc tạo ra một quốc hội lập hiến được bầu một cách dân chủ và đòi hỏi rằng hiến pháp mới được chấp nhận bởi bảy mươi lăm phần trăm của cơ quan lập hiến được bầu theo tỷ lệ, cũng như bảy mươi lăm phần trăm của các đại biểu được bầu theo vùng, là cái đã dẫn đến sự thất bại của phiên toàn thể thứ hai của Codesa trong tháng Năm 1992.
Sự sụp đổ của các cuộc đàm phán chính thức vào giữa năm 1992 đã mở đầu một thời kỳ căng thẳng đột ngột và xung đột mà trong đó Nam Phi đã đến gần một cách nguy hiểm tới việc từ bỏ hoàn toàn con đường đàm phán. Phản ứng của ANC và các đồng minh của nó trong Phong trào Lao động và Đảng Cộng sản Nam Phi đã là để huy động những người ủng hộ của họ trong một chiến dịch hành động quần chúng để đòi một quốc hội lập hiến được bầu một cách dân chủ.
Tuy vậy, sáng kiến của ANC đã gặp một loạt các cuộc tấn công bạo lực lên các cộng đồng, đạt đỉnh điểm trong vụ Tàn sát Boipatong, trong đó những người ở nhà tập thể theo- IFP đã được cảnh sát hộ tống trong một cơn thịnh nộ mở rộng và chí tử chống lại dân cư thường dân của một cộng đồng theo-ANC ở nam Johannesburg. Đáp lại, ANC đã tuyên bố một sự hoãn chính thức các cuộc đàm phán đa đảng và đòi chính phủ dừng bạo lực leo thang. ANC đã lưu ý rằng chính phủ vẫn giam giữ hơn ba trăm tù nhân chính trị, vi phạm các thỏa thuận trước đó, và đã không đưa ra nỗ lực nào để cấm mang vũ khí gây chết người bởi các đồng minh của nó, đặc biệt là IFP, mà đã khăng khăng rằng các thành viên của mình có quyền mang các vũ khí “truyền thống,” như gậy, giáo, mác và dao lớn.
Sau hai ngày tổng đình công vào đầu tháng Tám, nhà nước đã có vẻ sẵn sàng mở lại các cuộc đàm phán, đưa ra những nhượng bộ như việc chấp nhận các nhà quan sát quốc tế và một sự mở rộng các cấu trúc Hòa ước Hòa bình được thiết kế để giải quyết bạo lực. Bất chấp những nhượng bộ này, tuy vậy, chính phủ đã vẫn từ chối chấp  nhận cơ quan lập hiến được bầu một cách dân chủ. Hơn nữa, khi bằng chứng bắt đầu nổi lên về vai trò của chính phủ trong các vụ ám sát chính trị, chính phủ đã kêu gọi một sự ân xá chung đối với các tội có động cơ chính trị – mà không có sự chứng minh bằng tài liệu về trách nhiệm cụ thể vì các hành động cá biệt.
Bác bỏ phản ứng của chính phủ, ANC đã tự cam kết để tăng cường chiến dịch hành động quần chúng của mình để bảo đảm hoạt động chính trị tự do trong các vùng đó (các bantustan và các thị trấn da trắng cánh hữu) nơi nó cho rằng các chính quyền địa phương đã tiếp tục đàn áp tổ chức ANC. Chiến lược này đã được nghĩ ra để nêu bật sự mâu thuẫn giữa luận điệu của chính phủ rằng apartheid đã được bãi bỏ trong khi nó đã duy trì hệ thống banbustan của apartheid, như thế chối bỏ trách nhiệm vì sự thiếu hoạt động chính trị tự do trong các vùng được kiểm soát bởi các đồng minh của chính phủ. Đáng chú ý, chính cùng sự chia quyền lực này mà sẽ để các cộng đồng địa phương dưới sự kiểm soát của các elite địa phương, không có sự can thiệp của chính quyền quốc gia, mà ANC đã sợ chính phủ đã tìm cách để duy trì mãi mãi thông qua kiến nghị chế độ liên bang của nó.
Nỗi lo sợ này đã được nhấn mạnh bởi cuộc tàn sát những người ANC biểu tình tại Bisho, ở Ciskei, vào ngày 7 tháng Chín 1992. Các lực lượng an ninh Ciskei đã xả súng vào 120.000 người biểu tình tay không, để lại hai mươi tám người chết và gần 200 người bị thương. Cùng ngày, Tổng thống Nhà nước F.W. de Klerk đã tổ chức một cuộc hội nghị về chế độ liên bang và chủ nghĩa địa phương. Được quảng cáo như một diễn đàn mở để thảo luận các lựa chọn lập hiến và bị phê phán như một mưu toan để xây dựng một liên minh chống-ANC, hội nghị đã được cho là để làm sống lại các cuộc đàm phán đa đảng, mà đã sụp đổ tại cuộc họp toàn thể thứ hai của Codesa. Cuộc thảm sát đã phủ bóng lên sáng kiến liên bang của de Klerk, và ANC đã từ chối tham gia lại chính thức vào các cuộc đàm phán đa đảng. Tuy nhiên, ANC đã có vẻ lắt tay vào một quá trình bình thường của các cuộc đàm phán bằng cách đưa ra công khai các kiến nghị cho sự chuyển đổi dân chủ.
Cố gắng để, “tạo ra khả năng của một đột phá tích cực lớn,”[1] Chủ tịch Đảng Cộng sản Nam Phi Joe Slovo đã giữ vai trò lãnh đạo trong  các cuộc đàm phán bình thường trong thời kỳ tiếp sau thảm sát Bisho, kiến nghị chấp nhận một “điều khoản hoàng hôn – sunset clause,” mà sẽ chuẩn bị cho sự chia sẻ quyền lực bắt buộc trong một số năm được thỏa thuận sau khi chấp nhận một hiến pháp dân chủ. Khi, vào ngày 18 tháng Mười Một, Ủy ban Công tác Quốc gia (National Working Committee) của ANC đã chính thức chấp nhận chính sách chia sẻ quyền lực với Đảng Quốc gia trong thời gian chuyển đổi, nó đã cho là cần thiết để tối thiểu hóa sự đe dọa từ những người trong Lực lượng Bảo vệ Nam Phi, Cảnh sát Nam Phi, các tổ chức vũ trang khác và ngành dân chính những người đã có năng lực để phá vỡ và làm chậm sự chuyển đổi.[2] Một tuần sau, khi chính sách được chấp nhận bởi Ủy ban Điều hành Quốc gia (National Executive Committee – NEC) của ANC, NEC đã nói nó công nhận, “rằng ngay cả sau việc chấp nhận một hiến pháp mới bởi Quốc hội Lập hiến, sự cân bằng lực lượng và các lợi ích của Nam Phi như một tổng thể có thể đòi hỏi chúng ta xem xét việc thiết lập một chính phủ thống nhất dân tộc.”[3] Bất chấp những nhân nhượng này, ANC đã cho rằng “quan điểm chiến lược” của nó đã cơ bản khác với các kiến nghị chia sẻ quyền lực của chính phủ, mà đã tìm cách để, “cố bảo vệ quyền phủ quyết cho các bên thiểu số trên cơ sở của một sự liên hiệp ép buộc về mặt hiến pháp,” và như thế, “làm nản chí và khát vọng của đa số.”[4]
Việc ám sát nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Nam Phi và ANC, Chris Hani, trong tháng Tư 1993, và sự thổ lộ nỗi đau buồn và giận dữ của quần chúng mà cái chết của ông đã thúc giục, đã kích động quá trình thương lượng, cung cấp một ý niệm lờ mờ về các hệ quả mà đã có thể bắt nguồn từ một sự thất bại để đạt thỏa thuận. Diễu hành qua các thành phố quanh đất nước, hàng trăm ngàn người đưa tang đã bày tỏ sự tức giận và tính chiến đấu mà đã gây ra hàng triệu đồng Rand thiệt hại tài sản và đã công khai đe dọa khả năng của bất kỳ sự hòa giải chủng tộc tương lai nào. Tuy vậy, sau khi đã vừa đồng ý để mở lại các cuộc đàm phán đa đảng tại một hội nghị lập kế hoạch đa đảng vào ngày 5 và 6 tháng Ba, 1993 các bên đã từ chối cho phép những kẻ ám sát cánh hữu để đạt được ý định của chúng để làm tan vỡ quá trình đàm phán vốn đã dễ vỡ rồi và thay vào đó đã kêu gọi, nhân danh Hani, tăng cường các nỗ lực để đạt một sự dàn xếp. Tròng vòng mấy tuần kể từ cái chết của Hani, các cuộc đàm phán chính thức đã được mở lại dưới dạng một Quá trình Đàm phán Đa Đảng tại Trung Tâm Thương Mại Thế giới ở ngoại ô Johannesburg.
Lợi dụng áp lực tăng lên bởi sự ám sát Hani và sự tức giận ngày càng tăng của cộng đồng người da đen, ANC đã sử dụng cơ hội này để đòi việc định ra một ngày bầu cử. Một khi một ngày bầu cử ướm thử đã được thống nhất – ngày 24 tháng Tư 1994 – các nhà đàm phán đã nhận ra rằng điều này đã không thể dễ thay đổi và rằng thời gian cho việc ra quyết định đã ngắn. Nhằm để tạo thuận lợi cho quá trình, cấu trúc của các cuộc đàm phán bây giờ đã được sửa lại. Không giống các cuộc đàm phán Codesa đã thất bại, trong đó các cuộc đàm phán đã được tiến hành giữa các đại diện đảng chính trị trong các Nhóm Công tác khác nhau, quy trình mới đã chuẩn bị đầy đủ cho Hội đồng Đàm phán để thảo luận và quyết định trên các báo cáo từ bảy ủy ban kỹ thuật, mà vai trò của chúng đã là để làm rõ và trình bày các khả năng thay thế khả dĩ và các vấn đề cho các nhà đàm phán chính trị. Ngoài ra, một Ủy Ban Kế hoạch gồm mười thành viên đã có trách nhiệm bảo đảm cho quá trình đi theo đúng đường bằng cách cấu trúc các cuộc tranh luận và giải quyết những lời phàn nàn. Chi phối bởi các học giả và các luật sư, các ủy ban kỹ thuật đã tạo thuận lợi cho sự nổi lên của các khả năng thay thế khả dĩ rõ ràng. Mặc dù một số nhà quan sát và người tham gia đã phê phán sự “chuyên nghiệp hóa” của một quá trình chính trị về thực chất, quá trình, đã tập trung, có thể nói như vậy, vào sản xuất ra các kiến nghị thành văn, đã lấy được đà. Bất chấp sự thực rằng các ủy ban kỹ thuật đã thường được yêu cầu làm lại và xem xét lại các đầu vào “kỹ thuật” của họ, hàng loạt báo cáo mà đã bắt nguồn từ các ủy ban đã dần dần kết tinh lập trường của Hội đồng Đàm phán.
Vào đầu của các cuộc đàm phán IFP đã tự khẳng định mình như một người chơi thứ ba chủ chốt, đòi sự ngang hàng với ANC và Chính phủ Đảng Quốc gia, nhưng chẳng bao lâu sau nó đã rút lui để vận động về sự tự trị khu vực trong một nỗ lực để duy trì mãi mãi lợi thế hiện tồn của nó, như chính quyền của một vùng lãnh thổ tự quản, vào trong thời đại hậu apartheid. Mặc dù nó đã mô tả các kiến nghị của mình như chế độ liên bang, hình thức tự trị khu vực được đề xuất bởi IFP và các đồng minh của nó trong Liên minh Tự do (bao gồm các chính quyền bantustan khác nhau và các đảng thân apartheid của những người da trắng) đã gần hơn về thực chất với một hệ thống liên bang. Về mặt các kiến nghị của IFP, các khu vực khác nhau của Nam Phi sẽ tạo thành các bang tự trị mà các hiến pháp của chúng sẽ áp đảo sự diễn dải của hiến pháp “liên bang.” Nói cách khác, bất kỳ sự áp dụng nào của hiến pháp liên bang cho các vấn đề ở bên trong một khu vực hay cho các xung đột giữa các khu vực sẽ phải nhất quán với các hiến pháp của các khu vực liên quan. Quan niệm này về “chế độ liên bang tự trị” đã bộc lộ trong cả hiến pháp do IFP đề xuất cho KwaZulu/Natal và Hiến pháp do nó đề xuất cho Cộng hòa Liên bang Nam Phi, mà đã đề xuất một chính phủ liên bang có quyền lực hạn chế. Chính phủ liên bang sẽ, theo đề xuất này, có quyền lực hạn chế trong các lĩnh vực cụ thể, còn lập pháp dân tộc sẽ được trao quyền để chấp nhận các nguyên tắc chung về lập pháp trên những chủ đề được xác định, nhằm thiết lập một khung khổ để tạo thuận lợi cho sự thương lượng giữa các bang về các chính sách trong các lĩnh vực này. Cuối cùng, bất kỳ luật pháp nào sẽ phải thông qua bởi cả hai viện của quốc hội, trên thực tế cho thượng viện – gồm bốn đại biểu từ mỗi bang – quyền phủ quyết cuối cùng đối với pháp luật quốc gia.
Không có khả năng để nhận được sự ủng hộ cho hình thức cực đoan này của chế độ liên bang, IFP đã gia nhập cùng với các đồng minh của nó vào Nhóm Những người Nam Phi Lo âu (Concerned South Africans Group - Cosag) để khởi xướng Liên minh Tự do, như thế trên thực tế đạt được một cách tập thể cái họ đã không đạt được đơn phương: việc tạo ra khối sức mạnh thứ ba bên trong quá trình đàm phán. Được tạo ra tháng Mười 1993, liên minh này của các đảng da trắng cánh hữu cam kết tiếp tục chế độ apartheid và các đảng và chính quyền bantustan da đen, với những đặc lợi trong các khu vực nằm lọt vào giữa (các vùng khác) được tạo ra bởi chính sách bantustan của apartheid, đã đòi rằng sắc tộc phải được thừa nhận bên trong quá trình đàm phán. Bất chấp một số thời điểm kỳ quặc – chẳng hạn, khi Afrikaner Weerstandsbeweging (AWB) tân phát xít đã lao vào nơi đàm phán và đã tấn công một thành viên của các đoàn đại biểu IFP – liên minh này đã tìm được cách để đe dọa quá trình bầu cử và đã nhận được một loạt nhượng bộ từ các đảng chính (ANC và chính phủ) mà đã đi theo cách nào đó theo hướng chấp nhận nhu cầu đề cập đến những quan tâm sắc tộc.
Các cuộc đàm phán đã cũng lệ thuộc vào những đòi hỏi và áp lực khác nhau khác. Liên đoàn Phụ nữ của ANC đã tổ chức một cuộc biểu tình ngồi tại các cuộc đàm phán, và, đã được ủng hộ bởi các phụ nữa của tất cả các đảng khác, đã nhận được một đòi hỏi rằng mỗi đoàn đại biểu tại các cuộc đàm phán bao gồm một phụ nữ như một trong hai đại diện hội đồng thương lượng của nó. Đồng thời Liên đoàn Phụ nữ đã tiếp tục gây áp lực cho sự tham gia lớn hơn bên trong ANC, nhận được một đề nghị từ ủy ban công tác quốc gia của ANC rằng một phần ba của tất cả các ứng viên ANC trong các cuộc bầu cử tháng Tư 1994 là phụ nữ.[5] Bình đẳng giới, như một hệ quả, đã được thừa nhận chính thức trong bộ luật tạm thời về các quyền, và hiến pháp tạm thời đã bao gồm các điều khoản cụ thể cho việc thiết lập một Ủy ban về Bình đẳng Giới, “để tư vấn và đưa ra những khuyến nghị cho Quốc hội hay bất kỳ cơ quan lập pháp nào liên quan đến bất kỳ luật hay dự luật nào mà ảnh hưởng đến bình đẳng giới và địa vị của phụ nữ.”[6] Ngoài ra, như một phần của một cố gắng chung để đón trước các cuộc đàm phán, chính phủ de Klerk đã phê chuẩn Hiệp định Quốc tế về Xóa bỏ Mọi Hình thức Phân biệt Đối xử chống lại Phụ nữ trong tháng Giêng 1993, ràng buộc nhà nước Nam Phi với những nghĩa vụ quốc tế cá biệt trong lĩnh vực này. Sự bao hàm thành công này của nguyên tắc bình đẳng giới vào hiến pháp tạm thời đã là sản phẩm của sự tương tác của sự huy động phụ nữ địa phương chống lại sự phân biệt đối xử giới và sự thừa nhận tăng lên của bình đẳng giới như một chuẩn mực được quốc tế chấp nhận của các quyền con người và chủ nghĩa hiến pháp.
Những lợi lộc này đã không là đơn tuyến. Bất chấp những đột phá này trong một xã hội mặt khác có thành kiến giới sâu sắc, và bất chấp sự nhắc đi nhắc lại phổ biến về tầm nhìn của phong trào dân chủ về một Nam Phi “không phân biệt chủng tộc và không phân biệt giới tính,” các phụ nữ tích cực trong quá trình đàm phán đã phải né tránh một thách thức xuất phát từ đòi hỏi để thừa nhận luật bản xứ. Các yêu sách của các lãnh đạo truyền thống cho sự thừa nhận văn hóa bản xứ đã dẫn đến mưu toan để bao gồm các điều khoản trong bộ luật tạm thời về các quyền thừa nhận “luật tục” và điều chỉnh những mâu thuẫn giữa luật bản xứ và “các quyền cơ bản” khác. Mặc dù đã bị bác bỏ, một dự thảo bộ luật về các quyền đã ban cho “bất kỳ tòa án nào áp dụng một hệ thống luật tục” quyền hạn để xác định mức độ mà luật tục làm hại điều khoản bình đẳng và để quyết định khi nào và ở mức độ nào các quy tắc này – ngay cả ở nơi chúng phân biệt chống lại phụ nữ – phải được làm cho phù hợp với đòi hỏi hiến pháp về bình đẳng.[7] Cuối cùng, Hiến pháp tạm thời đã ủng hộ bình đẳng giới, khiến cho luật bản xứ “phải chịu sự điều tiết bởi luật,” bao hàm ý làm cho nó lệ thuộc vào các quyền cơ bản được chứa trong hiến pháp, đặc biệt là sự bình đẳng giới.[8]
Quá trình chuyển đổi chính trị đã chính thức bắt đầu với việc chấp nhận bốn đạo luật trong tháng Mười 1993. Sau khi được phê chuẩn trong Hội đồng Thương lượng và thông qua Quốc hội do người da tắng kiểm soát, các đạo luật này đã đánh dấu cái chết pháp lý của trật tự hiến pháp cũ. Mặc dù việc tháo khung khổ hiến pháp apartheid đã bắt đầu rồi với việc bãi bỏ Hội đồng của Tổng thống và sự sửa đổi pháp luật xác định địa vị của các bantustan, chỉ với việc thông qua Bộ Luật Hội đồng Điều hành Chuyển đổi TEC (Transitional Executive Council) thì quyền lực mới bắt đầu chính thức chuyển khỏi những sự phân bổ được xác định bởi Hiến pháp 1983. Cùng với ba Bộ Luật khác được thông qua đồng thời – Bộ Luật Hội đồng Bầu cử Độc lập, Bộ Luật Hội đồng Media Độc lập và Bộ Luật Cơ quan Phát thanh Truyền hình Độc lập - Bộ Luật Hội đồng Điều hành Chuyển đổi đã tạo cơ sở cho một trật tự trước-hiến pháp hướng tới việc tổ chức một cuộc bầu cử dân chủ.
Mặc dù đòi hỏi của ANC cho một chính phủ lâm thời đã bị Chính phủ Đảng Quốc gia từ chối, thỏa thuận để thiết lập một hội đồng điều hành chuyển đổi là một sự thừa nhận sự thực rằng chính phủ đã không thể giữ sự kiểm soát quá trình chuyển đổi. Chuẩn bị đầy đủ cho sự chia sẻ quyền lực chính thức về các lĩnh vực cụ thể của hoạt động chính phủ và thẩm quyền toàn bộ về các vấn đề ảnh hưởng đến sự chuyển đổi sang một chế độ dân chủ, Bộ Luật Hội đồng Điều hành Chuyển đổi đã cho phép các bên đàm phán tiếp cận đến quá trình cai trị mà không làm cho họ phải chịu trách nhiệm về các chính sách và các chương trình apartheid mà sẽ vượt xa hơn năng lực của họ để thay đổi. Về mặt Bộ Luật, TEC đã được tạo thành bởi tất cả những người tham gia – chính phủ, chính quyền, và các nhóm chính trị – trong quá trình thương lượng đa đảng những người đã muốn được đại diện. Bộ Luật đã hướng dẫn TEC để tạo thuận lợi và thúc đẩy sự chuyển đổi sang dân chủ qua việc đạt được hai mục tiêu chính: sự tạo ra và thúc đẩy một bầu không khí tham gia chính trị tự do và sự tạo ra và thúc đẩy các điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng. Phản ánh sự dính líu quan trọng của phụ nữ trong quá trình đàm phán, Bộ Luật đã hướng dẫn TEC một cách cụ thể để có như một trong những mục tiêu của mình để “bảo đảm sự tham gia đầy đủ của phụ nữ trong các quá trình và các cấu trúc chuyển đổi và bầu cử.”
TEC đã phản ánh, qua bảy tiểu hội đồng của nó, các bộ và các chức năng quan trọng nhất của chính phủ, như thế cho phép nó giám sát và can thiệp một cách chính thức theo mức độ của sự ủy nhiệm của nó trong mọi khía cạnh quan trọng của sự cai trị. Giữa những quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của TEC đã là quyền để ra lệnh cho bất kỳ chính phủ hay chính quyền nào dưới quyền phán xét của nó để không tiếp tục với sự làm luật được kiến nghị nếu TEC xác định rằng luật pháp như vậy sẽ có tác động xấu lên các mục tiêu của TEC. Quyền này để đưa ra “các lệnh ngừng” mở rộng ra bất kỳ quyết định hay hành động của bất kỳ chính phủ, chính quyền, đảng chính trị hay tổ chức nào mà đã là một bên của TEC. Mặc dù IFP đã từ chối tham gia TEC, đoạn 21(1) của Bộ Luật đã làm cho Bộ Luật có thể áp dụng được cho mọi lãnh thổ tự quản bất chấp Bộ Luật Hiến pháp các Lãnh thổ Tự quản năm 1971, như thế làm cho KwaZulu chínhh tức chịu sự giám sát của TEC, bất chấp sự từ chối của chính quyền KwaZulu và của IFP đối với TEC.
Ngoài các phương sách chia sẻ quyền lực được thiết kế để đạt được một sân chơi bằng phẳng trong quá trình chính trị dẫn đến các cuộc bầu cử ra, khung khổ pháp lý trước hiến pháp đã tập trung vào hai Bộ luật được thiết kế để quản lý bản thân việc bầu cử. Bộ đầu tiên của hai bộ luật này đã là Bộ Luật Hội đồng Bầu cử Độc lập, mà đã cố gắng loại chính phủ đương nhiệm ra khỏi quá trình bầu cử và thẩm quyền xác minh các cuộc bầu cử, bởi vì đa số người da đen, những người về mặt lịch sử đã bị loại khỏi việc bỏ phiếu, đã sợ rằng các quan chức chính phủ có thể thử can thiệp vào quá trình dân chủ, hoặc rằng việc chính phủ kiểm soát quá trình có thể gây ra sự nghi ngờ về tính chân thực của nó. Thứ hai, Bộ Luật Bầu cử giải quyết việc quản lý bản thân quá trình bầu cử và những chi tiết kỹ thuật chi ly của việc bầu cử, kể cả hình dáng của lá phiếu giấy, sự nhận diện những người bỏ phiếu, các thủ tục tại các địa điểm bỏ phiếu, và công thức chính xác cho việc đếm phiếu và tính sự phân bổ theo tỷ lệ của các ghế lập pháp giữa các đảng. Sự thay đổi quan trọng nhất khỏi luật bầu cử cũ, ngoài việc chấp nhận quyền bầu cử phổ quát ra, đã là sự bỏ hệ thống bầu cử dựa trên cử tri đi để chuyển sang việc chấp nhận sự đại diện theo tỷ lệ. Ủy Ban Bầu cử Độc lập (Independent Electoral Commission - IEC) đã có trách nhiệm để bảo đảm một quá trình bầu cử công bằng và xác minh kết quả như “về căn bản tự do và công bằng.” Được bổ nhiệm bởi Tổng thống Nhà nước theo lời khuyên của TEC, IEC đã bao gồm “những người đàn ông và đàn bà không thiên vị, được kính trọng và có đủ phẩm chất thích hợp” đại diện một bộ phận tiêu biểu của dân cư. Nó đã bao gồm cả năm người không phải người Nam Phi được rút thăm “từ cộng đồng quốc tế,” và đã “độc lập và tách rời” khỏi tất cả những người đang nắm giữ thẩm quyền hay quyền lực chính trị.
Việc Quốc hội chấp nhận một hiến pháp “tạm thời” ngày 22 tháng Mười Hai năm 1993, đã đưa thỏa thuận hiến pháp đã đạt được sau hàng tháng đàm phán vào “sự tồn tại pháp lý.” Mặc dù có dụng ý là một hiến pháp “tạm thời” với tuổi thọ tối đa chỉ năm năm, trên thực tế nó đã bảo đảm cái chết dứt khoát của hệ thống hiến pháp được cấu trúc theo chủng tộc và của chế độ apartheid có xuất xứ từ nó. Về mặt hiến pháp “tạm thời” này quốc hội đã đóng vai trò kép của cơ quan lập pháp và Quốc hội Lập hiến, và đã dược giao nhiệm vụ thông qua một hiến pháp mới trong vòng hai năm. Trong tiến trình của các cuộc đàm phán, đã có những sự thay đổi đáng kể trong lập trường của những người chơi chính và các thỏa hiệp mà đã được trải sỏi với nhau trong hiến pháp tạm thời. Cơ bản nhất, đòi hỏi của ANC cho một nhà nước nhất thể được diễn giải để có nghĩa là chủ quyền quốc gia trên Nam Phi bên trong các đường biên giới 1910, hơn là một chính phủ trung ương với quyền ưu tiên hơn các chính quyền khu vực. Như một kết quả của sự thay đổi này trong chính sách, vấn đề về chế độ liên bang, ban đầu bị ANC từ chối bởi vì một sự e sợ rằng sự cần thiết để sửa lại các di sản của apartheid có thể bị làm thất vọng bởi việc cắt những quyền hạn của chính phủ trung ương dưới một cấu trúc liên bang, đã trở thành đặc điểm trung tâm của cuộc tranh luận hiến pháp. Sự chấp nhận ngôn ngữ của “chủ nghĩa địa phương mạnh mẽ” bởi cả ANC lẫn Chính phủ Đảng Quốc gia đã trùng với sự chấp nhận của Đảng Quốc gia rằng những quyền phủ quyết tuyệt đối của thượng viện sẽ chỉ được giới hạn ở các vấn đề khu vực và rằng các quan niệm của nó về chủ nghĩa cộng tác nhóm (consociationalism)* chính trị sẽ hạn chế ở các cấu trúc chính quyền địa phương. Mặc dù Chính phủ Đảng Quốc gia đã chấp nhận sự bác bỏ các kiến nghị trước của nó về chức vụ thổng thống luân phiên và sự đại diện ngang nhau của các đảng chính trị trong Thượng viện, nhiều điều khoản của hiến pháp 1993, và đặc biệt sự bảo đảm của nó về năm năm Chính phủ Thống nhất Dân tộc, đã thỏa mãn một số mục tiêu ngầm trong các kiến nghị trước đây của chính phủ.
Không giống ANC và Chính phủ Đảng Quốc gia, IFP đã từ chối thỏa hiệp về đòi hỏi chính của nó đối với sự tự trị khu vực và, trong liên minh của nó với các đảng của người da trắng tán thành-apartheid, đã tiếp tục đe dọa để phá vỡ quá trình chuyển đổi. Mặc dù các phái của IFP đã có vẻ sẵn sàng để tranh đua các cuộc bầu cử cho chính phủ khu vực KwaZulu/Natal, lãnh đạo đảng, Tộc trưởng Buthelezi, đã diễn giải thành tích kém của IFP trong các cuộc thăm dò trước bầu cử như nguyên nhân để thúc đẩy một lập trường thậm chí còn tự trị hơn bằng khuyến khích và ủng hộ Vua Goodwill Zwelethini trong đòi hỏi của ông cho việc khôi phục lại nền quân chủ Zulu thế kỷ thứ mười chín với những yêu sách lãnh thổ vượt ra ngoài ranh giới của KwaZulu/Natal ngày nay. Vào thời gian hiến pháp được quốc hội chấp nhận, IFP và các đảng da trắng cánh hữu từ Liên minh Tự do đã bỏ đi khỏi các cuộc đàm phán đa đảng. IFP đã đặc biệt lo lắng về sự thất bại của ANC và chính phủ để thừa nhận bất cứ gì trừ các quyền lập pháp nhất trí cho các khu vực. Để giải quyết những mối lo ngại này, hiến pháp đã được sử đổi trong tháng Ba năm 1994 và các cơ quan lập pháp khu vực đã được ban cho các quyền ưu tiên trên pháp luật quốc gia. Tuy vậy, chỉ sau khi hiến pháp được sửa đổi lần thứ hai vào tháng Tư 1994 để bảo vệ kiên cố địa vị hợp hiến của Vua Zulu King tại KwaZulu/Natal thì IFP đã đồng ý – trong vòng mấy ngày mở cửa các phòng phiếu – để tham gia trong cuộc bầu cử.
Kết luận
Mặc dù các quá trình này của sự thay đổi được thương lượng ở Ba Lan và Nam Phi cung cấp một tấm gương đặc biệt lạ thường cho thế giới về một khả năng thay thế khả dĩ cho xung đột và tan rã xã hội, quan trọng để đặt các quá trình này vào đúng bối cảnh lịch sử cá biệt của chúng. Bất chấp những điểm chung về các cuộc đàm phán và sự dân chủ hóa từng bước một, các sự thực đặc biệt – sự sụp đổ của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Ba Lan và sự phi thực dân hóa hữu hiệu của Nam Phi – đã cung cấp các trường hợp và các kết quả hoàn toàn khác nhau. Bất chấp sự thất bại đột ngột trong các cuộc bầu cử, các thành viên của chế độ cũ và những người thừa kế chính trị của họ tiếp tục đóng vai trò trong hoạt động chính trị Ba Lan, thậm chí hưởng khả năng được bầu một cách dân chủ vào các chức vụ quyền lực trong một số hoàn cảnh. Tại Nam Phi sự chuyển đổi dân chủ, ban các quyền chính trị cho một đa số người Phi mà chiếm đến gần tám mươi phần trăm dân cư, có nghĩa rằng, không khác các tình huống hậu thực dân khác, elite chính trị cũ và cơ sở xã hội riêng biệt của nó trên thực tế bị loại khỏi việc nắm giữ quyền lực chính trị trong tương lai. Ở đây, các cuộc đàm phán đã không thể hạn chế ở việc thiết lập một sự mở cửa dân chủ, mà đã phải bao gồm việc tạo ra các định chế và các quá trình mà cung cấp một cảm giác an toàn cho thiểu số đang mất quyền lực. Theo nghĩa này việc tạo ra một hiến pháp tối cao với một bộ luật về các quyền được bảo vệ kiên cố đã là chính với các cuộc đàm phán Nam Phi như bản thân quá trình dân chủ hóa. Ngược lại, các cuộc đàm phán Ba Lan đã tập trung vào việc tạo ra cơ hội chính trị, ngay cả khi đã biết rằng tương lai của toàn bộ hệ thống kinh tế và xã hội đã bị lâm nguy. Chính bằng việc hiểu vai trò của các cuộc đàm phán “bàn tròn” trong các trường hợp khác hẳn nhau như vậy mà bài học và giá trị của những kinh nghiệm này có thể giúp ích cho những người khác tìm kiếm những cách để khắc phục những xung đột kiên cố.
Tài liệu đọc thêm
Baaklini, Adbo I. and Helen Desfosses, eds. Designs for Democratic Stability: Studies in Viable Constitutionalism. Armonk, NY: M.E. Sharpe, 1997.
Banting, Keith G. and Richard Simeon, eds. Redesigning the State: The Politics of Constitutional Change in Industrial Nations. Toronto: University of Toronto Press, 1985.
Epp, Charles R. The Rights Revolution: Lawyers, Activists, and Supreme Courts in Comparative Perspective. Chicago: University of Chicago, 1998.
Friedman, Steven. The Long Journey: South Africa’s Quest for a Negotiated Settlement. Johannesburg: Ravan Press, 1993.
Lijphart, Arend and Carlos H. Waisman. Institutional Design in New Democracies: Eastern Europe and Latin America. Boulder, CO: Westview Press, 1996.
Sartori, Giovanni. Comparative Constitutional Engineering: An Inquiry into Structures, Incentives and Outcomes. New York: New York University Press, 1994.
Sparks, Alister. Tomorrow is Another Country: The Inside Story of South Africa’s Negotiated Revolution. Johannesburg: Struik Publishers, 1994.
Tate, C. Neal and Torbjorn Vallinder, eds. The Global Expansion of Judicial Power. New York: New York University Press, 1995.
Waldmeir, Patti. Anatomy of a Miracle: The End of Apartheid and the Birth of a New South
Africa. Penguin Books, 1998.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
* banbustan (quê hương của người da đen) là một vùng lãnh thổ dành riêng cho người da đen. Chế độ apartheid đã lập ra 10 tương đối thuần nhất về sắc tộc. Bốn banbustan (TBVC: Trankei, Bophuthatswa, Venda và Ciskei đã nhận được vị thế độc lập) các banbustan khác không độc lập nhưng có quyền tự trị cao.
[1] Star, Oct. 1, 1992, p. 1.
[2] Star, Nov. 19, 1992, p. 1.
[3] Star, Nov. 26, 1992, p. 12.
[4] Ibid.
[5] Saturday Star, Oct. 16, 1993, p. 6, col. 1.
[6] Hiến pháp Nam Phi, 1993, đoạn 119(3).
[7] Xem Đoạn 32(2) của chương được kiến nghị về các quyền cơ bản, Technical Committee on Fundamental Rights During the Transition, Tenth Progress Report, Oct. 1, 1993.
[8] Xem Hiến pháp Nam Phi, 1993, Đoạn 181.
* consociationalism là hình thức chính quyền bảo đảm sự đại diện nhóm, sự cộng tác của các nhóm (thids dụ về chính trị, tôn giáo hay sắc tộc) khác nhau trong chia sẻ quyền lực.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 03:24
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_21.html
=======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 20)


Dịch giả: Nguyễn Quang A

Giải quyết Xung đột  Bàn Tròn Ba Lan: Đàm phán sự Thay đổi Hệ thống?
Mark Chesler
Trong bài báo này, tôi áp dụng tài liệu và kinh nghiệm trong những nghiên cứu về xung đột xã hội leo thang và sự giải quyết xung đột vào lịch sử của Bàn Tròn Ba Lan. Kinh nghiệm Bàn Tròn Ba Lan, cũng như những sự kiện dẫn đến sự hình thành của nó và tổng quan vể tác động của nó mười năm sau, đại diện cho một cơ sở dữ liệu hữu ích cho việc xem xét các lý thuyết và các nguyên lý thực tiễn hiện có trong tài liệu nghiên cứu về giải quyết xung đột. Cũng thế, tài liệu và kinh nghiệm về giải quyết xung đột trình bày một điểm thuận lợi độc nhất mà từ đó để xem xét Bàn Tròn Ba Lan. Cả tài liệu này và kinh nghiệm Bàn Tròn chắc hẳn được lợi từ sự kết hợp của chúng.

Vì các mục đích hiện tại, tôi định nghĩa xung đột như một tình huống mà trong đó hai hay hơn hai bên bận rộn và tương tác với nhau có một sự bất đồng quan trọng và thích đáng về các mục tiêu hay các lợi ích mà không thể đạt được đồng thời. Những từ khóa ở đây được in nghiêng, bởi vì nếu các bên thôi tương thuộc vào nhau (không cần đến nhau cho sự tồn tại, cho hiệu suất, hay cho gì đi nữa) hoặc không còn bất đồng (về các vấn đề quan trọng) thì xung đột hoặc hết hoặc trở nên không thích đáng. Muộn hơn tôi sẽ quay lại các điều kiện này chi tiết hơn, nhưng là rõ, rằng tình huống ở Ba Lan thỏa mãn các điều khoản định nghĩa.
Hơn nữa, tuy tôi đã chọn các thuật ngữ “giải quyết xung đột,” “Bàn Tròn Ba Lan” và “thay đổi hệ thống” như tiêu đề và các tiêu điểm của phân tích này, mỗi trong các thuật ngữ này có nhiều ý nghĩa hay có ý nghĩa không rõ ràng, và mỗi thuật ngữ có một lịch sử lôi thôi. Thí dụ, các nhà phân tích khác nhau về các quá trình xung đột thích không nghĩ về các cuộc xung đột nghiêm trọng như có bao giờ được giải quyết hoàn toàn, mà như được “kiềm chế,” dàn xếp,” “xử lý,” vân vân. Trong trường hợp của Bàn Tròn Ba Lan, là rõ rằng các xung đột cốt lõi và cơ bản đã chẳng hề được giải quyết tại hay bởi Bàn Tròn. Đúng hơn, một quá trình đàm phán đã được đưa ra mà trong đó những người bất đồng mạnh mẽ và chiến đấu chống lại nhau đã đi đến một số thỏa thuận cho phép họ sống cùng nhau và cho phép hệ thống xã hội, mà họ đã sống trong đó, tiếp tục vận hành mà không có chiến tranh hay sự phân ly. Bản thân Bàn Tròn Ba Lan là một thuật ngữ được áp dụng cho nhiều hơn một phiên đơn nhất hay một loạt phiên tại Bàn Tròn; nó bao phủ một chuỗi toàn bộ các cuộc gặp mặt và các quá trình thương lượng chính thức và phi chính thức đã xảy ra trong một thời kỳ đáng kể. Và nó không thể được hiểu mà không có sự xem xét nào đó về cả tiền-sử tạo ra khung cảnh lẫn sự cần thiết đến Bàn Tròn và mười năm hậu-sử mà cho phép chúng ta xem xét lại các thành tựu của nó. Cuối cùng, liệu một sự thay đổi hệ thống đã diễn ra ở Ba Lan hay không, liệu nó diễn ra như kết quả của Bàn Tròn hay không, và liệu sự thay đổi nhiều hơn và tốt hơn đã có thể xảy ra giả như đã không có Bàn Tròn hay không, là các vấn đề của cuộc tranh luận tiếp tục.
Đây là nhiều khung cảnh cho bài báo này. Ngay từ đầu, tôi khẳng định rằng phần lớn những gì chúng ta biết về sự hình thành, sự vận hành và những kết quả được cho là của Bàn Tròn Ba Lan hợp khéo với những sự hiểu biết được thấu hiểu một cách rộng rãi trong lĩnh vực giải quyết xung đột. Đồng thời, thí dụ Ba Lan làm sâu sắc và mở rộng hiểu biết của chúng ta về một số nguyên lý và thực hành được hiểu thấu này và cung cấp một khung cảnh lý thú độc nhất để xem xét lại chúng trong đó. Tôi đã tổ chức bài báo này xung quanh sáu vấn đề hay câu hỏi then chốt mà là đặc thù đối với hầu hết những thảo luận về xung đột và giải quyết xung đột; tất cả chúng đều hiện diện trong thảo luận về Bàn Tròn Ba Lan.
I. Loại các vấn đề gì có thể được thương lượng?
II. Khi nào các cuộc đàm phán là hữu ích (nhất) như một chiến lược?
III. Cần những gì cho các cuộc đàm phán tiến triển tốt?
IV. Các vai trò của bên thứ ba hay “người can thiệp” hữu ích là gì?
V. Làm sao các bên xung đột đi đến tin nhau đủ để đàm phán?
VI. Các cuộc đàm phán có thể, và làm sao có thể dẫn đến sự thay đổi hệ thống?
Tôi kết thúc phần phân tích của bài báo này với vài suy ngẫm về việc sử dụng học thuật và chính trị của ký ức được tổ chức như một phần của kinh nghiệm Bàn Tròn và với vài gợi ý cho những phân tích so sánh mà có thể mở rộng việc nghiên cứu. Cuối cùng, tôi nêu lên một loạt câu hỏi mà có thể hữu ích trong hướng dẫn các cuộc thảo luận lớp học mà có thể bắt nguồn từ cơ sở dữ liệu và phân tích này.
I. Những Loại Vấn đề nào Có thể được Thương lượng?
Vấn đề sống còn thứ nhất, trong phân tích xung đột này và các xung đột khác, phải là bản chất và mức độ của các mục tiêu hay lợi ích khác nhau của các bên. Chúng có thực sự không tương thích với nhau? Có các vấn đề nơi những thỏa hiệp hay đàm phán có thể xảy ra, hay chiến tranh và thắng/thua là mô hình thích hợp? Đây có là tình huống tổng-bằng-không – kẻ thắng lấy hết – hay không?
Hầu hết tài liệu đề cập đến những câu hỏi này nêu ra một sự phân biệt giữa các vấn đề dính líu đến: (1) các giá trị cốt lõi hay thiêng liêng, như những quan niệm về các quyền cơ bản, sự thật và công lý xã hội; và (2) các nguồn lực có thể chia sẻ, như quyền lực, tiền bạc và các hàng hóa vật chất.[1]
Quả thực, Fiss cho rằng các quyền hợp hiến là không thể thương lượng được, trong khi các miếng của chiếc bánh thì rất có thể.[2]Fisher và Ury, khi tư vấn cho các bên về làm thế nào để bắt đầu một tình huống đàm phán, gợi ý rằng các bên xung đột đừng tuyên bố “các lập trường” hay “ý thức hệ” không thể vi phạm và hãy tập trung vào việc diễn đạt rõ ràng “các lợi ích”: những cái sau là có thể thương lượng được về mặt tiềm năng trong khi những cái trước thì không.[3] Trong một bối cảnh tương tự, Susskind và Cruikshank gợi ý rằng khi có vẻ dính líu đến các giá trị thiêng liêng, thì các chiến sỹ những người muốn đàm phán phải đóng gói lại, xác định lại hay định khung lại các vấn đề sao cho cuộc đàm phán (và hy vọng thỏa hiệp) có thể xảy ra.[4]
Trong bối cảnh của Bàn Tròn Ba Lan, nhiều người tham gia đồng ý dứt khoát rằng nó đã không là nơi để tìm “chân lý” hay “công lý.” Bujak lưu ý rằng, theo quan điểm của ông, cuộc chiến đấu cho tự do và dân chủ đã không hệt như cuộc chiến đấu vì công lý, và rằng ngay cả các nạn nhân của các tội ác chế độ “đã không chiến đấu vì công lý một trăm phần trăm và xóa bỏ cái xấu. Họ đã chiến đấu vì tự do và dân chủ.”[5] Thực vậy, ông cho rằng, từ quan điểm công lý cho các nạm nhân hay sự trừng trị những kẻ phạm tội, “các nhà đàm phán Bàn Tròn (được nghĩ đến) như là tồi.”[6] Một số tranh luận hiện tại về Ủy Ban Sự thật và Hòa giải ở Nam Phi (như ở các nơi khác) là bao nhiêu “sự thật” (và công lý) đối lại bao nhiêu “hòa giải” đã xảy ra hoặc đã có thể xảy ra hoặc thậm chí phải xảy ra.[7]Nếu các Ủy ban (hay Bàn Tròn) này là cho sự hòa giải, chứ không phải cho công lý, thì điều đó là gì đối với sự thật? Pinochet (và các thành viên khác của chế độ của ông ta) sẽ có nhận được sự “xét xử ông bằng” ở Tây Ban Nha – “sựu thật” sẽ nổi lên hay “công lý” sẽ thắng? Điều đó sẽ có xảy ra ở Chile, hay kết quả sẽ là một sự thỏa hiệp? Phe đối lập Chile của Pinochet sẽ nói gì về sự hòa giải như một mục tiêu?
Nếu sự bất đồng cốt lõi về các giá trị như chân lý và công lý đã không được tranh luận ở Bàn Tròn, thì cái gì đã được? “Các nguồn lực có thể chia sẻ được” hay các vấn đề có thể thỏa hiệp được mà xung quanh đó các cuộc đàm phán có thể xảy ra đã là những gì? Nằm dưới các lập trường đã thay đổi của các nhà hoạt động Đoàn kết và các quan chức Chính phủ đã là một sự quan tâm cho, và quả thực một sự cam kết với, sự chia sẻ quyền lực và quyền uy hợp pháp. Và đây là nguồn lực làm chủ trong bất kỳ hệ thống xã hội nào, hệ thống quản trị sự phân bổ các nguồn lực khác, và quả thực sự phân bố của các quyền và các đặc ân.
Như thế, nói chung đã được kết luận rằng Bàn Tròn Ba Lan đã là về một loạt các thỏa hiệp được thương thuyết nhằm duy trì một xã hội ổn định và tương đối yên bình, một xã hội mà trong đó quyền lực hợp pháp của cấu trúc nhà nước được duy trì, mặc dù với những dàn xếp khác nhau liên quan đến những ai sẽ chia sẻ trong việc thực hiện quyền lực hợp pháp này. Chẳng bên chủ chốt nào tại bàn đã muốn thả sức mạnh hủy hoại của bạo lực – bạo lực nhà nước hay bạo lực thách thức – (hoặc nhìn thấy nó được thả). Các vấn đề trên bàn, những sự bất đồng và các thỏa hiệp, đã được biểu thị bằng những mục tiêu cụ thể hơn, như sự công nhận các nghiệp đoàn tự do, không gian cho sự phát triển nền dân chủ, và khả năng về cải thiện kinh tế. Vì sao thỏa hiệp? Michnik biện minh rằng thỏa hiệp là cốt yếu cho dân chủ, “…tự do còn chưa phải là dân chủ. Dân chủ là tự do được thể chế hóa, phải chịu các thủ tục của nhà nước pháp quyền. Dân chủ không chỉ là sự cai trị của đa số, mà nó cũng là các quyền cho các thiểu số. Nói cách khác, bánh mỳ và rượu của dân chủ là sự thỏa hiệp.”[8] Michnik gợi ý thêm rằng các nhà hoạt động Đoàn kết nói chung đã không muốn lật đổ chính phủ cộng sản; không chỉ bạo lực mà (cả) “sự chinh phục lại” là sai về mặt đạo đức và phi dân chủ (như bản thân sự chinh phục). Vì sự tái chinh phục hoặc sự hòa giải đã là các lựa chọn duy nhất hiển nhiên sẵn có, rõ ràng đã phải lựa chọn sự hòa giải. Staniszewska diễn đạt còn rõ hơn, lưu ý rằng sự tháo dỡ hệ thống đã không là mục tiêu: “Nếu bất cứ ai đã nghĩ rằng hệ thống được tháo dỡ thì Bàn Tròn đã chẳng hề xảy ra.”[9] Reykowski cho biết rằng mọi người đã thử quên đi quá khứ (áp bức) và không thảo luận “các vấn đề biểu tượng.” Và Rakowski cho biết rằng ông, “đã coi Bàn Tròn như một sự khởi đầu của một sự thay đổi tiến hóa của hệ thống,”[10] không như một cố gắng để đạt điểm cuối. Hall cung cấp một đoạn đuôi hữu ích cho sự thảo luận này, lưu ý rằng Bàn Tròn đã là một lựa chọn chính trị thực dụng cho tất cả mọi người.
Một cách tiếp cận thực dụng đến sự thương lượng về các lợi ích khác nhau phải nhận diện một số lợi ích chung nào đó giữa các bên. Những gì các bên của Bàn Tròn Ba Lan đã công nhận, và những gì đã cho phép họ cùng đến bên bàn, đã là lợi ích chung của họ trong sự “sống sót của cái toàn thể” hay “lợi ích của cái toàn thể” (toàn thể xã hội trong trường hợp này, toàn bộ công ty trong các cuộc đàm phán nghiệp đoàn lao động, toàn bộ gia đình trong các cuộc đàm phán hôn nhân/ly hôn chính thức hay phi chính thức). Một số nhà quan sát thảo luận điều này như sự bày tỏ hay sự diễn đạt sự quan tâm cho một “mục tiêu cấp bậc trên [superordinate],”[11] mà tạo thành một mục tiêu cả hai bên (tất cả các bên) cùng nhau có được, nhưng nó không thể có được bởi hoạt động một mình của bất cứ bên nào. Đây là tiêu chuẩn sống còn mà cho phép những người có lập trường đối nghịch mạnh để đi đến bàn đàm phán. Trong trường hợp Ba Lan, sự ổn định và sự sống sót của xã hội và trật tự dân sự đã đang bị đe dọa đã như một mục tiêu cấp bậc trên, như tính bền vững kinh tế đã là, và cả hai bên (Chính phủ và Đoàn kết) đã thống nhất rằng họ cần phải làm việc với nhau để đạt những mục tiêu này. Quả thực, Michnik cho biết rằng cái đã là giá trị tối cao đối với ông trong các cuộc Đàm phán Bàn Tròn đã là “lợi ích quốc gia quan trọng trên hết.”[12]
Nhiều người tham gia Bàn Tròn thảo luận về cách, khi họ đã thử đại diện cho cả cử tri của họ (các lợi ích cá biệt) và cố gắng cho lợi ích chung (các lợi ích chung), đôi khi họ đã bị coi như phản bội sự nghiệp chính đáng của họ và hợp tác với kẻ thù. Michnik nhận diện vấn đề này như một phần bị coi như “bọn hồng,” khi ông lưu ý rằng đó là “số phận của các nhà cải cách” để bị “cáo buộc về sự phản bội cộng đồng riêng của họ.”[13] Ở bên kia, Reykowski cho biết rằng ông cũng đã bị những người Cộng sản trung thành lên án là phản bội và rằng những người trong Đảng đã bị sốc trước thái độ không thành kiến của ông đối với Đoàn kết và các cuộc đàm phán. Một cách để đối phó với vấn đề này được gợi ý bởi Staniszewska, người lưu ý rằng các đại biểu cần cởi mở và kiểm tra thường xuyên với nhóm cử tri của mình. Nhưng chẳng sự kiểm tra nào trong những sự kiểm tra này bảo vệ hữu hiệu chống lại những cảm nhận về phản bội. Sự căng thẳng giữa việc là một người vận động cho nhóm cử tri của chính mình và các lập trường hay lợi ích cá biệt của nó, và việc là một người tìm kiếm các giải pháp thỏa hiệp trong lợi ích chung, là một kinh nghiệm chung của các nhà đàm phán đại diện.
Những sự chia rẽ bên trong các nhóm cử tri riêng của họ đã làm giảm nhẹ động lực này, và đã nêu lên câu hỏi về lợi ích của những người đại diện trong sự sống sót của chính bên họ như một tổng thể, và của vai trò lãnh đạo liên đới của họ. Rõ ràng rằng cả Chính phủ lẫn Đoàn kết đã không đại diện cho tất cả nhân dân và các lợi ích bên trong nhóm cử tri chung của họ. Davis lưu ý rằng đã không chỉ có hai bên tại Bàn Tròn, hay trong xã hội, và rằng không phải tất cả các bên này đã được đại diện và được đại diện tốt tại các cuộc đàm phán. Cả Kaczyński và Hall cũng gợi ý rằng đã có nhiều cộng đồng đối lập không nhất thiết được đại diện bởi Đoàn kết, và chắc chắn không (được Đoàn kết chọn để) hiện diện tại Bàn Tròn; ngụ ý là họ đã “quá cực đoan” trong quan điểm của họ hay đã không đủ sẵn sàng để từ bỏ bạo lực và nắm lấy khả năng thỏa hiệp. Hơn nữa, và quan trọng, đã được giả thiết (hay hy vọng) rằng các nhóm không được đại diện không đủ mạnh để ngăn chặn các cuộc đàm phán hay cản trở sự thực hiện các thỏa thuận.
II. Khi nào Đàm phán là Hữu ích (nhất) Như một Chiến lược?
Những thảo luận chiến thuật về khi nào, trong tiến trình của một tình huống hay quá trình xung đột, việc đàm phán là thích đáng, hay khi nào các bên “sẵn sàng để thương lượng,” là chuyện tầm thường trong tài liệu về giải quyết xung đột. Như thế vấn đề sống còn thứ hai trong phân tích xung đột này và các xung đột khác, là mức độ mà theo đó các bên đã thực sự tương thuộc vào nhau, đối đầu với nhau một cách không thể tránh khỏi, và tương tác với nhau. Rõ ràng rằng các bên của Bàn Tròn, thực tế là các bên của xã hội Ba Lan, đã đối đầu với nhau và tương tác với nhau theo nhiều cách khác nhau và sẽ tiếp tục làm vậy. Một khi điều đó đã rõ, các cuộc đàm phán phụ thuộc vào sự sẵn sàng của mỗi bên, và khả năng của họ để thuyết phục bên kia, rằng họ sẽ bác bỏ (hay từ chối) sự phá hủy hệ thống hay bạo lực và sự áp bức, và như thế có thể hợp pháp hóa sự tồn tại của nhau, sự phụ thuộc lẫn nhau, và mong muốn của họ để làm việc cùng nhau. Điều đó mở ra khả năng của một “thỏa thuận giao dịch” hay một giải pháp thỏa hiệp.
Việc này nêu lên một câu hỏi chiến lược cũng như đạo đức. Khủng hoảng hệ thống – bạo lực và sự áp bức hay sự đe dọa như vậy – có thể làm mềm các đối thủ và đưa họ đến bàn đàm phán. Nhưng những đe dọa được tiếp tục về bạo lực và áp bức cũng có thể đem lại kết quả ngược lại, làm cứng rắn các đối thủ trở thành các kẻ thù và cũng đánh mất sự ủng hộ công khai từ những người cam kết hời hợt. Sự tính toán có ý nghĩa nhất cho các bên tại bước ngoặt chiến lược này được gọi là BATNA: Best Alternative to a Negotiated Agreement (Khả năng Thay thế Khả dĩ Tốt nhất đối với một Thỏa thuận được Thương lượng).[14] Nếu một bên có thể cải thiện vị thế của mình và đạt các mục tiêu của nó bằng việc sử dụng các chiến thuật khác với đàm phán, thì không chắc đi đến bàn thương lượng. Tất nhiên, một bên có thể đi đến bàn với “ý xấu,” có vẻ tham gia đàm phán nhưng lợi dụng tình thế để thu thập thông tin chiến lược về các đối thủ, tạo ra sự trì hoãn và sự lẫn lộn, vân vân. Tuy vậy, Susskind và Cruikshank cho rằng sớm hay muộn, “Khi sự tranh chấp tiếp tục và tiền cược tăng lên, hầu hết các nhóm cuối cùng đều đến gần việc cân nhắc BATNA của họ, hơn là chịu đựng một kết quả cực đoan,” một kết quả gây ra bởi hành động đơn phương hay áp bức.[15]
Như thế, ngoài sự thảo luận trước về bản chất của những vấn đề đang lâm nguy như một cân nhắc xác đáng trong những quyết định để đi đến đàm phán, là quan trọng để xem xét Bàn Tròn như một chiến lược thay đổi xã hội trong bối cảnh của những phương thức khác về sự thay đổi và sự kháng cự mà đã hoặc đã có thể sẵn có.[16] Thí dụ, Chrzanowski gợi ý rằng đã tồn tại nhiều mô hình thay thế khả dĩ về sự kháng cự lại chế độ độc đoán: nổi dậy (như trong các cuộc đình công quốc gia, các cuộc biểu tình và việc sử dụng vũ lực), phòng thủ tích cực (như trong việc sử dụng áp lực chính trị và kinh tế mềm hơn lên chế độ, bao gồm việc sử dụng báo chí và giáo hội), tương tác trực tiếp (như trong các nỗ lực để có được những nhượng bộ), và cuối cùng là đàm phán (như trong Bàn Tròn).[17]Bujak bày tỏ quan điểm rằng các cuộc đình công được dự trù để dẫn đến đàm phán, chứ không phải đến bạo lực, và rằng, “các cuộc đàm phán như một phương thức để giải quyết xung đột đã là nguyên tắc hiến định bên trong Đoàn kết.”[18] Hơn nữa, bạo lực đã không có kết quả! Staniszewska đồng ý rằng, “Bạo lực đã là vô nghĩa và bạo lực chẳng sinh ra cái gì ngoài bạo lực và chẳng có gì mang tính xây dựng có thể nổi lên từ nó.”[19] Có lẽ Hall tóm tắt quan điểm này khéo nhất dưới dạng chiến lược, biện luận rằng, nói một cách thực dụng, các lựa chọn khác với đàm phán và Bàn Tròn, “đối với tôi đã có vẻ thậm chí rủi ro hơn cho Ba Lan, nguy hiểm hơn,”[20] về mặt các kết quả không kiểm soát được của áp lực trực tiếp và bạo lực và sự không thể tiên đoán được của các hành động Soviet. Từ phía chính phủ, Ciosek lý lẽ tương tự, hay có lẽ có đi có lại, cho biết rằng, “Chúng tôi đã không sợ bản thân Đoàn kết mà chính là sợ Đoàn kết sẽ không có khả năng nhốt thần lại vào chai,”[21] rằng Đoàn kết đã có thể không kiểm soát được người của nó và rằng sự phản kháng của quần chúng sẽ nổ ra. Là rõ rằng đã có các yếu tố Đoàn kết thích các lựa chọn khác với đàm phán và đã tìm kiếm các mục tiêu thách thức cơ bản hơn cho quá trình thay đổi. Nhưng như đã nhắc tới ở trên, nhiều trong số họ đã không (được chọn để) có mặt tại Bàn Tròn.
Bối cảnh bên ngoài của tình huống xung đột là một nhân tố có tính quyết định khác, ảnh hưởng đến khả năng các bên khác nhau sẽ tham gia vào các cuộc đàm phán, và như thế là một biến số nữa trong việc tính toán BATNA của các bên. Trong ngữ cảnh Ba Lan, các lực lượng bên ngoài đã thay đổi đã làm tăng mức đe dọa liên quan đến sự tồn tại của xã hội hay mức lạc quan về những khả năng thay đổi. Cả hai cách, chúng đã làm tăng sự cần thiết đối với nhiều người để xem xét lợi ích chung. Thí dụ, một phần của tác động ngoại xác đáng liên quan đến cái khác xảy ra ở Ba Lan lúc đó. Những người tham gia khác nhau nói về khủng hoảng kinh tế hay vật chất đang xảy ra, và sự thất vọng và “áp lực từ dưới lên” gây ra bởi những lời hứa không được thỏa mãn về sự thịnh vượng lớn hơn. Những người khác gợi ý rằng Ba Lan đã trải nghiệm rồi nhiều tự do hơn các nước khác trong khối Soviet và, như thế, đã sẵn sàng hơn cho sự thay đổi, sự thỏa hiệp, và các cuộc đàm phán như Bàn Tròn. Tương tự, chúng ta có thế thấy tình trạng của nền kinh tế quốc gia và sự thay đổi văn hóa chính trị chắc chắn tác động thế nào đến các mối quan hệ công đoàn-lao động hay những sự điều đình giữa các chủng tộc ở Hoa Kỳ.
Một tập hợp khác của các lực lượng bên ngoài liên quan đến thực tế – và, không kể thực tế khách quan, mà là nhận thức của người dân về thực tế – về các ý định Soviet và khả năng can thiệp Soviet, chế độ Cộng sản Ba Lan phải “nhường quá nhiều” cho các nhà đàm phán Đoàn kết. Chẳng hạn, Rakowski lưu ý (và Ciosek đồng ý) rằng các nhà lãnh đạo cộng sản, bản thân họ đã có gốc rễ trong một thời gian và kinh nghiệm lịch sử nhất định, đã cảm thấy rằng họ có lẽ đã cường điệu nỗi sợ của họ về sự can thiệp Soviet, ngoài “nỗi sợ hãi và sự tôn trọng tuyệt đối cường quốc phía Đông sông Bug.”[22]Davis, ngay cả không có trải nghiệm cá nhân đó, tường thuật rằng ông, “tôi ngờ mạnh mẽ rằng cuối cùng Liên Xô sẽ can thiệp, nếu, trên thực tế, Đoàn kết nắm quyền ở Ba Lan ... …(và như thế) đã cảnh báo bạn bè Đoàn kết của tôi phải cẩn trọng… (và) đã thử để gây ảnh hưởng đến phe đối lập…rằng đó là vì lợi ích của họ để nói chuyện với chính phủ.”[23] Mặt khác, Chrzanowski gợi ý những người Nga đã quá yếu để can thiệp vào cuối các năm 1980, mặc dù không rõ là bao nhiêu người đã muốn đánh bạc trên sự đánh giá đó.
Ngoài ra, có bình luận quan trọng về vai trò của Hoa Kỳ, các quốc gia phương Tây khác và những người Ba Lan di cư ở Hoa Kỳ. Rakowski gợi ý rằng Ba Lan đã độc nhất có khả năng chuyển theo hướng Bàn Tròn bởi vì các mối liên hệ của nó với Hoa Kỳ thông qua những người di cư Ba Lan. Quan điểm này đã được Davis ủng hộ, khi ông thảo luận cả “sự hăng hái” của chính quyền Reagan “để đè bẹp chế độ Ba Lan… (lẫn việc nhờ ra sao đến) cộng đồng Ba Lan-Mỹ, sự điều độ của họ, sự khôn ngoan của họ và sự ủng hộ chính trị của họ, chúng tôi đã có thể đạt được một sự cân bằng”[24]  trong nỗ lực để tác động (một cách nhẹ nhàng) lên chế độ. Orszulik nói thêm rằng những sự cấm vận của phương Tây “thực sự đã hóa ra rất hiệu quả”[25] để giúp làm mềm chế độ, mặc dù chúng cũng đã gây ra đau khổ cho nhân dân Ba Lan. Chúng ta có thể hình dung động lực tương tự của ảnh hưởng bên ngoài trong các hoạt động của cộng đồng Do thái Mỹ đối với chính phủ Israel trong các cuộc đàm phán của nó với các chính khách Palestin (và Syri bây giờ) theo (cả hai chiều – làm cứng rắn và làm mềm); vai trò của các cộng đồng Irish-Mỹ trong việc ủng hộ và phản đối các sự kiện ở Bắc Ireland; vai trò của sự tẩy chay kinh tế phi chính phủ Mỹ trong việc ủng hộ để thách thức chế độ Apartheid ở Nam Phi; hoạt động của C.I.A. trong việc ủng hộ hay phản đối các chế độ ở Mỹ Latin và những nơi khác. (Không việc nào trong những việc này bàn hoặc về tính hiệu quả hay tính không hiệu quả của bất kỳ tác động nào trong số những tác động này, mà chỉ nêu sự tồn tại của chúng.)
Vai trò của Giáo hội Công giáo (và Giáo hoàng hiện thời) cũng được dẫn ra nhiều lần, cả theo nghĩa Giáo hội Ba Lan như người ủng hộ Đoàn kết và các cuộc đàm phán, lẫn về tác động lên chế độ của Giáo hội Công giáo quốc tế dưới dạng các cuộc viếng thăm và tuyên bố của Giáo hoàng.
III. Cần Những gì cho các cuộc Đàm phán Tiến triển?
Tài liệu cho biết rằng một khi là rõ rằng các bên sẵn sàng để thương lượng, các cuộc đàm phán thành công đòi hỏi sự hiện diện của nhiều thứ nhân tố hay điều kiện. Một số của những điều kiện này bản thân chúng là bối cảnh tự nhiên mà thúc đẩy các bên đến bàn đàm phán (căn cứ vào BATNA của họ) trong khi các điều kiện khác có thể được tạo ra hay được tạo thuận lợi bằng những cách mà theo đó các cuộc đàm phán được cấu trúc hay được tổ chức. Để cho thuận tiện, chúng tôi đã gắn nhãn cho các điều kiện trước là các điều kiện bên ngoài và các điều kiện sau là các điều kiện bên trong.
Các điều kiện bên ngoài. Như được thảo luận ở trên, bối cảnh xã hội bên ngoài của các tình huống xung đột là một nhân tố có tính quyết định ảnh hưởng đến chính khả năng hay sự tồn tại của các cuộc đàm phán (và giúp các bên để tính BATNA của họ). Trong bối cảnh Bàn Tròn, một phần của tác động ngoại xác đáng liên quan đến những thứ khác xảy ra ở Ba Lan, trên vũ đài lớn hơn của Đông Âu, và trong thế giới nói chung lúc đó.
Các cuộc đàm phán thành công nhìn chung đòi hỏi các bên liên quan có sức mạnh ngang nhau tương đối, hay chí ít đủ sự ngang hàng sức mạnh để tạo ra một tình huống của sự dễ bị tổn thương và răn đe lẫn nhau, hay chí ít sự dễ bị tổn thương được cảm nhận: “mỗi bên phải có chí ít đòn bẩy nào đó mà nó có thể sử dụng, nếu cần, để gây bất lợi cho bên kia.”[26] Như Wehr chỉ ra, thường việc thương lượng chỉ có thể bắt đầu khi, “các nhóm bị áp bức …giảm sự không cân bằng sức mạnh thông qua đối đầu đến điểm nơi sự hòa giải và mặc cả có thể xảy ra.”[27] Ở mức vĩ mô hay xã hội ở Ba Lan, nguyên lý này được phản ánh trong lý lẽ rằng, vào lúc xây dựng Bàn Tròn, cả hai bên đã khá yếu…và mỗi bên đã biết điều đó. Như Staniszewska nói rõ, “Bàn Tròn đã thực sự tiến hóa từ sự yếu của cả hai bên.… Nếu lúc đó ít nhất một trong các bên, mà cuối cùng đã ngồi xuống Bàn Tròn, giả như đã cảm thấy mạnh và đã mạnh, đã cảm thấy rằng nó thực sự có quyền lực trên linh hồn và tâm trí của người dân, thì tôi chắc chắn rằng đã không có Bàn Tròn nào cả.”[28] Cho nên sự yếu chung là một thí dụ cũng rõ về nguyên lý “cân bằng sức mạnh” như sự mạnh mẽ chung.[29] Nhưng sức mạnh chẳng bao giờ thực sự bằng nhau, và Jankowska cho rằng Đảng Cộng sản và Đoàn kết “đã không thật sự là các đối tác đầy đủ”[30]; Đảng đã có quyền lực để kiểm soát TV và báo chí, và Đoàn kết đã phải chạy theo và sửa “các nhà báo chế độ” những người đã kể chuyện về các sự kiện theo cách của đảng của họ.
Đã là có ích cho việc tạo ra và tiến hành Bàn Tròn Ba Lan vì tất cả các thành viên đầu tiên và trên hết đều đã xem mình là “những người Ba Lan.” Trong chừng mực mà các xung đột chính về chủng tộc/sắc tộc, giai cấp và văn hóa bùng nổ theo cùng cách như các xung đột về quyền lực và đặc ân, quyền lực ít có khả năng được cân bằng, những ý thức hệ khác nhau căn bản có lẽ có nhiều khả năng đang bị đe dọa, và những lời phàn nàn lịch sử và sự bất công có lẽ có nhiều khả năng là phần của sự tranh đua. Điều này có thể làm cho sự liên kết đa bản sắc như vậy là một chiến thuật huy động tốt cho việc tập hợp các nhóm lại với nhau và tiếp sinh lực cho các nhóm thách thức. Nhưng việc huy động và đàm phán là các chiến thuật thay đổi đặc biệt, cho dù thường xuất hiện nối đuôi nhau. Khi các cuộc đàm phán được tiến hành, các bên phải có khả năng để tách biệt – về mặt trí tuệ, cảm xúc và thực tiễn – các vấn đề về bản sắc và các vấn đề về lợi ích ra khỏi nhau, hệt như họ phải có khả năng tách biệt các lợi ích và các lập trường. Các lợi ích là có thể thương lượng được, trong khi các lập trường ý thức hệ và các bản sắc cốt lõi là không. Nếu những sự tách bạch đó không được tiến hành, thì các cuộc đàm phán có lẽ ít có khả năng xảy ra, và khi chúng xảy ra, có nhiều khả năng chúng hết sức gây tranh cãi và không thành công. Hãy xem xét bản chất bị sắc tộc hóa và bị làm nổi bật bản sắc nhóm của các xung đột dựa trên tài nguyên ở Israel-Palestine, Bắc Ireland, Nam Tư trước đây, vân vân.
Các điều kiện bên trong. Một số điều kiện bên trong cũng phải được thỏa mãn cho các cuộc đàm phán thành công. Chủ yếu trong số chúng là “các vấn đề quá trình,” như sự ngang bằng sức mạnh,[31] khả năng của mỗi bên để làm việc hiệu quả với nhóm cử tri riêng của mình, cũng như để phát triển sự truyền thông hiệu quả với các đối thủ và với các đồng minh, và các kỹ năng giữa cá nhân của các đại diện (thí dụ, kỹ năng giao tiếp, kiểm soát xúc cảm, xử trí sự giận dữ). Tài liệu về đàm phán đầy ứ sự hỗ trợ lý thuyết cho sự cần thiết cá biệt của sự góp phần vào làm ngang bằng sức mạnh tương đối và chứa nhiều gợi ý cho những can thiệp quá trình mà có thể ít nhiều (hoặc thậm chí tạm thời) tạo ra sự cân bằng sức mạnh.
Sự ngang bằng sức mạnh, hay sự bình đẳng sức mạnh tương đối, đã được thúc đẩy ở mức vi mô hay quá trình bên trong Bàn Tròn bởi các thứ như số người đại diện bằng nhau cho mỗi bên, chủ tọa luân phiên của các cuộc họp, tiêu chuẩn về những người phát biểu luân phiên của mỗi bên (Reykowski), sự tự trị trong việc lựa chọn các đại diện, và sử dụng “các bàn nhỏ” nơi mọi người có thể tiến hành các cuộc trò chuyện và đàm phán trực tiếp một đối một, thoát được tư thế công khai biểu thị trong một số cuộc bàn cãi toàn bộ Bàn Tròn và những sự sử dụng quyền lực bởi vài lãnh đạo chi phối của mỗi bên (có lẽ để giữ những người của chính họ “theo đường lối”). Một điều kiện làm cân bằng quan trọng của Bàn Tròn đã là, mỗi bên quyết định ai đại diện cho chính nó; nói chung những người Cộng sản đã không quyết định ai sẽ đại diện cho Đoàn kết (một điều kiện được Susskind và Cruikshank lưu ý như cốt yếu).
Chrzanowski đã cho biết rằng tại một thời điểm các nhà chức trách đã muốn chọn các đại diện của Đoàn kết cho Bàn Tròn, nhưng việc này đã không xảy ra. Như chúng ta thấy, những người đã đại diện cho Đoàn kết (hay cho chế độ) đã có đủ rắc rối để giữ sự tín nhiệm của họ bên trong nhóm cử tri của họ như đã có; nó sẽ bị mất hoàn toàn giả như sự tự chủ lựa chọn đã bị tổn thương.
Khó khăn mà mỗi bên của Bàn Tròn đã trải nghiệm trong quản lý những sự chia rẽ và những tranh luận nội bộ của chính họ đã gây áp lực lên khả năng của họ để xây dựng và vận hành các cuộc đàm phán. Thí dụ, Michnik cho rằng cả Đoàn kết và Đảng Cộng sản (chính phủ) đã bị chia rẽ, rằng đất nước đã bị chia rẽ ngay cả trong cuộc bầu cử tiếp sau, và Janas lưu ý rằng đã là rõ với ông, khi ông đã thử tổ chức phe đối lập trong các nhà máy, rằng tất cả những người Ba Lan đã không phản đối Đảng Cộng sản và ủng hộ Đoàn kết. Bujak nhận thấy dứt khoát rằng duy trì Đoàn kết đã là chìa khóa, nhưng điều đó, vì nó đã là một phong trào phân tán, phi tập trung, không có hệ thống giám sát trực tiếp, điều đó đã rất khó khăn. Tiền đặt cọc đã trở nên đặc biệt cao khi một số bên trong hàng ngũ của Đoàn kết (theo Janas, những người cấp tiến trẻ) đã quay sang bạo lực, hay đã làm nhòe ranh giới giữa các cuộc biểu tình hòa bình và chủ nghĩa khủng bố (tất nhiên, như đã lưu ý trước đây, Đảng đã hết sức sẵn sàng giúp đỡ để làm nhòe sự phân biệt này). Các bên những người biết về các nhóm cử tri chia rẽ của nhau có thể chọn để tăng cường vị thế đàm phán bằng cách phớt lờ chúng, hoặc họ có thể thử làm yếu đối thủ của họ (và như thế làm thay đổi cán cân sức mạnh trong bản thân thương lượng) bằng khai thác hay lôi cuốn những sự chia rẽ này. Vấn đề về làm việc với các nhóm cử tri tạp nham của chính mình chắc chắn là một chủ đề chung trong chính trị phong trào, và đã được viết rất nhiều về những cuộc đấu tranh nội bộ này (vì sự thống nhất, vì quyền lực giữa các nhóm phong trào phụ khác nhau, về các sở thích chiến thuật) trong các phong trào lao động, sinh viên, quyền dân sự và phụ nữ ở Hoa Kỳ và các phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi, Trung Đông, vân vân.
Vấn đề về giữ và tiếp tục giữ quan hệ tốt (và thái độ tốt) với nhóm cử tri của chính mình, sao cho có thể là một “người phát ngôn hợp pháp” của họ, đã cũng được nhiều người tham gia nêu lên. Tôi đã nhắc trước đây đến những cách mà theo đó Michnik và những người khác thảo luận các phản ứng của họ với lời cáo buộc rằng họ đã phản bội các đồng chí Đoàn kết của họ. Reykowski tường thuật rằng sự thống nhất bên trong chính phủ đã có lẽ có khả năng hơn, căn cứ vào những ràng buộc và sự thưởng công có hiệu lực đối với các lãnh đạo Đảng, trừ phi, một số người trong chính phủ “đã thực hiện một số nỗ lực để hạn chế hoặc xóa bỏ những cái xấu nhất định mà chế độ đã tạo ra … đã tự nguyện tiến hành các hành động hướng tới chuyển đổi cơ bản của hệ thống.”[32] Ông cho rằng ông và một số người khác đã muốn sự thay đổi và làm việc với Đoàn kết, trong khi những người khác đã muốn đáp lại phe đối lập bằng vũ lực, bằng hủy bỏ các cuộc bầu cử, vân vân. (Những người tham gia từ phía Đoàn kết đã không vui lòng đồng ý rằng những thái độ như vậy là “tự nguyện” hoặc rằng các đảng viên “đã muốn sự thay đổi,” ám chỉ để thấy những thái độ như vậy như kết quả của áp lực của họ và của tình thế thay đổi). Reykowski nhận diện bản thân mình như một “đảng viên phóng khoáng,” kỳ vọng “sẽ gặp kháng cự rất lớn bên trong bộ máy đảng, đặc biệt là ở Ban Chấp hành Trung ương, đối với các cuộc đàm phán và thỏa thuận.”[33] Ông cũng nhận diện mình như là bộ phận của “cánh cải cách,” một cánh mà đã là thiểu số bên trong Đảng và “đã không thể có đủ khả năng để nói không một cách công khai và để tổ chức mình bên trong đảng”[34] bởi vì áp lực cho sự thống nhất của Đảng. Bất chấp những kỳ vọng này, ông tường thuật rằng ông đã thấy sự ủng hộ đáng ngạc nhiên giữa nhiều Đảng viên trẻ hơn. Tất cả các phong trào giải phóng hay kháng chiến thiết tha cố tìm cho được “những người cải cách” hay “các đồng minh” bên trong chính phủ và đội ngũ của chế độ; cũng là phổ biến, sau sự kiện, đối với nhiều tác nhân chính phủ/chế độ để nhận diện bản thân họ như các bạn hữu “được che dấu trước đây” của một sự cố gắng thay đổi thành công.
Bất chấp mọi sự cố gắng … Bất chấp mọi sự cố gắng để tạo ra những điều kiện mà dưới đó các cuộc đàm phán có thể thành công, không có cách nào để kiểm soát tất cả các lực và các điều kiện đang hoạt động. Trong bối cảnh Bàn Tròn, chẳng hạn, có một câu chuyện tinh tế nói về thái độ thương lượng phút chót của công đoàn theo định hướng chính phủ và việc tập thể dục tâm thần và chính trị của nhiều thành viên Đoàn kết và Giáo hội để làm việc ngoài Bàn Tròn với các tác nhân chính phủ nhằm tạo ra một thông cáo báo chí mà không nhấn chìm thỏa thuận Bàn Tròn. Có nhiều thí dụ về hiện tượng này của sự không thể kiểm soát được trong những khung cảnh khác. Như một thí dụ, hãy xem cuộc đình công và các cuộc đàm phán [của] Memphis Public Employees (những người thu gom rác) đã rẽ ngoặt đột ngột thế nào khi Martin Luther King, Jr., người đã đến Memphis để chứng tỏ sự ủng hộ cho những người đình công, đã bị ám sát trong thời gian các cuộc đàm phán.[35]
(Phần này còn tiếp)
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
[1] M. Deutsch, “Equity, Equality and Need: What Determined Which Value Will Be Used as the Basis of Distributive Justice,” Journal of Social Issues 31 (1975): 137-150; D. Luban, “The Quality of Justice,” Denver University Law Review 66 (3) (1989): 381-418
[2] O. Fiss, “Against Settlement,” Yale Law Journal 93 (1984): 1073-90.
[3] R. Fisher and W. Ury, Getting to Yes: Negotiating Agreement Without Giving In (Boston: Houghton-Mifflin, 1981).
[4] L. Susskind and J. Cruikshank, Breaking the Impasse: Consensual Approaches to Resolving Public Disputes (New York: Basic Books, 1987).
[5] Communism’s Negotiated Collapse: The Polish Roundtable, Ten Years Later. A Conference at the University of Michigan. April 7-10, 1999English Transcript of the Conference Proceedings, do Kasia Kietlinska dịch, Donna Parmelee biên tập (Ann Arbor: The University of Michigan Center for Russian and East European Studies, 1999). 63. Các dẫn chiếu đến bản nghi gỡ băng Bàn Tròn tương ứng với phiên bản in gốc của ghi chép, được cung cấp cho những người đóng góp cho tài liệu hướng dẫn này. Chúng có thể không tương ứng với các phiên bản hiện có sẵn trên web hay được in sau đó
[6] Ibid., 62.
[7] D. Bronkhuorst, Truth and Reconciliation: Obstacles and Opportunities (Amnesty International, 1995); M. Minow, Between Vengeance and Fairness (Boston: Beacon Press, 1998).
[8] Communism’s Negotiated Collapse, 234.
[9] Ibid., 144.
[10] Ibid., 189.
[11] R. Lewicki and J. Litterer, eds., Negotiations: Readings, Exercises and Cases (Homewood, IL: Irwin, 1985); J. Rubin, D. Pruitt, and S. Kim, Social Conflict: Escalation, Stalemate and Suppression (New York: McGraw-Hill, 1994); P. Wehr, Conflict Regulation (Boulder: Westview Press, 1979).
[12] Communism’s Negotiated Collapse, 234.
[13] Ibid., 16.
[14] Fisher and Ury; H. Raiffa, The Art and Science of Negotiation (Cambridge: Harvard University Press, 1982).
[15] Susskind and Cruikshank, 117.
[16] J. Crowfoot, “Negotiations: An Effective Tool for Citizen Organizations?” Northern Rockies Action Group Papers 3-4 (1980): 22-44.
[17] Communism’s Negotiated Collapse, 26.
[18] Ibid., 36.
[19] Ibid., 242.
[20] Ibid., 106.
[21] Ibid., 173.
[22] Ibid., 22.
[23] Ibid., 61.
[24] Ibid., 95.
[25] Ibid., 135.
[26] Susskind and Cruikshank, 190.
[27] Wehr, 38.
[28] Communism’s Negotiated Collapse, 242.
[29] L. Kriesberg, The Sociology of Social Conflicts (Englewood Cliffs, NJ: Prentice-Hall, 1973).
[30] Communism’s Negotiated Collapse, 83.
[31] A. Davis and R. Salem, “Dealing with Power Imbalances in the Mediation of Interpersonal Disputes,” Mediation Quarterly 6 (1984): 17-26; B. Mayer, “The Dynamics of Power in Mediation and Negotiation,” Mediation Quarterly 6 (1987): 75-86; L. Susskind, “Power and Power Imbalance,” in Removing the Barriers to the Use of Alternative Methods of Dispute Resolution (Burlington: University of Vermont, 1984); Susskind and Cruikshank.
[32] Communism’s Negotiated Collapse, 112.
[33] Ibid., 138.
[34] Ibid., 165.
[35] R. Marshall and A. Adams, “The Memphis Public Employees’ Strike,” in W. Chalmers and G. Cormick, eds., Racial Conflict and Negotiations (Ann Arbor: University of Michigan and Wayne State University, 1971).
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:01
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_8807.html
======================================================================Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 21) 




Dịch giả: Nguyễn Quang A

Giải quyết Xung đột  Bàn Tròn Ba Lan: Đàm phán sự Thay đổi Hệ thống?
(tiếp theo)
Mark Chesler


IV. Các vai trò của bên thứ ba hay “người can thiệp” hữu ích là gì?

Đã cần đến một bên thứ ba để tạo thuận lợi cho quá trình đến với Bàn Tròn…và tiếp tục gặp nhau và thương lượng? Một phần đáng kể của tài liệu về giải quyết xung đột đề cập đến sự có ích của sự can thiệp bên thứ ba: theo thuật ngữ của Rubin et al., “một bên thứ ba là một cá nhân hay một tập thể mà ở bên ngoài sự tranh chấp giữa hai hay nhiều người và người đó đã thử giúp họ đạt thỏa thuận.”[1] Vai trò của bên thứ ba có thể là chính thức (được ký hợp đồng và được dàn xếp) hay phi chính thức (nổi lên), tư vấn và tạo thuận lợi hay hướng dẫn và ép buộc, và thiên vị hay không thiên vị. Trong lý thuyết và thực tiễn, sự cần thiết của một bên trung gian là vấn đề tranh cãi, mặc dù nhiều người tham gia đã có vẻ đồng ý rằng đã cần đến nó trong tình hình Ba Lan. Sự khảo sát biên bản của Bàn Tròn Ba Lan là trái ngược về liệu một bên thứ ba thự sự đã có bao giờ hiện diện, nói chi đến nếu sự hiện diện như vậy đã là cần thiết và hữu ích hay không.
Orszulik (một thành viên của bộ máy thứ bậc của Giáo hội) cho rằng bất kỳ hai bên nào đều cần đến một bên trung gian, và rằng Giáo hội đã đóng vai trò này. Có vẻ Giáo hội không thực sự “đã làm trung gian cho” Bàn Tròn theo nghĩa chính thức, nó cũng đã không đứng ngoài các cuộc đàm phán, nó cũng đã chẳng trung lập. Tính trung lập là một dấu xác nhận phẩm chất của lối nói hoa mỹ về sự trung gian hình thức, nhưng trong thực tế nó thường được định nghĩa lại như một cảm giác về công bằng mà nhận được sự tin cậy của các bên khác nhau.[2] Ít người tán thành một sự nghiệp họ tin là công bằng có bao giờ tin hoàn toàn vào người trung gian, một người không có một lập trường, cho dù họ đồng ý người trung gian đã là có ích và giúp ích.
Đúng hơn, có vẻ rằng Giáo hội đã tạo thuận lợi cho các bên khác nhau và đã có khả năng làm vậy bởi vì tất cả các bên đã có mức độ hiểu biết và tin cậy nào đó vào Giáo hội, bất chấp những lời xác nhận thẳng thắn của nó về sự ủng hộ Đoàn kết và vai trò tích cực của nó trong sự chuyển đổi được dàn xếp. Thực vậy, Orszulik gợi ý rằng Giáo hội đã là, “một loại ốc đảo an toàn nào đó, một loại bảo đảm an toàn nào đó.”[3] Các nhóm Đoàn kết đã gặp nhau trong Giáo hội; Giáo hội đã dùng những lời loan báo giáo khu để ủng hộ Đoàn kết và đến lượt đã được Đoàn kết tin cậy bởi vì sự liên minh đạo đức này và sự ủng hộ thẳng thắn của Giáo hoàng. Mặt khác, Giáo hội cũng đã làm việc với chính phủ: chế độ đã muốn Giáo hội giúp để làm bớt chủ nghĩa tích cực Đoàn kết và đã gặp các lãnh đạo Giáo hội một cách bí mật để khuyến khích việc này trước các năm 1980. Như Ciosek nói, chế độ đã tin cậy và hiểu Giáo hội kỹ hơn với tư cách “một cấu trúc mạnh (chuyên quyền?), hơn là một Đoàn kết được thả lỏng mà chỉ trong tình trạng mới nổi lên.”[4] Ông ủng hộ lý lẽ của Orszulik rằng Giáo hội đã làm trung gian giữa những người cộng sản và Đoàn kết. Như thế, Giáo hội đã có vẻ như một “nhà môi giới lương thiện,” người có khả năng giao tiếp với cả chính phủ và Đoàn kết, và để tạo thuận lợi cho sự giao tiếp của họ với nhau, nhưng không phải là người đứng ngoài cuộc tranh đấu hay không thiên vị theo bất kỳ nghĩa nào.
Phần lớn tài liệu về giải quyết xung đột liên quan đến các bên thứ ba tập trung vào một bên trung lập bên ngoài; ở đây chúng ta thấy sự phát triển của một bên thứ ba bên trong, không trung lập, và chúng ta có thể tưởng tượng ra các biến thể khác. Thí dụ, trong tình huống Nam Phi, có vẻ rằng Nelson Mandela đã đóng một vai trò trung gian cốt yếu giữa ANC và Chính phủ, đồng thời là thành viên của một trong các bên và rõ ràng là một người vận động không trung lập cho sự chuyển đổi lớn. Trong cuộc đấu tranh gần đây quanh các vấn đề của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc tại Đại học Michigan, giữa các sinh viên phản đối và Chính quyền, Jesse Jackson đã đóng một vai trò bên thứ ba hữu ích; không ai đã phải tự hỏi sự trung thành của Jackson nằm ở đâu, nhưng ông đã là một bên thứ ba bên ngoài (ít nhiều) được tin cậy, nhưng không trung lập.
Như là điển hình cho các bên dính líu những người cũng tích cực như “những người đi giữa,” “các nhà môi giới” hay các nhà trung gian, Orszulik cho biết rằng đôi lúc các động cơ làm trung gian của Giáo hội bị ngờ vực. Hơn nữa, ông thừa nhận rằng quả thực Giáo hội đã được lợi, đã tăng tính chính đáng của chính nó với tư cách một định chế xã hội quan trọng, như một kết quả của vai trò trung gian của nó. Trong một số cuộc xung đột leo thang nghiêm trọng khác, các tổ chức phi chính phủ (NGO) cũng đã đóng những vai trò then chốt trong việc “làm trung gian” giữa, hay tạo thuận lợi cho việc liên lạc giữa, các chế độ và các bên thách thức. Gidron et al. thảo luận một biến thể cá biệt của các NGO này hoạt động ở Cộng hòa Nam Phi và trong các cuộc xung đột Israeli-Palestin và Bắc Ireland.[5] Được giọi là “Peace and Conflict Resolution Organizations” (P/CRO – các Tổ chức Hoà bình và Giải quyết Xung đột), chúng tìm được cách để nhóm họp các bên xung đột, chẩn bị cho việc hòa giải và tăng cường quá trình giải quyết xung đột; đôi khi họ cũng dính líu trực tiếp vào công việc giám sát xung đột, tự tiến hành công việc hòa giải, và đào tạo người về các chiến thuật giải quyết xung đột. Tính trội của Giáo hội với tư cách một P/CRO ở Ba Lan, kết đôi với bản chất độc quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa vis-à-vis (đối diện với) các tổ chức tình nguyện và khu vực thứ ba, có thể đã che khuất hay đã cản trở sự công nhận vai trò của các NGO khác đã đóng trong tình huống Ba Lan.
V. Làm sao Các Bên Xung đột Đi đến Tin cậy nhau Đủ để Đàm phán?
Nhiều người thảo luận chỉ ra những cách mà theo đó họ đã quen (và có lẽ vẫn) nhìn “bên kia” tại Bàn Tròn dưới dạng stereotype (khuôn mẫu định kiến). Những stereotype này, thường được sinh ra từ kinh nghiệm đau đớn trực tiếp với nhau, giúp xác nhận rằng các đối thủ là ác và cuộc đấu tranh như là giữa các lực lượng của “ánh sáng” và “bóng tối,” và chúng đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp để huy động những người ủng hộ cho cuộc đấu tranh kéo dài và rủi ro.[6] Đồng thời, khi các cuộc đàm phán là có thể, sự ma quỷ hóa các đối thủ như vậy có thể khiến cho là không thể để nhìn thấy họ với khuôn mặt người và để giao tiếp hay thương lượng một cách hiệu quả.
“Tình trạng thù địch” thường là một yếu tố then chốt trong các cuộc xung đột leo thang mà cần đến các cuộc đàm phán, cho dù nó làm cho việc đi đến bàn đàm phán khó khăn hơn. Như Michnik lưu ý, ông đã đi đến bàn để thương lượng với những kẻ thù[7] (không phải những kẻ thù tưởng tượng mà là những người đã gây hại nặng cho ông và các lợi ích của ông). Quả thực, muộn hơn ông cho rằng đối với các cuộc đàm phán thật, người ta phải có các kẻ thù thật,[8]  không chỉ các đối thủ. (Có một câu chuyện thực sự hoàn toàn chua chát và đau đớn mà Michnik kể về mong muốn của ông không bắt tay với một người cộng sản khét tiếng tham gia Bàn Tròn – ông đã cảm thấy vợ ông sẽ không để cho ông vào nhà nếu ông làm vậy – nhưng bất chấp sự cố gắng của ông nấp trong phòng tắm để tránh phải đối mặt và chào người này, ông đã rơi vào thế buộc phải bắt tay.)
Cả “hai bên” (một từ bản thân nó gây ấn tượng) trước đó đã sử dụng ẩn dụ về kẻ thù để tập họp các đội quân của riêng mình hoặc để phi pháp hóa bên kia. Thí dụ, Lityński phát biểu rằng Đoàn kết đã cố ý “đối xử với chính phủ như một khối, nếu chúng ta từ chối để phân biệt giữa những người cứng rắn và tự do, thì phía chính phủ sẽ phải cho phép các nhóm xuất hiện mà sẽ bắt đầu các cuộc đàm phán.”[9] Nhưng đôi khi các đảng viên đã không phải làm mấy để đạt được điều này, như Bujak lưu ý rằng chính phủ đã thử, “đẩy chúng tôi (Đoàn kết) vào vị trí khủng bố…như loại tội phạm, kẻ tấn công có vũ trang nào đó.”[10]
Khá tương tự, Dembowski gợi ý rằng ông (và Giáo hội) đã không có kẻ thù nào, nhưng “các nhà chức trách Ba Lan đã đặt họ đối lập với tôi.”[11] Mặt khác, Rakowski muốn làm rõ rằng ông phản đối ý kiến rằng, “những ý định của (chính phủ) chúng tôi đã là ác và tất cả chúng (tôi) đã là ác ….tôi được cho là một loại người Ba Lan tồi hơn, và tôi dứt khoát không thể chấp nhận điều đó.”[12]
Nhiều người tham gia đã cho biết rằng họ đã thử, và hiển nhiên vẫn đang thử, để giảm bớt lối nói và ý thức thù địch. Thí dụ, Ciosek cầu xin mọi người hãy thừa nhận, “giá trị nào đó về phía (chính phủ) chúng tôi và để ý rằng thành công Ba Lan được làm từ thiện ý của cả hai bên, chứ không phải chỉ một bên.”[13] Và Dembowski cho rằng Giáo hội đã quan tâm đến các đối thủ trong chính phủ.
Một số nhà bình luận nhận thấy, khi các cuộc gặp nhau tiến triển, một số trong những kẻ thù này đã có được một bộ mặt con người thế nào và sự tương tác trực tiếp đã tạo ra các mối quan hệ con người ra sao mà đã cho phép cuộc đàm phán thực và thỏa thuận cuối cùng. Jankowska cho biết rằng Bàn Tròn, “đã cho phép chúng tôi nhìn vào các đối thủ, vào các đối tác, và bắt đầu hiểu họ. Và đây là khi các liên kết được tạo ra, và chúng đã rất cần thiết để hiểu những người đó khác đi và để cố hiểu động lực của họ, cách họ suy nghĩ.”[14] Trong khung cảnh của Bàn Tròn, khi đó, “đấy đã là những kẻ thù của chúng tôi … (nhưng chúng tôi cho họ thấy) một thái độ tôn trọng con người (Hall).”[15] Và như Reykowski tường thuật về những người Đoàn kết, “và sợ chủ nghĩa cực đoan và chủ nghĩa chính thống của họ. Và tôi đã hết sức ngạc nhiên… tôi đã phát hiện ra rằng đó là một nhóm người rất biết điều, những người đã được chuẩn bị kỹ và với họ chúng tôi có thể cùng nhau suy nghĩ làm thế nào để tìm các giải pháp cho tình hình Ba Lan.” [16] Ciosek lặp lại lập trường của ông rằng tại Bàn Tròn “cả hai bên đã hành động theo thiện ý”[17] – nhưng quan trọng để nhớ rằng không phải mọi người đều đã cảm thấy như vậy (nhiều người tham gia Đoàn kết đã cho rằng chính phủ đã không đàm phán với thiện ý!).
Quan niệm rằng Ba Lan đã là nhà nước tay sai của những người Soviet đã dẫn nhiều người đến lý lẽ rằng chế độ đã không phải là bản địa chủ nghĩa (nativist) mà là nước ngoài (cho dù họ đã là những người Ba Lan) và là dấu hiệu của một cường quốc chiếm đóng hơn là một chế độ độc tài nội địa. Quan điểm đó dẫn nhanh hơn đến sự không tin cậy cơ bản, ủng hộ các quan niệm thù địch của chế độ, làm yếu sự cam kết với bất bạo động, và phá vỡ lực hợp nhất (đã được nhắc đến trước đây) của tất cả những người tham gia được coi (bởi bản thân họ và những người khác) trước hết như những người Ba Lan. Nghiều khía cạnh về “việc xây dựng những kẻ thù,” đặc biệt trong bối cảnh chiến tranh lạnh, là sẵn có trong số đặc biệt của Tạp chí các Vấn đề xã hội, số đặc biệt “Hình ảnh của Kẻ thù” - The Journal of Social Issues, “The Image of the Enemy.”[18] Là lý thú để xem xét các vấn đề về “sự đối lập” và “tình trạng thù địch” leo thang khi những người tranh chấp cũng từ các nhóm quốc gia/sắc tộc/chủng tộc/tôn giáo khác nhau (và đấu tranh với nhau về mặt lịch sử). Khi đó chúng ta đã thấy người ta, các bên và các quốc gia đi xa hơn tình trạng thù địch để sử dụng các từ thậm chí còn bất trị hơn như “những kẻ ngoại đạo,” “bọn xảo quyệt nước ngoài,” các thành viên của một “đế chế ác quỷ,” và “phi/dưới-con người” (như quan điểm ở Mỹ trong Chiến tranh Thế giới II về người Nhật, vân vân).
Bàn Tròn chắc chắn đã không xóa những sự khác biệt, hay ác ý, và thậm chí những thảo luận tại bản thân hội thảo đôi khi đã nêu lại những cảm xúc mạnh của sự giận dữ và thương tổn.[19] Những người tham gia cho các bên khác nhau đã tiếp tục biện luận – đôi khi một cách công khai và đôi khi một cách tế nhị hay gián tiếp – về sự phổ biến và tính qua lại của thiện chí; nói chung những người tham gia chính phủ/Đảng Cộng sản đã nói rằng có nhiều thiện chí và đã là chung, và nói chung điều này đã bị tranh cãi bởi những người tham gia Đoàn kết/đối lập. Như Michnik nói rõ, “một sự ân xá, được, chứng mất trí nhớ, thì không.”[20] Cuối cùng, Ciosek nhận xét, “Mỗi bên đã sử dụng ngôn ngữ riêng của mình gửi đến nhóm cử tri của mình và sử dụng bộ máy khái niệm thích hợp cho nhóm cử tri đó.”[21] Không ngạc nhiên có các câu chuyện khác nhau để kể về các xung đột nghiêm trọng: không chỉ những người từ các vị trí xã hội/chính trị khác nhau nhìn thấy các thứ khác nhau, mỗi người trong số họ nói về những cái họ thấy bằng những ngôn ngữ khác nhau.
Sự phát triển của loại nào đó về sự tin cậy trong các đối thủ, hay các kẻ thù (trước kia) của ta, là thiết yếu cho quá trình đàm phán. Nhưng sự tin cậy có những ý nghĩa khác nhau, và sự hấp dẫn giữa các cá nhân hay tình bạn là thành phần ít quan trọng nhất trong khung cảnh giải quyết xung đột. Quan trọng hơn là khả năng để tính đến (sự tin cậy) việc đối thủ của ta ứng xử theo một cách đáng tin cậy và có thể tiên đoán được, hy vọng nhưng không nhất thiết theo cách nhất quán với những tuyên bố công khai của họ, và cam kết để thực hiện thỏa thuận. Rubin, Pruitt và Kim cho rằng các yếu tố then chốt của sự tin cậy trong các tình huống đàm phán là những sự nhận thức rằng bên kia quan tâm đến các lợi ích của ta, thừa nhận sự phụ thuộc lẫn nhau, và sẵn sàng để nhường hay thỏa hiệp tại điểm nào đó.
Là phổ biến sau các cuộc đàm phán khó khăn đối với những người tham gia để nói tốt về các đối thủ trước kia của họ trong một lúc, như thế để lát nền cho hòa bình, cho sự sẵn sàng của các cử tri khác nhau của họ để chấp nhận một thỏa thuận, và cho khả năng của họ để tiếp tục làm việc với nhau. Cũng phổ biến trước, trong, và sau các cuộc đàm phán khó khăn đối với những người tham gia để tiếp tục mô tả đặc trưng các đối thủ hay kẻ thù của họ theo cách ít nịnh hót hơn; vì sự tranh đua lớn hơn (và cơ bản) vẫn tiếp tục, và những sự mô tả đặc trưng này (không kể đến giá trị thật của chúng) là một phần của cuộc chiến đấu còn tiếp tục vì các nguồn lực tượng trưng.
VI. Các cuộc Đàm phán Có thể, và Có thể Dẫn Thế nào đến Thay đổi Hệ thống?
Mục tiêu của đàm phán một phần là để biến đổi một quá trình của sự thay đổi không có kế hoạch, gây tranh cãi và bị phản kháng (và có tiềm năng dữ dội) sang một quá trình của sự thay đổi có kế hoạch, hợp tác hơn (và tương đối hòa bình). Chắc chắn điều này đã xảy ra trong tình huống Ba Lan. Nhưng bao nhiêu sự thay đổi hệ thống đã được thỏa thuận và/hoặc được thực hiện, hay như kết quả của Bàn Tròn Ba Lan? Một mặt những kết quả cụ thể của Bàn Tròn Ba Lan là âm u và không rõ. Không ai đã hoàn toàn chắc chắn liệu và các thỏa thuận nào được thi hành – bởi chế độ hay bởi Đoàn kết. Cũng đã chẳng rõ về liệu mỗi bên chính đã có đủ mạnh để “kiểm soát” các yếu tố bất đồng chính kiến bên trong hay ngoài hàng ngũ riêng của họ. Mặt khác là rõ, rằng đã có sự chuyển đổi ở Ba Lan sang một chế độ dân chủ ít nhiều ổn định hơn, các các yếu tố của sự mở cửa và tăng trưởng kinh tế. Đã có những thay đổi được dàn xếp, thậm chí những chuyển đổi lớn, nhưng đã không hoàn toàn là một cuộc cách mạng.
Thử thách của bất kỳ cuộc đàm phán hay quá trình thay đổi nào là ở hành động thực hiện xảy ra tiếp sau, chứ không phải trong cuộc thương lượng (hay thậm chí trong các thỏa thuận thành văn của nó). Tài liệu về nhiều hình thức của “công lý không chính thức,” và thậm chí “công lý chính thức” (tức là, được quyết định bởi các tòa án), đầy rẫy các thí dụ về các thỏa thuận đạt được và không được thi hành. Các nhà hoạt động da đen Hoa Kỳ như Wilcox[22] cung cấp các thí dụ về các cuộc đàm phán về trường học cộng đồng và các quyền dân sự khác mà đã bị vi phạm hay bị phá hoại ngay lập tức sau khi chúng được ký kết hoặc đã bị phủ quyết bởi các chính quyền cao hơn bên ngoài các cuộc đàm phán. Có tranh luận vẫn tiếp tục tại Đại học Michigan về liệu Đại học đã có bao giờ thực hiện các điều kiện mà đã được thương lượng một cách rõ ràng như một phần của sự chấm dứt đình công của Phong trào Hành động Đen (Black Action Movement) trong đầu các năm 1970 về các mục tiêu tuyển sinh người da Đen và người thiểu số khác (và cuộc tranh luận này đã là một phần của sự kích động cho các cuộc biểu tình, các cuộc phản đối, hoạt động phản-phản đối và sự không tin cậy chung). Và ngay cả các quyết định của tòa án liên bang Hoa Kỳ về sự xóa bỏ nạn phân biệt chủng tộc trong trường học, chẳng hạn (được cho là được ủng hộ bởi quyền lực chính thức của luật và nhà nước), thường đã chẳng bao giờ được thực hiện.[23] Chúng ta có thể dễ dàng nhân các thí dụ về hiện tượng này lên và rồi hỏi một cách hợp lý, các điều kiện nào (đối với Bàn Tròn hay bất kỳ quá trình khác nào) là các điều kiện mà tối đa hóa khả năng (likelihood) thi hành các thỏa thuận đã ký.
Nhiều nhà nghiên cứu đã thử nêu ra các điều kiện mà dưới đó các thỏa thuận được thương lượng có lẽ có khả năng nhất để được thực hiện …và được thi hành.[24] Fisher và Ury nhấn mạnh tầm quan trọng của “những cam kết thực tế,” và Susskind và Cruikshank cũng nhấn mạnh tiêu chuẩn khả thi: “Những người tham gia…phải không được tiến hành một giao dịch thỏa thuận mà họ không có khả năng thực thi.”[25] Susskind và Cruikshank cũng gợi ý rằng một quá trình giám sát được thiết lập để xác nhận các quá trình thực thi, và rằng một thỏa thuận phải chứa một điều khoản cho việc xem xét lại và khả năng đàm phán lại. Vấn đề ở đây không chỉ là liệu các bên của một sự giải quyết được thương lượng đã hay sẽ hành động theo thiện ý hay không: một thỏa thuận không được thi hành và thất bại sẽ nhóm lại ngọn lửa bất mãn và ngờ vực, làm cho các thỏa thuận tương lai và sự ổn định của hệ thống còn ít có khả năng hơn.
Hệt như đã có những thay đổi lớn ở Ba Lan kể từ Bàn Tròn, cũng đã có những giới hạn đối với những kết quả vật chất và tượng trưng đã hy vọng có được; như Kaczyński lưu ý, vẫn còn nhiều công việc chính trị và kinh tế cần phải làm. Nền kinh tế vật lộn, và Janowski cho rằng Đoàn kết đã bỏ qua cộng đồng nông thôn (và các nông dân) và đã kiêu kỳ và ngạo mạn đối với họ. Và như Michnik kết luận, “Đó là thời điểm tốt để nhớ về những người đã mất, những người thất nghiệp và vô gia cư, những người nghèo và bị chôn vùi trong sự thờ ơ, những người không tham gia vào các cuộc bầu cử, những người tổ chức các cuộc đình công và phong tỏa đường, không chắc chắn về ngày sắp tới… Số phận của họ phải là mối quan tâm của tất cả chúng ta, từ tất cả các phe phái chính trị.”[26]
Thêm vào (hặc có lẽ dưới và sau) thảo luận này về những thay đổi nào đã thực sự xảy ra trong xã hội Ba Lan trong mười năm qua, là câu hỏi liệu bản thân Bàn Tròn có chịu trách nhiệm về bất kỳ của những thay đổi này hay không. Chúng sẽ đã xảy ra dẫu sao đi nữa? Bàn Tròn đã có cần thiết? Chrzanowski gợi ý rằng nếu giả như đã không có Bàn Tròn thì đã vẫn có thay đổi lớn thuộc loại giải phóng và dân chủ hóa. Theo quan điểm của ông Bàn Tròn đã ảnh hưởng đến cách thay đổi quyền lực (hòa bình và hòa giải hơn là dữ dội và trừng trị) hơn là sự thực về bản thân sự thay đổi. Davis, giữa những người khác, cho rằng hệ thống đã đang sụp đổ dẫu sao đi nữa. Tuy vậy, Ciosek đã phản lại, cho rằng hệ thống Ba Lan đã không tự sụp đổ và đã cần đến Bàn Tròn để đưa ra một thỏa hiệp tốt. Theo quan điểm của ông phương pháp của Đoàn kết đến tương lai đã không rõ ràng và tuy chế độ đã biết sự thay đổi là cần thiết nhưng nó đã không biết làm cách nào để khiến cho nó xảy ra. Và Michnik cũng nghi ngờ liệu chế độ có tự đổ hay không, mà không có sự giúp đỡ của Bàn Tròn.
Một Lưu ý Phương pháp luận và Chiến lược về Ký ức và Huyền thoại
Việc tạo ra các câu chuyện và các huyền thoại về Bàn Tròn Ba Lan là một cách khác nữa để “kể chuyện lịch sử” và “tranh luận việc kể chuyện lịch sử.” Vì hồ sơ lịch sử là một nguồn mà được diễn giải, diễn giải sai và được dùng trong các cuộc đấu tranh xã hội, chúng ta có thể kỳ vọng rằng kỷ yếu hội thảo[27], cũng, sẽ được tranh cãi. Bản thân nó là một câu chuyện, một câu chuyện được tranh giành và được sử dụng trong các cuộc chiến đấu tiếp tục. Hơn nữa, trong phân tích này và những phân tích khác chúng ta làm việc từ ký ức mà được cụ thể hóa trong các tài liệu và trong việc người dân kể lại các câu chuyện của họ. Ký ức có thể là sai. Ký ức có tính chất đảng  phái. Ký ức làm cho nó hiển nhiên rằng cuộc đấu tranh (cả vật chất và tượng trưng) vẫn còn. Ký ức và sự tạo huyền thoại là các nguồn lực mà được dùng một cách chiến thuật (đôi khi chủ ý và đôi khi không chủ ý) trong các cuộc đấu tranh xã hội cơ bản và đang xảy ra mà trong đó các cuộc đàm phán là một yếu tố nhất thời.
Chúng ta thấy một số tranh luận tiếp tục về Bàn Tròn được phản ánh trong những nhận xét mở đầu của Michnik về sự muốn để thách thức/tránh các huyền thoại về, “về lòng nhân từ của các lãnh đạo đảng (Cộng sản)… (và) âm mưu của bọn đỏ với bọn hồng.”[28]  Hall nhận diện cùng những huyền thoại theo ngôn ngữ hơi khác, được bày tỏ như liên quan tới, “truyền thuyết đen mà mô tả Bàn Tròn như một sự phản bội …(và) rằng cả hai bên, Đoàn kết và chính phủ, được trình bày như đã quan tâm ngang nhau đến nhu cầu biến đổi Ba Lan.”[29] Nhiều người tham gia của Đoàn kết bình luận về các vấn đề này, thường không đồng ý về lòng nhân từ, thiện ý và sự tham gia tự nguyện của Đảng Cộng sản vào Bàn Tròn. Các bình luận cũng được đưa ra bởi một số thành viên Đoàn kết liên quan đến những lo ngại của họ về sự cộng tác của chính bên họ với chế độ (“sự gặp gỡ của bọn đỏ và bọn hồng”).
Các huyền thoại, mà những người tham gia trong một cuộc đấu tranh thử ngăn ngừa, cắt bớt hay chỉnh sửa, biểu thị cuộc đấu tranh tiếp tục trên những vấn đề cơ bản và những nhận thức được miêu tả trong kỷ yếu hội thảo và bị rủi ro trong kinh nghiệm Ba Lan. Như Hall lưu ý, trong khi tôn trọng và thừa nhận một số ứng xử tích cực của các đại diện của chính phủ, “chúng ta không thể tạo ra ấn tượng rằng những khác biệt cơ bản này đã được làm mờ đi và thiết quân luật, với các nạn nhân của nó, và toàn bộ bảng cân đối của nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan đã bị lãng quên.”[30] Có vẻ có ít nguy hiểm về việc đó xảy ra, căn cứ vào bản chất của các quan điểm được bày tỏ tại hội thảo (không chỉ từ sân khấu mà thường từ khán phòng), nhưng ý kiến rằng hòa bình và thiện ý ngự trị hay đã ngự trị đã có thể không nghi ngờ gì thừa nhận sức mạnh huyền thoại trong tâm trí của một số người (đặc biệt khi thiếu những tiếng nói ngược lại rõ ràng).
Một yếu tố huyền thoại nữa liên quan đến vị trí của Bàn Tròn trong lịch sử của những chuyển đổi được thương lượng trong khối cộng sản. Ciosek cho rằng Ba Lan (tức là, Bàn Tròn), “đã đi trước các sự kiện bên ngoài” (thí dụ perestroika) và “đã có một tác động thực sự và rất rõ rệt lên diễn tiến của các sự kiện ở Liên Xô,”[31] cũng như trong các nhà nước khác trước kia của Liên Xô. Mặt khác, những người khác cho rằng chính sự yếu, sự sụp đổ sắp xảy ra, hay sự tự do hóa của Liên Xô mà đã mở đường cho Bàn Tròn.
Ciosek đặt một khuôn phương pháp luận lên vấn đề về các huyền thoại, gợi ý rằng việc kể lại câu chuyện Bàn Tròn là có vấn đề trừ khi người ta nhấn mạnh, như hội thảo này đã nhấn mạnh, lời chứng của các nhân chứng (trực tiếp) đối lại các tư liệu (mà đã được tạo ra vì các lý do chính trị), mà không phản ánh, “những cuộc trao đổi phi chính thức …nơi cuộc đấu tranh thực đã diễn ra.”[32] Nhưng người ta cũng phải nêu câu hỏi về tính khách quan và tính tư lợi của các nhân chứng tại hội thảo, vì họ có thể đã tiếp tục thử biện minh cho vai trò của riêng họ và của nhóm cử tri của họ trong những hồi tưởng này.
Cho nên ai nói “sự thật” liên quan đến một số tranh luận này hoặc những nhận thức và ký ức bất đồng? Và, rốt cuộc, có ý nghĩa không?
Một số Khả năng Quan trọng cho So sánh
Nhiều tình huống xung đột hơi giống nhau, các quá trình giải quyết xung đột, và các cuộc đàm phán có thể được khảo sát để cung cấp một cơ sở so sánh cho những quan sát này và quan sát khác. Một tập hợp hiển nhiên của những sự so sánh có thể xảy ra với những tình huống khác mà trong đó các cường quốc thực dân hay chiếm đóng (hoặc cái mà một số bên có thể coi là như vậy) đã dẫn đến một thái độ thương lượng – một phần hay toàn bộ. Các thí dụ có thể bao gồm các cuộc đàm phán Israeli-Palestin; chính phủ Hoa Kỳ và các bộ lạc Indian Mỹ Bản xứ và tương tự, các cuộc đàm phán của chính phủ Canada với người dân Bản xứ; trường hợp Nam Phi; kháng chiến trong thời chiến hay những sự chiếm đóng sau chiến tranh ở châu Âu và châu Á; Bắc Ireland; và một số Truth Commission (Ủy ban Sự thật). Trong tất cả các trường hợp này, chúng ta muốn biết về các hình mẫu của sự phân bổ nguồn lực (kể cả tính xác đáng và quyền lực) trong xã hội và giữa các bên, các sự kiện dẫn đến và từ các cuộc đàm phán, các quá trình và cấu trúc của các cuộc đàm phán, và sự tin cậy đủ đã phát triển ra sao nhằm cho phép loại nào đó của các cuộc đàm phán (thành công hoặc không) để xảy ra sau đó.
Một cơ sở so sánh hữu ích khác có thể là những cuộc nổi dậy của dân thường chống lại các chế độ chuyên quyền bản xứ mà đã dẫn đến loại đàm phán nào đó. Các thí dụ có thể bao gồm quá trình có được các cuộc bầu cử ở Nicaragua (với Sandanistas), những cố gắng giữa các địa phương Hoa Kỳ hay các công ty với các phong trào da Đen hay Latino/phản đối (hoặc những phong trào tương tự Latino và Á-Mỹ gần đây), các Ủy ban Sự thật bản xứ ở Guatemala, Ethiopia, vân vân.
Một cơ sở so sánh thứ ba, nhưng là cơ sở mà cung cấp những sự tương phản chính về tính thù địch (ít mạnh mẽ hơn Ba Lan và các trường hợp trên rất nhiều) và về phần lịch sử và cấu trúc được thiết lập của các quá trình đàm phán (khinh nghiệm hơn Ba Lan và các trường hợp trên rất nhiều) có thể bao gồm tranh chấp nóng bỏng giữa các tổ chức vận động (activist organization) và các bên công ty/chính phủ trên đấu trường môi trường, các trường hợp cá biệt trong các tranh chấp nghiệp đoàn-quản lý/chính phủ (kể cả các cuộc bố ráp và đàn áp cảnh sát/quân đội) ở Hoa Kỳ (và các quốc gia khác), và cộng đồng địa phương huy động những nỗ lực mà kết thúc trong loại nào đó của quá trình “công lý phi chính thức.” Trong các lĩnh vực này, có rất nhiều tài liệu sẵn có về các quá trình cân bằng sức mạnh nội bộ, hòa giải, chiến thuật thương lượng, đại diện cử tri, vân vân.[33] Có ít tài liệu và/hoặc thỏa thuận hơn nhiều về vai trò của các cuộc đàm phán để đạt được sự thay đổi hệ thống, giảm những sự thiếu cân bằng sức mạnh xã hội và sự bất bình đẳng nguồn lực, và giảm bất công.
Thảo luận các Câu hỏi cho việc Sử dụng ở Lớp học
Những câu hỏi này có thể được áp dụng cho tình huống Ba Lan và Bàn Tròn (qua kỷ yếu hội thảo hay qua việc sử dụng các nguồn sơ cấp/thứ cấp khác). Chúng cũng có thể được áp dụng cho các tình huống xung đột khác và các đấu trường giải quyết hay thương lượng khác, qua phân tích tư liệu hay quan sát trực tiếp các sự kiện đương thời. Xem xét việc dẫn chiếu đến đoạn về những so sánh và áp dụng các câu hỏi này vào những xung đột mức nhà nước chủ yếu khác hay vào những nghiên cứu tình huống hiện diện trong các tài liệu tham khảo.[34]
I. Người ta phân tích thế nào những gốc rễ và diễn tiến của một xung đột xã hội?
Sự phân tích như vậy có thể giúp tập trung sự chú ý vào “các lợi ích” thường không được nói rõ mà nằm dưới “các lập trường” thương lượng được tuyên bố, các ý thức hệ và thuật hùng biện. Nó cũng có thể giúp nhận diện các lựa chọn khả dĩ cho sự can thiệp và/hoặc giải quyết. Hãy xem xét việc sử dụng “hướng dẫn vẽ bản đồ xung đột”[35] của Wehr để nhận diện các điểm đặc trưng quan trọng của một xung đột.
+Lịch sử xung đột
+Bối cảnh xung đột
Quy mô và đặc điểm
Khung cảnh (địa lý, chính trị)
+Các bên xung đột
Chính (tiền cược trực tiếp và bị tác động cao)
Thứ nhì (tiền cược gián tiếp và bị tác động tối thiểu)
Các bên thứ ba liên quan
+Các Vấn đề Bất đồng
Dựa trên-Sự kiện (“cái gì”)
Dựa trên-Giá trị (“nên là cái gì”)
Dựa trên-Lợi ích (“ai sẽ được cái gì”)
Không-thực tế (“phong cách cá nhân và chất lượng của tương tác/giao tiếp”)
+Động học Xung đột
Các sự kiện thúc giục
Các vấn đề nổi lên, biến đổi, nảy nở
Phân cực (tăng cường độ và bất đồng)
Chuyển động xoắn ốc (tăng hay giảm về sự thù địch hay thiệt hại)
Tạo khuôn mẫu định kiến (Stereotyping) và tạo hình phản chiếu
+Các Con đường Thay thế Khả dĩ đối với (các) Giải pháp của (các) Vấn đề
+Khả năng Điều tiết Xung đột
Các nhân tố hạn chế bên trong (các lợi ích, giá trị, mối quan hệ chung)
Các nhân tố hạn chế bên ngoài (quyền lực cao hơn mà có thể can thiệp)
Các bên thứ ba liên quan hay trung lập
Những kỹ thuật quản lý xung đột (sử dụng tri thức/kinh nghiệm)
A. Áp dụng bản đồ này vào tình huống Ba Lan và Bàn Tròn.
B. Áp dụng nó vào xung đột xã hội khác ở mức khác của hoạt động hệ thống xã hội.
C. Một số định nghĩa thay thế của công lý xã hội là gì?
D. Dưới các điều kiện nào các quan niệm về công lý là có thể thương lượng được?
E. Cái gì là “không thể thương lượng được” trong cuộc sống của bạn? Trong lớp học này? Trong nhóm đồng nhất của bạn?
II. Khi nào đàm phán là một chiến lược thích hợp cho việc giải quyết những bất đồng hay những xung đột nặng và kéo dài và những sự đe dọa đi kèm của bạo lực gia tăng?
Đây là một trong những câu hỏi chính được nêu lên suốt kinh nghiệm Bàn Tròn Ba Lan. Hãy xem xét tình huống Ba Lan, hay tình huống đàm phán khác, bằng cách tập trung vào các vấn đề như:
A. Những mục tiêu của đàm phán là gì trong một tình huống xung đột cá biệt (công lý/sự thật, quyền tự do tăng lên và dân chủ, tư lợi vật chất, lợi ích của toàn thể, giảm xung đột và “nhiễu”)?
B. Vì sao và làm thế nào những người tham gia chọn giữa các chiến lược thay đổi xã hội thay thế khả dĩ như: đấu tranh vũ trang, phản đối và biểu tình, sử dụng lực lượng cảnh sát chính thức, tổ chức cục bộ, vận động để ảnh hưởng đến luật pháp hoặc quy chế, những kiến nghị hoặc lời kêu gọi tới các elite, các cuộc bầu cử, nói xấu và phi pháp hóa thông qua truyền thông, vân vân?
C. Có sự cân bằng sức mạnh tương đối giữa các bên tranh đua? Các hình thức sức mạnh mà được sử dụng hay đã có sẵn để sử dụng trong tình huống xung đột cá biệt là những gì: số người, vũ khí, thế thượng phong về đạo đức, sự ủng hộ của công chúng, sự ủng hộ bên ngoài, tính chính đáng của chế độ, vân vân?
D. Làm thế nào và ở mức độ nào một sự cân bằng sức mạnh tương đối được tạo ra bên trong đấu trường thương lượng …tại bàn đàm phán? (Các) cơ sở của sức mạnh/tính dễ bị tổn thương tương đối như ậy là những gì?
E. Những chiến thuật nào được dùng để huy động và tổ chức nhóm thách thức? Để ủng hộ quyền lực đã được thiết lập và nhóm cử tri chi phối của nó?
F. Độc lực quyền lực bên trong liên minh cầm quyền và bên trong phong trào thách thức (chính phủ và Đoàn kết trong tình huống Ba Lan) là những gì?
G. Các chiến lược can dự/leo thang/xuống thang/giải quyết xung đột nào là hữu ích dưới các điều kiện chung nào? Những gì được dùng trong xung đột cá biệt được chọn cho phân tích? Khi nào, tại giai đoạn nào của một xung đột, chúng là hữu ích (nhất)?
H. Những chiến thuật nào mà các bên lưỡng lự hay chống cự đưa đến bàn đàm phán? Những chiến thuật như vậy thay đổi theo thời gian thế nào và vì sao?
I. Những ảnh hưởng của các cuộc đàm phán lên động học bên trong của các bên tranh đua/cộng tác và các mối quan hệ của họ với các nhóm cử tri của họ là những gì?
III. Phải làm thế nào cho đàm phán tiến triển? Nó tiến triển thế nào?
A. Ở mức độ nào là quan trọng rằng các bên đàm phán thừa nhận thiện ý hay lợi ích của nhau trong “lợi ích chung”? Bằng chứng (hay các tín hiệu) ứng xử về thiện ý hay cam kết của mỗi bên cho lợi ích của toàn thể là gì?
B. Các tiểu chiến thuật nào có thể được dùng tại bàn đàm phán để giảm hay để kiểm soát những sự chênh lệch về sức mạnh xã hội/kinh tế/chính trị/cưỡng bức giữa các bên?
C. Người ta chuyển thế nào từ tình trạng thù địch sang các đối thủ được tôn trọng (nhưng không nhất thiết được mến mộ hay tin cậy hoàn toàn) …hay thậm chí sang thành những người cộng tác (tạm thời)? Có quan trọng để làm việc đó?
D. Những sự khác biệt giữa mặc cả cạnh tranh đối lại mặc cả hợp nhất là gì? Bạn có thể cung cấp những thí dụ từ những nghiên cứu tình huống trong tài liệu hay từ thực tiễn chung?
E. Các đại diện đàm phán giữ mối liên hệ với, và được tin cậy bởi, các nhóm cử tri của họ thế nào? Họ giao thiệp thế nào với các đồng minh tiềm năng khác ngoài tình huống đàm phán?
F. Các nhà đàm phán quản lý thế nào nỗi đau (thân thể và xúc cảm) cá nhân của việc giao thiệp với các kẻ thù trước kia? Với việc bị bạn bè và đồng minh gán cho nhãn kẻ phản bội, kẻ phụ bạc, “Bác Tom,” “[củ] chuối,” “tên Do thái tự ghét mình,” “kẻ phản đảng,” vân vân (bạn thêm vào các nhãn riêng của bạn và các tên gọi có ý nghĩa (epithet) từ các tình huống xung đột bạn đã biết hay đã là một phần)?
IV. Các nhà trung gian, các trọng tài hay những người triệu tập hữu hảo và các nhà môi giới trung thực đóng những vai trò gì? Khi nào họ đặc biệt có khả năng là có ích và giúp ích?
A. Có một bên thứ ba tại Bàn Tròn Ba Lan? Vì sao và vì sao không?
B. Có thể coi bản thân Bàn Tròn Ba Lan là một bên thứ ba? Một NGO? Một P/CRO?
C. Những sự khác biệt cốt yếu giữa mặc cả/đàm phán, hòa giải và các quá trình bên thứ ba là những gì?
D. Hãy xem xét các vai trò của các Tổng thống Hoa Kỳ Carter, Reagan và Clinton trong việc bảo trợ cho các cuộc gặp gỡ và đàm phán giữa các bên của các cuộc xung đột Trung Đông và cái gì xảy ra khi các bên này gặp nhau mà không có sự bảo trợ như vậy. Thảo luận các thí dụ khác về sự ủng hộ, sự hiện diện hay sự can thiệp của Hoa Kỳ trong những tranh chấp quốc gia-quốc tế.
E. Tính trung lập của bên thứ ba quan trọng thế nào (có khả năng hay có nên khi dính líu đến các vấn đề công lý)? Sự khác biệt giữa “tính trung lập vấn đề” và “tính trung lập quá trình” là gì? Khi thiếu tính trung lập cái gì làm cho một người triệu tập có thể tin cậy được và có kết quả?
F. Một bên thứ ba có luôn luôn cần thiết để giải quyết một xung đột leo thang? Vì sao hay vì sao không?
V. Người ta (học để)đàm phán và làm việc hay hành động thế nào với các kẻ thù và các đối thủ, hay thậm chí những người lạ từ những vị trí/bản sắc xã hội rất khác nhau? Ở đây chúng ta cũng có thể học từ những cố gắng để tạo ra những đối thoại giữa các nhóm (trong các đại học và các cộng đồng) mà tập trung vào việc tạo ra sự hiểu như một điều kiện tiên quyết thiết yếu cho việc kiến tạo hòa bình.
A. Người ta có thể “gạt bỏ” các stereotype nhóm và những định kiến thế nào?
B. Những người tham gia trong các xung đột xã hội có thể được giúp đỡ thế nào để hiểu rõ “bên kia” và làm thế nào họ có thể đi đến nhìn nhận bên kia một cách khác đi.
C. Làm sao những người không tin nhau về mặt cá nhân hay chính trị có thể tìm được cách để làm việc cùng nhau – trong các tình huống thương lượng hay ở nơi làm việc?
VI. Những bước nào trước để chuẩn bị, trong, hoặc sau các cuộc đàm phán có thể giúp bảo đảm rằng các thỏa thuận được ký sẽ được làm theo, thi hành và thực hiện?
A. Một thỏa thuận chính thức được ký có là cần thiết (thí dụ, một loạt các cú bắt tay sẽ có đủ)?
B. Có những thí dụ nào về các quá trình giám sát chính thức sau đàm phán?
C. Có các điều khoản nào cho việc xem xét lại hay bổ sung các thỏa thuận?
D. Các lực lượng nào trong môi trường chính trị trực tiếp có thể tạo thành những sự kiểm soát giám sát quá trình thực thi?
E. Có quan trọng đối với công chúng để biết về các thỏa thuận? Việc đó có thể xảy ra như thế nào?
VII. Liên quan đến các phương pháp khoa học xã hội…
Chúng ta có thể sử dụng văn bản này liên quan đến Bàn Tròn Ba Lan và lịch sử Ba Lan để thảo luận một loạt các câu hỏi phương pháp luận chung.
A. Bạn đánh giá thế nào tính chính xác so sánh và tính hữu dụng của việc sử dụng các tư liệu lưu trữ, những lịch sử truyền miệng, ký ức của người tham gia và “sự phê chuẩn thành viên” của những kết luận của các nhà quan sát để đi đến một sự hiểu một tình huống tranh chấp và lôi thôi?
B. Nhận diện các thí dụ khác về “các huyền thoại” (hay những câu chuyện riêng lạ thường) mà đã được dùng như một phần của các cuộc đấu tranh phong trào xã hội và những phải ứng lại chính thức với những cuộc đấu tranh này.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
[1] Rubin, Pruitt and Kim, 197.
[2] G. Cormick, “Intervention and Self-determination in Environmental Disputes: A Mediator’s Perspective,” Resolve(Winter 1982): 1-7; J. Forester and D. Stitzel, “Beyond Neutrality: The Possibilities of Activist Mediation in Public Sector Conflicts,” Negotiation Journal 5(3) (1989): 251-263; J. Laue and G. Cormick, “The Ethics of Intervention in Community Disputes,” in G. Bermant, H. Kelman and D. Warwick, eds.,The Ethics of Social Intervention (Washington, DC: Halstead Press, 1978); C. Moore, The Mediation Process: Practical Strategies for Managing Conflict (San Francisco: Jossey-Bass, 1996).
[3] Communism’s Negotiated Collapse, 53.
[4] Ibid., 173.
[5] B. Gidron, S. Katz, M. Meyer, Y. Hasenfeld, R. Schwartz, and J. Crane, “Peace and Conflict Resolution Organizations in Three Protracted Conflicts: Structures, Resources and Ideology,” Voluntas: International Journal of Voluntary and Non-Profit Organizations 10(4) (1999): 275-98.
[6] M. Chesler and J. Crowfoot, “The Concept of the ‘Enemy’”: Reflections on the Strategic Use of Language, in V. Suransky, et al., eds., Paulo Freire in Ann Arbor (Ann Arbor: University of Michigan School of Education. 1981).
[7] Communism’s Negotiated Collapse, 9.
[8] Ibid., 233.
[9] Ibid., 171.
[10] Ibid., 37.
[11] Ibid., 114.
[12] Ibid., 164.
[13] Ibid., 64.
[14] Ibid., 96.
[15] Ibid., 177.
[16] Ibid., 140.
[17] Ibid., 175.
[18] “The Image of the Enemy: US Views of the Soviet Union,” Journal of Social Issues 45(2) (1989). Toàn bộ số đặc biệt.
[19] Xem Ciosek, Communism’s Negotiated Collapse, 173-74.
[20] Communism’s Negotiated Collapse, 234.
[21] Ibid., 175.
[22] P. Wilcox, “To Negotiate or Not to Negotiate: Toward a Definition of a Black Position,” in W. Chalmers and G. Cormick, eds., Racial Conflict and Negotiations (Ann Arbor: University of Michigan and Wayne State University, 1971).
[23] C. Bullock and C. Lamb, eds., Implementation of Civil Rights Policy (Monterey: Brooks/Cole, 1984); M. Chesler, J. Sanders, and D. Kalmuss, Social Science in Court: Mobilizing Experts in the School Desegregation Cases (Madison: University of Wisconsin Press, 1988).
[24] M. Galanter, “Why the ‘Haves’ Come Out Ahead: Speculations on the Limits of Legal Change,” Law and Society Review 9 (1974): 95-160.
[25] Susskind and Cruikshank, 31.
[26] Communism’s Negotiated Collapse, 235.
[27] I.e., Communism’s Negotiated Collapse.
[28] Communism’s Negotiated Collapse, 10.
[29] Ibid., 107.
[30] Ibid., 117.
[31] Ibid., 42-43.
[32] Ibid., 40.
[33] J. Crowfoot and J. Wondelleck, eds., Environmental Disputes: Community Involvement in Conflict Resolution (Washington: Island Press, 1990); Lewicki and Litterer; L. Nader and H. Todd, eds., The Disputing Process: Law in Ten Societies (New York: Columbia University Press, 1978); Susskind and Cruikshank; Wehr.
[34] Xem đặc biệt Crowfoot and Wondelleck; Gidron, et al.; Lewicki and Litterer; Moore; Rubin, et al.; Susskind and Cruikshank; and Wehr.
[35] Wehr, 19-22.

Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:39
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_23.html
=======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 22 – Kỳ cuối)




Dịch giả: Nguyễn Quang A

Lùi lại: Xung quanh Bàn Tròn
Gay W. Seidman
Khi chúng ta chuyển vào thế kỷ thứ hai mươi mốt, đôi khi thật khó để nhớ Chiến tranh Lạnh đã chi phối đến thế nào những sự tưởng tượng chính trị của chúng ta trong hầu hết năm mươi năm qua. Từ 1945 đến 1989, ít nhà hoạch định chính sách quanh thế giới đã có thể coi là nghiêm túc sự gợi ý rằng chế độ cộng sản Đông Âu sắp sụp đổ, hoặc rằng Liên Xô sẽ mau chóng tan rã. Bên trong các thảo luận Bàn Tròn, như chúng ta thấy từ những bình luận của những người tham gia hội thảo Michigan, những người tham gia ở cả hai phía đã đánh giá quá cao sức mạnh của chính phủ Ba Lan: trong khi những người tham gia từ chính phủ hiển nhiên đã nghĩ họ tạo ra một cơ sở hợp pháp hơn cho sự tiếp tục kiểm soát, các thành viên đối lập Ba Lan đã nghĩ họ dùng thủ đoạn cho không gian chính trị. Nhưng tại các cuộc bầu cử đầu tiên, chính phủ đã phát hiện nó đã mất hết sự kiểm soát, trong khi phe đối lập đã phát hiện ra bằng cách nào đó nó đã giành được quyền lực. Làm thế nào mà tất cả họ đã có thể sai lầm đến vậy?

Như bây giờ chúng ta biết, Bàn Tròn đã đồng thời là một điềm báo về, và một tình tiết quan trọng trong, sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh. Nhưng lúc đó, đã chẳng ai có thể thực sự hiểu rằng một cuộc chiến tranh, mà đã trôi qua lâu đến mức không ai đã nghi ngờ các động lực cơ bản của nó, đã qua rồi. Thực vậy, các nhà phân tích chính sách quốc tế có lẽ đã cần thời gian dài để hấp thu cú sốc trí tuệ khi Liên Xô bắt đầu tan rã, nhưng vào đầu các năm 1990, họ đã phải chấp nhận một tầm nhìn mới: trong hình dung chính trị toàn cầu của chúng ta, thế giới đã không còn bị chia giữa hai siêu cường nữa, mỗi siêu cường muốn can thiệp trong các vùng mà họ coi như khu vực ảnh hưởng của họ. Trong khi bước đi của Ba Lan đến sự tự quyết đã đánh dấu một thời điểm quan trọng, đã hầu như không phải là bước đi duy nhất; Bàn Tròn đã đánh dấu một thời đại mới, nhưng đã không khởi xướng ra nó, cũng đã chẳng xác định nó. Khi một thực tế chính trị mới đã nắm chặt, những khả năng chính trị mới đã mở ra ở mọi nơi. Từ Việt Nam đến Nam Phi, Ethiopia đến Chile, Albania đến Yemen, các đồng minh cũ đã sụp đổ, các ranh giới cũ của xung đột đã bị nhòe đi, các đường đứt gãy mới đã tự bộc lộ. Vào đầu các năm 1990, “toàn cầu hóa” và sự nhấn mạnh mới đến các quá trình bầu cử đã làm giảm dải các lựa chọn sẵn có cho các chính phủ: từ Nicaragua, nơi chính phủ cánh tả trước kia đã từ bỏ quyền lực thông qua các cuộc bầu cử, đến El Salvador, nơi các lực lượng bán quân sự cánh hữu đã chấp nhận một sự hòa giải được thương lượng với các cựu du kích, đồng thuận đã được tạo khung bởi hai giả thiết cơ bản.[1] Thứ nhất, tất cả các bên đã bắt đầu chấp nhận như một điểm khởi đầu rằng họ sẽ sống bên trong các ràng buộc của các chiến lược kinh tế tân-tự do; vào cuối các năm 1980, thành ngữ nổi tiếng, “There is no alternative – không có lựa chọn thay thế khác,” đã trở thành một thực tế ý thức hệ. Thứ hai, tất cả các bên của các cuộc đàm phán đã bắt đầu chấp nhận định nghĩa của “dân chủ” như là các cuộc bầu cử; các nhóm chính trị mà đã từ chối các quá trình bầu cử đã tự thấy mình bị cô lập trên sân khấu quốc tế, và ngày càng mất sự ủng hộ ở trong nước.
Trong những bình luận này, tôi muốn lùi lại từ bàn đàm phán, để nhìn vào bối cảnh toàn cầu rộng hơn mà trong đó các cuộc đàm phán Bàn Tròn đã xảy ra, vào các quá trình chung mà đã mở ra các cuộc thảo luận, các biên giới và các nền kinh tế suốt các năm 1980 và đầu các năm 1990. Sau khi xem xét ngắn gọn những cách tiếp cận khác nhau trong tài liệu về “những chuyển đổi dân chủ” – bắt đầu với Tây Âu và Mỹ Latin, và rồi chuyển tiếp sang Đông Âu, Nam Phi và những nơi khác – tôi muốn thảo luận một số thay đổi toàn cầu mà đã tạo ra một bầu không khí mà trong đó những sự chuyển đổi được thương lượng đã bắt đầu có vẻ có thể. Trên hết, tôi muốn khẳng định rằng chúng ta không thể hiểu bất kỳ trường hợp chuyển đổi đơn nhất nào vào lúc kết thúc Chiến tranh Lạnh một cách cô lập: đã có quá nhiều thay đổi đầy kịch tính, trong quá nhiều phần của thế giới, để xem Bàn Tròn như hoàn toàn là sản phẩm của một sự cân bằng sức mạnh cục bộ, hoặc thậm chí, sản phẩm của các chiến lược của các tác nhân địa phương. Như những người tham gia hội thảo Michigan đã thừa nhận lặp đi lặp lại, các nhân tố bên ngoài đã đóng một vai trò to lớn trong việc thúc đẩy những người Ba Lan đến bàn đàm phán: những sự trừng phạt quốc tế, áp lực chính trị Mỹ, các chính sách thay đổi bên trong Liên Xô, một cảm giác thúc bách từ mọi phía rằng các cuộc cải cách kinh tế đã là không thể tránh khỏi, tất cả đã đều được nhắc đến trong kỷ yếu hội thảo. Ở mức độ nào các áp lực bên ngoài này là đặc thù đối với Ba Lan, và ở mức độ nào các động lực hai cực của Chiến tranh Lạnh đã dọn đường rồi cho các lực lượng mới, khiêu khích sự thay đổi chính trị và kinh tế khắp địa cầu, vào cuối các năm 1980?
Những sự Chuyển đổi Dân chủ
Khi những người Ba Lan tham gia hội thảo Michigan phản ánh kinh nghiệm của họ tại Bàn Tròn, các động lực bên trong của Ba Lan trong năm 1989 nổi bật lên một cách rõ ràng trong tâm trí của họ; nhưng các áp lực bên ngoài, từ mối đe dọa đã giảm đi của sự xâm chiếm Soviet đến tác động của những trừng phạt kinh tế từ phương Tây, đứng làm một cái phông rõ rệt cho các sự kiện địa phương mà họ mô tả. Loại này của sự chuyển dịch – xa khỏi sự tập trung hoàn toàn vào các chiến lược đã mang lại các bàn đàm phán địa phương bởi các cá nhân, hay thậm chí các đại diện phong trào xã hội, để xem xét tác động của bối cảnh toàn cầu mà trong đó các cuộc đàm phán đã nổ ra vào cuối các năm 1980 và đầu các năm 1990 – giống với một sự chuyển dịch trong những thảo luận lý thuyết và cái thường được gọi là “dân chủ hóa”, hay “những sự chuyển đổi dân chủ” suốt các năm 1990. Vào giữa các năm 1980, nhiều trí thức, đặc biệt ở Mỹ Latin, đã thấy mình đối mặt với một hiện tượng mới gây sốc: sau khoảng mười lăm năm giải thích sự phổ biến của sự cai trị độc đoán ở Mỹ Latin,[2] họ thay vào đó thấy mình đang thử giải thích một loạt sự chuyển đổi đột ngột sang dân chủ. Đầu tiên ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, rồi ở Argentina, Brazil, Uruguay và cuối cùng ngay cả Chile, các chính phủ quân sự đã bắt đầu thương lượng con đường của họ quay lại trại lính.
Những sự chuyển đổi này đã thường chậm và được kiểm soát, khi các chính phủ độc đoán đã từ từ cho phép những thay đổi về các quy tắc mà đã cho phép những kết quả bất ngờ – thay cho các quá trình bầu cử được kiểm soát nghiêm ngặt mà đặc trưng cho các chế độ độc đoán. Các cựu sỹ quan quân đội thường đã đòi hỏi những hạn chế lên các chính phủ mới hình thành, như các đợt tổng ân xá cho những sự vi phạm quyền con người, các đặc ân đặc biệt cho ngân sách quân sự, hay thậm chí sự kiểm soát sự lựa chọn các ứng viên cho các cuộc bầu cử “dân chủ” mới. Nhưng vào giữa các năm 1980, nhiều nhà lý luận mà trước đây đã gắn chủ nghĩa tư bản phụ thuộc của Mỹ Latin với chủ nghĩa độc đoán đã thấy mình vật lộn để giải thích cho cái hóa ra là một xung lực dân chủ mới.
Đầu tiên, hầu hết những thảo luận lý thuyết về dân chủ hóa đã tập trung vào các chiến lược đàm phán của phe đối lập. Thường dùng những ẩn dụ rút ra từ lý thuyết trò chơi, các nhà trí thức đã nói về loại nào của các chiến lược có thể ủng hộ “các nhà cải cách” chống lại những người theo đường lối cứng rắn trong các chế độ độc đoán, hoặc làm sao để mở rộng một cách tốt nhất không gian cho chủ nghĩa tích cực dân chủ.[3] Nhiều trong các nhà lý thuyết này đã là bản thân những người tham gia vào các phong trào đối lập cụ thể, và các cuộc tranh luận học thuật của họ đã giống các cuộc thảo luận chính trị thực xảy ra giữa và bên trong các phe đối lập dân chủ của nước họ. Thường chỉ ra các bài học dựa trên những kinh nghiệm gần đây của các nước khác trải qua những chuyển đổi tương tự, những thảo luận này thường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tạo ra các quy tắc mới cho trò chơi chính trị, trong đó tất cả mọi người sẽ học để tôn trọng những kết quả bầu cử, chấp nhận sự không chắc chắn và khả năng bị mất quyền lực như một khía cạnh then chốt để xây dựng các nền dân chủ bền vững – cho dù các quy tắc được thương lượng đã đòi hỏi rằng phe đối lập từ bỏ một số đòi hỏi của nó, và kiềm chế những người đi theo đừng đòi hỏi việc tái phân phối của cải và quyền lực cũng như không gian chính trị dân chủ.[4]
Những sự giống nhau giữa nhiều của những thảo luận lý thuyết này và ngôn ngữ được sử dụng bởi những người tham gia Bàn Tròn Ba Lan trong hội thảo Michigan – ngôn ngữ của sự bất ngờ (contingency), của sự cùng yếu và thỏa hiệp, của sự cam kết đối với một dự án quốc gia và bất bạo động – là hầu như không tình cờ: chúng phản ánh những mối quan tâm trực tiếp của các nhà hoạt động can dự vào một nỗ lực để vượt ra ngoài sự bế tắc, hướng đến xác định các quy tắc mới cho các quá trình chính trị.
Nhưng sau một thời gian, giọng của những thảo luận hàn lâm về dân chủ hóa đã bắt đầu thay đổi, khi những nghiên cứu hàn lâm vượt xa hơn các chiến lược đàm phán trực tiếp của những người chơi. Vì các học giả, những người mà bản thân họ đã không là những người tham gia trong các cuộc đàm phán, đã bắt đầu nghiên cứu “những sự chuyển đổi dân chủ” mới, nhiều nghiên cứu hơn đã bắt đầu khảo sát tỉ mỉ làm thế nào các tác nhân xã hội cụ thể đã thấy bản thân mình ở bàn đàm phán theo những cách khác nhau. Còn trong trường hợp Lan câu hỏi này không có vẻ đã nổi bật – hiển nhiên bởi vì Đoàn kết và Giáo hội Công giáo đã chi phối phe đối lập hoàn toàn đến như vậy[5] – khắp Mỹ Latin và nơi khác, các nhà xã hội học và các nhà khoa học chính trị đã bắt đầu hỏi ai đã là phe đối lập dân chủ được tổ chức, họ đã nổi lên thế nào trong những kẽ hở của sự cai trị độc đoán, và các phong trào xã hội đã bắt đầu thế nào để chuẩn bị một nhóm cử tri rộng cho các nhà hoạt động chính trị dân chủ.[6]
Nhưng ngay cả những nghiên cứu này có xu hướng giới hạn tầm nhìn của chúng vào một tiêu điểm địa phương: những độc lực của các phong trào xã hội có xu hướng phản ánh các điều kiện địa phương, những sự bất ngờ và cơ hội địa phương. Như thế, chẳng hạn, đặc tính đặc thù của sự tăng trưởng đô thị ở Brazil, hay những nhu cầu hàng ngày của phụ nữ và gia đình của họ trong poblaciones (dân cư) của Chile, giúp giải thích các phong trào xã hội nổi lên ở đâu và như thế nào ở bên lề của sự cai trị độc đoán. Các phong trào xã hội lợi dụng những mâu thuẫn không chủ ý trong lối nói hoa mỹ (rhetoric) của các chế độ độc đoán, của những khoảnh khắc cơ hội chính trị, của sự chia rẽ bên trong các lãnh đạo của chế độ; nhưng hầu như theo định nghĩa, chúng phải dựa vào văn hóa chính trị địa phương, các biểu tượng địa phương và những sự trung thành địa phương, để phát triển một cơ sở đại chúng. Như thế, trong khi viễn cảnh phong trào xã hội cung cấp một góc nhìn khác về các cuộc đàm phán so với cách tiếp cận lý thuyết trò chơi, nó không thể giải thích đợt sóng toàn cầu về những sự chuyển đổi dân chủ. Để làm điều đó, chúng ta cần nhìn xa hơn bất kỳ trường hợp đơn nhất nào, để có được một khả năng phán đoán về các quá trình toàn cầu lớn hơn đã liệu có làm thay đổi hay không và làm thay đổi thế nào các áp lực như nhau lên cả những kẻ độc đoán lẫn các nhà dân chủ trong các năm 1980 và các năm 1990, ở những nơi rất khác nhau, nhưng với những kết quả giống nhau.
Sự Chuyển dịch Toàn cầu
Những thảo luận về thay đổi toàn cầu trong cuối thế kỷ thứ hai mươi thường có một đặc trưng hơi ad hoc (tình thế): vẫn chưa có mảng lý thuyết chặt chẽ nào cho sự hiểu các loại của những thay đổi toàn cầu mà dẫn đến dân chủ hóa trong các chế độ tư bản chủ nghĩa độc đoán cũng như trong các chế độ cộng sản của Đông Âu. Các cuộc tranh luận cứ dai dẳng về toàn cầu hóa bao gồm những gì, về các khía cạnh nào, nếu có, là mới trong cuối thế kỷ thứ hai mươi, về liệu chất lượng không đồng đều của các quá trình của nó làm cho nó lờ mờ đến mức hầu như vô nghĩa. Hầu hết những thảo luận về cái thường được gọi là “toàn cầu hòa” gộp lại các động lực thuộc nhiều loại khác nhau như sự lan truyền của những công nghệ mới và các quá trình sản xuất, sự lan rộng của các hình mẫu tiêu thụ, hay những thay đổi về các quy tắc quản trị tài chính quốc tế; thế nhưng thực ra, hầu hết các nhà phân tích thừa nhận rằng mỗi trong những quá trình này đã có các động lực riêng của nó, tập hợp các tác nhân xã hội riêng của nó, và mỗi quá trình nhìn hơi khác nhau từ các viễn cảnh khác nhau của các khu vực khác nhau.
Thế mà trong khi sự nối vào nhau khác thường của các quá trình toàn cầu từ giữa các năm 1980 có thể hết sức phụ thuộc vào con đường, và khác nhau từ nơi này sang nơi khác, sự trùng nhau giữa đợt bột phát chuyển đổi dân chủ và sự kết thúc của Chiến tranh lạnh hầu như không tình cờ: các áp lực mà đã đẩy các chế độ độc đoán và các phe đối lập dân chủ để đàm phán ở Mỹ Latin là, tôi chứng minh, liên hệ mật thiết với những áp lực mà đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh. Trong đoạn này, tôi sẽ mô tả một số những thay đổi này; trong khi bức tranh này sẽ nhất thiết là đơn giản thái quá và châm biếm, [nhưng] nó có thể giúp cung cấp một số bối cảnh mà trong đó những thảo luận như Bàn Tròn trở nên có thể.
Vào giữa các năm 1980, đã không còn có thể bỏ qua những thay đổi đầy kịch tính trong nền kinh tế quốc tế. Từ đầu các năm 1960, đã có sự dịch chuyển đáng kể trong đặc trưng của các khoản đầu tư quốc tế bởi các công ty từ Mỹ và Tây Âu: lần đầu tiên, các công ty đa quốc gia đã bắt đầu chuyển ra nước ngoài, xây dựng các nhà máy công nghiệp trong các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latin.[7] Ngày nay, là dễ để quên sự phát triển này là tương đối mới đến thế nào: trước năm 1960, các nhà đầu tư nước ngoài tại các nước đang phát triển đã thường hạn chế tầm nhìn của họ ở các nguyên liệu và hàng hóa nông nghiệp, để đầu tư công nghiệp cho các nhà nước và các nhà khởi nghiệp địa phương. Nhưng khi các nước đang phát triển trên khắp thế giới đã trở nên độc lập khỏi các nhà cai trị thực dân trước kia của họ, họ đã làm theo các đơn thuốc về cả hiện đại hóa lẫn của các nhà kinh tế học theo Keynes, tìm cách thu hút vốn vào sản xuất công nghiệp bằng cung cấp sự hỗ trợ hạ tầng cơ sở, các khoản bao cấp, và bảo hộ thuế quan – thường với sự hỗ trợ trực tiếp từ các cơ quan chính phủ Mỹ và châu Âu, những người đã coi loại mở rộng công nghiệp được bao cấp, được bảo vệ này như phương cách tốt nhất cho phát triển kinh tế mà họ đã hy vọng sẽ cản sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản vào dân cư đô thị bị bần cùng hóa của các nước đang phát triển.[8]
Từ các năm 1950 đến giữa các năm 1970, công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu (import-substitution industrialization – ISI) đã ăn khớp chặt chẽ dễ dàng với các mục tiêu của các công ty đa quốc gia, những người đã nhìn thấy nhân công rẻ và các thị trường mới của các nền kinh tế đang phát triển với con mắt hau háu; thông qua đầu tư trực tiếp và thông qua các liên doanh, các công ty đa quốc gia có trụ sở ở Hoa kỳ hay châu Âu đã thấy chúng có thể liên minh với vốn địa phương để bắt đầu sản xuất công nghiệp ở những góc xa xôi của thế giới.[9]
Nhưng vào giữa các năm 1980, các chính sách ISI đã bắt đầu bị ghét bỏ như nhau bởi cả các nhà hoạch định chính sách lẫn các nhà lý luận: chủ nghĩa bảo hộ vốn có trong các gói ISI đã được coi là tạo ra các công ty không hiệu quả, lệ thuộc vào bao cấp nhà nước và sự bảo hộ, ngăn cản những người tiêu thụ địa phương khỏi việc mua các hàng hóa mà sẽ cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đặc biệt sau khi thế giới đã nhận ra độ sâu thảm họa của chủ quyền tuyệt đối ở Cambodia của Pol Pot, đã trở nên hầu như không thể đối với các nhà lý thuyết phát triển để cho rằng công nghiệp hóa đòi hỏi một sự đoạn tuyệt hoàn toàn với hệ thống tư bản chủ nghĩa bóc lột. Thay vào đó, sự nổi lên của “các nước mới công nghiệp hóa – NIC” ở Đông Á đã gợi ý cho nhiều nhà quan sát rằng đúng hơn thay cho sự trì trệ không thể tránh khỏi, việc dính líu vào thế giới tư bản chủ nghĩa đã tạo ra các cơ hội mới cho thương mại và cho tăng trưởng.[10] Vào giữa các năm 1980, hầu hết các nước đang phát triển đã tìm kiếm một sự hội nhập lớn hơn vào nền kinh tế thế giới, hơn là ít hơn.
Triển vọng thay đổi này đã được củng cố một cách rõ ràng bởi những sự dịch chuyển trí tuệ và được ủng hộ bởi các tác nhân định chế hùng mạnh, những người từ cuối các năm 1970 đã khăng khăng rằng các nước đang phát triển phải mở cửa các nền kinh tế của họ theo đường lối tân tự do. Vào giữa các năm 1980, các nhà kinh tế học hàn lâm nói chung đã được thuyết phục rằng tăng trưởng kinh tế đã liên kết trực tiếp với sự mở rộng thương mại: dựa chủ yếu và những kinh nghiệm của các NIC Đông Á như Hàn Quốc, tầm nhìn hướng nội của những người chủ trương thay thế nhập khẩu đã được  thay thế bởi quan điểm rằng sự mở rộng theo hướng xuất khẩu cuối cùng sẽ tạo ra loại tăng trưởng bền vững hơn.[11]
Sự chuyển dịch trí tuệ này đã trùng với những thay đổi lớn trong thế giới tài chính quốc tế, cả về mặt các ngân hàng tư nhân lẫn các định chế công. Từ 1971, khi Hoa Kỳ lặng lẽ bỏ đồng tiền của nó khỏi bản vị vàng, các mối quan hệ cố định giữa các đồng tiền quốc tế mà đã xuất hiện từ các cuộc họp Bretton Woods năm 1946 đã bắt đầu rời ra; “tỷ giá hối đoái thả nổi,” mà bắt đầu chi phối vào giữa các năm 1970, đã biến đổi thế giới tài chính, tạo ra những khả năng cho sự đầu cơ tài chính quốc tế. Nhận ra những hệ lụy của những thay đổi này, vào cuối các năm 1970 và đầu các năm 1980 các chính phủ Anh và Mỹ đã bắt đầu phi điều tiết các giao dịch tài chính quốc tế: Thành phố London và Wall Street đã lại nổi lên như các trung tâm tài chính, trong một thế giới nơi những sự thay đổi nhỏ xíu trong giá trị tương đối của các đồng tiền có thể được dùng như cơ sở cho những vận may mới to lớn.[12]
Đồng thời, tuy vậy, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, IMF, đã thay đổi vai trò của nó về mặt quốc tế[13]: IMF đã chuyển từ việc đơn giản phục vụ như một nguồn tín dụng thương mại quốc tế ngắn hạn, thành một định chế định hướng tới việc cứu các nước đang phát triển mắc nợ nần. Đồng thời với sự chuyển dịch này, IMF đã bắt đầu nhìn các con nợ của mình với một con mắt khác, nới lỏng những sự kiềm chế trước đây của nó lên sự can thiệp vào chủ quyền của các nước đi vay. Vào năm 1979, IMF đã bắt đầu thay đổi thái độ của nó trong quan hệ với các nước đi vay: thay cho việc đơn giản đánh giá uy tín trả nợ, thì IMF đã bắt đầu gắn các điều kiện cho các khoản vay, đòi hỏi các nước sẽ đi vay đồng ý tái cấu trúc kinh tế đầu tiên, và muộn hơn tái cấu trúc chính trị như một điều kiện cho các khoản vay mới. Suốt các năm 1980, các chính phủ mà đã quay sang IMF để vay tiền đã biết họ sẽ phải đàm phán không chỉ lãi suất và kế hoạch trả nợ, mà cả các điều khoản của chính sách kinh tế tương lai: đại thể, sự tăng trưởng kinh tế đã được định nghĩa lại dưới dạng mở rộng thương mại, và sự cam kết của IMF để giảm các khoản chi tiêu của nhà nước và mở rộng doanh thu xuất khẩu đã trở thành nguyên tắc chỉ đạo cho các nước đang phát triển trên khắp thế giới. “Điều chỉnh cơ cấu,” như nó đã được gọi, bao gồm giảm các khoản chi nhà nước, dỡ bỏ thuế quan bảo hộ và bao cấp, và thúc đẩy sản xuất  hướng xuất khẩu; khắp Mỹ Latin và Châu Phi, các chính phủ đã được yêu cầu để cắt bớt ngân sách – cắt cả các vị trí ngành dân chính và các dịch vụ xã hội cho các công dân của họ – và để mở cửa các thị trường cho các hàng hóa nhập khẩu, với mục tiêu kép về giảm lạm phát và tăng thương mại.
Vào giữa các năm 1980, các nước đang phát triển đã biết rõ ràng rằng một môi trường quốc tế mới đã ép buộc các lựa chọn của họ cho các chiến lược phát triển[14]; các chính sách tân-tự do được IMF và Ngân hàng Thế giới đòi hỏi, được ủng hộ bởi các chính quyền bảo thủ ở London và Washington, đã đòi hỏi tư nhân hóa các doanh nghiệp công và sản xuất cho xuất khẩu. Sự thay đổi ý thức hệ đã đầy kịch tính: trong khi vào các năm 1970, các nước đang phát triển đã nói về phát triển con người cũng như tăng trưởng kinh tế, vào giữa các năm 1980, hầu hết các chính phủ thế giới thứ ba đã không còn thấy bất kỳ lựa chọn khả dĩ nào khác ngoài chủ nghĩa tân tự do. Hai thập niên trước, khi Chiến tranh Lạnh còn ở đỉnh cao của nó, các nước đang phát triển đã thường có khả năng để lôi kéo những sự kình địch Chiến tranh Lạnh, hoặc bằng cách thuyết phục các siêu cường để đặt giá chống lại nhau trong chào mời viện trợ kinh tế và quân sự, hay bằng cách xây dựng một mối quan hệ đặc biệt với một siêu cường duy nhất.
Nhưng vào những năm 1980, khối Đông Âu đã không thể đưa ra sự bảo vệ kinh tế hay chiến lược cho các nước mà đã hy vọng tránh “chủ nghĩa tư bản man rợ” mà đã đặc trưng cho rất nhiều nền kinh tế đang phát triển. Trong đầu các năm 1960, Cuba đã có khả năng sử dụng mối quan hệ của nó với Liên Xô để duy trì nền kinh tế của nó bất chấp sự tẩy chay của Hoa Kỳ; ngược lại vào năm 1980, Liên Xô đã không còn có thể đưa ra bất kỳ sự dàn xếp nào như vậy nữa, ngay cả cho các chính phủ mà đã có vẻ hoàn toàn sẵn sàng quăng mình vào phe Soviet, như chính phủ Sandinista mà đã lên nắm quyền ở Nicaragua. Sự bất lực hoàn toàn của Liên Xô để cung cấp viện trợ phát triển thực cho các đồng minh của nó đã trở nên không thể chối cãi được. Trong giữa các năm 1970, sự thừa nhận của Liên Xô về sự thiếu hụt ngũ cốc nghiêm trọng đã tiết lộ một cách không thể tránh khỏi các vấn đề kinh tế bên trong của nó, trong khi sự giao chiến kéo dài, thảm khốc của nó ở Afghanistan đã nhấn mạnh sự thiếu năng lực quân sự; trong đầu các năm 1980, sự bất lực của nó để cung cấp sự ủng hộ nhiều hơn lời nói hoa mỹ cho các nước muốn trở thành đồng minh xã hội chủ nghĩa, từ Nicaragua đến Mozambique, đã nhấn mạnh sự yếu kém về tầm với của nó.
Nhận thức chung về những yếu kém bên ngoài này, tất nhiên, đã đi song song với sự thừa nhận ngày càng tăng về thất bại bên trong. Các chuyên gia về lịch sử Soviet sẽ không nghi ngờ gì để tiếp tục tranh luận hàng thập kỷ để đi đến chừng mực mà theo đó sự yếu kém của Liên Xô trong giữa các năm 1980 đã do nguyên nhân bên trong gây ra, hay là kết quả của áp lực từ bên ngoài, như chính quyền Reagan đã giao chiến với Liên Xô và các đồng minh của nó trong một loạt các cuộc chiến ủy thác (proxy battle) xung quanh rìa của cái Reagan đã coi là “đế chế tội lỗi.” Nhưng từ viễn cảnh của sự thay đổi toàn cầu, điểm mấu chốt ở đây là, vào giữa các năm 1980, ngay cả các công dân của bản thân Nga đã bắt đầu thừa nhận rằng các lời hứa của Liên Xô đã đang dần dần trở nên mong manh. Khi phần còn lại của thế giới đã chuyển sang một thời đại công nghệ mới – như các máy tính cá nhân, VCR, và những công nghệ mới của đời sống hàng ngày đã trở nên dễ kiếm đối với tầng lớp trung lưu toàn cầu – thì ngay cả cư dân được đặc quyền của khối Soviet hẳn đã phải bắt đầu đưa ra những so sánh khó chịu với mức sống trong các thành phố toàn cầu như New York, London, thậm chí Sao Paulo, và mức sống ở các nơi như Moscow hay Warsaw.[15]
Hầu hết những dịch chuyển này đã liên hệ trực tiếp đến cán cân sức mạnh trong Chiến tranh Lạnh: chúng đã ép buộc những lựa chọn kinh tế và chính trị của các nước đang phát triển, đặt áp lực lên các chính phủ để chấp nhận các chiến lược phát triển theo hướng xuất khẩu, kiên quyết ở lại bên trong phe phương tây. Nhưng cũng đã có những thay đổi quan trọng bên trong thế giới phương tây mà đã cung cấp một sự thúc đẩy mới cho dân chủ hóa bên trong thế giới tư bản. Nhiều chế độ độc đoán đã có thể có khả năng đáp lại những áp lực này bằng tái cấu trúc các nền kinh tế của họ, chuyển sang một sự nhấn mạnh lớn hơn đến đầu tư và sở hữu tư nhân, mà không trải qua một sự chuyển đổi dân chủ đồng thời.
Nhưng suốt các năm 1970 và 1980, cũng đã có sự phát triển khác nữa, mà có thể nói là đã nằm ngoài động học của Chiến tranh Lạnh: sự nổi lên của một phong trào các quyền con người quốc tế, mà đã thách thức sự đối xử của các chính phủ độc đoán đối với công dân của họ, khăng khăng đòi đưa ngay cả các chính phủ đồng minh vào việc xem xét kỹ lưỡng. Hệt như quyết định của IMF để gắn các điều kiện chính trị và kinh tế vào các khoản vay dính líu đến sự tính lại quan hệ của IMF với các nhà nước có chủ quyền, sự khăng khăng của phong trào các quyền con người rằng các chính phủ có thể phải chịu trách nhiệm giải trình đối với một cộng đồng quốc tế rộng hơn vì sự đối xử của họ với những người bất đồng chính kiến dính dáng đến một sự tính lại tế nhị của chủ quyền, nơi các nhà nước đã không còn được tự động coi như đại diện hợp pháp của các công dân của mình nữa.
Sự nhấn mạnh mới này lên dân chủ hóa và các quyền con người đã có được nhờ hoạt động của các nhà hoạt động và các phong trào dân chúng ở bên trong các nước đang phát triển – và, tất nhiên, các phong trào như Đoàn kết ở các nơi như Ba Lan – cũng nhiều như nhờ hoạt động của các nhà hoạt động phương Tây trong các tổ chức như Amnesty International (Ân xá Quốc tế) hoặc Human Rights Watch (Canh gác Nhân quyền), tất nhiên. Khi các bà mẹ trung lưu, những người mà con của họ bị các lực lượng an ninh bắt cóc lúc nửa đêm, đã bắt đầu tổ chức các cuộc biểu tình hàng tuần tại một central plaza ở Buenos Aires, thách thức một chế độ quân sự hà khắc để trả lại con em họ, tác động của những cuộc biểu tình im lặng của họ – khi các bà mẹ bị mất con đã giơ các ảnh của những người thân bị biến mất của họ – đã được cảm thấy ở rất xa vượt ra ngoài Argentina. Khi các luật sư trong Hội Luật gia Brazil bắt đầu khẳng định rằng chế độ quân sự đã không còn tuân theo “nền pháp trị,” bởi vì nó đã bỏ qua các quyền habeas corpus (bảo thân) trong đối xử của nó với các tù nhân chính trị, sự ủng hộ chính phủ quân sự bắt đầu bị xói mòn ngay cả giữa giới elite mà đã được lợi từ các chiến lược tăng trưởng kinh tế độc đoán.
Cuộc đàm luận mới này về dân chủ hóa đã mở rộng phổ chính trị – hay có lẽ đã thay đổi đặc tính của phổ đó, xác định lại các phạm trù nhị phân, rõ hơn trước kia của “tả” và “hữu.” Chủ nghĩa độc đoán trong các nước tư bản chủ nghĩa chắc chắn đã làm xói mòn sự ủng hộ cho các chế độ cánh-hữu, nhưng từ viễn cảnh của các nhóm cánh-tả xung quanh thế giới, sự siết chặt Soviet lên Tiệp Khắc trong năm 1968 và sự áp đặt sự cai trị quân sự ở Ba Lan năm 1981, đã dẫn đến sự vỡ mộng ngày càng tăng với chủ nghĩa độc đoán kiểu Soviet, và một sự đánh giá lại ngày càng tăng về “thành công” của mô hình Soviet. Ảnh hưởng ngày càng tăng của một “Chủ nghĩa Marx tây phương” nhân đạo, có định hướng dân chủ hơn lên các đảng dân chủ thiên-tả xung quanh thế giới đã làm xói mòn chủ nghĩa tiên phong Leninist, với sự nhấn mạnh tăng lên được đặt lên nền dân chủ như một mục tiêu tự nó hơn là một con đường tới quyền lực, kết hợp với một mối quan tâm mới cho quyền tự quyết trong một thế giới hậu thực dân. Trong giữa các năm 1970, Đảng Cộng sản Italia đã mở một con đường mới, tự tuyên bố độc lập với đường lối Soviet và nói về một “thỏa hiệp lịch sử” với các quá trình dân chủ. Với sự rút lui của đấu tranh vũ trang như một lựa chọn có thể chấp nhận được hay có thể tồn tại được cho các nhóm chống độc đoán, và với một sự chấp nhận ngày càng tăng của những ràng buộc được áp đặt bởi bối cảnh quốc tế lên các chiến lược phát triển, đã trở nên dễ hơn cho ngay cả các nhà hoạt động đối lập thiên-tả để nhìn nhà nước như một “vũ đài đấu tranh” cũng như một công cụ của sự thống trị giai cấp – một quan điểm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chấp nhận các quy tắc của quá trình chính trị từ tất cả các phía, ngay cả khi nó đã có nghĩa là chấp nhận sự thất bại tại các cuộc bầu cử.
Về mặt lịch sử, các nhà hoạch định chính sách quốc tế nói chung đã làm ra vẻ rằng công việc nội bộ của các đồng minh của họ đã tuyệt nhiên không là công việc của họ: sự thừa nhận chủ quyền, mà trên đó các định chế quốc tế của hệ thống nhà nước hiện đại dựa vào, đã đòi hỏi rằng các nhà hoạch định chính sách đứng ngoài các công việc nội bộ. Trong thực tế, tất nhiên, các cường quốc thường đã can thiệp vào công việc nội bộ của các nước láng giềng yếu hơn của họ, nhất là thông qua các cơ chế trực tiếp như chủ nghĩa thực dân; nhưng vỏ ngoài của chủ quyền từ lâu đã cung cấp một lý do bào chữa tiện lợi cho các liên minh đáng ngờ. Từ đầu các năm 1970, tuy vậy, một cuộc tranh luận quốc tế ngày càng lớn tiếng về tầm quan trọng của dân chủ và các quyền con người đã đặt các chính phủ phương tây dưới áp lực mới – đặc biệt vì các nhóm cử tri trong nước ngày càng trở nên bực bội với viện trợ quân sự và kinh tế của các chính phủ nước họ cho các chế độ độc tài áp bức. Ngay cả ở Hoa Kỳ – nơi chính sách quốc tế từ lâu đã căn cứ vào những thảo luận về “lợi ích quốc gia” và chiến lược Chiến tranh Lạnh, hơn là vào bất kỳ cân nhắc nào về đạo đức – Quốc hội đã quyết định biến các hồ sơ nhân quyền thành một cân nhắc trong những thảo luận về liệu có cung cấp viện trợ kinh tế hoặc quân sự hay không; từ đầu các năm 1970, hồ sơ nhân quyền của ngay cả các đồng minh thân cận đã trở thành một thành phần chính thức của quá trình hoạch định chính sách quốc tế của Mỹ. Mặc dù, trong thực tế, nhiều chính trị gia Mỹ đã thao túng các vấn đề nhân quyền – có khuynh hướng tìm ra nhiều vi phạm nhân quyền ở các nước họ không thích hơn là ở các nước mà họ hy vọng để xây dựng các liên minh mạnh hơn – các điều kiện của thảo luận đã thay đổi đột ngột trong một thời gian rất ngắn, khi ngày càng nhiều chính trị gia và người bỏ phiếu trở nên được thuyết phục rằng các vấn đề quyền con người đã là các lý do hợp pháp cho mối quan tâm đến chính sách đối ngoại, đi xa khỏi sự chú tâm duy nhất vào các vấn đề an ninh mà đã đặc trưng cho hầu hết các cuộc tranh luận chính sách đối ngoại trong cao trào của Chiến tranh Lạnh.
Việc đưa các mối quan tâm nhân quyền vào các cuộc tranh luận chính sách quốc tế đã là một quá trình phức tạp, gồm những sự lựa chọn bởi cá nhân các nhà hoạch định chính sách cụ thể cũng như sự huy động một phong trào xã hội xuyên quốc gia mới – hoặc, chí ít, sự huy động của các mạng lưới của các nhà hoạt động xuyên quốc gia, những người đã coi phong trào các quyền con người như cái gì đó về mặt đạo đức nằm ngoài các giới hạn của chính trị Chiến tranh Lạnh.[16] Nhưng không được đánh giá thấp như một lực lượng hùng mạnh trong hoạt động chính trị cuối thế kỷ thứ hai mươi: bằng cách củng cố địa vị của những người nhấn mạnh đến việc xây dựng các định chế dân chủ, nó đã giúp đưa thêm một chiều dân chủ vào những sự chuyển đổi khỏi sự cai trị độc đoán.
Củng cố Nền dân chủ?
Tất cả những thay đổi này ở mức toàn cầu đã có nghĩa gì cho các cuộc tranh luận nội bộ, và vì sao chủng đã thúc đẩy một sự nổi lên của những sự chuyển đổi được thương lượng khỏi chủ nghĩa độc đoán trong các bối cảnh khác hẳn nhau như Ba Lan, Nam Phi, Chile hay Yemen? Tôi nghĩ, có nhiều cách mà theo đó bối cảnh toàn cầu mới đã tạo ra cơ sở cho việc thảo luận ngang qua những sự khác nhau có vẻ rộng này.
Thứ nhất, bối cảnh mới đã làm giảm quy mô cho sự bất đồng về các chính sách kinh tế: trong một bối cảnh nơi những tính chất chính thống kinh tế tân tự do đã trở nên chi phối như vậy, ít nhà hoạch định chính sách đã sẵn sàng để tiếp tục đề xướng các lựa chọn khác căn bản. Thật đáng chú ý, chẳng hạn, rằng các đại diện của chính phủ Ba Lan tại Bàn Tròn không có vẻ đã ít quan tâm hơn chút nào về cải cách kinh tế so với phe đối lập của họ: cả hai bên có vẻ đã thống nhất rằng cải cách kinh tế, kể cả tư nhân hóa, đã hết sức cần thiết, đặc biệt khi đối mặt với những trừng phạt kinh tế được áp đặt trong đầu các năm 1980. Ở Nam Phi, các quan chức chính phủ đã tin rằng sự sụp đổ của mô hình Đông Âu đã làm xói mòn sức mạnh của những đòi hỏi của các nhà hoạt động chống-apartheid về tái phân phối của cải; trong đầu các năm 1990, họ đã tin rằng họ có thể  khẳng định việc bảo vệ sở hữu tư nhân như một điểm xuất phát cơ bản cho các cuộc đàm phán. Đầu tiên, các nhà hoạt động chống-apartheid đã thử thách thức sự bảo vệ đó; nhưng ngay cả các nhà hoạt động hàng đầu chống-apartheid đã thôi ủng hộ sự tái phân phối đột ngột. Hơn nữa, vì gói kinh tế tân tự do đòi hỏi đầu tư tư nhân, các chính phủ và các nhà cải cách như nhau đều trở nên quan tâm về duy trì sự tin tưởng của giai cấp kinh doanh – mà đòi hỏi sự ổn định chính trị và tính có thể tiên đoán được về kinh tế. Không có một kiến nghị kinh tế thay thế khả thi – và với các định chế quốc tế củng cố mô hình tân tự do, khăng khăng rằng các khoản vay quốc tế sẽ được gắn với các loại cụ thể của chiến lược kinh tế – những kiến nghị kinh tế của các chính phủ và các nhà cải cách ở mọi nơi đã bắt đầu xích lại gần nhau hơn, làm cho việc thương lượng xung quanh các quá trình chính trị dễ hơn ở mọi nơi.
Thứ hai, bối cảnh mới đã hạn chế khả năng của cả các nhà độc đoán lẫn các phe đối lập để hình dung rằng họ đã có thể tiếp tục duy trì sự đàn áp chính trị như một chiến lược cho sự cai trị. Đối mặt với những sự quan tâm phương tây về các quyền con người, và thiếu bất kỳ cơ hội nào của sự ủng hộ từ Đông Âu, các chế độ độc đoán đã nhận ra rằng có những hậu quả thực cho việc đi con đường áp bức: không chỉ viện trợ kinh tế và quân sự bị cắt, mà các elite địa phương đã ngày càng có vẻ có khả năng bác bỏ một chính phủ quá áp bức. Đồng thời, các phong trào đối lập đã trở nên ngày càng khéo trong việc tìm kiếm sự chú ý và sự ủng hộ quốc tế. Suốt các năm 1990, hết nước này đến nước khác đã chuyển theo hướng các cuộc bầu cử để ngỏ cho sự giám sát bên ngoài, tìm cách chứng tỏ tính hợp pháp đại chúng của chính phủ của họ qua những kết quả bầu cử.
Nói rằng các động lực toàn cầu đã đẩy các tác nhân xã hội đến thỏa hiệp về hai vấn đề then chốt của sự tranh cãi, tất nhiên, là không phủ nhận tính đặc thù địa phương của mỗi quá trình dân chủ hóa trong các năm 1990. Ngay cả hai điểm xuất phát cơ bản – các chính sách kinh tế tân tự do và các cuộc bầu cử dân chủ – đã để ngỏ cho sự diễn giải lại trong các trường hợp cụ thể. Một cách không thể tránh khỏi, cán cân sức mạnh địa phương giữa các lực lượng khác nhau đã là cốt yếu cho việc những áp lực toàn cầu này được diễn giải và xác định thế nào. Thuật ngữ “tân tự do” có thể được áp dụng cho một dải các gói kinh tế, trải từ tư nhân hóa nghiêm ngặt và các thị trường không bị điều tiết đến các chính sách mà cung cấp các mức độ tự do bên trong các khung khổ điều tiết nghiêm ngặt. Tương tự, nhãn “dân chủ” đã được áp dụng cho các cuộc bầu cử trải từ các quá trình chính trị mở thật sự đến các quá trình nơi những người bỏ phiếu đã đưa ra sự lựa chọn sai tại các phòng bầu cử đối mặt với sự đe dọa thực của sự đàn áp nửa quân sự.
Tuy nhiên, không tính đến sự chuyển dịch của các lực lượng toàn cầu, sẽ là không thể để giải thích vì sao nhiều nước đến như vậy đã có vẻ chuyển theo hướng các cuộc đàm phán trong cuối thế kỷ thứ hai mươi, hay để hiểu các hình mẫu chung mà có vẻ nổi lên trong các cuộc đàm phán đó bên trong những khung cảnh hết sức khác nhau.
Mười năm sau Bàn Tròn, những thảo luận về “sự chuyển đổi dân chủ” ở Mỹ Latin, châu Phi, châu Á và thậm chí Đông Âu đã chuyển khỏi việc hỏi về cơ sở của sự đồng thuận và sự thỏa hiệp, sang các câu hỏi về con đường tiến lên.[17] Chúng ta muốn nói gì với “dân chủ” và “quyền công dân,” và chúng ta có thể củng cố thế nào các định chế có khả năng tốt nhất để duy trì chúng? Các chính sách tốt nhất là gì để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong những khung cảnh cụ thể? Loại nào của các định chế chính trị bảo vệ tốt nhất và mở rộng quyền công dân? Làm thế nào các nhà nước có thể đồng thời đẩy mạnh tinh thần nghiệp chủ tư nhân cần thiết cho sự tăng trưởng tân tự do, và cung cấp cho các công dân yếu hơn của nó những dịch vụ xã hội họ cần? Làm thế nào chúng ta có thể bảo đảm rằng người dân trong các ngành công nghiệp, các nước, các khu vực bị đặt sang bên lề – những người đã mất việc làm của họ khi các ngành sụp đổ trong sự đối mặt với cạnh tranh toàn cầu, các nước mà đã không có khả năng tìm thấy một niche (ngách) kinh tế trong nền kinh tế toàn cầu mới, các khu vực mà đã suy sụp vào chiến tranh dai dẳng và tàn bạo khi các siêu cường đã bỏ rơi các liên minh Chiến tranh lạnh – không bị bỏ qua hoàn toàn trong bối cảnh toàn cầu mới? Như nhiều người tham gia hội thảo Michigan đã lưu ý, các quá trình giống Bàn Tròn có thể đánh dấu sự chấm dứt của một loại xung đột; nhưng thay cho việc xem dân chủ hóa như một sự kết thúc, có lẽ chúng ta phải xem nó như sự khởi đầu. Các chế độ mới mà đã nổi lên trong thời điểm hậu Chiến tranh Lạnh đối mặt với những thách thức mới, các vấn đề mới, khi họ tìm cách để củng cố các nền dân chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa tiếp tục.
Chú giải
Bảng chú giải này có ý định như một hướng dẫn về người, tổ chức, và thuật ngữ mà xuất hiện trong các đoạn trích và kỷ yếu đầy đủ của hội thảo, “Communism’s Negotiated Collapse: The Polish Round Table, Ten Years Later.”[18] [Phần trong ngặc vuông là bổ sung của người dịch.]
Người[19]
Balcerowicz, Leszek (1947-): Nhà kinh tế học; đảng viên PZPR, 1969-1981; thành viên Đoàn kết từ 1980; tác giả của “liệu pháp sốc” kế hoạch cải cách kinh tế của năm 1990; Bộ trưởng Tài chính, 1989-1991; Phó Thủ tướng, 1997-2000; thành viên UD và UW
Bartoszewski, Władysław (1922-): Tù nhân tại Auschwitz, 1940-1941; lính của AK, 1942-1945; bị tù trong thời kỳ Stalinist; nhân viên của tuần báo Công giáo, Tygodnik Powszechny (Tuần báo phổ thông) từ 1957, giảng viên cho “Đại học Bay” từ 1978-1990; thành viên Đoàn kết từ 1980; Đại sứ Ba Lan tại Áo từ 1990-[1995; Bộ trưởng Ngoại giao 1995 và 200-2001.]
Bender, Ryszard (1932-): Giáo sư Lịch sử tại Đại học Công giáo Lublin và chính trị gia bảo thủ; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Dân biểu Sejm, 1985-1989; Thượng nghị sĩ, 1991-1993, Chủ tịch Hội đồng Quốc gia về TV và Radio, 1994.
Bierut, Bolesław (1892-1956): Lãnh đạo cộng sản Ba Lan trong thời kỳ Stalinist; Tổng Bí thư của PZPR, 1948-1954; Bí thư thứ Nhất của PZPR, 1954-1956; Chủ tịch Ba Lan 1947-1952; Thủ tướng, 1952-1954.
Bruszt, László: Giáo sư Khoa học Chính trị và Hiệu phó về Công việc Hàn lâm tại Đại học Trung Âu; Đồng sáng lập và Thư ký Quốc gia của Liên minh Dân chủ của các Nghiệp đoàn Độc lập ở Hungary, 1988-1992; tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn Hungary.
Brzeziński, Zbigniew (1928-): Nhà khoa học chính trị Mỹ gốc Ba Lan; Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Columbia từ 1961; đồng tác giả, với Carl J. Friedrich, của cuốn Totalitarian Dictatorship and Autocracy (Harvard University Press, 1956); thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia thời Tổng thống Jimmy Carter, 1977-1980.
Bujak, Zbigniew (1954-): Công nhân tại nhà máy máy kéo Ursus từ 1977; thành viên Đoàn kết từ 1980; Chủ tịch của Đoàn kết trong khu vực Mazowsze, 1981-1986; nhân vật cao cấp nhất của Đoàn kết tránh được sự bắt bớ, 1981-1986; thành viên của Ủy ban Điều hành Quốc gia của Đoàn kết, 1987-1989; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Dân biểu ở Sejm, 1991-1997; Giám đốc Cục Hải quan Ba Lan, 1999-nay; thành viên UD/UW.
Celiński, Andrzej (1950-): Bị đuổi khỏi Đại học Warsaw tháng Ba 1968 vì tham gia vào các cuộc biểu tình sinh viên; thành viên của KOR; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Thượng nghị sĩ, 1989-1993; Dân biểu ở Sejm, 1993-nay; thành viên UD/UW.
Chrzanowski, Wiesław (1923-2012): Giáo sư Luật tại Đại học Công giáo; thành viên của AK, 1942-1944; bị tù vì tham gia tổ chức Liên hiệp Thanh niên Thiên chúa giáo, 1948-1956; cố vấn cho Hồng y Stefan Wyszyński từ 1965; thành viên Đoàn kết từ 1980; đồng-sáng lập và Chủ tịch của Liên hiệp Quốc gia Thiên chúa giáo, 1989-1994; Bộ trưởng Tư pháp năm 1991; Chủ tịch Sejm, 1991-1993; Thượng nghị sĩ, 1997-2001.
Ciosek, Stanisław (1939-): Đảng viên PZPR, 1959-1990; Dân biểu ở Sejm, 1972-1985; Bí thư thứ nhất khu ủy của PZPR, 1975-1980; ủy viên Trung ương PZPR, 1980-1981, 1986-1990; thành viên Hội đồng Bộ trưởng, 1980-1985; Tổng thư ký PRON và Bí thư trung ương, 1986-1988; Ủy viên Bộ Chính trị PZPR, 1988-1989; Đại sứ tại Moscow, 1990-1996.
Cyrankiewicz, Józef (1911-1989): Đảng viên của PPS trước Chiến tranh Thế giới II; tù nhân tại Auschwitz trong Chiến tranh; Ủy viên Bộ Chính trị, 1948-1971; Thủ tướng, 1947-1952, 1954-1970.
Czyrek, Józef (1928-): Ủy viên Bộ Chính trị và Bí thư ban Chấp hành Trung ương, 1981-1989; Bộ trưởng Ngoại giao, 1980-1982; Dân biểu ở Sejm, 1985-1989.
Dai Qing: Nhà báo bất đồng chính kiến và nhà hoạt động môi trường ở Trung Quốc; bị tù sau vụ tàn sát Thiên An Môn năm 1989.
Davis, Helen: Với tư cách vợ của Đại sứ Hoa Kỳ tại Ba Lan trong các năm 1980, đã làm bà chủ của hàng loạt các cuộc gặp không chính thức giữa những người tham gia Bàn Tròn.
Davis, John: Quan chức ngoại giao Mỹ từ 1955; đã phục vụ ở đại sứ quán Hoa Kỳ ở Warsaw 1960-1963, 1973-1976, 1983-1988, và (với tư cách Đại sứ), 1988-1990.
Dąbrowski, Bronisław (1917-1997): Trợ lý Tổng Giám mục của Giáo khu Warsaw, 1962-1993; Thư ký của Hội đồng Giám mục Ba Lan, 1969-1993; tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn.
Dembowski, Bronisław (1927-): Giáo sư Triết học tại Đại học Công giáo từ 1981; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Giám mục Giáo khu Włocławek, 1992-đến nay.
Dmowski, Roman (1864-1939): Sáng lập viên và nhà lãnh đạo của Phong trào Dân chủ Quốc gia cực hữu trước Chiến tranh Thế giới II.
Frasyniuk, Władysław (1954-): Nhà hoạt động lao động từ Silesia, thành viên Đoàn kết từ 1980; thành viên của Ủy ban Điều hành Đoàn kết từ 1987; Dân biểu ở Sejm, 1991-đến nay; thành viên UD/UW.
Geremek, Bronisław (1932-): Giáo sư Lịch sử tại Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan từ 1965; cố vấn cho Đoàn kết từ 1980; lãnh đạo của đoàn đại biểu Đoàn kết tại các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Dân biểu ở Sejm, 1989-nay; Bộ trưởng Ngoại giao, 1997-2000; thành viên UD/ UW.
Gierek, Edward (1913-2001): Nhà hoạt động cộng sản từ các năm 1930; Bí thư thứ Nhất đảng PZPR, 1970-1980.
Glemp, Józef (1929-2013): Giáo trưởng Công giáo La Mã của Ba Lan và Tổng Giám mục của Warsaw và Gniezno, 1981-2006; Hồng y, 1983-2013.
Gomułka, Władysław (1905-1982): Nhà hoạt động cộng sản từ các năm 1920; Tổng Bí thư đảng PPR, 1944-1949; Phó Thủ tướng, 1945-1947; bị tù 1951-1954; Bí thư thứ Nhất đảng PZPR, 1956-1970.
Gwiazda, Andrzej (1935-): Đồng sáng lập của Nghiệp đoàn Tự do Duyên hải, 1978; tham gia các cuộc đình công ở Gdańsk năm 1980; phó chủ tịch Đoàn kết, 1980-1981.
Hall, Aleksander (1953-): Nhà báo và giáo viên lịch trường trung học; đồng sáng lập Phong trào Ba Lan Trẻ năm 1979; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Dân biểu ở Sejm từ 1989; đồng sáng lập Đảng Bảo thủ năm 1992.
Herbert, Zbigniew (1924-1998): Một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất Ba Lan.
Hlond, August (1881-1948): Giáo trưởng Công giáo La Mã của Ba Lan, 1926-1948; Hồng y, 1927-1948.
Jagielski, Mieczysław (1924-1997): Nhà hoạt động cộng sản từ các năm 1940; ủy viên Bộ Chính trị, 1971-1980; Phó thủ tướng, 1971-1975; Giáo sư Kinh tế tại Trường Chính về Kế hoạch hóa và Thống kê từ 1975; trưởng đoàn chính phủ đàm phán với các công nhân xưởng đóng tàu ở Gdańsk năm 1980.
Janas, Zbigniew (1953-): Công nhân tại nhà máy máy kéo Ursus từ các năm 1970; thành viên của KOR; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Dân biểu ở Sejm từ 1989; thành viên UD/UW.
Jankowska, Janina (1939-): Nhà báo phát thanh truyền hình; theo dõi các cuộc đình công tại xưởng đóng tàu Gdańsk và việc thành lập Đoàn kết năm 1980; tạo ra chương trình tài liệu trên các băng ghi âm bí mật trong các năm 1980; tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn; quản lý chiến dịch tranh cử trên TV và radio của Đoàn kết trong năm 1989; chủ tịch Hội đồng Chương trình của Radio Ba Lan từ 1993.
Janowski, Gabriel (1947-): Nông dân, giảng viên tại Cao đẳng Nông nghiệp Warsaw, 1974-1988; nhà hoạt động trong Đoàn kết và Đoàn kết Nông thôn từ 1980; Thượng nghị sĩ 1989-1991; dân biểu ở Sejm 1991-nay; thành viên của AWS; [Bộ trưởng Nông nghiệp 1991-1993].
Jaroszewicz, Piotr (1909-1992): Đảng viên PZPR; Phó thủ tướng, 1952-1970; Thủ tướng, 1970-1980.
Jaruzelski, Wojciech (1923-): Đảng viên PPR và PZPR từ 1947; Tổng Tham mưu Trưởng của Quân đội Ba Lan, 1965-1968; Bộ trưởng Quốc phòng, 1968-1983; chỉ huy cuộc tấn công quân sự lên các công nhân đình công ở Gdańsk, 1970; Bí thư thứ Nhất PZPR, 1981-1989; Thủ tướng, 1981-1985; tuyên bố quân luật và loại Đoàn  kết ra ngoài vòng pháp luật, 1981; Tổng thống, 1989-1990.
Kaczyński, Jarosław (1949-): Thành viên của KOR; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Thượng nghị sĩ, 1989-1990; Dân biểu ở Sejm 1991-1993, 1997-nay; chủ tịch PC từ 1991. [Thủ tướng, 2006-2007.]
Kaczyński, Lech (1949-2010): Giáo sư Luật tại Đại học Gdańsk và Học viện Thần học Công giáo ở Warsaw; thành viên của KOR; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Thượng nghị sĩ, 1989-1991; Dân biểu ở Sejm, 1991-1993; Chủ tịch Tổng thanh tra, 1992-1995; thành viên của PC. [Bộ trưởng Tư pháp, 2000-2001; Tổng thống, 2005-2010 chết do tai nạn máy bay.]
Kádár, János (1912-1989): Trở thành Bí thư thứ Nhất của Đảng Cộng sản Hungary sau vụ đàn áp Cách mạng Hungary năm 1956; đã đưa ra “Cơ chế Kinh tế Mới” trong các năm 1960, mà đã phi tập trung hóa một phần nền kinh tế Hungary; bị buộc rời khỏi quyền lực trong năm 1988.
Kiszczak, Czesław (1925-): Phục vụ trong quân đội Ba Lan như một sĩ quan tình báo từ 1945; đảng viên PPR/PZPR từ 1945; Bộ trưởng Nội vụ, 1981-1990; chỉ huy việc thực hiện quân luật năm 1981; Phó thủ tướng 1989-1990; đã tạo thuận lợi cho các cuộc đàm phán dẫn đến các cuộc đàm phán Bàn Tròn.
Kołakowski, Leszek (1927-2009): Một trong những nhà triết học thế kỷ hai mươi lỗi lạc nhất của Ba Lan; Giáo sư tại Đại học Warsaw và Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan, 1964-1968; bị đuổi khỏi PZPR, 1966; buộc phải di cư, 1968; Giáo sư tại Đại học Oxford, 1970-2009; đại diện của KOR ở nước ngoài; viễn sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan từ 1991.
Konwicki, Tadeusz (1926-): Tác giả và nhà làm phim; các tác phẩm chính gồm Phức cảm Ba Lan (1977) và Khải huyền Nhỏ (1979).
Krzaklewski, Marian (1950-): Thành viên Đoàn kết từ 1980; chủ tịch Đoàn kết từ 1991; đồng sáng lập và chủ tịch AWS, 1996; Dân biểu ở Sejm từ 1997.
Kukliński, Ryszard (1930-2004): Trưởng Văn phòng Kế hoạch Chiến lược của Bộ Tổng Tham mưu Ba Lan, 1976-1981; đã làm việc như một đặc vụ CIA từ 1970; rời Ba Lan sang Hoa Kỳ năm 1981.
Kuroń, Jacek (1934-2004): Nhà bất đồng chống cộng sản từ các năm 1960; đồng sáng lập của KOR; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn; Bộ trưởng Lao động và Chính sách Xã hội 1989-1990, 1992-1993; đồng chủ tịch UD, 1991-1994; ứng viên tổng thống từ, 1995.
Kwaśniewski, Aleksander (1954-): Đảng viên PZPR, 1977-1989; biên tập viên của Sztandar Młodych (Ngọn cờ Thanh niên), 1984-1985; Bộ trưởng Thanh niên, 1985-1987; Chủ tịch Ủy ban Thanh niên và Thể thao, 1987-1990; chủ tịch ủy ban Olympic Ba Lan, 1988-1991; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; chủ tịch SdRP, 1990-1995; chủ tịch đoàn đại biểu quốc hội của SLD, 1991-1995; Tổng thống, 1995-2005.
Lityński, Jan (1946-): Bị tù vì hoạt động sinh viên năm 1968; thành viên của KOR và biên tập viên của các tạp chí của họ, Biuletyn Informacyjny (Tập san Thông tin) và Robotnik (Công nhân), Thành viên Đoàn kết từ 1980; Dân biểu ở Sejm từ 1989; thành viên của UD/UW.
Macharski, Franciszek (1927-): Giảng viên tại Trường dòng Kraków từ 1961; hiệu trưởng, 1970-1979; cố vấn thân cận cho Hồng y Karol Wojtyła (Giáo hoàng John Paul II sau này); Hồng y từ 1979.
Mazowiecki, Tadeusz (1927-): Đồng sáng lập của Câu lạc bộ Warsaw của các Trí thức Công giáo, 1957; đồng sáng lập và biên tập viên của tạp chí Công giáo hàng tháng, Więź, 1958; cố vấn trong thời gian các cuộc đình công Gdańsk năm 1980; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn; Thủ tướng không cộng sản đầu tiên, 1989-1990; đồng sáng lập và chủ tịch UD/UW đến 1995.
Michnik, Adam (1946-): Nhà bất đồng chính kiến từ các năm 1960; thành viên của KOR; thành viên Đoàn kết từ 1980; tổng biên tập của Gazeta Wyborcza (Nhật báo Bầu cử), nhật báo có số phát hành lớn nhất của Ba Lan.
Mikołajczyk, Stanisław (1901-1966): Thủ tướng của chính phủ Ba Lan lưu vong, 1943-1945; Phó thủ tướng trong “Chính phủ Thống nhất Dân tộc” do cộng sản chi phối, 1945-1947; buộc phải lưu vong lần nữa trong năm 1947; lãnh đạo PSL từ 1945.
Miller, Leszek (1946-): Bí thư Ban chấp hành Trung ương của PZPR, 1988-1990; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Bộ trưởng Lao động và các Vấn đề Xã hội, 1993-1996; Bộ trưởng Nội vụ, 1997; Chủ tịch của SdRP/SLD, 1997- nay. [Thủ tướng, 2001-2004.]
Miodowicz, Alfred (1929-): Công nhân ngành thép từ 1952; chủ tịch công đoàn OPZZ, 1984-1991; ủy viên Bộ Chính trị, 1986-1989; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn.
Moczar, Mieczysław (1913-1986): Đảng viên PPR/PZPR từ 1942; Bộ trưởng Nội vụ, 1964-1968; Bí thư Ban chấp hành Trung ương PZPR, 1968-1971; ủy viên Bộ Chính trị, 1980-1981; lãnh tụ của phái “du kích” dân tộc chủ nghĩa bên trong PZPR.
Modzelewski, Karol (1937-): Giáo sư Lịch sử tại Đại học Wrocław; đảng viên PZPR, 1957-1964; bất đồng chính kiến từ 1964; thành viên Đoàn kết từ 1980; Thượng nghị sĩ, 1989-1991; chủ tịch danh dự của UP, 1992-1995.
Okulicki, Leopold (1898-1946): Đã chiến đấu vì sự độc lập của Ba Lan trong Chiến tranh Thế giới I; lính trong Quân đội Ba Lan từ 1918; bị những người Soviet bắt giam trong phần đầu của Chiến tranh Thế giới II; sau khi được thả, chỉ huy của AK, 1944-1945; bị những người cộng sản bắt trong năm 1945; chết trong nhà tù.
Olszewski, Jan (1930-): Luật sư, nhà bất đồng chính kiến từ các năm 1950; thành viên của KOR; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Thủ tướng, 1991-1992; đồng sáng lập và chủ tịch của ROP, 1995-nay.
Onyszkiewicz, Janusz (1937-): Nhà toán học, nhà bất đồng chính kiến từ 1968; thành viên Đoàn kết từ 1980; người phát ngôn của Đoàn kết, 1981-1989; Dân biểu ở Sejm, 1988-nay; Bộ trưởng Quốc phòng, 1992-1993, 1997-2000; thành viên của UD/UW. [Phó chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội châu Âu, 2007-2009.]
Orszulik, Giám mục Alojzy (1928-): Giám đốc Cục Báo chí của Hội đồng Giám mục Ba Lan, 1968-1993; Giám mục của Giáo khu Łowicz từ 1982; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn.
Ossowska, Maria (1896-1974): Giáo sư Xã hội học tại Đại học Warsaw từ 1948; giám đốc Bộ môn Lịch sử và Lý thuyết Đạo đức tại Viện Triết học và Xã hội học trong Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan, 1956-1962.
Paczkowski, Andrzej (1938-): Giáo sư Lịch sử tại Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan 1991; chuyên gia về lịch sử đương đại Ba Lan; thành viên của Viện Ký ức Quốc gia, 1999-nay.
Piłsudski, Józef (1867-1935): Đồng sáng lập của PPS năm 1893; đã chiến đấu vì độc lập cho Ba Lan trong Chiến tranh Thế giới I; Đứng đầu Nhà nước Ba Lan, 1918-1922; dẫn đầu cuộc đảo chính năm 1926 để thiết lập chính phủ độc đoán.
Pipes, Richard: Giáo sư Lịch sử tại Harvard; chuyên gia về lịch sử Soviet; cố vấn cho Tổng thống Ronald Reagan.
Popiełuszko, Jerzy (1947-84): Linh mục Công giáo La Mã; thành viên Đoàn kết từ 1980; bị an ninh sát hại vì các hoạt động bất đồng của ông.
Raina, Peter: Nhà báo Công giáo bảo thủ, tác giả của nhiều sách bằng tiếng Ba Lan và tiếng Anh về Giáo hội Công giáo ở Ba Lan.
Rakowski, Mieczysław (1926-2008): đảng viên PPR/PZPR từ Chiến tranh Thế giới II; tổng biên tập của tạp chí hàng tuần Polityka (Chính trị), 1958-1982; ủy viên Bộ Chính trị, 1987-1990; Bí thư thứ Nhất của PZPR, 1989-1990; Phó thủ tướng, 1981-1985; Thủ tướng, 1989-1990.
Reykowski, Janusz (1929-): Giáo sư Tâm lý Xã hội tại Đại học Warsaw; Giám đốc Viện Tâm lý học tại Viện Hàn lâm Khoa học Ba Lan; trưởng đoàn đại biểu chính phủ tại các cuộc Đàm phán Bàn Tròn.
Romanowski, Bolesław (1910-1968): Chỉ huy hải quân và tàu ngầm.
Siła-Nowicki, Władysław (1913-1994): Luật sư và nhà hoạt động dân chủ Thiên chúa giáo; thành viên của AK, 1941-1945; bị tù vì các hoạt động chống cộng sản, 1947-1956; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn.
Siwicki, Florian (1925-2013): Lính và đảng viên của PPR/PZPR từ 1943; chỉ huy các lực lượng Ba Lan xâm lấn Tiệp Khắc năm 1968 để đè bẹp “Mùa xuân Prague”; Bộ trưởng Quốc phòng, 1981-1983; ủy viên Ban chấp hành Trung ương PZPR, 1975-1990; ủy viên Bộ Chính trị, 1986-1990.
Staniszewska, Grażyna (1949-): Giáo viên trung học và quản thư viện ở Bielsko-Biała (miền nam Ba Lan); thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; Dân biểu ở Sejm từ 1989; thành viên của UD/UW.
Stelmachowski, Andrzej (1925-2009): thành viên của AK trong Chiến tranh Thế giới II; Giaos sư Luật tại Đại học Wrocław và Đại học Warsaw từ 1962; thành viên Đoàn kết từ 1980; chủ tịch Câu lạc bộ Trí thức Công giáo Warsaw, 1987-1990; Chủ tịch Thượng viện, 1989-1990; Bộ trưởng Giáo dục, 1991-1992.
Stroba, Jerzy (1919-1999): Giám mục Công giáo La Mã của Szczecin, 1972-1979; Tổng giám mục của Poznań, 1979-1999.
Szymańska, Irena (1899-1981): Diễn viên múa ballet xuất sắc tại Nhà hát Lớn ở Warsaw; giảng viên và giám đốc tại Trường Ballet Warsaw.
Tatarkiewicz, Władysław (1886-1980): Giáo sư Triết học và Lịch sử Nghệ thuật tại Đại học Wilno, Đại học Poznań, và Đại học Warsaw.
Tischner, Cha Józef (1931-2000): Linh mục Công giáo La mã; Giáo sư Triết học tại Học viện Thần học Giáo hoàng ở Kraków; nhà báo cho tuần báo công giáo, Tygodnik Powszechny (Tuần báo Phổ thông).
Torańska, Teresa (1946-): Nhà báo, tác giả của cuốn sách năm 1985 nổi tiếng, Oni (Họ), về thời kỳ Stalinist ở Ba Lan.
Urban, Jerzy (1933-): Nhà báo cho tuần báo Polityka (Chính trị), 1961-1981; người phát ngôn của chính phủ, 1981-1989; tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn; biên tập viên của tuần báo châm biếm Nie (Không) từ 1990.
Walc, Jan (1948-1993): Nhà phê bình văn học và nhà báo; thành viên của KOR.
Wałęsa, Lech (1943-): Thợ điện và nhà hoạt động lao động; đồng sáng lập của Nghiệp đoàn Tự do Duyên hải, 1978; người lãnh đạo các cuộc đình công xưởng đóng tàu Gdańsk năm 1980; chủ tịch Đoàn kết, 1980-1990; được giải Nobel Hòa bình, 1983; tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn; Tổng thống, 1990-1995.
Wielowieyski, Andrzej (1927-): lính trong AK, 1943-1945; nhà báo cho tạp chí Công giáo hàng tháng Więź, 1961-1980; thư ký của Câu lạc bộ Trí thức công giáo Warsaw, 1972-1981, 1984-1989; thành viên Đoàn kết từ 1980; tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn; Thượng nghị sĩ, 1989-1991; Dân biểu ở Sejm, 1991-1993.
Wyszyński, Hồng y Stefan (1901-1981): Giáo chủ Công giáo La mã và Hồng y, 1952-1980.
Zakrzewski, Jan: Sĩ quan trong các Lực lượng Vũ trang Ba Lan ở miền Tây, 1940-1945; nhà báo TV và radio, 1957-1983.
Các tổ chức và Thuật ngữ
AK (Armia Krajowa; Quân đội Quê hương): quân đội Ba Lan bí mật trong Chiến tranh Thế giới II.
AWS (Akcja Wyborcza Solidarność; Hành động Bầu cử Đoàn kết): một tổ chức chính trị Công giáo, bảo thủ được thành lập năm 1996. Nó bao gồm vài tá các đảng nhỏ, kể cả Liên hiệp Quốc gia Thiên chúa giáo, Liên minh Trung tâm, Đảng Dân túy Bảo thủ, Những người Dân chủ Thiên chúa giáo của Đệ tam Cộng hòa, và nhiều nữa. Được Marian Krzaklewski lãnh đạo. Trong năm 1997 AWS đã tham gia liên minh với Liên hiệp Tự do để thành lập chính phủ.
Bộ Chính trị: cơ quan cai trị hàng ngày của đảng cộng sản; về mặt kỹ thuật (tuy thường không trong thực tiễn) phụ thuộc vào các quyết định của Ủy ban Trung ương lớn hơn.
Bydgoszcz: một thành phố ở giữa miền bắc Ba Lan; địa điểm của hành động bạo lực cảnh sát trong năm 1981 mà đã dẫn đến sự đối đầu căng thẳng giữa Đoàn kết và chế độ.
CBOS (Centrum Badania Opinii Społecznej; Trung tâm Nghiên cứu Dư luận): được thành lập năm 1982; nói chung được coi là nguồn tin cậy về dữ liệu thăm dò.
Câu lạc bộ của các Trí thức Công giáo: mạng lưới của các nhóm thảo luận độc lập được tạo ra trong năm 1958; đã được phép hoạt động hợp pháp trong thời kỳ cộng sản.
Chính phủ London: tên thông tục của chính phủ Ba Lan lưu vong trong Chiến tranh Thế giới II.
Comintern (Quốc tế Cộng sản): tên thông tục cho Quốc tế Ba bị Soviet chi phối, mà đã tồn tại 1919-1943.
Cung Phó vương: cơ ngơi trước kia của Thủ hiến Nga trong thời kỳ chia cắt; được dùng trong thế kỷ thứ hai mươi như trụ sở của Hội đồng Bộ trưởng và dinh tổng thống (hiện nay); trong năm 1989, địa điểm của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn.
Częstochowa: tu viện ở đây đã là vị trí của một chiến thắng quân sự quan trọng trong thế kỷ thứ mười bảy, được nhân dân cho là do sự can thiệp của đức mẹ Đồng trinh Mary, mà thần tượng của bà treo ở đây; ngày nay hàng triệu người Ba Lan hành hương đến Częstochowa hàng năm.
Đoàn kết (Solidarność): một nghiệp đoàn lao động và một phong trào phản đối được thành lập tháng Tám, 1980, như kết quả của một làn sóng đình công toàn quốc; tại đỉnh điểm của nó trong năm 1980 nó đã có khoảng mười triệu thành viên; bị đặt ra ngoài vòng pháp luật sau tuyên bố quân luật trong tháng Mười hai, 1981, nhưng đã tiếp tục để tổ chức phe đối lập ngầm với những người cộng sản suốt các năm 1980; được hợp pháp hóa lại như một kết quả của các cuộc đàm phán Bàn Tròn năm 1989.
Đoàn kết Nông thôn: được lập ra trong năm 1980 như một bản sao nông thôn của phong trào Đoàn kết.
“Đội ngũ Xám” (Szare Szeregi): nhóm kháng chiến bí mật trong Chiến tranh Thế giới II, bao gồm các thành viên Nam Hướng đạo sinh trước chiến tranh.
Gazeta Wyborcza (Nhật báo Bầu cử): tờ báo được lập ra trong năm 1989 như một cơ quan của Đoàn kết; ngày nay là nhật báo có số phát hành lớn nhất Ba Lan.
Giáo trưởng: quan chức cao nhất của Giáo hội Công giáo La Mã trong một nước.
Hiến pháp Nhỏ: tên thông tục của một tập hợp các luật được thông qua trong năm 1992 thiết lập các định chế cai trị của Ba Lan, chưa thông qua một hiến pháp mới (mà cuối cùng đã hoàn tất trong năm 1997).
Hội đồng giám mục: một định chế bao gồm tất cả các giám mục Công giáo La Mã trong một nước cho trước.
Jachranka: khu nghỉ gần Warsaw; địa điểm của một hội thảo quan trọng trong năm 1998 nơi nhiều chính trị gia hàng đầu từ đầu các năm 1980 đã tranh luận về di sản của Đoàn kết và thời kỳ quân luật.
KOR (Komitet Obrony Robotników; Ủy ban Bảo vệ Công nhân): được lập ra năm 1976 bởi Adam Michnik, Jacek Kuroń, Edward Lipiński, Jan-Józef Lipski, Jan Lityński, Antoni Macierewicz, và những người khác để cung cấp sự giúp đỡ cho những công nhân những người đã chịu sự đàn áp bởi vì hoạt động lao động hay bất đồng chính kiến; đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng bằng cách tạo ra một liên minh giữa gới trí thức và các công nhân trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cộng sản.
KPP (Komunistyczna Partia Polski; Đảng Cộng sản Ba Lan): một đảng cánh tả cấp tiến tồn tại bất hợp pháp ở Ba Lan từ 1918-1937; liên hệ mất thiết với Liên Xô; bị Stalin giải tán.
Kultura (Văn hóa): một tạp chí lưu vong quan trọng được xuất bản ở Paris từ 1947.
“Lojalki”: tuyên bố trung thành, mà chính phủ cộng sản đã thử moi ra từ các tù nhân chính trị.
Magdalenka: một làng gần Warsaw nơi các nhà đàm phán hàng đầu tại Bàn Tròn đã gặp nhau một cách riêng tư để vượt qua một số bế tắc đã gặp phải trong các cuộc thảo luận công khai; ngày nay tên này là một ẩn dụ cho những người đưa ra luận điệu rằng một giao dịch thỏa thuận bí mật đã đạt được trong năm 1989 mà đã cho phép những người cộng sản giữ lại ảnh hưởng của họ.
Mazowsze: vùng giữa Ba Lan mà bao gồm cả Warsaw; một cơ sở quan trọng cho phong trào Đoàn kết.
Milicja Obywatelska (dân quân): cảnh sát trong thời kỳ cộng sản. 
Nhà máy Máy kéo Ursus: một hãng lớn ở gần Warsaw mà đã là địa điểm của nhiều náo loạn lao động trong thời kỳ cộng sản, nổi bật nhất trong năm 1976; một trong những trung tâm hàng đầu của sức mạnh của phong trào Đoàn kết; nhân viên bao gồm Zbigniew Bujak và Zbigniew Janas.
Nowa Huta: khu tổ hợp công nghiệp khổng lồ gần Kraków được xây dựng không lâu sau Chiến tranh Thế giới II; một trong những địa điểm chính của sự náo loạn công nghiệp trong năm 1988 mà đã góp phần vào việc bắt đầu các cuộc Đàm phán Bàn Tròn.
NSZZ “Solidarność” (Niezależny Samorządny Związek Zawodowy “Solidarność”; Nghiệp đoàn Tự-quản Độc lập, “Đoàn kết”): tên chính thức đầy đủ của Đoàn kết.
OPZZ (Ogólnopolskie Porozumienie Związków Zawodowych; Liên minh Nghiệp đoàn Lao động toàn Ba Lan): một công đoàn do nhà nước bảo trợ được lập ra năm 1984 trong một cố gắng để lấy đi sự ủng hộ khỏi Đoàn kết.
PAX: một tổ chức Công giáo thân cộng sản được hình thành trong năm 1952.
PC (Porozumienie Centrum; Liên minh Trung tâm): đảng chính trị trung-hữu được thành lập năm 1990 bởi (hai anh em sinh đôi) Lech Kaczyński và Jarosław Kaczyński; ngày nay là một phần của AWS.
Phép màu trên sông Vistula: tên thông tục cho một trận đánh trong năm 1920, mà đã đẩy lui một cuộc tấn công Soviet trong chiến tranh Ba Lan-Soviet 1919-1921.
Phong trào Ba Lan Trẻ: Một phong trào đối lập Công giáo, dân tộc chủ nghĩa, bảo thủ được thành lập năm 1979 bởi Aleksander Hall.
Polityka (Chính trị): một tạp chí hàng tháng quan trọng được thành lập năm 1957; trong thời kỳ cộng sản, được coi là cơ quan của phái ôn hòa của đảng PZPR.
PPS (Polska Partia Socjalistyczna; Đảng Xã hội chủ nghĩa Ba Lan): được thành lập năm 1892 với hai mục tiêu của một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và độc lập dân tộc; một trong những đảng chính trị lớn nhất của Ba Lan trong thời gian giữa hai thế chiến; bị PPR hấp thu để tạo thành PZPR trong năm 1948; được tái lập trong năm 1987, nhưng thuộc bên lề hiện nay.
PPR (Polksa Partia Robotnicza; Đảng Lao động Ba Lan): tên của Đảng Cộng sản Ba Lan từ 1942-1948, tại lúc khi nó chiếm quyền.
PRON (Patriotyczny Ruch Odrodzenia Narodowego; Phong trào Yêu nước Phục hưng Dân tộc): một tổ chức được chính phủ lập ra năm 1982 trong một cố gắng để cung cấp một diễn đàn có thể quản lý được cho những người không cộng sản để tham gia vào đời sống công; được các nhân vật đối lập hiểu một cách rộng rãi như một thủ đoạn tuyên truyền vô nghĩa.
PSL (Polskie Stronnictwo Ludowe; Đảng Dân túy Ba Lan): một đảng nông dân được thành lập năm 1895; dưới sự lãnh đạo của Stanisław Mikołajczyk, đã trở thành tiêu điểm của phe đối lập hợp pháp đối với những người cộng sản 1945-1947; bị giải tán trong năm 1949 để lập ra ZSL; được tái lập trong năm 1990.
PZPR (Polska Zjednoczona Partia Robotnicza; Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan): tên của đảng cộng sản Ba Lan 1948-1989; được lập ra bởi sự hợp nhất của PPS và PPR.
Sejm: Quốc hội Ba Lan (Hạ viện).
SdRP (Socjaldemokracja Rzeczypospolitej Polskiej; Đảng Xã hội Dân chủ của Cộng hòa Ba Lan): đảng kế vị của đảng PZPR, sau khi PZPR giải tán trong năm 1989; giải tán trong năm 1999 với sự tổ chức lại của SLD.
SLD (Sojusz Lewicy Demokratycznej; Liên minh Dân chủ cánh Tả): tổ chức chính trị được tạo ra quanh SdRP, OPZZ, và nhiều đảng cánh tả nhỏ khác; được tổ chức lại và tập trung hóa trong năm 1999 như Đảng Dân chủ cánh Tả (Stronnictwo Lewicy Demokratycznej; vẫn là SLD); đã nắm quyền ở Ba Lan (cùng với Đảng Dân túy Ba Lan) từ 1994-1997.
Synod: một hội thảo định kỳ của các giám mục, được tổ chức khi có nhu cầu được cảm nhận để giải quyết một tập đặc biệt của các vấn đề.
“Tan băng” tháng Mười: tên thông tục cho các cuộc cải cách được thể chế hóa sau khi Władysław Gomułka trở thành Bí tư thứ Nhất của PZPR tháng Mười 1957.
TKK (Tymczasowy Komisja Koordynacyjna; Ủy ban Điều phối Lâm thời): cơ quan chỉ huy của Đoàn kết từ 1982-1987.
UD (Unia Demokratyczna; Liên hiệp Dân chủ): đảng khai phóng (tự do) được thành lập năm 1990 từ cánh trung tả của phong trào Đoàn kết; các thành viên hàng đầu gồm Jacek Kuroń, Tadeusz Mazowiecki, Zbigniew Bujak, và Adam Michnik; hợp nhất với Đại hội Dân chủ-Tự do trong năm 1994 để tạo ra UW.
UP (Unia Pracy; Liên hiệp Lao động): đảng xã hội dân chủ được tạo ra trong năm 1992 từ một số tổ chức cánh tả nhỏ hơn; gồm cả các cựu thành viên của phong trào Đoàn kết và một số cựu đảng viên cộng sản.
Ủy ban Công dân: được lập ra năm 1989 để ứng cử đối lại PZPR trong các cuộc bầu cử một phần tự do đầu tiên.
Ủy ban Trung ương: một định chế tương đối lớn bên trong đảng cộng sản, được trao quyền hạn cuối cùng về bổ nhiệm và hoạch định chính sách (tuy trong thực tế thường lệ thuộc vào Bộ Chính trị).

UW (Unia Wolności; Liên hiệp Tự do): được tạo ra trong năm 1994 với sự liên hiệp của UD và Đại hội Dân chủ Tự do; một sự pha trộn đôi khi kỳ quặc của những người Công giáo ôn hòa (như Tadeusz Mazowiecki), những người tự do phúc lợi xã hội (như Jacek Kuroń và Adam Michnik), và những người tự do thị trường tự do (như Leszek Balcerowicz); từ 1997, một phần của chính phủ liên hiệp với AWS.
Xưởng đóng tàu Lenin: xưởng đóng tàu khổng lồ ở Gdańsk mà đã là tiêu điểm của bất ổn lao động trong thời kỳ cộng sản; các cuộc đình công ở đây năm 1970 đã dẫn đến một sự đàn áp quân sự hung bạo; các cuộc đình công ở đây trong năm 1980 đã dẫn đến việc thành lập Đoàn kết.
Więź (Trái phiếu): một tạp chí Công giáo hàng tháng được thành lập năm 1958; đã được phép xuất bản hợp pháp suốt thời kỳ cộng sản.
WRON (Wojskowa Rada Ocalenia Narodowego; Hội đồng Quân sự Cứu Nước): được tổ chức trong năm 1980 để cai trị trong giai đoạn quân luật.
Znak (Dấu hiệu): một tạp chí định kỳ Công giáo hợp pháp trong thời kỳ cộng sản; ngoài ra là tên cho một nhóm nhỏ của những người Công giáo được cho phép giữ các ghế quốc hội, 1957-1976.
ZSL (Zjednoczone Stronnictwo Ludowe; Đảng Dân túy Thống nhất): được thành lập năm 1949 sau khi giải tán PSL; đã được phép cử các đại biểu vào quốc hội suốt thời kỳ cộng sản, nhưng đã không có sự tự trị hay quyền lực nào; đã nổi loạn chống lại những người cộng sản trong năm 1989 bằng cách ủng hộ việc lập ra chính phủ Mazowiecki.
Những người cộng tác
László Bruszt là Phó Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học Trung Âu ở Budapest. Ông đã tham gia trong các cuộc thảo luận Bàn Tròn Hungary như đại diện thường xuyên của Liên minh các Nghiệp đoàn Độc lập. Đồng tác giả của Pathways from State Socialism (1998), ông đã công bố rộng rãi về các vấn đề đại diện lợi ích và chủ nghĩa công ty.
Mark Chesler là Giáo sư Xã hội học tại Đại học Michigan. Chuyên môn của ông bao gồm nghiên cứu hành động; giải quyết xung đột; phân biệt chủng tộc, phân biệt giới và các thể chế đa văn hóa; những khía cạnh tâm lý của ung thư. Những công bố gần đây của ông gồm các bài báo trên các tạp chí được biên tập về tính đa dạng và sự thay đổi trong các tổ chức và đã là đồng tác giả của Cancer and Self-Help: Bridging the Troubled Waters of Childhood Illness(1996). Ông tư vấn tích cực với các đại học, các công ty, các cơ quan công cộng, và các nhóm cộng đồng về các vấn đề xung đột và thay đổi.
Michael D. Kennedy là Phó Hiệu trưởng về các Vấn đề Quốc tế, Giám đốc của Viện Quốc tế, và Phó Giáo sư về Xã hội học tại Đại học Michigan. Ông đã tiến hành nghiên cứu rộng rãi về các trí thức, các nghề nhiệp, xã hội dân sự, và quốc gia ở Đông Trung Âu, đặc biệt Ba Lan. Các sách của ông bao gồm Professionals, Power, and Solidarity in Poland: A Critical Sociology of Soviet-Type Society (1991), biên tập cuốn Envisioning Eastern Europe: Postcommunist Cultural Studies (1994), và đồng biên tập các cuốn Intellectuals and the Articulation of the Nation (1999) Globalizations and Social Movements: Culture, Power and the Transnational Public Sphere (2000). Ông đang hoàn thành một cuốn sách về các hình thái văn hóa hậu cộng sản.
Heinz Klug là Trợ lý Giáo sư Luật tại Đại học Wisconsin-Madison. Một chuyên gia về luật hiến pháp so sánh, luật quốc tế, và quyền tài sản, ông đã công bố nhiều bài báo về cải cách ruộng đất và làm hiến pháp ở Nam Phi. Ông là tác giả của Constituting Democracy: Law, Globalism and South Africa's Political Reconstruction (2000), và hiện đang nghiên cứu về tác động của khủng hoảng AIDS lên cuộc đấu tranh đối với việc bảo vệ patent quốc tế.
Jan Kubik là Phó Giáo sư về Khoa học Chính trị và Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nga, Trung và Đông Âu tại Đại học Rutgers. Các mối quan tâm nghiên cứu của ông gồm chính trị và văn hóa, chính trị mức địa phương, chính trị phong trào và phản đối, và những biến đổi hậu cộng sản. Ông là tác giả của The Power of Symbols Against the Symbols of Power: The Rise of Soliarity and the Fall of State Socialism in Poland (1994) và đồng tác giả của Rebellious Civil Society: Popular Protest and Democratic Consolidation in Poland, 1989-1993 (1999). Hiện tại ông tiến hành nghiên cứu về vai trò của những di sản lịch sử trong thời hậu cộng sản.
Margarita Nafpaktitis là nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Bộ môn Ngôn ngữ và Văn học Slavic tại Đại học Michigan. Cô đang hoàn tất luận văn về ngữ nghĩa của không gian trong văn học Hiện đại Nga.
Stephanie Platz là trợ lý Giáo sư Lịch sử tại Đại học Michigan. Một chuyên gia về lịch sử và văn hóa Armenia thế kỷ mười chín và thế kỷ hai mươi, bà đã công bố nhiều bài báo về các vấn đề bản sắc, tính dân tộc, và chủ nghĩa dân tộc. Bà đang hoàn tất một cuốn sách về mối quan hệ giữa lịch sử, khoa học, và bản sắc dân tộc Armenia.
Donna Parmelee, một nhà xã hội học và chuyên gia Balkan, là Nhà Quản lý các Dự án được Tài trợ và Cộng sự Hành chính tại Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu và Viện Quốc tế tại Đại học Michigan.
Brian Porter là Phó Giáo sư Lịch sử tại Đại học Michigan, và tác giả của When Nationalism Began to Hate: Imagining Modern Politics in Nineteenth-Century Poland (2000). Công việc của ông tập trung vào lịch sử trí tuệ và văn hóa chính trị của Đông-Trung Âu trong thế kỷ thứ mười chín và thế kỷ hai mươi. Hiện tại ông đang nghiên cứu cho một cuốn sách về sự nổi lên và sự phát triển của chủ nghĩa yêu nước Công giáo ở Ba Lan.
Gay W. Seidman là Phó Giáo sư về Xã hội học tại Đại học Wisconsin-Madison. Các mối quan tâm nghiên cứu của bà bao gồm các phong trào lao động trong các nước đang phát triển, các ý thức hệ giới, sự phân tầng chủng tộc, và tái cấu trúc kinh tế. Tác giả của Manufacturing Militance: Workers’ Movements in Brazil and South Africa, 1970-1985 (1994), bà đang nghiên cứu về chủ nghĩa tích cực lao động xuyên quốc gia.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
[1] Jeffrey Paige, Coffee and Power: Revolution and the Rise of Democracy in Central America (Cambridge: Harvard University Press, 1997).
[2] Guillermo O’Donnell, Modernization and Bureaucratic Authoritarianism (New Haven: Yale University Press, 1973); David Collier, ed., New Authoritarianism in Latin America (Princeton: Princeton University Press, 1980); Alain Rouquie, The Military and the State in Latin America, trans. Paul Sigmund (Berkeley: University of California Press, 1987).
[3] Guillermo O’Donnell and Phillipe Schmitter, eds., Transitions from Authoritarian Rule: Tentative Conclusions about Uncertain Democracies (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986); Alfred Stepan, ed., Democratizing Brazil (Oxford: Oxford University Press, 1989); J. Samuel Valenzuela and Arturo Valenzuela, eds., Military Rule in Chile: Dictatorship and Oppositions (Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1986).
[4] Adam Przeworski, Democracy and the Market: Political and Economic Reforms in Eastern Europe and Latin America (Cambridge: Cambridge University Press, 1991); Samuel Valenzuela, “Labor Movements in Transitions to Democracy,” Comparative Politics 21:4 (1989): 445-72. Nhưng xem Bruce Cumings, “The Abortive Abertura in South Korea in Light of the Latin American Helen Kellogg Institute for International Studies by University of Notre Dame Press, 199 Experience,” New Left Review 173 (Jan-Feb 1989): 5-32; Scott Mainwaring, Guillermo O’Donnell and J. Samuel Valenzuela, eds., Issues in Democratic Consolidation: The New South American Democracies in Comparative Perspective (Notre Dame: Published for the 2).
[5] Ngay cả trong trường hợp Ba Lan, tuy vậy, một sự xem xét ngờ vực hơn của các nhóm cử tri phong trào trong các cuộc đàm phán có thể hỏi những cá nhân nào thực sự xuất hiện tại Bàn Tròn, và vì sao. Như thế, chẳng hạn, sự thiếu vắng thực sự của phụ nữ có thể đáng sự thảo luận nào đó – mặc dù có vẻ đã được coi là nghiễm nhiên bởi những người tham gia những người đã nói tại hội thảo Michigan.
[6] Arturo Escobar and Sonia Alvarez, eds., The Making of Social Movements in Latin America: Identity, Strategy, and Democracy (Boulder: Westview Press, 1992); Sonia Alvarez, Engendering Democracy in Brazil: Women’s Movements in Transition Politics (Princeton: Princeton University Press, 1990); Maria Helena Moreira Alves, State and Opposition in Military Brazil (Austin: University of Texas Press, 1985); Norma Stoltz Chinchilla, “Marxism, Feminism and the Struggle for Democracy in Latin America,” Gender and Society 5:3 (1991): 291-310; Elizabeth Jelin, ed., Women and Social Change in Latin America (London: Zed Books, 1990); Margaret Keck, The Workers’ Party and Democratization in Brazil (New Haven: Yale University Press, 1992); Anthony Marx, Lessons of Struggle: South African Internal Opposition, 1960-1990 (New York: Oxford University Press, 1992); Deitrich Reuschemeyer, Evelyne Huber Stephans and John Stephans, Capitalist Development and Democracy (Chicago: University of Chicago Press, 1992); Gay Seidman, Manufacturing Militance: Workers’ Movements in Brazil and South Africa, 1970-1985 (Berkeley: University of California Press, 1994).
[7] Peter Dicken, Global Shift: The Internationalization of Economic Activity, 2nd ed. (New York: The Guilford Press, 1992); David Held, Anthony McGrew, David Goldblatt and Jonathan Perraton, Global Transformations: Politics, Economics and Culture (Stanford: Stanford University Press, 1999).
[8] Fred Cooper and Randall Packard, eds., International Development and the Social Sciences (Berkeley: University of California Press, 1997).
[9] F.H. Cardoso and Enzo Faletto, Dependency and Development in Latin America, trans. Marjory Mattingly Urquidi (Berkeley: University of California Press, 1979); Peter Evans, Dependent Development: The Alliance of Multinational, State, and Local Capital in Brazil (Princeton: Princeton University Press, 1979).
[10] World Bank, World Development Report 1991 (Washington: World Bank, 1991).
[11] Thomas Biersteker, “The Triumph of Liberal Economic Ideas in the Developing World,” in Barbara Stallings, ed., Global Change, Regional Response (Cambridge: Cambridge University Press, 1995), 174-98; Michael Carter, “Intellectual Openings and Policy Closures: Disequilibria in Contemporary Development Economics,” in Frederick Cooper and Randall M. Packard, eds., International Development and the Social Sciences (Berkeley: University of California Press, 1997), 119-149; Gary Gereffi and Donald Wyman, eds., Manufacturing Miracles: Paths of Industrialization in Latin America and East Asia (Princeton: Princeton University Press, 1990); Robert Wade, “East Asia’s Economic Success: Conflicting Perspectives, Partial Insights, Shaky Evidence,” World Politics 44 (1992): 270-320.
[12] Eric Helleiner, States and the Reemergence of Global Finance: Từ Bretton Woods to the 1990’s (Ithaca: Cornell University Press, 1994); Held, et al.
[13] Philip McMichael, Development and Social Change: A Global Perspective (Thousand Oaks, CA: Pine Forge Press, 1996), 125-62.
[14] McMichael; Barbara Stallings, ed., Global Change, Regional Response (Cambridge: Cambridge University Press, 1995).
[15] Ian Kearns, “Eastern and Central Europe in the World Political Economy,” in Richard Stubbs and Geoffrey Underhill, eds., Political Economy and the Changing Global Order (New York: St. Martin’s Press, 1994), 378-89.
[16] Margaret Keck and Kathryn Sikkink, Activists Beyond Borders: Advocacy Networks in International Politics (Ithaca: Cornell University Press, 1998); Liisa Malkki, “Citizens of Humanity: Internationalism and the Imagined Community of Nations,” Diaspora 3:1 (1994): 41-68; Connie McNeely, ed., Public Rights, Public Rules: Constituting Citizens in the World Polity and National Policy (New York: Garland Pub., 1998).
[17] Thí dụ, Glenn Adler and Eddie Webster, “Toward a Class Compromise in South Africa’s ‘Double Transition’: Bargained Liberalization and the Consolidation of Democracy,” Politics and Society, 27:3 (1999): 347-85; Elizabeth Jelin and Eric Hershberg, Constructing Democracy: Human Rights, Citizenship, and Society in Latin America (Boulder: Westview Press, 1996).
[18] Toàn bộ bản gỡ băng, Communism’s Negotiated Collapse: The Polish Roud Table, Ten Years LaterA Conference at the University of Michigan. April 7-10, 1999. English Transcript of the Conference Proceedings, trans. by Kasia Kietlinska, ed. by Donna Parmelee (Ann Arbor: The University of Michigan Center for Russian and East European Studies, 1999), có sẵn tại <www.umich.edu/~iinet/Ba LanRoundTable/frame.html>. [Bản tiếng Việt: Bàn tròn Ba Lan – Những bài học.]
[19] Về giải thích của các chữ viết tắt, xem đoạn “Các Tổ chức và Thuật ngữ” dưới đây.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:47
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_24.html
=======================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001