Trương Đình Trung - TPP và quan hệ Việt - Mỹ
Trương Đình Trung
Những năm gần đây dư luận bàn nhiều về sự hình thành TPP
(Trans-Pacific Partnership), Dự án Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương do Mỹ
khởi xướng như một phần về lãnh vực kinh tế trong chính lược "chuyển hướng"
(pivoting), hay tái cân bằng (rebalancing) của Mỹ đối với Á Châu. Việt
Nam là một trong những quốc gia hưởng ứng nhanh chóng đối với dự án này.
Vậy thử cùng nhau tìm hiểu xem thực chất TPP là gì và VN sẽ được gì khi
tham gia TPP.
TPP bắt nguồn từ tổ chức Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (TPSEP hay P4) là một hiệp ước tự do mậu dịch giữa 4 quốc gia: Brunei, Chile, New Zealand và Singapore, được lập ra năm 2005.
Về sau, năm 2008 Mỹ bắt đầu có ý muốn tham gia vào TPSEP, cùng với Mỹ có thêm Úc, Việt Nam và Peru. Đến năm 2010, với chiến lược "Pivot Aisa", Mỹ đề nghị mở rộng TPSEP ra bao gồm nhiều quốc gia hơn và có tên gọi là Trans-Pacific Partnership, gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Japan, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, USA và Việt Nam. Kể từ đó tên gọi TPP trở nên quen thuộc, các cuộc thương lượng giữa các quốc gia liên quan diễn ra liên tục và thu hút sự chú ý của công luận hơn. Nam Hàn cũng đã được mời tham gia, nhưng chưa nhận lời. Như vậy tính cho đến nay là gồm 12 quốc gia.
Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến cho đến gần đây, một cách tổng quát, mậu dịch thế giới được điều hành thông qua những định chế quốc tế như IMF, World Bank và WTO. Thoả thuận căn bản cho hoạt động của ITO (International Trade Organization, tiền thân của WTO) và WTO là GATT (General Tariff and Trade) (Thỏa ước Tổng quát về Mậu Dịch và Thuế Quan), được lập ra từ năm 1944 ở Bretton Wood, dần dà tỏ ra không còn thích hợp với tình hình mới của nền kinh tế thế giới; đặc biệt nhất là từ sau khi Mỹ, dưới thời của tổng thống Nixon, đã đơn phương bải bỏ chế độ Kim bản vị đối với đồng dollars. Những thập niên gần đây, các cuộc thương lượng mậu dịch quốc tế của WTO liên tiếp thất bại; nổi bật nhất là sự thất bại của các vòng đàm phán ở Doha (thủ đô của Qatar, một quốc gia nhở ở vùng Vịnh Ba Tư, Persian Gulf.), kéo dài 10 năm, từ 2001, giữa cấp bộ trưởng của các quốc gia thành viên WTO. Sự bất đồng căn bản là thuế quan (tariffs), kéo theo sự bất đồng trên hàng loạt các vấn đề khác, trong đó đáng chú ý nhất là vấn đề quyền sỡ hữu trí tuệ (Intellectual Property Rights), vấn đề tài trợ nông nghiệp, và thủ tục tranh tụng pháp lý giữa các thành viên. Sự thất bại của WTO trong vai trò thống nhất nền mậu dịch quốc tế đang dẫn đến tình trạng ra đời ngày càng nhiều các tổ chức mậu dịch vùng hoặc khu vực (NAFTA, ASEAN, EAFTA, v.v...). Tình hình đó là dấu hiệu cho thấy hệ thống kinh tế thế giới đơn cực do Mỹ thiết lập nên từ sau Đệ Nhị Thế Chiến đang bị lung lay bởi một hệ thống đa cực bắt đầu hình thành trong môi trường toàn cầu hoá ngày càng tăng.
Riêng trong khu vực Á Châu, nhiều nỗ lực về những khu vực mậu dịch như vậy đã bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20. Chẳng hạn như khu vực tự do mậu dịch giữa khối ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, thường được gọi là ASEAN PLUS THREE, được thai nghén từ năm 1197, khởi đầu bằng những dự định tự do mậu dịch và hợp tác trong các lãnh vực năng lượng, vận tải và thông tin, những năm gần đây còn bàn thêm cả lãnh vực tài chánh và an ninh. Các quốc gia cũng đang bàn thảo về dự án một khu vực tự do mậu dịch Á Châu-Thái Bình Dương trong đó Trung Quốc là trụ cột, báo chí Anh ngữ gọi đó là Asian-Pacific Track. TPP ra đời chính là vì Mỹ không muốn thụ động và đứng bên lề, trái lại muốn chiếm tiên cơ và duy trì thế thượng phong trong nền kinh tế Á Châu-Thái Bình Dương. Hơn nữa dự án Á Châu - Thái Bình Dương chỉ giới hạn ở tự do mậu dịch đối với hàng hoá, phần lớn là sản phẩm chế tạo (manufacturing goods); trong khi đó TPP lại có kế hoạch mở rộng tự do mậu dịch không chỉ cho hàng hoá, mà còn cho cả các lãnh vực dịch vụ, tài sản trí tuệ, đầu tư và lao động nữa. Trung Quốc, với hệ thống các cơ sở quốc doanh (SOE) vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế, chắc chắn không thể chấp nhận một mức độ tự do hoá mậu dịch (liberalization of trade) cao như vậy, và đó chính là trở lực để Trung Quốc có thể tham gia vào TPP trong tương lai.
Tất nhiên TPP là một thỏa thuận mậu dịch quan trọng. Nó quan trọng không chỉ đối với Mỹ, mà còn đối với tất cả các quốc gia thành viên và cả tương lai của Á Châu. Ngay cả quy mô kinh tế của TPP thôi cũng đủ nói lên tầm mức quan trọng của nó; tổng GDP của các quốc gia thành viên sẽ lên đến gần 28 ngàn tỉ dollars, và tổng dân số là gần 800 triệu người. Tính cho đến nay, hàng năm Mỹ nhập khẩu từ các quốc gia thành viên TPP là chừng 850 tỉ dollars và xuất khẩu qua những nước đó chừng 690 tỉ dollars. Tất nhiên sau này khi TPP thành hình mức độ mậu dịch đó sẽ còn gia tăng gấp bội.
Theo US Congressional Research Services
Lợi ích kinh tế do TPP mang lại cho các quốc gia thành viên được ước tính là sẽ rất lớn. Theo tính toán của Viện Peterson về Kinh tế Quốc tế thì sau khi vận hành, TPP có thể tạo ra một lợi tức đồng niên cho tổ chức chừng 295 tỉ dollars, trong đó Mỹ sẽ được khoảng 78 tỉ dollars. Riêng Việt Nam thì cũng theo ước tính đó, TPP sẽ giúp gia tăng GDP gấp đôi vào năm 2025!
Rõ ràng đó là một viễn cảnh rất tốt đẹp, nhất là cho Việt Nam. Tuy nhiên, những điều tốt đẹp luôn có giá cả riêng của nó và thường thì những điều khó khăn trong bang giao quốc tế không lộ hẳn ra bên ngoài, mà nằm chìm khuất đâu đó ở bên dưới. Những cuộc thương lượng (negotiations) kéo dài và hoàn toàn được giữ bí mật chính là do những khó khăn đó mà ra. Ở đây các cuộc thương lượng để hình thành TPP cũng mang tính chất tương tự như các vòng đàm phán Doha của WTO vậy; nghĩa là cũng bị chi phối bởi bản chất vị kỷ muôn thuở của con người: ai cũng chỉ muốn thủ lợi cho riêng mình, thường chỉ muốn bàn cái gì mình sẽ nhận được hơn là những gì mình phải cho ra! Và sau đây xin thử điểm qua một số những điểm khó khăn của càng vòng thương lượng.
Trước hết là trong lãnh vực nông nghiệp. Theo số liệu năm 2011 thì các quốc gia TPP nhập và xuất khẩu nông nghiệp chiếm chừng 30% tổng lực xuất nhập nông nghiệp của toàn thế giới. Những nông phẩm được quan tâm nhất của các quốc gia TPP gồm bơ sửa, gạo, thịt bò và đường. Đối với những nông phẩm đó lập trường của Mỹ và các quốc gia thành viên khác nhau khá nhiều. Mỹ thì muốn áp dụng các nguyên tắc của khối NAFTA (khối tự do mậu dịch Bắc Mỹ), nhưng nhiều quốc gia TPP khác không đồng ý.
Đối với bơ sữa, New Zealand và Úc là hai nước xuất khẩu lớn, riêng New Zealand đã chiếm 10 tỉ dollars trên tổng số 39 tỉ dollars bơ sữa của toàn thế giới. Mỹ cũng là một quốc gia xuất khẩu nhiều bơ sữa (4.2 tỉ), tuy không bằng New Zealand, và các nhà sản xuất bơ sữa Mỹ hiện đang muốn cạnh tranh với New Zealand trên thị trường thế giới. Khó khăn là một khi TPP hình thành, bơ sữa của Mỹ sẽ gặp phải sự cạnh tranh ráo riết của New Zealand ngay trên thị trường nội địa của mình, và điều đó sẽ tạo khó khăn cho nỗ lực của các nhà sản xuất bơ sữa Mỹ muốn vươn lên, gia tăng phần mình trong thị trường bơ sữa quốc tế. Chưa kể là ngoài New Zealand, Úc cũng là một nước sản xuất bơ sữa lớn (khoảng hơn tỉ dollars). Như vậy nếu Mỹ đòi hỏi tự do hoá mậu dịch (trade liberalization) như là tiêu chuẩn của TPP, thì tiêu chuẩn đó cũng phải được áp dụng đồng đều giữa các thành viên và cho các sản phẩm, kể cả bơ sữa. Để làm vậy, thị trường bơ sữa nội địa của Mỹ phải thay đổi để phù hợp với khung cảnh mậu dịch mới, nhưng đó không phải là điều dễ dàng cho giới sản xuất bơ sữa Mỹ.
Về đường. Lâu nay thỏa ước mậu dịch tự do Mỹ-Úc chấp nhận không tự do hoá mậu dịch về đường; nghĩa là mỗi bên tiếp tục giữ mức quan thuế của mình. Nhưng nay Úc gia nhập TPP, những gì áp dụng cho Úc-Mỹ cũng phải được áp dụng cho các thành viên khác, còn nếu không thì thỏa thuận trước kia của Mỹ-Úc về đường phải thay đổi. Việt Nam cũng là một nước xuất khẩu đường. Lâu nay Việt Nam chỉ đánh thuế 5% cho đường nhập vào từ các quốc gia ASEAN, nhưng đánh đến 40% đối với đường từ các nước khác, gồm cả đối với những nước hiện nay đang sắp gia nhập TPP. Điều đó có nghĩa rằng đường sẽ là một đề tài thương lượng căng thẳng giữa Mỹ, Việt Nam và các quốc gia TPP khác.
Rồi về gạo. Đây cũng là một nông sản gây ra khó khăn không nhỏ cho các cuộc thương lượng TPP. Nhật Bản là nước tài trợ (subsidy) lớn nhất và thực hiện bảo hộ mậu dịch mạnh cho nông nghiệp, đặc biệt cho lúa gạo. Đó chính là lý do nông dân Nhật trong thời gian gần đây đã biểu tình rầm rộ để chống lại việc Nhật gia nhập TPP, chính phủ Abe đã phải vất vả lắm mới thuyết phục được quốc hội Nhật và vì vậy mãi đến cách đây mấy tuần Nhật mới chính thức gia đàm phán để vào TPP. Nhật, Malaysia, và cả Nam Hàn, nếu sau này quốc gia này đổi ý, chắc chắn là muốn giữa nguyên mức thuế quan (tariff) và tài trợ lúa gạo như hiện nay, và không muốn để bị gạo từ Mỹ, Úc, và Việt Nam cạnh tranh. Hiện nay mức tariff rates đối với gạo giữa các nước TPP rất khác nhau: Mỹ đánh $18-$21 một tấn gạo; Việt Nam đánh từ 20% đến 40%; Malaysia đánh đến 40%. Sự thương lượng để đạt được sự đồng thuận về gạo, như vậy, không phải dễ dàng và chắc chắn là sẽ mất nhiều thời gian.
Kế đến là thịt bò. Lâu nay Nhật và Nam Hàn cấm nhập cảng bò từ Mỹ kể từ sau vụ bò Mỹ bị phát hiện mắc bịnh rỗng não (bovine spongy encephalopathy) hồi năm 2003. Từ đó đến nay đại diện thương mãi Mỹ đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn chưa thuyết phục được các quốc gia đó hoàn toàn bãi bỏ lệnh cấm nhập cảng bò. Chưa kể là vấn đề về GM foods (Genetic Modified foods) cũng còn đang là đề tài tranh chấp, tuy không gay go lắm.
Đến đây thiết tưởng cũng cần mở ngoặc để nói sơ về GM Foods, một đề tài tranh chấp căng thẳng từ mấy mươi năm nay giữa Mỹ và Âu Châu, nhưng có lẽ chưa được dư luận của người Việt chúng ta chú ý đến nhiều.
Vắn tắt thì GM FOODS hay GMO FOODS là loại thực phẩm được tạo ra do kết quả của việc áp dụng các kỹ thuật sinh học và di truyền học vào một số thực vật và động vật (như cá hồi, salmons). Chữ GM là viết tắt của từ genetic modification, GM Foods là do từ Genetic modified foods mà ra. Kỹ thuật di truyền học, hay DNA Biological technology, có từ nhiều thập kỷ về trước và đã được cải tiến rất nhiều. Thành tựu và những cải tiến liên tục về các kỹ thuật can thiệp vào chuổi DNA đã được áp dụng trong các nghiên cứu y học, dược học, sinh học phân tử, cả sinh học giảo nghiệm hình sự (forensic biology), và trong lãnh vực nuôi trồng. Trong những thập niên gần đây, hầu hết thực phẩm chế biến ở Mỹ đều đến từ các loại thực vật-động vật mà DNA của chúng đã được biến đổi trong phòng thí nghiệm.
Thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, và thuốc khai quang là những sản phẩm điển hình và là kết quả thông dụng nhất của các kỹ thuật sinh học DNA. Để thuốc diệt cỏ dại, rãi xuống một cánh đồng đậu nành chẳng hạn, chỉ làm chết cỏ mà không gây tổn hại cho cây đậu nành, người ta đã cấy một gen đặc biệt vào trong hạt giống đậu nành, khiến cây đậu có khả năng chống lại thuốc diệt cỏ. Vấn đề là chưa có ai biết chắc loại đậu nành bị "genetic modified" như vậy sẽ tác động như thế nào đối với sức khỏe của người ăn đậu nành và đối với môi trường nói chung. Có vài nhà nghiên cứu khoa học quả quyết rằng khi thí nghiệm cho chuột ăn loại khoai tây đã bị "genetic modified" trong một thời gian lâu thì thế hệ chuột thứ hai khi sinh ra não bộ bị nhỏ đi! Tiếc rằng những kết quả nghiên cứu như vậy, vì một lý do khó hiểu nào đó, lại không được công bố rộng rãi cho công chúng. Có dư luận cho rằng các đại công ty về kỹ thuật sinh học (Bio-engineering technological companies) đã vận dụng sức mạnh tài chánh của mình để trấn áp các nhà khoa học và ém nhẹm những kết quả nghiên cứu như vậy.
Dù sao thì mối quan tâm đối với GM Foods đã ngày càng gia tăng, phát khởi mạnh nhất là ở Âu Châu, và vì vậy trong nhiều thập niên, Âu Châu đã ngăn cấm không cho nhập khẩu các sản phẩm đã được "Genetic modified" từ Mỹ. Tuy chưa thu thập đủ bằng chứng khoa học, công chúng ở nhiều nơi đã cho rằng GM Foods tác hại đến sức khoẻ con người, gây ra dị ứng, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của thai nhi, và ngay cả là mầm móng gây ung thư! Cũng đã có tranh tụng giữa Ấu Châu-Mỹ trước các toà hoà giải của WTO vào những năm đầu của Thế kỷ. Mới gần đây thôi, công chúng ở Anh quốc cũng đã biểu tình dữ dội để chống lại việc lập các phòng thí nghiệm "genetic modìed plants" trên lãnh thổ của mình. Tại Mỹ, sự chống đối GM Foods cũng diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi. Hiện có phong trào đòi phải ghi rõ trong nhãn hiệu thực phẩm có hay không có những thành phẩm GM Foods, mạnh nhất là ở bang California với cuộc vận động gọi là Labeling Initiative, đòi hỏi Quốc hội Mỹ thông qua luật buộc phải kê khai GM Foods lên nhãn các loại thực phẩm. Phiá các đại công ty sinh học, như Monsanto chẳng hạn, cũng đang nỗ lực để vận động hành lang nhằm chống lại những cuộc vận động như vậy.
Một ưu điểm của GM Foods là giá rẻ. Thịt bò, gà, cá hồi, bắp, đậu nành, khoai tây, v.v... được sản xuất theo lối GM Foods có giá rẻ hơn nhiều so với các loại sản phẩm đó sản xuất theo lối tự nhiên. Có điều là các nhà nuôi trồng ở các nước, nếu muốn tái sản xuất các sản phẩm GM đó, phải mua giống do các đại công ty sinh học của Mỹ bán, còn không sẽ bị kiện tụng và phạt tiền!
Thiết nghĩ nhà cầm quyền Việt Nam và đồng bào ở trong Nước cũng nên có những quan tâm đúng mức đối với vấn đề GM Foods, cần thu thập các công trình nghiên cứu khách quan của các nhà khoa học các nước, đồng thời phải tự mình tiến hành những nghiên cứu cấp quốc gia đối với đề tài, rồi cấp tốc phổ biến cho giới chuyên trách trong quá trình thương lượng tham gia TPP để có những đối sách thích hợp nhằm bảo vệ lợi ích lâu dài của dân tộc.
Sau nông nghiệp, đến lãnh vực hàng Dệt, Áo quần và Giày Dép là những sản phẩm mà sự thương lượng TPP cũng gặp không ít khó khăn. Và đây là lãnh vực hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Trong tổng số chừng 20.3 tỉ dollars hàng Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ trong năm 2012, khoảng 9.4 tỉ dollars là hàng áo quần và giày dép; nghĩa là khoảng hơn 46% tổng trị giá hàng bán vào Mỹ. Điều đó nói lên tầm quan trọng của lãnh vực hàng Áo quần và Giày dép đối với phía Việt Nam trong quan hệ mậu dịch Việt-Mỹ. Tất nhiên phiá Việt Nam muốn được phiá Mỹ cắt giảm đến tối thiểu thuế quan dành cho hàng may mặc và giày dép của mình. Khó khăn là chính phủ Mỹ, do áp lực của các công ty dệt, lại muốn áp dụng nguyên tắc có tên là Yarn-Forward Rule vào trong TPP. Người ta còn gọi nguyên tắc đó là Crafting Rules of Origin (COO), một nguyên tắc theo đó Việt Nam phải mua vật liệu dệt của các công ty Mỹ hoặc của các thành viên TPP, mà không được mua vật liệu đó từ một quốc gia ngoài nhóm TPP, để làm sản phẩm may mặc của mình sau đó bán trở lại vào Mỹ và được hưởng quy chế thuế quan ưu đãi của TPP. Điều này dường như đang gây khó khăn cho phiá Việt Nam, vì lâu nay Việt Nam vẫn mua vật liệu dệt từ Trung Quốc với giá rẻ. Việc phải mua vật liệu dệt từ Mỹ, và giảm hoặc thôi không mua vật liệu đó từ Trung Quốc, không những chỉ ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế cho ngành áo quần và giày dép, nhưng có lẽ còn khiến cho giới lãnh đạo ở Hà Nội cảm thấy khó xử về ngoại giao với người "láng giềng tốt" khổng lồ của mình. Đó là một vướng mắc khác trong quá trình thương lượng gia nhập TPP.
Một lãnh vực khác rất quan trọng là lãnh vực các Quyền Sở Hữu Trí Tuệ (Intellectual Property Rights, IPRs), có liên quan chính yếu đến vấn đề y dược. IPRs còn là một lãnh vực phức tạp, bao gồm quyền về Thương hiệu (trademarks), Bản quyền (copyrights), Bằng Sáng Chế hay Môn bài (patents), và Bí mật doanh nghiệp (trade secrets). Tính chất phức tạp đó, cùng với sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các quốc gia thành viên trong TPP, khiến cho sự thương lượng trong lãnh vực này càng gặp nhiều khó khăn hơn. Tất nhiên quốc gia có trình độ phát triển cao hơn luôn muốn gia tăng mức độ và thời hạn cho việc bảo vệ IPRs; trong khi đó quốc gia kém phát triển lại mong muốn ngược lại ngõ hầu có cơ hội tiếp thu và đem vào sử dụng nhanh, một cách có lợi cho mình, các phát kiến mới trong khoa học-kỹ thuật.
Một ví dụ về mâu thuẫn giữa các quốc gia về IPRs là vấn đề sản xuất thuốc generic medicines. Generic medicines là những loại thuốc mà về mặt thành phần dược liệu và công năng hoàn toàn giống như thuốc chính hiệu (brand names) của công ty sản xuất nguyên thuỷ, kẻ sỡ hữu môn bài. Sự khác nhau quan trọng giữa brand names và generic medicines là giá cả; generic medicines có giá cả rẻ hơn nhiều. Một thoả thuận của các thành viên WTO năm 1994 quy định là tuy vẫn nỗ lực bảo vệ IPRs của các công ty chế chế thuốc, các quốc gia thành viên được phép, trong tình trạng khẩn cấp, sản xuất các loại generic medicines để đáp ứng cho nhu cầu y tế khẩn cấp đó của mình. Thái Lan là quốc gia đầu tiên đã tự sản xuất generic medicines để dùng cho người mang bệnh AIDS. Vấn đề ở đây là một định nghiã về tình trạng khẩn cấp quốc gia (national emergency): Một quốc gia có tỉ lệ bệnh nhân cancer cao có thể xem đó là một tình trạng khẩn cấp để được phép tự sản xuất generic medicines?
Ngoài ra, như đã nói TPP không chỉ dừng lại ở lãnh vực mậu dịch hàng hoá, mà còn có tham vọng tự do hoá cả về dịch vụ của các lãnh vực tài chánh, ngân hàng, đầu tư và bảo hiểm nữa. Nhưng để san định những bất đồng giữa các quốc gia thành viên, đặc biệt là những quốc gia có trình độ phát triển cao, có tỉ trọng dịch vụ lớn trong nền kinh tế, về một tiêu chuẩn chung cho các lãnh vự đó không phải là điều dễ dàng. Riêng Việt Nam, thì do trình độ phát triển còn thấp, các lãnh vực dịch vụ nói đó gần như còn bỏ trống, không có ngay cả cơ sở pháp lý thích hợp, sẽ là miếng mồi ngon cho các đại công ty đa quốc gia về tài chánh, ngân hàng và bảo hiểm mặc sức tung hoành. Các đại diện của Việt Nam, vì vậy, hẳn cũng không có mấy vốn liếng để đưa ra trong quá trình thương lượng với đại diện của các quốc gia đối tác; nhất là với đại diện của Mỹ.
Tóm lại, TPP là một tổ chức mậu dịch rất quan trọng của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, với tổng GDP và dân số lớn, gồm các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau; Mỹ, Canada, Nhật, Úc, có thể cả Nam Hàn, và Singapore là những quốc gia có trình độ phát triển rất cao, trong khi Việt Nam là nước yếu kém nhất trong số các thành viên và là nước duy nhất có hệ thống các cơ sở quốc doanh (SOEs). Quá trình thương lượng đang diễn ra rất gay go giữa các quốc gia. Việt Nam là nước yếu nhất, nhưng do nhu cầu chiến lược sống còn, nhà cầm quyền Việt Nam đang cố gắng trên nhiều mặt trận để trở thành thành viên của TPP. Phái đoàn hùng hậu do ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang dẫn đầu hội kiến với Tổng Thống Obama, vào cuối tháng Bảy vừa rồi, phần nào nói lên nỗ lực ngoại giao lớn của phía Việt Nam cho mục tiêu đó. Được biết tháp tùng ông Sang trong cuộc hội kiến có Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, các bộ trưởng Nông Nghiệp và Thương Mại, tướng Tô Lâm, thứ trưởng Công An; và đặc biệt nhất có cả tướng Nguyễn Chí Vịnh, một nhân vật được xem là thân Trung Quốc. Thông dịch cho ông Sang là Phạm Hoàng Xuân An, con trai của cố tướng điệp báo Phạm Xuân Ẩn. Điều mang ý nghĩa đặc biệt là ông Sang đã trao bản copy thư của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi cho cố Tổng thống Mỹ Truman, hồi cuối tháng Tám năm 1945, yêu cầu Truman ủng hộ cho nền độc lập của Việt Nam. Bức thư đã không nhận được sự trả lời của chính phủ Truman, đơn giản chỉ vì chính phủ Mỹ, vào thời đó, xem trọng việc phục hồi cho Pháp để có đồng minh trong việc bảo vệ Âu Châu chống lại Liên Xô hơn là việc ủng hộ cho nỗ lực giành độc lập của một nước Việt Nam nhỏ yếu, xa xôi. Nhiều người đã cho quyết định đó của cố Tổng thống Truman là một sai lầm, một sự lựa chọn sai phía trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ thuộc điạ đang suy tàn ("getting on the wrong side of the battle against colonialism"). Có lẽ thâm ý của nhà cầm quyền Việt Nam, mà đại diện là ông Sang, khi trao bản sao bức thư, là muốn nhắc nhở chính phủ Mỹ không nên để một sai lầm như vậy trong quan hệ với Việt Nam tái diễn chăng? Nhưng lần này ai là phía kia để cho Tổng thống Obama lựa chọn?
31/8/2013
Trương Đình Trung
http://www.fas.org/sgp/crs/row/R42344.pdf
Peterson Institution for International Economics, Policy Brief June 2012.
http://www.nytimes.com/2012/05/25/science/dispute-over-labeling-of-genetically-modified-food.html?_r=0
http://www.youtube.com/watch?v=87qrTXZaXkk&noredirect=1
https://www.youtube.com/watch?v=eUd9rRSLY4A
http://www.ustr.gov/countries-regions/southeast-asia-pacific/vietnam
Khách gửi hôm Chủ Nhật, 01/09/2013
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20130901/tpp-va-quan-he-viet-my
=======================================================================
Việt Nam và Hiệp định TPP – Thách thức và Cơ hội

Nắm bắt các cơ hội kinh tế tại Á Châu trong thời gian tới, và tương lai lâu dài là một phần quan trọng trong chính sách xoay trục sang Châu Á của chính phủ Tổng Thống Obama. Việt Nam có lẽ là quốc gia kém phát triển nhất, có thể nói là nghèo nhất, được chọn làm một trong 12 nước có khả năng trở thành đối tác trong Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái bình dương – TPP. Một cựu chuyên viên kinh tế và tham vấn của Ngân hàng Thế giới bàn về những thách thức và cơ hội đối với Việt Nam. Mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn của phóng viên Ban Việt Ngữ VOA Hoài Hương và ông Nguyễn Quốc Khải (NQK), cựu chuyên viên kinh tế của Ngân hàng Thế giới. Ông từng thỉnh giảng tại School of Advanced International Studies thuộc Johns Hopkins University.
VOA: Xin ông cho biết, trước hết, vào TPP sẽ mang lại những lợi ích gì cho Việt Nam? Hỏi khác đi, nếu không vào TPP, Việt Nam sẽ thiệt thòi như thế nào, sẽ mất đi những cơ hội gì hay quyền lợi nào?
Ông NQK: “Như chúng ta đã biết mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những hàng rào cản hàng hóa và dịch vụ. Do đó, khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng gia số lượng hàng xuất cảng đến các quốc gia TPP với dân số gần 800 triệu (11 % dân số thế giới) và tổng sản phẩm nội địa là khoảng 28 ngàn tỉ Mỹ kim (40% GDP của thế giới). Nhiều đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam đều đang tham gia vào cuộc đàm phán đa phương TPP. Đó là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Singapore, và Mã Lai.
Việt Nam là nước nghèo nhất trong 12 quốc gia TPP hiện nay. Các nước giàu sẽ là thị trường tiêu thụ hàng hóa Việt Nam. Kinh nghiệm cho thấy là Việt Nam không buôn bán nhiều với các nước ASEAN bằng những nước ngoài ASEAN.
Ngoài ra, những nước TPP sẽ là nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam. Với tình trạng kinh tế trì trệ như hiện nay, Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài hơn bao giờ hết. Nếu có một chính sách đầu tư nước ngoài khéo léo, Việt Nam có thể học hỏi và phát triển những ngành công nghiệp cao từ những nước TPP.
Việt Nam sẽ là một nước được hưởng nhiều nhất khi gia nhập TPP. Sự gia tăng thương mại với Hoa Kỳ, một thị trường lớn nhất trong số các nước TPP, sẽ là một yếu tố quan trọng nhất giúp kinh tế Việt Nam phát triển. Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng và luôn luôn là yếu tố quan trọng cho việc phát triển kinh tế Việt Nam. Thứ ba là thuế nhập cảng của các nước TPP sẽ giảm đáng kể. Do đó Việt Nam sẽ gia tăng xuất khẩu quần áo, giầy dép, và hải sản. Việt Nam sẽ không phài cạnh tranh với Trung Quốc trong TPP.
Việc gia nhập TPP sẽ giúp tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam tăng 46 tỉ Mỹ kim tức khoảng 13.6% theo kết quả một cuộc nghiên cứu của Peter A. Petri, Michael G. Plummer, và Fan Zhai vào cuối năm 2012.”
VOA: Thưa đó là những lợi ích của việc gia nhập TPP, nhưng có một số điều kiện Việt Nam cần phải thỏa mãn trước khi được chính thức thâu nhận vào TPP, xin ông cho biết một số điều kiện cụ thể, quan trọng mà Việt Nam phải thỏa đáng?
Ông NQK: “TPP nêu ra một số vấn đề nồng cốt mà Việt Nam sẽ phải thỏa mãn như là tài sản trí tuệ, lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, và công ty nhỏ và trung bình. Quyền lao động, bao gồm quyền thành lập nghiệp đoàn dộc lập, quyền tụ họp, quyền đình công, chỉ là một phần của vấn đề rộng lớn hơn là nhân quyền. Hoa Kỳ đã mạnh mẽ đặt vấn đề này với Việt Nam qua một số thành viên Quốc Hội và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội. Trong cuộc họp với Chủ Tịch Trương Tấn Sang vừa qua tại Nhà Trắng, Tổng Thống Obama đã hai lần nhắc nhở đến vấn đề Nhân Quyền tại Việt Nam.
Vấn đề khó khăn lớn thứ hai mà Việt Nam phải vượt qua là việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước để loại bỏ sự cạnh tranh thiếu công bằng giữa nhà nước và tư nhân. Khu vực quốc doanh chiếm khoảng gần 40% tổng sản lượng nội địa mà lại luôn luôn làm ăn lỗ lã, ngăn cản sự phát triển kinh tế, nhưng lại ưu tiên về vốn đầu tư của nhà nước, quỹ phát triển quốc tế ODA, và vay nợ ngân hàng. Trên 50% nợ xấu của các ngân hàng là do các doanh nghiệp nhà nước. Hơn 10 năm nay, nhà nước bàn thảo việc cải tổ khu vực quốc doanh, nhưng không đạt được tiến bộ cụ thể đáng kể nào.
VOA:Thưa so với lúc Việt Nam vận động xin gia nhập WTO, thì tiến trình thương thuyết để vào TPP nó khác ở chỗ nào, và có những điểm gì mà Hà nội cần chú ý đến nếu muốn mọi sự được suôn sẻ?
Ông NQK: “Vâng, giữa TPP và WTO có một vài khác biệt. WTO có những điều kiện gia nhập rõ ràng. Trong khi đó, TPP dựa vào đàm phán và không có vấn đề nào phải loại trừ. TPP có tính cách toàn diện hơn WTO. Nó bao trùm nhiều vấn đề WTO không đề cập đến hoặc chưa đào sâu như doanh nghiệp nhà nước, quyền sở hữu trí tuệ, và quyền lao động.
Một khó khăn nghiêm trọng Việt Nam đang gặp phải trong cuộc đàm phán hiện nay liên quan đến luật lệ xuất xứ hàng hóa và ngành dệt may, một trong những công nghiệp quan trọng bậc nhất của Việt Nam. Hoa Kỳ đòi hỏi rằng quần áo chỉ được coi là chế tạo ở Việt Nam nếu vải làm bằng tơ sợi cũng được chế tạo tại Việt Nam hay mua của Hoa Kỳ.
VOA: Có cơ chế nào để kiểm soát là Việt Nam không mua vải sợi của Trung Quốc?
Ông NQK: “Mua hàng hóa là phải có xuất xứ. Phải có chứng minh rất là khó khăn. Vì khó khăn cho nên những nước ở Châu Mỹ La Tinh đành phải trả thuế cao, để nước Mỹ có thể bảo vệ ngành dệt vải của họ.”
VOA: Trong những thách thức vừa kể, theo ông thách thức nào là quan trọng nhất, khó khăn nhất, và vì sao lại khó khăn như vậy trong tình hình Việt Nam bây giờ?
Ông NQK: “Thách thức về lao động, nhân quyền, và doanh nghiệp nhà nước là quan trọng và khó khăn nhất đối với Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam phải có những cải tiến cụ thể về chính trị. Từ 2008 đến nay, Hoa Kỳ vẫn từ chối không chấp thuận cho Việt Nam hưởng Quy Chế Ưu Đãi Phổ Quát (Generalized System of Preference – GSP) để có thể nhập cảng vào Hoa Kỳ cả ngàn món hàng miễn thuế. Lý do là Việt Nam chưa thỏa mãn điều kiện về quyền lao động.
Quan trọng hơn, nội bộ chia rẽ của Đảng CSVN hiện nay sẽ làm cho những việc cải tiến cần thiết càng khó khăn thêm. Theo nhận định của GS Carl Thayer và một số quan sát viên quốc tế, một số các nhà lãnh đạo Việt Nam muốn cải thiện mối bang giao với Hoa Kỳ. Một số khác chống lại. Nhóm thứ hai xem ra mạnh hơn. Trong năm 2013, chỉ trong vòng mấy tháng đầu tiên thôi mà Việt Nam đã bắt bớ 40 người, nhiều hơn so với cả năm 2012. Trong khi Việt Nam muốn gia nhập TPP và muốn mua võ khí của Hoa Kỳ, mà lại đi làm những chuyện bắt bớ vi phạm nhân quyền như vậy thì vấn đề trở nên rất là khó khăn.”
VOA: Trở lại với vấn đề kinh tế, nói tới kinh tế, nói tới Châu Á, mà không nói tới Trung Quốc là cả một sự thiếu sót lớn, xét Trung Quốc là một cường quốc đang lên, và là nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, có khả năng trở thành nền kinh tế lớn nhất không chừng! Thế mà Trung Quốc lại không được mời để thương thuyết gia nhập TPP. Rõ ràng “thiếu sót” ấy là có chủ ý. Ông nhận định như thế nào về yếu tố Trung Quốc liên quan tới thương thuyết TPP? Có phải Hoa Kỳ và các đồng minh Châu Á muốn cô lập hóa, bao vây hay kiềm hãm Trung Quốc, như Bắc Kinh vẫn tố cáo?
Ông NQK: “Theo sự hiểu biết của tôi. Có hai dữ kiện khá rõ ràng. Một là Trung Quốc từng tuyên bố chống lại TPP, sau đó lại than phiền rằng Trung Quốc không được mời, và mới đây lại tuyên bố qua phát ngôn viên của Bộ Thương Mại rằng Trung Quốc sẽ nghiên cứu lợi và hại của TPP. Hai là Hành Pháp Hoa Kỳ chưa bao giờ tuyên bố chống lại Trung Quốc gia nhập TPP. Trái lại, Phụ Tá Bộ Trưởng Thương Mại Hoa Kỳ đặc trách Thương Mại quốc Tế nói rằng TPP không phải là một câu lạc bộ khép kín mà là một diễn đàn mở rộng. Hoa Kỳ hy vọng nhiều nước sẽ tham gia.
Việc gia nhập TPP của Trung Quốc nếu có sẽ gặp trở ngại là bởi những điều kiện như nhân quyền, lao động, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch thị trường tương tự như trường hợp Việt Nam tuy nhiên ở mức độ to lớn hơn nhiều. Những trở ngại này tự tạo bởi chính Trung Quốc và Việt Nam, không phải do Hoa Kỳ hay TPP.
VOA:Ông muốn nói gì thêm về các quan hệ giữa Việt Nam, Hoa Kỳ, hiệp định TPP, trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc?
Ông NQK: “Việt Nam cần phải cải thiện vấn đề nhân quyền một cách cụ thể để được vào TPP và được Hoa Kỳ hủy bỏ cấm vận đối với những vũ khí sát thương mà Việt Nam nhiều lần lên tiếng muốn mua của Hoa Kỳ.
Với tình trạng hiện nay, Trung Quốc không thể gia nhập TPP và trong tương lai gần có thể nhìn thấy. Điều này giúp Việt Nam một phần nào thoát ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế lẫn chánh trị, hai lãnh vực khó có thể tách rời. Nếu những nhà lãnh đạo Việt Nam đặt quyền lợi của 90 triệu người dân lên trên hết, việc cải tổ đòi hỏi bởi TPP là việc phải làm.”
VOA:Tóm lại, TPP là một thách thức hay là một cơ hội đối với Việt Nam?
Ông NQK: “Tôi nghĩ TPP là một cơ hội rất là tốt đẹp đối với Việt Nam. Việt Nam là một nước nghèo nhất trong nhóm TPP, nhưng sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong nhóm. Thành ra Việt Nam không nên bỏ qua cái cơ hội tốt đẹp như thế này.”
Hoài Hương (VOA) phỏng vấn. Bài do ông Nguyễn Quốc Khải gửi đăng
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/79020/viet-nam-va-hiep-dinh-tpp-thach-thuc-va-co-hoi/2013/09
=======================================================================
TPP bắt nguồn từ tổ chức Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement (TPSEP hay P4) là một hiệp ước tự do mậu dịch giữa 4 quốc gia: Brunei, Chile, New Zealand và Singapore, được lập ra năm 2005.
Về sau, năm 2008 Mỹ bắt đầu có ý muốn tham gia vào TPSEP, cùng với Mỹ có thêm Úc, Việt Nam và Peru. Đến năm 2010, với chiến lược "Pivot Aisa", Mỹ đề nghị mở rộng TPSEP ra bao gồm nhiều quốc gia hơn và có tên gọi là Trans-Pacific Partnership, gồm: Australia, Brunei, Canada, Chile, Japan, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore, USA và Việt Nam. Kể từ đó tên gọi TPP trở nên quen thuộc, các cuộc thương lượng giữa các quốc gia liên quan diễn ra liên tục và thu hút sự chú ý của công luận hơn. Nam Hàn cũng đã được mời tham gia, nhưng chưa nhận lời. Như vậy tính cho đến nay là gồm 12 quốc gia.
Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến cho đến gần đây, một cách tổng quát, mậu dịch thế giới được điều hành thông qua những định chế quốc tế như IMF, World Bank và WTO. Thoả thuận căn bản cho hoạt động của ITO (International Trade Organization, tiền thân của WTO) và WTO là GATT (General Tariff and Trade) (Thỏa ước Tổng quát về Mậu Dịch và Thuế Quan), được lập ra từ năm 1944 ở Bretton Wood, dần dà tỏ ra không còn thích hợp với tình hình mới của nền kinh tế thế giới; đặc biệt nhất là từ sau khi Mỹ, dưới thời của tổng thống Nixon, đã đơn phương bải bỏ chế độ Kim bản vị đối với đồng dollars. Những thập niên gần đây, các cuộc thương lượng mậu dịch quốc tế của WTO liên tiếp thất bại; nổi bật nhất là sự thất bại của các vòng đàm phán ở Doha (thủ đô của Qatar, một quốc gia nhở ở vùng Vịnh Ba Tư, Persian Gulf.), kéo dài 10 năm, từ 2001, giữa cấp bộ trưởng của các quốc gia thành viên WTO. Sự bất đồng căn bản là thuế quan (tariffs), kéo theo sự bất đồng trên hàng loạt các vấn đề khác, trong đó đáng chú ý nhất là vấn đề quyền sỡ hữu trí tuệ (Intellectual Property Rights), vấn đề tài trợ nông nghiệp, và thủ tục tranh tụng pháp lý giữa các thành viên. Sự thất bại của WTO trong vai trò thống nhất nền mậu dịch quốc tế đang dẫn đến tình trạng ra đời ngày càng nhiều các tổ chức mậu dịch vùng hoặc khu vực (NAFTA, ASEAN, EAFTA, v.v...). Tình hình đó là dấu hiệu cho thấy hệ thống kinh tế thế giới đơn cực do Mỹ thiết lập nên từ sau Đệ Nhị Thế Chiến đang bị lung lay bởi một hệ thống đa cực bắt đầu hình thành trong môi trường toàn cầu hoá ngày càng tăng.
Riêng trong khu vực Á Châu, nhiều nỗ lực về những khu vực mậu dịch như vậy đã bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20. Chẳng hạn như khu vực tự do mậu dịch giữa khối ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, thường được gọi là ASEAN PLUS THREE, được thai nghén từ năm 1197, khởi đầu bằng những dự định tự do mậu dịch và hợp tác trong các lãnh vực năng lượng, vận tải và thông tin, những năm gần đây còn bàn thêm cả lãnh vực tài chánh và an ninh. Các quốc gia cũng đang bàn thảo về dự án một khu vực tự do mậu dịch Á Châu-Thái Bình Dương trong đó Trung Quốc là trụ cột, báo chí Anh ngữ gọi đó là Asian-Pacific Track. TPP ra đời chính là vì Mỹ không muốn thụ động và đứng bên lề, trái lại muốn chiếm tiên cơ và duy trì thế thượng phong trong nền kinh tế Á Châu-Thái Bình Dương. Hơn nữa dự án Á Châu - Thái Bình Dương chỉ giới hạn ở tự do mậu dịch đối với hàng hoá, phần lớn là sản phẩm chế tạo (manufacturing goods); trong khi đó TPP lại có kế hoạch mở rộng tự do mậu dịch không chỉ cho hàng hoá, mà còn cho cả các lãnh vực dịch vụ, tài sản trí tuệ, đầu tư và lao động nữa. Trung Quốc, với hệ thống các cơ sở quốc doanh (SOE) vẫn còn chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế, chắc chắn không thể chấp nhận một mức độ tự do hoá mậu dịch (liberalization of trade) cao như vậy, và đó chính là trở lực để Trung Quốc có thể tham gia vào TPP trong tương lai.
Tất nhiên TPP là một thỏa thuận mậu dịch quan trọng. Nó quan trọng không chỉ đối với Mỹ, mà còn đối với tất cả các quốc gia thành viên và cả tương lai của Á Châu. Ngay cả quy mô kinh tế của TPP thôi cũng đủ nói lên tầm mức quan trọng của nó; tổng GDP của các quốc gia thành viên sẽ lên đến gần 28 ngàn tỉ dollars, và tổng dân số là gần 800 triệu người. Tính cho đến nay, hàng năm Mỹ nhập khẩu từ các quốc gia thành viên TPP là chừng 850 tỉ dollars và xuất khẩu qua những nước đó chừng 690 tỉ dollars. Tất nhiên sau này khi TPP thành hình mức độ mậu dịch đó sẽ còn gia tăng gấp bội.
Quốc Gia | GDP (tỉ dollars) | Dân Số (triệu người) |
Úc | $1.542 | 22.8 |
Brunei | $17 | 0.4 |
Chile | $268 | 17.4 |
Canada | $1,819 | 34.8 |
Japan | $5,964 | 127.6 |
Malaysia | $304 | 29.5 |
Mexico | $1,177 | 114.9 |
New Zealand | $170 | 4.4 |
Peru | $199 | 30.5 |
Singapore | $277 | 5.4 |
Vietnam | $138 | 90.4 |
USA | $15,685 | 314.2 |
Tổng Cộng | $27,558 tỉ | 792.2 triệu người |
Lợi ích kinh tế do TPP mang lại cho các quốc gia thành viên được ước tính là sẽ rất lớn. Theo tính toán của Viện Peterson về Kinh tế Quốc tế thì sau khi vận hành, TPP có thể tạo ra một lợi tức đồng niên cho tổ chức chừng 295 tỉ dollars, trong đó Mỹ sẽ được khoảng 78 tỉ dollars. Riêng Việt Nam thì cũng theo ước tính đó, TPP sẽ giúp gia tăng GDP gấp đôi vào năm 2025!
Rõ ràng đó là một viễn cảnh rất tốt đẹp, nhất là cho Việt Nam. Tuy nhiên, những điều tốt đẹp luôn có giá cả riêng của nó và thường thì những điều khó khăn trong bang giao quốc tế không lộ hẳn ra bên ngoài, mà nằm chìm khuất đâu đó ở bên dưới. Những cuộc thương lượng (negotiations) kéo dài và hoàn toàn được giữ bí mật chính là do những khó khăn đó mà ra. Ở đây các cuộc thương lượng để hình thành TPP cũng mang tính chất tương tự như các vòng đàm phán Doha của WTO vậy; nghĩa là cũng bị chi phối bởi bản chất vị kỷ muôn thuở của con người: ai cũng chỉ muốn thủ lợi cho riêng mình, thường chỉ muốn bàn cái gì mình sẽ nhận được hơn là những gì mình phải cho ra! Và sau đây xin thử điểm qua một số những điểm khó khăn của càng vòng thương lượng.
Trước hết là trong lãnh vực nông nghiệp. Theo số liệu năm 2011 thì các quốc gia TPP nhập và xuất khẩu nông nghiệp chiếm chừng 30% tổng lực xuất nhập nông nghiệp của toàn thế giới. Những nông phẩm được quan tâm nhất của các quốc gia TPP gồm bơ sửa, gạo, thịt bò và đường. Đối với những nông phẩm đó lập trường của Mỹ và các quốc gia thành viên khác nhau khá nhiều. Mỹ thì muốn áp dụng các nguyên tắc của khối NAFTA (khối tự do mậu dịch Bắc Mỹ), nhưng nhiều quốc gia TPP khác không đồng ý.
Đối với bơ sữa, New Zealand và Úc là hai nước xuất khẩu lớn, riêng New Zealand đã chiếm 10 tỉ dollars trên tổng số 39 tỉ dollars bơ sữa của toàn thế giới. Mỹ cũng là một quốc gia xuất khẩu nhiều bơ sữa (4.2 tỉ), tuy không bằng New Zealand, và các nhà sản xuất bơ sữa Mỹ hiện đang muốn cạnh tranh với New Zealand trên thị trường thế giới. Khó khăn là một khi TPP hình thành, bơ sữa của Mỹ sẽ gặp phải sự cạnh tranh ráo riết của New Zealand ngay trên thị trường nội địa của mình, và điều đó sẽ tạo khó khăn cho nỗ lực của các nhà sản xuất bơ sữa Mỹ muốn vươn lên, gia tăng phần mình trong thị trường bơ sữa quốc tế. Chưa kể là ngoài New Zealand, Úc cũng là một nước sản xuất bơ sữa lớn (khoảng hơn tỉ dollars). Như vậy nếu Mỹ đòi hỏi tự do hoá mậu dịch (trade liberalization) như là tiêu chuẩn của TPP, thì tiêu chuẩn đó cũng phải được áp dụng đồng đều giữa các thành viên và cho các sản phẩm, kể cả bơ sữa. Để làm vậy, thị trường bơ sữa nội địa của Mỹ phải thay đổi để phù hợp với khung cảnh mậu dịch mới, nhưng đó không phải là điều dễ dàng cho giới sản xuất bơ sữa Mỹ.
Về đường. Lâu nay thỏa ước mậu dịch tự do Mỹ-Úc chấp nhận không tự do hoá mậu dịch về đường; nghĩa là mỗi bên tiếp tục giữ mức quan thuế của mình. Nhưng nay Úc gia nhập TPP, những gì áp dụng cho Úc-Mỹ cũng phải được áp dụng cho các thành viên khác, còn nếu không thì thỏa thuận trước kia của Mỹ-Úc về đường phải thay đổi. Việt Nam cũng là một nước xuất khẩu đường. Lâu nay Việt Nam chỉ đánh thuế 5% cho đường nhập vào từ các quốc gia ASEAN, nhưng đánh đến 40% đối với đường từ các nước khác, gồm cả đối với những nước hiện nay đang sắp gia nhập TPP. Điều đó có nghĩa rằng đường sẽ là một đề tài thương lượng căng thẳng giữa Mỹ, Việt Nam và các quốc gia TPP khác.
Rồi về gạo. Đây cũng là một nông sản gây ra khó khăn không nhỏ cho các cuộc thương lượng TPP. Nhật Bản là nước tài trợ (subsidy) lớn nhất và thực hiện bảo hộ mậu dịch mạnh cho nông nghiệp, đặc biệt cho lúa gạo. Đó chính là lý do nông dân Nhật trong thời gian gần đây đã biểu tình rầm rộ để chống lại việc Nhật gia nhập TPP, chính phủ Abe đã phải vất vả lắm mới thuyết phục được quốc hội Nhật và vì vậy mãi đến cách đây mấy tuần Nhật mới chính thức gia đàm phán để vào TPP. Nhật, Malaysia, và cả Nam Hàn, nếu sau này quốc gia này đổi ý, chắc chắn là muốn giữa nguyên mức thuế quan (tariff) và tài trợ lúa gạo như hiện nay, và không muốn để bị gạo từ Mỹ, Úc, và Việt Nam cạnh tranh. Hiện nay mức tariff rates đối với gạo giữa các nước TPP rất khác nhau: Mỹ đánh $18-$21 một tấn gạo; Việt Nam đánh từ 20% đến 40%; Malaysia đánh đến 40%. Sự thương lượng để đạt được sự đồng thuận về gạo, như vậy, không phải dễ dàng và chắc chắn là sẽ mất nhiều thời gian.
Kế đến là thịt bò. Lâu nay Nhật và Nam Hàn cấm nhập cảng bò từ Mỹ kể từ sau vụ bò Mỹ bị phát hiện mắc bịnh rỗng não (bovine spongy encephalopathy) hồi năm 2003. Từ đó đến nay đại diện thương mãi Mỹ đã cố gắng rất nhiều, nhưng vẫn chưa thuyết phục được các quốc gia đó hoàn toàn bãi bỏ lệnh cấm nhập cảng bò. Chưa kể là vấn đề về GM foods (Genetic Modified foods) cũng còn đang là đề tài tranh chấp, tuy không gay go lắm.
Đến đây thiết tưởng cũng cần mở ngoặc để nói sơ về GM Foods, một đề tài tranh chấp căng thẳng từ mấy mươi năm nay giữa Mỹ và Âu Châu, nhưng có lẽ chưa được dư luận của người Việt chúng ta chú ý đến nhiều.
Vắn tắt thì GM FOODS hay GMO FOODS là loại thực phẩm được tạo ra do kết quả của việc áp dụng các kỹ thuật sinh học và di truyền học vào một số thực vật và động vật (như cá hồi, salmons). Chữ GM là viết tắt của từ genetic modification, GM Foods là do từ Genetic modified foods mà ra. Kỹ thuật di truyền học, hay DNA Biological technology, có từ nhiều thập kỷ về trước và đã được cải tiến rất nhiều. Thành tựu và những cải tiến liên tục về các kỹ thuật can thiệp vào chuổi DNA đã được áp dụng trong các nghiên cứu y học, dược học, sinh học phân tử, cả sinh học giảo nghiệm hình sự (forensic biology), và trong lãnh vực nuôi trồng. Trong những thập niên gần đây, hầu hết thực phẩm chế biến ở Mỹ đều đến từ các loại thực vật-động vật mà DNA của chúng đã được biến đổi trong phòng thí nghiệm.
Thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, và thuốc khai quang là những sản phẩm điển hình và là kết quả thông dụng nhất của các kỹ thuật sinh học DNA. Để thuốc diệt cỏ dại, rãi xuống một cánh đồng đậu nành chẳng hạn, chỉ làm chết cỏ mà không gây tổn hại cho cây đậu nành, người ta đã cấy một gen đặc biệt vào trong hạt giống đậu nành, khiến cây đậu có khả năng chống lại thuốc diệt cỏ. Vấn đề là chưa có ai biết chắc loại đậu nành bị "genetic modified" như vậy sẽ tác động như thế nào đối với sức khỏe của người ăn đậu nành và đối với môi trường nói chung. Có vài nhà nghiên cứu khoa học quả quyết rằng khi thí nghiệm cho chuột ăn loại khoai tây đã bị "genetic modified" trong một thời gian lâu thì thế hệ chuột thứ hai khi sinh ra não bộ bị nhỏ đi! Tiếc rằng những kết quả nghiên cứu như vậy, vì một lý do khó hiểu nào đó, lại không được công bố rộng rãi cho công chúng. Có dư luận cho rằng các đại công ty về kỹ thuật sinh học (Bio-engineering technological companies) đã vận dụng sức mạnh tài chánh của mình để trấn áp các nhà khoa học và ém nhẹm những kết quả nghiên cứu như vậy.
Dù sao thì mối quan tâm đối với GM Foods đã ngày càng gia tăng, phát khởi mạnh nhất là ở Âu Châu, và vì vậy trong nhiều thập niên, Âu Châu đã ngăn cấm không cho nhập khẩu các sản phẩm đã được "Genetic modified" từ Mỹ. Tuy chưa thu thập đủ bằng chứng khoa học, công chúng ở nhiều nơi đã cho rằng GM Foods tác hại đến sức khoẻ con người, gây ra dị ứng, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của thai nhi, và ngay cả là mầm móng gây ung thư! Cũng đã có tranh tụng giữa Ấu Châu-Mỹ trước các toà hoà giải của WTO vào những năm đầu của Thế kỷ. Mới gần đây thôi, công chúng ở Anh quốc cũng đã biểu tình dữ dội để chống lại việc lập các phòng thí nghiệm "genetic modìed plants" trên lãnh thổ của mình. Tại Mỹ, sự chống đối GM Foods cũng diễn ra mạnh mẽ ở nhiều nơi. Hiện có phong trào đòi phải ghi rõ trong nhãn hiệu thực phẩm có hay không có những thành phẩm GM Foods, mạnh nhất là ở bang California với cuộc vận động gọi là Labeling Initiative, đòi hỏi Quốc hội Mỹ thông qua luật buộc phải kê khai GM Foods lên nhãn các loại thực phẩm. Phiá các đại công ty sinh học, như Monsanto chẳng hạn, cũng đang nỗ lực để vận động hành lang nhằm chống lại những cuộc vận động như vậy.
Một ưu điểm của GM Foods là giá rẻ. Thịt bò, gà, cá hồi, bắp, đậu nành, khoai tây, v.v... được sản xuất theo lối GM Foods có giá rẻ hơn nhiều so với các loại sản phẩm đó sản xuất theo lối tự nhiên. Có điều là các nhà nuôi trồng ở các nước, nếu muốn tái sản xuất các sản phẩm GM đó, phải mua giống do các đại công ty sinh học của Mỹ bán, còn không sẽ bị kiện tụng và phạt tiền!
Thiết nghĩ nhà cầm quyền Việt Nam và đồng bào ở trong Nước cũng nên có những quan tâm đúng mức đối với vấn đề GM Foods, cần thu thập các công trình nghiên cứu khách quan của các nhà khoa học các nước, đồng thời phải tự mình tiến hành những nghiên cứu cấp quốc gia đối với đề tài, rồi cấp tốc phổ biến cho giới chuyên trách trong quá trình thương lượng tham gia TPP để có những đối sách thích hợp nhằm bảo vệ lợi ích lâu dài của dân tộc.
Sau nông nghiệp, đến lãnh vực hàng Dệt, Áo quần và Giày Dép là những sản phẩm mà sự thương lượng TPP cũng gặp không ít khó khăn. Và đây là lãnh vực hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Trong tổng số chừng 20.3 tỉ dollars hàng Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ trong năm 2012, khoảng 9.4 tỉ dollars là hàng áo quần và giày dép; nghĩa là khoảng hơn 46% tổng trị giá hàng bán vào Mỹ. Điều đó nói lên tầm quan trọng của lãnh vực hàng Áo quần và Giày dép đối với phía Việt Nam trong quan hệ mậu dịch Việt-Mỹ. Tất nhiên phiá Việt Nam muốn được phiá Mỹ cắt giảm đến tối thiểu thuế quan dành cho hàng may mặc và giày dép của mình. Khó khăn là chính phủ Mỹ, do áp lực của các công ty dệt, lại muốn áp dụng nguyên tắc có tên là Yarn-Forward Rule vào trong TPP. Người ta còn gọi nguyên tắc đó là Crafting Rules of Origin (COO), một nguyên tắc theo đó Việt Nam phải mua vật liệu dệt của các công ty Mỹ hoặc của các thành viên TPP, mà không được mua vật liệu đó từ một quốc gia ngoài nhóm TPP, để làm sản phẩm may mặc của mình sau đó bán trở lại vào Mỹ và được hưởng quy chế thuế quan ưu đãi của TPP. Điều này dường như đang gây khó khăn cho phiá Việt Nam, vì lâu nay Việt Nam vẫn mua vật liệu dệt từ Trung Quốc với giá rẻ. Việc phải mua vật liệu dệt từ Mỹ, và giảm hoặc thôi không mua vật liệu đó từ Trung Quốc, không những chỉ ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế cho ngành áo quần và giày dép, nhưng có lẽ còn khiến cho giới lãnh đạo ở Hà Nội cảm thấy khó xử về ngoại giao với người "láng giềng tốt" khổng lồ của mình. Đó là một vướng mắc khác trong quá trình thương lượng gia nhập TPP.
Một lãnh vực khác rất quan trọng là lãnh vực các Quyền Sở Hữu Trí Tuệ (Intellectual Property Rights, IPRs), có liên quan chính yếu đến vấn đề y dược. IPRs còn là một lãnh vực phức tạp, bao gồm quyền về Thương hiệu (trademarks), Bản quyền (copyrights), Bằng Sáng Chế hay Môn bài (patents), và Bí mật doanh nghiệp (trade secrets). Tính chất phức tạp đó, cùng với sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các quốc gia thành viên trong TPP, khiến cho sự thương lượng trong lãnh vực này càng gặp nhiều khó khăn hơn. Tất nhiên quốc gia có trình độ phát triển cao hơn luôn muốn gia tăng mức độ và thời hạn cho việc bảo vệ IPRs; trong khi đó quốc gia kém phát triển lại mong muốn ngược lại ngõ hầu có cơ hội tiếp thu và đem vào sử dụng nhanh, một cách có lợi cho mình, các phát kiến mới trong khoa học-kỹ thuật.
Một ví dụ về mâu thuẫn giữa các quốc gia về IPRs là vấn đề sản xuất thuốc generic medicines. Generic medicines là những loại thuốc mà về mặt thành phần dược liệu và công năng hoàn toàn giống như thuốc chính hiệu (brand names) của công ty sản xuất nguyên thuỷ, kẻ sỡ hữu môn bài. Sự khác nhau quan trọng giữa brand names và generic medicines là giá cả; generic medicines có giá cả rẻ hơn nhiều. Một thoả thuận của các thành viên WTO năm 1994 quy định là tuy vẫn nỗ lực bảo vệ IPRs của các công ty chế chế thuốc, các quốc gia thành viên được phép, trong tình trạng khẩn cấp, sản xuất các loại generic medicines để đáp ứng cho nhu cầu y tế khẩn cấp đó của mình. Thái Lan là quốc gia đầu tiên đã tự sản xuất generic medicines để dùng cho người mang bệnh AIDS. Vấn đề ở đây là một định nghiã về tình trạng khẩn cấp quốc gia (national emergency): Một quốc gia có tỉ lệ bệnh nhân cancer cao có thể xem đó là một tình trạng khẩn cấp để được phép tự sản xuất generic medicines?
Ngoài ra, như đã nói TPP không chỉ dừng lại ở lãnh vực mậu dịch hàng hoá, mà còn có tham vọng tự do hoá cả về dịch vụ của các lãnh vực tài chánh, ngân hàng, đầu tư và bảo hiểm nữa. Nhưng để san định những bất đồng giữa các quốc gia thành viên, đặc biệt là những quốc gia có trình độ phát triển cao, có tỉ trọng dịch vụ lớn trong nền kinh tế, về một tiêu chuẩn chung cho các lãnh vự đó không phải là điều dễ dàng. Riêng Việt Nam, thì do trình độ phát triển còn thấp, các lãnh vực dịch vụ nói đó gần như còn bỏ trống, không có ngay cả cơ sở pháp lý thích hợp, sẽ là miếng mồi ngon cho các đại công ty đa quốc gia về tài chánh, ngân hàng và bảo hiểm mặc sức tung hoành. Các đại diện của Việt Nam, vì vậy, hẳn cũng không có mấy vốn liếng để đưa ra trong quá trình thương lượng với đại diện của các quốc gia đối tác; nhất là với đại diện của Mỹ.
Tóm lại, TPP là một tổ chức mậu dịch rất quan trọng của khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, với tổng GDP và dân số lớn, gồm các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau; Mỹ, Canada, Nhật, Úc, có thể cả Nam Hàn, và Singapore là những quốc gia có trình độ phát triển rất cao, trong khi Việt Nam là nước yếu kém nhất trong số các thành viên và là nước duy nhất có hệ thống các cơ sở quốc doanh (SOEs). Quá trình thương lượng đang diễn ra rất gay go giữa các quốc gia. Việt Nam là nước yếu nhất, nhưng do nhu cầu chiến lược sống còn, nhà cầm quyền Việt Nam đang cố gắng trên nhiều mặt trận để trở thành thành viên của TPP. Phái đoàn hùng hậu do ông Chủ Tịch Trương Tấn Sang dẫn đầu hội kiến với Tổng Thống Obama, vào cuối tháng Bảy vừa rồi, phần nào nói lên nỗ lực ngoại giao lớn của phía Việt Nam cho mục tiêu đó. Được biết tháp tùng ông Sang trong cuộc hội kiến có Bộ Trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, các bộ trưởng Nông Nghiệp và Thương Mại, tướng Tô Lâm, thứ trưởng Công An; và đặc biệt nhất có cả tướng Nguyễn Chí Vịnh, một nhân vật được xem là thân Trung Quốc. Thông dịch cho ông Sang là Phạm Hoàng Xuân An, con trai của cố tướng điệp báo Phạm Xuân Ẩn. Điều mang ý nghĩa đặc biệt là ông Sang đã trao bản copy thư của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh gởi cho cố Tổng thống Mỹ Truman, hồi cuối tháng Tám năm 1945, yêu cầu Truman ủng hộ cho nền độc lập của Việt Nam. Bức thư đã không nhận được sự trả lời của chính phủ Truman, đơn giản chỉ vì chính phủ Mỹ, vào thời đó, xem trọng việc phục hồi cho Pháp để có đồng minh trong việc bảo vệ Âu Châu chống lại Liên Xô hơn là việc ủng hộ cho nỗ lực giành độc lập của một nước Việt Nam nhỏ yếu, xa xôi. Nhiều người đã cho quyết định đó của cố Tổng thống Truman là một sai lầm, một sự lựa chọn sai phía trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ thuộc điạ đang suy tàn ("getting on the wrong side of the battle against colonialism"). Có lẽ thâm ý của nhà cầm quyền Việt Nam, mà đại diện là ông Sang, khi trao bản sao bức thư, là muốn nhắc nhở chính phủ Mỹ không nên để một sai lầm như vậy trong quan hệ với Việt Nam tái diễn chăng? Nhưng lần này ai là phía kia để cho Tổng thống Obama lựa chọn?
31/8/2013
Trương Đình Trung
http://www.fas.org/sgp/crs/row/R42344.pdf
Peterson Institution for International Economics, Policy Brief June 2012.
http://www.nytimes.com/2012/05/25/science/dispute-over-labeling-of-genetically-modified-food.html?_r=0
http://www.youtube.com/watch?v=87qrTXZaXkk&noredirect=1
https://www.youtube.com/watch?v=eUd9rRSLY4A
http://www.ustr.gov/countries-regions/southeast-asia-pacific/vietnam
Khách gửi hôm Chủ Nhật, 01/09/2013
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20130901/tpp-va-quan-he-viet-my
=======================================================================
Việt Nam và Hiệp định TPP – Thách thức và Cơ hội

Nắm bắt các cơ hội kinh tế tại Á Châu trong thời gian tới, và tương lai lâu dài là một phần quan trọng trong chính sách xoay trục sang Châu Á của chính phủ Tổng Thống Obama. Việt Nam có lẽ là quốc gia kém phát triển nhất, có thể nói là nghèo nhất, được chọn làm một trong 12 nước có khả năng trở thành đối tác trong Hiệp định Hợp tác Xuyên Thái bình dương – TPP. Một cựu chuyên viên kinh tế và tham vấn của Ngân hàng Thế giới bàn về những thách thức và cơ hội đối với Việt Nam. Mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn của phóng viên Ban Việt Ngữ VOA Hoài Hương và ông Nguyễn Quốc Khải (NQK), cựu chuyên viên kinh tế của Ngân hàng Thế giới. Ông từng thỉnh giảng tại School of Advanced International Studies thuộc Johns Hopkins University.
VOA: Xin ông cho biết, trước hết, vào TPP sẽ mang lại những lợi ích gì cho Việt Nam? Hỏi khác đi, nếu không vào TPP, Việt Nam sẽ thiệt thòi như thế nào, sẽ mất đi những cơ hội gì hay quyền lợi nào?
Ông NQK: “Như chúng ta đã biết mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những hàng rào cản hàng hóa và dịch vụ. Do đó, khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng gia số lượng hàng xuất cảng đến các quốc gia TPP với dân số gần 800 triệu (11 % dân số thế giới) và tổng sản phẩm nội địa là khoảng 28 ngàn tỉ Mỹ kim (40% GDP của thế giới). Nhiều đối tác thương mại quan trọng nhất của Việt Nam đều đang tham gia vào cuộc đàm phán đa phương TPP. Đó là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Singapore, và Mã Lai.
Việt Nam là nước nghèo nhất trong 12 quốc gia TPP hiện nay. Các nước giàu sẽ là thị trường tiêu thụ hàng hóa Việt Nam. Kinh nghiệm cho thấy là Việt Nam không buôn bán nhiều với các nước ASEAN bằng những nước ngoài ASEAN.
Ngoài ra, những nước TPP sẽ là nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam. Với tình trạng kinh tế trì trệ như hiện nay, Việt Nam cần vốn đầu tư nước ngoài hơn bao giờ hết. Nếu có một chính sách đầu tư nước ngoài khéo léo, Việt Nam có thể học hỏi và phát triển những ngành công nghiệp cao từ những nước TPP.
Việt Nam sẽ là một nước được hưởng nhiều nhất khi gia nhập TPP. Sự gia tăng thương mại với Hoa Kỳ, một thị trường lớn nhất trong số các nước TPP, sẽ là một yếu tố quan trọng nhất giúp kinh tế Việt Nam phát triển. Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng và luôn luôn là yếu tố quan trọng cho việc phát triển kinh tế Việt Nam. Thứ ba là thuế nhập cảng của các nước TPP sẽ giảm đáng kể. Do đó Việt Nam sẽ gia tăng xuất khẩu quần áo, giầy dép, và hải sản. Việt Nam sẽ không phài cạnh tranh với Trung Quốc trong TPP.
Việc gia nhập TPP sẽ giúp tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam tăng 46 tỉ Mỹ kim tức khoảng 13.6% theo kết quả một cuộc nghiên cứu của Peter A. Petri, Michael G. Plummer, và Fan Zhai vào cuối năm 2012.”
VOA: Thưa đó là những lợi ích của việc gia nhập TPP, nhưng có một số điều kiện Việt Nam cần phải thỏa mãn trước khi được chính thức thâu nhận vào TPP, xin ông cho biết một số điều kiện cụ thể, quan trọng mà Việt Nam phải thỏa đáng?
Ông NQK: “TPP nêu ra một số vấn đề nồng cốt mà Việt Nam sẽ phải thỏa mãn như là tài sản trí tuệ, lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, và công ty nhỏ và trung bình. Quyền lao động, bao gồm quyền thành lập nghiệp đoàn dộc lập, quyền tụ họp, quyền đình công, chỉ là một phần của vấn đề rộng lớn hơn là nhân quyền. Hoa Kỳ đã mạnh mẽ đặt vấn đề này với Việt Nam qua một số thành viên Quốc Hội và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội. Trong cuộc họp với Chủ Tịch Trương Tấn Sang vừa qua tại Nhà Trắng, Tổng Thống Obama đã hai lần nhắc nhở đến vấn đề Nhân Quyền tại Việt Nam.
Vấn đề khó khăn lớn thứ hai mà Việt Nam phải vượt qua là việc cải tổ các doanh nghiệp nhà nước để loại bỏ sự cạnh tranh thiếu công bằng giữa nhà nước và tư nhân. Khu vực quốc doanh chiếm khoảng gần 40% tổng sản lượng nội địa mà lại luôn luôn làm ăn lỗ lã, ngăn cản sự phát triển kinh tế, nhưng lại ưu tiên về vốn đầu tư của nhà nước, quỹ phát triển quốc tế ODA, và vay nợ ngân hàng. Trên 50% nợ xấu của các ngân hàng là do các doanh nghiệp nhà nước. Hơn 10 năm nay, nhà nước bàn thảo việc cải tổ khu vực quốc doanh, nhưng không đạt được tiến bộ cụ thể đáng kể nào.
VOA:Thưa so với lúc Việt Nam vận động xin gia nhập WTO, thì tiến trình thương thuyết để vào TPP nó khác ở chỗ nào, và có những điểm gì mà Hà nội cần chú ý đến nếu muốn mọi sự được suôn sẻ?
Ông NQK: “Vâng, giữa TPP và WTO có một vài khác biệt. WTO có những điều kiện gia nhập rõ ràng. Trong khi đó, TPP dựa vào đàm phán và không có vấn đề nào phải loại trừ. TPP có tính cách toàn diện hơn WTO. Nó bao trùm nhiều vấn đề WTO không đề cập đến hoặc chưa đào sâu như doanh nghiệp nhà nước, quyền sở hữu trí tuệ, và quyền lao động.
Một khó khăn nghiêm trọng Việt Nam đang gặp phải trong cuộc đàm phán hiện nay liên quan đến luật lệ xuất xứ hàng hóa và ngành dệt may, một trong những công nghiệp quan trọng bậc nhất của Việt Nam. Hoa Kỳ đòi hỏi rằng quần áo chỉ được coi là chế tạo ở Việt Nam nếu vải làm bằng tơ sợi cũng được chế tạo tại Việt Nam hay mua của Hoa Kỳ.
VOA: Có cơ chế nào để kiểm soát là Việt Nam không mua vải sợi của Trung Quốc?
Ông NQK: “Mua hàng hóa là phải có xuất xứ. Phải có chứng minh rất là khó khăn. Vì khó khăn cho nên những nước ở Châu Mỹ La Tinh đành phải trả thuế cao, để nước Mỹ có thể bảo vệ ngành dệt vải của họ.”
VOA: Trong những thách thức vừa kể, theo ông thách thức nào là quan trọng nhất, khó khăn nhất, và vì sao lại khó khăn như vậy trong tình hình Việt Nam bây giờ?
Ông NQK: “Thách thức về lao động, nhân quyền, và doanh nghiệp nhà nước là quan trọng và khó khăn nhất đối với Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam phải có những cải tiến cụ thể về chính trị. Từ 2008 đến nay, Hoa Kỳ vẫn từ chối không chấp thuận cho Việt Nam hưởng Quy Chế Ưu Đãi Phổ Quát (Generalized System of Preference – GSP) để có thể nhập cảng vào Hoa Kỳ cả ngàn món hàng miễn thuế. Lý do là Việt Nam chưa thỏa mãn điều kiện về quyền lao động.
Quan trọng hơn, nội bộ chia rẽ của Đảng CSVN hiện nay sẽ làm cho những việc cải tiến cần thiết càng khó khăn thêm. Theo nhận định của GS Carl Thayer và một số quan sát viên quốc tế, một số các nhà lãnh đạo Việt Nam muốn cải thiện mối bang giao với Hoa Kỳ. Một số khác chống lại. Nhóm thứ hai xem ra mạnh hơn. Trong năm 2013, chỉ trong vòng mấy tháng đầu tiên thôi mà Việt Nam đã bắt bớ 40 người, nhiều hơn so với cả năm 2012. Trong khi Việt Nam muốn gia nhập TPP và muốn mua võ khí của Hoa Kỳ, mà lại đi làm những chuyện bắt bớ vi phạm nhân quyền như vậy thì vấn đề trở nên rất là khó khăn.”
VOA: Trở lại với vấn đề kinh tế, nói tới kinh tế, nói tới Châu Á, mà không nói tới Trung Quốc là cả một sự thiếu sót lớn, xét Trung Quốc là một cường quốc đang lên, và là nền kinh tế lớn thứ nhì thế giới, có khả năng trở thành nền kinh tế lớn nhất không chừng! Thế mà Trung Quốc lại không được mời để thương thuyết gia nhập TPP. Rõ ràng “thiếu sót” ấy là có chủ ý. Ông nhận định như thế nào về yếu tố Trung Quốc liên quan tới thương thuyết TPP? Có phải Hoa Kỳ và các đồng minh Châu Á muốn cô lập hóa, bao vây hay kiềm hãm Trung Quốc, như Bắc Kinh vẫn tố cáo?
Ông NQK: “Theo sự hiểu biết của tôi. Có hai dữ kiện khá rõ ràng. Một là Trung Quốc từng tuyên bố chống lại TPP, sau đó lại than phiền rằng Trung Quốc không được mời, và mới đây lại tuyên bố qua phát ngôn viên của Bộ Thương Mại rằng Trung Quốc sẽ nghiên cứu lợi và hại của TPP. Hai là Hành Pháp Hoa Kỳ chưa bao giờ tuyên bố chống lại Trung Quốc gia nhập TPP. Trái lại, Phụ Tá Bộ Trưởng Thương Mại Hoa Kỳ đặc trách Thương Mại quốc Tế nói rằng TPP không phải là một câu lạc bộ khép kín mà là một diễn đàn mở rộng. Hoa Kỳ hy vọng nhiều nước sẽ tham gia.
Việc gia nhập TPP của Trung Quốc nếu có sẽ gặp trở ngại là bởi những điều kiện như nhân quyền, lao động, doanh nghiệp nhà nước, minh bạch thị trường tương tự như trường hợp Việt Nam tuy nhiên ở mức độ to lớn hơn nhiều. Những trở ngại này tự tạo bởi chính Trung Quốc và Việt Nam, không phải do Hoa Kỳ hay TPP.
VOA:Ông muốn nói gì thêm về các quan hệ giữa Việt Nam, Hoa Kỳ, hiệp định TPP, trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Trung Quốc?
Ông NQK: “Việt Nam cần phải cải thiện vấn đề nhân quyền một cách cụ thể để được vào TPP và được Hoa Kỳ hủy bỏ cấm vận đối với những vũ khí sát thương mà Việt Nam nhiều lần lên tiếng muốn mua của Hoa Kỳ.
Với tình trạng hiện nay, Trung Quốc không thể gia nhập TPP và trong tương lai gần có thể nhìn thấy. Điều này giúp Việt Nam một phần nào thoát ra khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc về kinh tế lẫn chánh trị, hai lãnh vực khó có thể tách rời. Nếu những nhà lãnh đạo Việt Nam đặt quyền lợi của 90 triệu người dân lên trên hết, việc cải tổ đòi hỏi bởi TPP là việc phải làm.”
VOA:Tóm lại, TPP là một thách thức hay là một cơ hội đối với Việt Nam?
Ông NQK: “Tôi nghĩ TPP là một cơ hội rất là tốt đẹp đối với Việt Nam. Việt Nam là một nước nghèo nhất trong nhóm TPP, nhưng sẽ là nước được hưởng lợi nhiều nhất trong nhóm. Thành ra Việt Nam không nên bỏ qua cái cơ hội tốt đẹp như thế này.”
Hoài Hương (VOA) phỏng vấn. Bài do ông Nguyễn Quốc Khải gửi đăng
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/79020/viet-nam-va-hiep-dinh-tpp-thach-thuc-va-co-hoi/2013/09
=======================================================================
Incredible all kinds of useful facts.
Trả lờiXóaFeel free to visit my website; ガガミラノ 時計 レディース