Chuyện Một Vị Sư Ở Chùa Hương
Đào Văn Bình
Người ta truyền tụng rằng tại Nam Thiên Đệ Nhất Động có một vị sư tu hành đắc đạo. Có lúc sư ngồi thiền cả tháng, không ăn không uống, không lay động để thể hiện trí tuệ dũng mãnh của Phật. Có lúc ngài tụng Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Viên Giác… tiếng như sư tử hống, vang vọng cả sơn lâm để thế gian có thể nghe rõ lời kinh, để thể hiện lòng từ bi của Phật. Có lúc đi đứng, nằm ngồi giữ nghiêm giới luật, từng động tác, từng cử chỉ đều giữ gìn chánh niệm để thể hiện tính trang nghiêm của chư Phật. Có lúc ngài thị hiện thành người chèo đò đưa khách thập phương hành hương, thỉnh thoảng nói vui một vài câu Phật pháp làm tỉnh ngộ lòng người. Có lúc ngài biến hóa thành một cậu bé luẩn quẩn ở bến đò, nhưng nói ra câu nào cũng khiến các cụ tấm tắc khen thầm tại sao có người uyên thâm Phật pháp đến như vậy. Phải chăng đây là Thiện Tài Đồng Tử tái sinh? Có lúc ngài thị hiện thành một cô gái xinh đẹp bán đồ kỷ niệm ở Bến Đục. Người vừa đẹp vừa trang nghiêm, tính tình lại lễ độ, hòa nhã, vui vẻ. Khách hàng nào có trả giá cô cũng chẳng kèo nài. Thảng hoặc nếu có ai không đủ tiền cô cũng vui vẻ bán để “tạo phúc duyên”. Những ai không có tiền mà ham thích đồ kỷ niệm như tượng Phật, chuỗi Bồ Đề cô cũng biếu không và mỉm cười nói “Khi nào có tiền ông/bà trả tôi cũng được” khiến các cụ cứ tấm tắc khen thầm phải chăng đây là Tiểu Long Nữ hóa hiện? Có lúc ngài thị hiện thành một gã chuyên giết thú rừng để làm đồ nhậu, món ăn chơi khoái khẩu, bày bán ngay trước bến đò để giáo hóa những kẻ đang hành nghề sát sinh, tàn phá núi rừng cây cỏ và làm ô uế cửa Thiền.
Một ngày kia khi sư đang tọa thiền thì một người nhảy vào, túm lấy vai sư nói:
- Thầy xem tôi có xấu không? Tôi rất khổ vì người đời nói tôi xấu!
Đây là một ông chân tay vặn vọ, khẳng khiu, da nhăn nheo, tóc thô, mắt to mắt nhỏ, tai nhọn như tai dơi, răng khấp khểnh chìa ra ngoài, môi thâm và trề ra như cái lưỡi thứ hai trông giống như Quỷ Dạ Xoa. Nghe hỏi vậy sư hiền từ đáp:
- Có những người xấu gấp ngàn vạn lần ông. Ông chẳng có chi gọi là xấu cả.
Nghe nói thế ông xấu kia vặn hỏi:
- Thầy thử nói xem những người kia xấu như thế nào?
Sư chậm rãi đáp:
- Những kẻ có tiền của nhưng không phụng dưỡng cha mẹ. Những kẻ tham tài phụ ngãi. Những kẻ giàu nứt đố đổ vách nhưng không hề bỏ một xu cứu giúp người nghèo khó. Những kẻ khích bác người đạo hạnh, khinh chê Tam Bảo, đố kỵ với người xả thân cứu đời, vô tài nhưng lại có máu ghen tị. Những kẻ hay đâm thọc, ngồi lê đôi mách, thêu dệt, bịa đặt tin để gây chia rẽ. Những kẻ chuyên loan truyền tin xấu, chê bai dè bỉu thành qủa của người khác. Những kẻ ăn chơi đàng điếm, trụy lạc làm băng hoại xã hội, buôn bán, chuyển vận xì ke ma túy làm tiêu ma thế hệ trẻ. Những kẻ lười biếng ăn bám xã hội, sống trên mồ hôi nuớc mắt của kẻ khác…tất cả những người này mới xấu…chứ ông có gì gọi là xấu đâu?
Nghe nói vậy ông xấu đó lạy tạ sư rồi lui ra. Khi bóng ông vừa khuất thì một người khác hung hăng bước vào. Ông này ai nhìn thấy đều khiếp vía. Ông ta cao lớn dềnh dàng, mặt sơn trắng sơn đen vằn vện như những tay đấu vật ở Hoa Kỳ. Tóc ông ta dựng đứng và tua tủa như những chiếc đinh nhọn. Hai tai ông ta đeo lủng lẳng hai chiếc còng sắt số tám. Lỗ mũi ông ta móc một chiếc nanh heo rừng. Mắt ông ta đeo một miếng da màu đen giống như những tên cướp biển chột mắt. Cổ ông ta xâm trổ thành hình con cú. Hai vai ông ta quàng chéo hai vòng đạn đại liên như những tay cướp hung bạo ở vùng biên giới Hoa Kỳ – Mễ Tây Cơ trong những phim Cao Bồi. Ông ta cửi trần, ngực xâm trổ thành những con thủy quái gớm ghiếc. Hai cánh tay ông ta xâm hình hai con rắn hổ mang mà hai bàn tay là hai cái miệng của con rắn, cho nên khi ông ta đưa tay ra, giống như hai con rắn muốn mổ người ta. Ông ta không mặc quần mà quấn một chiếc khố bằng da beo. Hai bên đùi xâm hình hai cô gái lõa thể trông giống như yêu tinh, thần nữ. Tay trái ông ta cầm một chiếc móc sắt, tay phải cầm một quả lựu đạn đã mở chốt sẵn. Ông ta đi giày bốt cao cổ của Mễ Tây Cơ với hai mũi giày có gắn hai chiếc đinh ba, đá ai một cái là lòi ruột. Giọng ông ta khàn khàn giống như giọng của Ngưu Ma Vương khiến đàn bà có thai gặp ông sẩy thai, con nít gặp ông ngã ra bất tỉnh. Ông ta bước tới trước mặt sư, chìa cái móc sắt và quả lựu đạn ra, hỏi:
- Thầy có thấy tôi đáng sợ không?
Nghe ông hỏi vậy, sư điềm nhiên đáp:
- Ổng chẳng có chi đáng sợ cả. Có ngàn vạn người khác còn đáng sợ hơn ông.
Ông ta ngạc nhiên, vặn hỏi:
- Những người đó có gì mà đáng sợ hơn tôi? Thầy nói thử xem.
Sư đáp:
- Những kẻ mặt mũi đẹp đẽ, ăn mặc sang trọng, nói năng ngọt ngào nhưng trong lòng chứa đầy âm mưu thủ đoạn lường gạt hại người, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ hành tà đạo, tôn thờ thần linh, ma quỷ nhưng nói ra toàn chuyện đạo đức giả hình, biến người nghe thành những con cừu non khờ dại, những âm binh để sai khiến kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ quản trị những công ty lớn, miệng nói trung thành, tín nhiệm nhưng gian tham, lường gạt khách hàng khiến cả trăm ngàn người tán gia bại sản, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ âm mưu thống trị nhân loại nhưng nói ra toàn chuyện đạo đức, nhân nghĩa để lừa mị, kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ đứng sau lưng những thế lực đen tối, buôn bán nô lệ, đàn bà, trẻ em, đứng đầu những tổ chức trùm ma túy, kết thành bè đảng Mafia, không chuyện hung ác nào mà không dám làm, những kẻ đó mới đáng sợ. Những kẻ dùng ngòi bút, diễn đàn như gươm súng để đàn áp người cô thế, đầu độc dư luận, bóp méo sự thật, phỉ báng, vu oan giá họa người lương thiện như thế mới đáng sợ. Còn như ông thì chẳng có gì đáng sợ cả.
Nghe nói thế ông đáng sợ nọ chán nản lui ra. Khi ông vừa bước xuống thềm đá thì một cô gái bước vào, tới trước mặt sư, kiêu hãnh hỏi:
- Tôi là Hoa Hậu Hoàn Vũ. Thầy có thấy tôi đẹp không?
Sư nhẹ nhàng đáp:
- Cô chẳng có chi đẹp cả. Có cả ngàn vạn người còn đẹp hơn cô rất nhiều.
Nghe nói thế cô gái mở tròn đôi mắt, bực bội nói:
- Hoa hậu hoàn vũ là người đẹp nhất trong những người đẹp của thế giới. Thầy nói thử xem những người đẹp hơn tôi như thế nào?
Sư đáp:
- Giữ gìn trang nghiêm giới hạnh là thân đẹp. Ăn ở hiền hòa, thủy chung là nết đẹp. Thấy người ta ngã mà nâng lên, đó là cử chỉ đẹp. Thấy người ta đói cho ăn, rách cho mặc, nghèo túng mà giúp đỡ, đó là tấm lòng đẹp. Phụng dưỡng cha mẹ già, chu cấp người cô quả cô độc, tôn quý các bậc hiền thánh, cúng dường chư tăng ni đó là tâm hồn đẹp. Thấy người ta lâm nguy, sợ hãi mà nói lời an ủi giúp đỡ, đó là ngôn ngữ đẹp. Không một tà niệm nảy sinh, đó là ý đẹp. Thấy người ta u tối, không hiểu biết mà khai mở trí tuệ, cho học hành chữ nghĩa, đó là trí tuệ đẹp. Phá vỡ màn vô minh, hướng dẫn chúng sinh vào con đường an vui, giải thoát, đó là cái đẹp tối thắng mà Trời Đế Thích phải trải hoa tán thán. Tất cả những cái đẹp này cần phải được phát bằng tuyên dương, ghi vào sử sách, lập bia ghi công, dựng tượng để chiêm ngưỡng. Còn cái đẹp của cô là cái đẹp của sự ham muốn, chiếm đoạt, xoay vần trong vòng sinh tử luân hồi, ngầm chứa khổ đau, sớm nở tối tàn không có chi đáng tán dương cả.Khi sư nói hết lời, cô Hoa Hậu Hoàn Vũ rầu rĩ lui ra. Nghe nói sau cuộc gặp gỡ này, sư chống gậy trúc, cứ theo đường lên trời ở trong Động Hương Tích mà đi rồi biến mất, người đời mong muốn gặp lại sư cũng chẳng được.
(*) Mô phỏng truyện Thần Bể Với Người Đi Buôn trong Kinh Hiền Ngu. Bộ kinh này do Sa Môn Tuệ Giác dịch ra tiếng Trung Hoa, Hòa Thượng Thích Trung Quán dịch ra Việt Ngữ tái bản ở Hoa Kỳ năm 2525 (Phật Lịch) tức năm 2001 (Tây Lịch)
(Trileo mail)Một vị sư - Một đóa sen
Mùa hè năm ấy có lẽ là một mùa hè nóng bức oi ả nhất của thập niên tám mươi tại miền Bắc. Trại giam Ba Sao, Nam Hà thuộc tỉnh Hà Nam Ninh như nằm yên dưới sức nóng như thiêu đốt, ngay cả về đêm cái nóng như vẫn còn âm ỉ, mọi thứ như tỏa ra hơi nóng – những bức tường, những sàn lót gạch hung hung đỏ, cái sân tráng xi măng trước mặt, ngay cả cái ván lót trên sàn nằm cũng toát ra hơi nóng. Những tù nhân chính trị chế độ cũ như trong một lò ngục tối trên trần gian, ban ngày thì lao động khổ sai đổ mồ hôi không phải đổi lấy bát cơm mà đổi lấy ít thức ăn độn như khoai hay sắn hay bo bo mà vẫn không đủ no, ban đêm thì cố giỗ giấc ngủ trong cái nóng như nung như đốt ấy trong cái cả nh nằm xếp hai từng như cá đóng hộp trong buồng giam. Mồ hôi lại đổ ra cho đến khi mệt lả người đi thì giấc ngủ chập chờn mới đến.
Cái nóng kinh người đã kéo dài cả tháng nay và đồng ruộng đã nứt nẻ, các em bé chăn trâu mà Trung và các bạn gặp trên đường đi lao động cũng môi khô và chui vào các bụi cây trú nắng. Các giếng nước cũng từ từ khô cạn đưa đến nạn thiếu nước trầm trọng cho cả dân chúng những làng bên ngoài lẫn những người tù khốn khổ trong trại.
Buổi trưa hôm đó cũng như mọi ngày sau khi lao động về, ăn xong phần ăn trưa ít ỏi, các người tù cố nằm giỗ giấc ngủ ngắn để lấy sức lao động buổi chiều thì thấy một vị sư già đang ngồi ngoài sân nắng trong thế kiết già cả nửa tiếng đồng hồ và mặt ngước nhìn thẳng lên trời. Những khi hạn hán thì thầy vẫn cầu nguyện như thế và sau đó chiều tối hay trước nửa đêm thể nào mưa giông cũng kéo đến. Đêm nay cũng thế, Trung cố giỗ giấc ngủ để mà mai còn sức trả cái nợ lao động nhưng không làm sao nhắm mắt được, mồ hôi trên người cứ nhỏ từng giọt như làm cho sức khỏe của anh cạn dần đi theo đêm. Anh nhớ tới thằng bạn thân nằm bên cạnh nói với anh hồi chiều rằng chỉ ước ao ông Trời cho một trận mưa chứ đã tù cả chục năm rồi cũng chẳng mơ ước xa xôi gì ngày trở về nữa.
Thế rồi, như một phép lạ những làn gió mát từ đâu từ từ thổi đến, len lỏi vào những khung cửa sổ, luồng dưới những cánh cửa buồng giam và từ xa xa vài lằn chớp nhoáng lên bên trời. Chẳng bao lâu sau thì những giọt mưa, ôi những giọt mưa cam lồ của Trời ban xuống như thêm sức mạnh cho những người tù biệt xứ lưu đày. Các buồng giam không ai bảo ai đều thức dậy và tung mùng ra để được hít thở những giây phút mát rượi của làn gió lùa vào trại giam.
Vô tình Trung nhìn xuống nơi vị sư già giam cùng buồng với anh, thầy vẫn như còn đang ngồi thiền trong mùng, mặt quay vào tường trong thế kiết già. Trung chợt hiểu và các bạn anh cũng hiểu rằng chính nhờ thầy cầu nguyện mà đã có trận mưa đêm nay. Vị sư già đó chính là Trung Tá Quyền Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo của QLVNCH – Thượng Tọa Thích Quang Long, một người tù xuất chúng đã làm cho kẻ thù phải cúi đầu kính nể. Giang sơn của thầy cũng là một tấm chiếu, hai bộ quần áo tù, và một cái chăn đỏ Trung Quốc như mọi người và nằm một dãy với các Đại Đức Tuyên Úy khác.
Anh nhớ đến thầy Khuê, một vị Tuyên Úy Phật Giáo và Tam Đẳng Huyền Đai Nhu Đạo võ đường Quang Trung, một vị Đại Đức mà anh rất mến thương và kính trọng, đã từng nói với anh rằng nếu nói về đạo Phật, về sự tu hành thì hãy lấy thầy Long mà làm gương; đừng vì một vài vị Tuyên Úy đã không nghiêm giữ được giới răn mà hiểu lầm về đạo Phật mà mất đi niềm tin.
Anh nhớ lại câu chuyện lúc mới bước chân vào trại giam Long Thành sau khi Sài Gòn sụp đổ và hầu như mọi người đều không biết bấu víu vào đâu, niềm tin vào các tôn giáo cũng bị lung lay thì một sự việc đã xảy ra làm mọi người đều kính trọng thầy, nhất là khi biết hai tòa đại sứ bạn đã đến đón thầy đi di tản trước đó nhưng thầy đã khẳng khái chối từ và thanh thản bước chân vào trại giam.
Trong thời gian mới bị giam giữ, một hôm thầy được gọi ra làm việc để gặp hai vị sư quốc doanh là Thượng Tọa Thích Minh Nguyệt và Thích Thiện Siêu. Hai vị này ra sức thuyết phục và chiêu dụ thầy để thầy ủng hộ phong trào “Phật giáo yêu nước”, và nói sẽ bảo lãnh cho thầy ra khỏi tù ngay để nhờ thầy góp công góp sức xây dựng phong trào Phật Giáo Yêu Nước này. Hai vị sư này chính là người mà Cảnh Sát Đặc Biệt thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia đã bắt giam trước năm 1975 vì hoạt động cho Cộng Sản. Thích Minh Nguyệt đã bị đày ra Côn Đảo, còn Thích Thiện Siêu thì thường được gọi là ông Từ Đàm vì tu ở chùa này ngoài Huế. Sau đó chính Thượng Tọa Thích Thanh Long là người đã bảo lãnh cho họ ra khỏi tù để ăn năn hối cải mà trở về lại con đường tu hành vì họ đã bị lộ hình tích. Không ngờ ông trời trớ trêu để có ngày họ lại đến trại Long Thành và đối đầu với thầy trong hoàn cảnh đặc biệt này của đất nước.
Thầy nhìn hai vị sư quốc doanh kia và từ tốn chậm rãi nhưng thật cương quyết thầy nói:
“Các ông đã dựng nên cái phong trào “Phật Giáo yêu nước” ấy thì các ông cứ tiếp tục công việc mà các ông đã làm, còn tôi là một Tuyên Úy trong quân đội và tôi sẽ theo chân các Phật tử trong các trại giam, họ đi đến đâu thì tôi cũng sẽ đi đến đấy với họ cho tới cùng. Thôi các ông về đi”.
Và sau đó thầy chấp nhận việc chuyển trại ra Bắc mở đầu cho một quãng đời biệt xứ lưu đày.
Những ai có may mắn gặp thầy trong trại giam thầy đều kính trọng vị sư già này, người mà lúc nào cũng như mỉm cười, hòa nhã, giản dị, khiêm tốn và giúp đỡ tất cả mọi tù nhân mỗi khi thầy có phương tiện.
Năm 1976, thầy cùng một số Tuyên Úy chuyển trại từ Nam ra Bắc và bị giam giữ tại trại 1 Sơn La hay còn gọi là trại Mường Thái là nơi mà trước kia Pháp đã từng giam giữ những tù nhân bị án lưu đày. Năm sau thì thầy có tên trong số những tù nhân di chuyển về trại Yên Hạ, trại giam này nằm dưới thung lũng và bao vây chung quanh bởi những dãy núi đá vôi, thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La. Trại Yên Hạ là nơi chuyên giam giữ những tử tội hình sự cướp của giết người mà đã được nhà nước “khoan hồng” tha cho tội chết.
Chỉ hơn một năm sau thì các tù nhân này dần dần kiệt sức vì lao động khổ sai, thiếu dinh dưỡng, thiếu ăn nhất là thiếu chất mỡ và đường, và vì khí độc từ dãy núi đá vôi phả vào từ chung quanh. Bởi thế chỉ sau một thời gian ngắn chuyển trại từ trong Nam ra ngoài Bắc, ai nấy đều gầy như bộ xương còn biết đi. Khi đi lao động hay đi trở về trại, người ta chỉ thấy những bộ quần áo tù phấp phới bay mà chẳng thấy da thịt đâu. Thế rồi sau bốn năm trời giam cầm và lưu đày, một số những người tù lần đầu tiên được nhận một gói nhỏ tiếp tế cực kỳ quí giá từ gia đình trong Nam gửi ra, một số khác thì vẫn chưa nối lại được sợi dây với gia đình trong Nam. Trong gói nhỏ mà các Phật tử gởi cho thầy Long có 15 cục đường móng trâu, lúc đó ai mà có được 5 cục đường như thế thì đã là thần tiên rồi, nhưng thầy từ từ đem ra phân phát hết 15 cục đường quí giá đó cho những người cùng buồng. Ưu tiên những tù nhân nào mà đã kiệt lực thì được một cục, những người đau ốm khác thì mỗi người được nửa cục mà thôi, còn riêng thầy thì không có một miếng đường nào hết. Những người tù này khi nhận được cục đường từ tay thầy phân phát đã không cầm được nước mắt trước tấm lòng vị tha, quảng đại vô biên của một vị sư mà tâm đã định và huệ đã ngời sáng.
Thầy cũng không thoát được những vụ hỏi cung, một hình thức tra tấn tinh thần những người tù khốn khó này trong trại giam. Một tên cán bộ từ Hà Nội vào với mái tóc hoa râm có vẻ là một viên chức cao cấp thuộc Bộ Nội Vụ đã hỏi cung thầy trong ba ngày liên tiếp. Hắn vứt cho thầy tờ giấy để tối về khai báo những tội lỗi đã chống đảng, nhà nước và nhân dân trước kia khi hoạt động ở Sài Gòn cho Nha Tuyên Úy Phật Giáo của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Sáng hôm sau, khi kêu ra làm việc tiếp tục, thầy đã nộp bản khai báo cho hắn, vừa xem xong thì hắn đùng đùng nổi giận ném tờ khai xuống bàn và quát tháo:
“Anh khai báo thế này hả? Tại sao anh lại chép Chú Đại Bi vào đây? anh muốn tù rục xương ra không?”.
Vẫn thái độ bình tĩnh và từ tốn của một vị cao tăng thầy chậm rãi trả lời:
“Thì đây chính là những gì mà tôi đã làm và đã tụng niệm khi xưa, có thể thôi!”.
Hắn với vẻ mặt hầm hầm liệng cho thầy một tờ giấy khác để khai báo lại một cách thành khẩn để được sớm khoan hồng. Sáng ngày hôm sau, thầy nộp cho hắn một tờ thứ hai và trên tờ đó thầy chép lại thật nắn nót bài Kinh Bát Nhã. Đến đây thì hắn nổi điên lên và mạt sát thầy thậm tệ và đe dọa rằng thầy sẽ tù mọt gông và đừng mong sẽ được hưởng lượng khoan hồng. Thầy ung dung trả lời rằng:
“Các ông cứ việc giam giữ tôi bao lâu cũng được, tôi chỉ xin các ông hãy thả hết những người tù chính trị chế độ cũ mà các ông đang giam giữ mà thôi”.
Từ đó đến sau, chúng ít khi kêu thầy ra hỏi cung nữa cho đến mãi năm 87, trước khi có một đợt thả lớn tại trại Ba Sao Nam Hà thì trong các vị Tuyên Úy bị hỏi cung có tên thầy. Nhưng đặc biệt lần này chúng gọi thầy bằng thầy chứ không gọi là anh như trước nữa, tuy nhiên chúng vẫn dụ dỗ thầy nhận tội để được khoan hồng. Thầy trả lời rằng các ông cứ thả hết các ông đại đức tuyên úy ra đi vì họ chẳng có tội lỗi gì hết tất cả đều do tôi và họ đều làm theo chỉ thị của tôi hết, muốn gì thì cứ giữ tôi ở lại đến bao lâu cũng được. Chúng đành chào thua và chỉ vài tháng sau thì thầy có tên trong danh sách được thả ra khỏi trại cùng với tất cả các đại đức và những vị mục sư linh mục khác trong các Nha Tuyên Úy quân đội.
Thầy ở tù mười hai năm, một năm trong Nam và mười một năm lưu đày trong những trại giam được dựng lên nơi rừng thiêng núi độc miền Bắc. Về miền Nam, thầy trở lại chùa Giác Ngạn trên đường Trương Minh Ký cũ ở Sài Gòn để lại lo Phật sự, cúng kiến giúp đỡ các gia đình Phật tử. Khi đi đâu tụng kinh thầy vẫn đơn sơ trong chiếc áo nâu sòng và phe phẩy chiếc quạt đã sờn rách và môi luôn nở nụ cười hiền hậu giống như một ông già nhà quê chất phát hiền lành.
Chùa Vĩnh Nghiêm có vời thầy ra nhưng thầy vẫn ở lại Giác Ngạn – ngôi chùa mà thầy góp công xây dựng lên và trụ trì cho tới khi mất nước – cho tới khi thầy viên tịch vài năm sau đó.
Phạm Gia Đại
Một góc của khuôn viên chùa Thiên MụNgày 11/6/1963, Bồ tát Thích Quảng Đức đã dùng chiếc xe này đi từ chùa Ấn Quang đến ngã tư Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt để tự thiêu.
---------------------------------------------------------------------------------
Nhà sư “nhất bộ nhất bái” đã đến Hà Nam
21/06/201206:37:04
(Kienthuc.net.vn) - Đến ngày 20/6, cuộc hành trình “nhất bộ nhất bái” của sư thầy Thích Tâm Mẫn đã đến tỉnh Hà Nam. Có hàng nghìn bà con Phật tử ở địa phương đã tự nguyện đồng hành, cùng đi bộ tháp tùng Đại đức Thích Tâm Mẫn.
Bùi Hiền
nguồn_bee.net.vn:http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/bee.net.vn/Nha-su-nhat-bo-nhat-bai-da-den-Ha-Nam/8723787.epi
---------------------------------------------------------------------------------
TIN LIÊN QUAN |
---|
Cuộc hành hương bằng hình thức “nhất bộ nhất bái” (đi một bước, lạy một lạy - PV) của Đại Đức Thích Tâm Mẫn là một pháp tu với ý chí nhằm sám hối tội lỗi, cầu nguyện hòa bình, chí đạt quả Phật, hóa độ chúng sinh.
Thầy Tâm Mẫn cho biết đây là một pháp tu của Phật giáo, nhằm rèn luyện tâm ý và niềm tin kiên định để hoàn thành chí nguyện.
Lý do phát nguyện thực hiện chuyến hành hương này, thầy Tâm Mẫn không tiết lộ. Tuy nhiên trong suốt quãng đường mà Thầy hành hương, Thầy đều cầu nguyện cho quốc thái dân an, thế giới hòa bình.
Ðoạn đường bộ từ TPHCM đi Yên Tử dài hơn 1.800 km. Tốc độ di chuyển khi lễ lạy bình quân là gần 2 km/ngày. Chuyến hành hương này bắt đầu từ Tết Kỷ Sửu (2009) và dự kiến kéo dài khoảng bốn năm.
Đến địa phận tỉnh Hà Nam, thầy Tâm Mẫn đã được Tăng Ni, Phật tử đón tiếp và bố trí ăn nghỉ, đồng thời cùng đi bộ, cầu nguyện với thầy.
Kienthuc.net.vn giới thiệu một số hình ảnh của thầy Tâm Mẫn hành trì “nhất bộ nhất bái” ở địa phận tỉnh Hà Nam.
Nhiều Phật tử đã tự nguyện quét sạch đoạn đường mà thầy Tâm Mẫn hành trì “nhất bộ nhất bái”
Và có hàng nghìn người dân đã ra đường để xem thầy hành trì
Mặc dù trời nắng, nóng nhưng thầy vẫn hành trì đều đặn, không ngừng nghỉ. Thầy vẫn đi một bước và lạy một một cái
Một lòng tín kính với đạo Phật, với thầy nên phía sau thầy luôn có rất nhiều người đi theo
Từ các chư Ni ở nhiều chùa
Đến những cụ già cầm những bó hoa tươi
Thậm chí có cả chị mang bầu cũng đi theo
Họ còn mang theo những lồng chim như này để cho thầy làm lễ phóng sinh
Mặc dù đường nhựa nóng hầm hập nhưng thầy vẫn lạy...
Và tiếp tục chuyến hành hương của thầy về với non thiêng Yên Tử (Quảng Ninh)
nguồn_bee.net.vn:http://www.baomoi.com/Home/GiaoDuc/bee.net.vn/Nha-su-nhat-bo-nhat-bai-da-den-Ha-Nam/8723787.epi
---------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Nam mô A di đà Phật
Trả lờiXóaMuốn đi tu quá !