Huy Đức: ĐẶT MÌNH TRONG VỊ TRÍ NGƯỜI DÂN VĂN GIANG
Đặt mình trong vị trí người dân Văn Giang
Huy Đức
Chính quyền
Hưng Yên nói họ đã không sai khi tổ chức cưỡng chế 70 hecta đất của 160 hộ dân
Văn Giang. Chưa có cơ sở để tin rằng Thủ tướng sẽ nói quyết định này của Hưng
Yên là sai như ông đã làm với chính quyền Hải Phòng. Nhưng, cho dù bên thua trận
là nhân dân thì hình ảnh hàng ngàn cảnh sát chống bạo động, “khiên-giáo” tua
tủa, đối đầu với vài trăm nông dân cuốc xẻng trong tay không chỉ phản ánh mối
quan hệ Chính quyền – Nhân dân hiện nay mà còn có tính dự báo không thể nào xem
thường được.
Làm luật cũng là Chính quyền,
giải thích luật cũng là Chính quyền, chỉ có người dân là thiệt. Kể từ năm 1993,
Luật Đất đai theo tinh thần Hiến pháp 1992 đã được sửa đổi 5 lần. Chỉ riêng các
điều khoản thu hồi, nếu như từng được quy định khá chặt chẽ trong Luật 1993, đã
trở nên rắc rối và dễ bị lũng đoạn hơn trong Luật 2003.
Điều 27, Luật Đất đai 1993, quy
định rằng: “Trong trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng
của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại”. Điều
Luật tiếp theo còn đưa ra những điều kiện ràng buộc nhằm tránh sự lạm dụng của
Chính quyền. Luật sửa đổi 1998 gần như giữ nguyên tinh thần này. Nhưng, đây là
thời điểm mà các đại gia bắt đầu phất lên nhờ đất. Tiến trình ban hành chính
sách bắt đầu có sự can dự của các nhóm đặc lợi, đặc quyền.
Luật Đất đai 2003 đã đặt rất
nhiều rủi ro lên người dân khi điều chỉnh mối quan hệ này thành một chương gọi
là Mục 3. Trong phần “Thu hồi đất”, Luật gần như đã đặt những mục tiêu cao cả
như “lợi ích quốc gia” ngang hàng với “lợi ích của các đại gia”. Điều 39 định
nghĩa những “lợi ích quốc gia” chủ yếu là những “dự án đầu tư có nhu cầu sử dụng
đất phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xét duyệt”. Dự án Ecopark đã được Thủ tướng phê duyệt, nếu chiểu theo Luật
2003, việc nông dân Văn Giang không chịu bị thu hồi nên bị cưỡng chế là hoàn
toàn phù hợp với Điều 39.
Việt Nam không có một tối cao
pháp viện để nói rằng Luật 2003 ở những điều khoản nói trên đã vi Hiến; Việt Nam
cũng không có tư pháp độc lập để nông dân có thể kiện các quyết định của chính
quyền. Chỉ vì không có niềm tin Hệ thống có thể mang công lý đến cho mình mà gia
đình anh Đoàn Văn Vươn, hôm 5-1-2012, và 160 hộ dân Văn Giang, hôm 24-4-2012,
phải chọn hình thức kháng cự chịu nhiều rủi ro như thế.
Cho dù “đất đai thuộc sở hữu
toàn dân”, người dân chỉ có các quyền của người sử dụng. Nhưng, sở dĩ ai cũng
gắn bó với mảnh đất mà mình đang cắm dùi là bởi: Đất ấy không phải được giao
không từ quỹ đất công như những quan chức có đặc quyền, đặc lợi; Đất ấy họ đã
phải mua bằng tiền; Đất ấy họ phải tạo lập bằng nước mắt, mồ hôi; Đất ấy là của
ông cha để lại.
Không thể nói một thứ có thể quy
đổi thành tiền mà không phải là tài sản. Không thể bỗng dưng một khối tài sản có
khi phải đánh đổi cả cuộc đời lại có thể bị thu hồi. Không thể nhìn đất ấy đang
làm lợi cho các đại gia qua quyết định hành chính của một cấp chính quyền,
thường chỉ là, hàng huyện.
Đất đai của các doanh nghiệp,
của nông dân, vì thế, phải được coi là “tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức”.
Trong bài “Ba khâu Đột phá của Thủ tướng” (tại
đây!) tôi có đề nghị đa sở hữu hóa đất đai, công nhận quyền sở hữu đã có
trên thực tế của người dân. Nhưng, sau gần một năm, tôi nghĩ là, những người lạc
quan chính trị nhất cũng không còn hy vọng ấy. Cho dù chưa có những thay đổi về
mặt ngôn từ thì việc tuân thủ Hiến pháp 1992 là điều không nên bàn cãi. Điều 18
Hiến pháp 1992, nói: “Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài”. Nghĩa là việc giao đất cho dân là vô thời hạn. Khi bình luận về
các điều khoản quy định thời hạn giao đất, chính một trong những tác giả chính
của Luật Đất đai 1993, ông Tôn Gia Huyên, cũng cho rằng, Luật đã có “một bước
lùi so với Hiến pháp”.
Hiến pháp đã cho “chuyển quyền
sử dụng” có nghĩa là công nhận quyền ấy như một tài sản của người dân. Nghĩa là,
thay vì “thu hồi đất” như các quy định trong Luật Đất đai, “trong trường hợp
thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia”, Nhà nước
nên chiểu theo Điều 23 của Hiến pháp mà “trưng mua, trưng dụng”. Luật trưng mua
– trưng dụng cũng nên định nghĩa minh bạch “lợi ích quốc gia” để phân biệt với
“lợi ích của các đại gia”. Và khi trưng mua thì nên lấy giá giao dịch trên thực
tế chứ không phải là giá hành chánh được nghĩ ra trong các phòng máy
lạnh.
Với những dự án lớn, đụng chạm
xã hội, như Ecopark, cho dù là tư nhân đầu tư, thì cũng nên đòi phải minh bạch
trong từng bước đi. Phải buộc kiểm toán để thấy rằng, đất đai của nông dân chiếm
bao nhiêu phần trăm trong tổng vốn đầu tư và mời nông dân tham gia bằng cách góp
vốn và chia lãi theo tỉ lệ vốn bằng quyền sử dụng đất.
Vì sao trong trường hợp vì lý do
quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia mà Hiến pháp vẫn yêu cầu phải trưng mua
theo giá thị trường? Vì sao các nhà nước của dân vẫn đền bù thỏa đáng cho các
trường hợp rủi ro ví dụ như bồi thường cho ai đó đang đi dưới hè đường bị một
cành cây rơi trúng. Cái cành cây ấy, mọc ở ven đường, mang lại phúc lợi bóng mát
cho hàng vạn con người nên khi nó gãy không thể để một người chịu
thiệt.
Người dân Văn Giang không chống
lại dự án Ecopark, người dân chỉ không đồng ý với giá và cách mà Chính quyền đền
bù. Nếu con số 90% nông dân Văn Giang đã nhận đền bù là đúng thì cũng không thể
coi 10% phản ứng là sai. Trước anh Đoàn Văn Vươn đã có những người cam chịu lệnh
thu hồi đất của chính quyền Tiên Lãng.
Đừng nghĩ những người chân lấm
tay bùn không biết tính toán. Đừng nghĩ nông dân không biết xót xa khi nhận chưa
tới 150 nghìn đồng/ m2 rồi nhìn đất của họ được đem bán với giá hàng
chục triệu đồng. Chính quyền nói, “chỉ có 30% diện tích được phục vụ vào mục
đích kinh doanh, tức là phần chủ đầu tư làm nhà để bán, còn lại là diện tích đất
dành cho phát triển giao thông, công trình phúc lợi, cây xanh”. Tất nhiên phải
có phần hạ tầng và cây xanh này thì người ta mới đến Ecopark mua nhà. Nhưng, cho
dù nó thực sự là phúc lợi thì cũng không thể đòi hỏi 1.500 hộ dân ở Văn Giang
phải chịu thiệt cho các đại gia đến hưởng.
Sáng 17-4-2009, khi bị cưỡng chế
thu hồi đất, chính người thân của Thủ tướng đương nhiệm cũng đã kháng cự. Cho dù
185 hecta đất cao su mà những người này có được ở huyện Bến Cát, tỉnh Bình
Dương, nhẹ nhàng hơn cách mà thường dân có được vài nghìn mét ruộng nương. Đất
ấy họ được địa phương bán với giá bình quân 50 triệu/ hecta và sau đó khi thu
hồi lại, Bình Dương đã đền bù mỗi hecta gần một tỉ. Tôi nhắc lại điều này chỉ để
đề nghị tất cả ai quan tâm nên đặt mình trong vị trí của người dân Văn Giang. Từ
các quan chức ra lệnh cho đến những cảnh sát đã đánh vào đầu dân đều phải nghĩ
đến ngày đất đai của nhà mình bị Chính quyền cưỡng chế.
Đừng nghĩ Đoàn Văn Vươn hay Văn
Giang là đơn lẻ. Không nên coi một chính sách luôn giữ kỷ lục trên dưới 80% tổng
số người khiếu kiện trong suốt hơn 20 năm qua là không có gì sai. Cho dù quyết
tâm cưỡng chế 160 hộ dân ở Văn Giang có thể chỉ vì lợi ích của một số cá nhân;
có thể sau thất bại trong vụ Đoàn Văn Vươn, Chính quyền muốn cứng rắn để dập tắt
khát vọng đòi đất của những nông dân muốn noi gương anh Vươn. Thì, hình ảnh cuộc
cưỡng chế hôm 24-4-2012 đã trở thành một vết nhơ trong lịch
sử.
Một chế độ luôn lo sợ mất ổn định không nên nuôi dưỡng
quá nhiều những mầm mống đang làm mất ổn định. Một chế độ rất sợ các thế lực thù
địch không nên tạo quá nhiều thù địch ngay chính trong lòng mình. Đất nước này
tao loạn quá nhiều rồi, hơn ai hết người dân cũng cần ổn
định.
Nguồn: Osin Facebook
Bài viết khá hay !
Trả lờiXóa