Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đề nghị Ðảng và Nhà nước XHCN lấy ngày 30.4 làm “Ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc”
THÔNG CÁO
BÁO CHÍ TẠI PARIS NGÀY 27.4.2012
Đức cố Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang đề
nghị Ðảng và Nhà nước XHCN lấy ngày 30.4 làm “Ngày Sám hối và Chúc sinh toàn quốc” : Sám
hối những sai lầm trọng đại, giải quyết tình trạng bi thảm của những người tử
vong, tàn tật, qua 2 cuộc chiến, và bảo đảm Nhân quyền cho người sống, Linh
quyền cho người chết
PARIS, ngày 27.4.2012 (PTTPGQT) - Mười
hai năm trước đây, ngày 21.4.2000, từnơi lưu đày quản chế ở Quảng Ngãi, Ðại lão
Hoà thượng Thích Huyền Quang, Đức cố Đệ tứ Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất, gửi bức thư 6 trangđến các ông Lê Khả Phiêu, Trần Ðức Lương,
Phan Văn Khải và Nông Ðức Mạnh. Thưviết về hiện tình đất nước 12 năm sau chỉ còn
là một văn bản đánh dấu thời đã qua. May lắm còn được lưu truyền như nhân chứng
thờiđại.
Nhưng không. Bức thư của Đức cố Đệ tứ Tăng
Thống gửi lãnh đạo Cộng sản 12 năm trước vẫn giữ nguyên thời sự.Những tệ nạn xã
hội có tính Quốc nạn mà Đức cố Tăng Thống đề xuất vẫn còn nhưchuyện của hôm nay
vào ngày 30.4.2012. Đặc biệt sự Sám hối những sai phạm chết người của Đảng Cộng
sản cần thiết hơn bao giờ để dất nước làm bước ngoặt sáng tạo thay đổi thời cơ,
từ đen tối đến huy hoàng, từ đói hèn đến no ấm, từ nô lệ đến tự
do.
Nhân kỷ niệm ngày 30.4 đau buồn rên siết
của dân tộc năm nay, Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin trân trọng gửi đến
quý Cơ quan Truyền thông và Báo chí toàn văn bức thư quan trọng và thống thiết
của Nhà lãnh đạo Phật giáo trước hiện tình suy vong của đất nước sau 37 năm nạn
độc tài toàn trị hoành hành. Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế phân các tiểu đề
trong bức thư cho dễ đọc :
|
Đức cố Đệ
tứ Tăng Thống
Thích Huyền Quang |
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
VIỆN TĂNGTHỐNG
--------------------------------------------------------------------------------------------
Phật lịch
2543 Số :
02/VTT/VP
Ðồng kính gửi :
Ông Lê Khả Phiêu, Tổng bí thưÐảng Cộng sản Việt Nam
Ông Trần Ðức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN
Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng CHXHCNVN
Ông Nông Ðức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN
Ông Lê Khả Phiêu, Tổng bí thưÐảng Cộng sản Việt Nam
Ông Trần Ðức Lương, Chủ tịch CHXHCNVN
Ông Phan Văn Khải, Thủ tướng CHXHCNVN
Ông Nông Ðức Mạnh, Chủ tịch Quốc hội CHXHCNVN
Nghĩa Hành, ngày 21 tháng 4 năm
2000
Thưa quý Ngài,
Từ hơn một tháng qua Ðảng và Nhà nước bắt
đầu tổ chức ăn mừng ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975. “Ðại thắng mùa xuân”,
“Giải phóng miền Nam”, “Thống nhất đất nước”, “Ðộc lập và hòa bình”, v.v... sẽ
là những đề tàiđược ca ngợi.
Nhân danh Viện Tăng thống và Hội đồng Lưỡng
viện Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, tôi muốn nói lên những điều mà có
lẽ Ðảng và Nhà nước sẽ không có cơ hội nhắc tới trong dịp Kỷ niệm 25 năm
này.
Xin hãy nghĩ đến những người đã chết và để tâm lo cho giađình họ
Hai điều tôi mong được quý Ngài lưu tâm, là
những người tử vong, tàn tật vì cuộc chiến, và quyền sống của người dân với đầy
đủ các quyền tự do căn bản chưa được công nhận.
Theo số liệu chính thức của Nhà nước, trong
cuộc chiến vừa qua có ba triệu người chết, 300.000 bộ đội mất tích chưa tìm thấy
mộ phần. Trong thực tế, số liệu này còn cao hơn gấp bội. Chưa kể hằng triệu
người tàn tật, hằng triệu gia đình có con em chết trận không được nâng đỡ hay
đền bù xứngđáng. Chưa kể số phận đông đảo binh sĩ tử vong hay tàn tật thuộc miền
Nam cũchưa hề được nhắc nhở như con dân một nước, dù chiến tranh chấm dứt từ
lâu, dù lưỡng cực phân tranh trên thế giới đã cáo chung. Chưa kể nạn nhân chết
oan ức hoặc bị hành hạ tàn bạo trong thời Cải cách Ruộng đất, mà con số 700.000
ngườiđã được các cán bộ trong cuộc tiết lộ. Chưa kể nạn dân bị tàn sát trong
cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, đặc biệt tại Huế. Chưa kể trên 100.000 người
bịhành quyết trong các Trại Cải tạo, và gần một triệu người bỏ thân trên biển
cảkhi vượt biển tìm tự do. Biết bao dâu bể thảm sầu trong một bài tính
cộng.
Ðó là những người đã chết hoặc sống trong
phũ phàng, quên lãng.
Chọn lựa duy nhất : Vào tù hay vào guồng máy Ðảng
Nhắc đến quyền sống của người dân với đầy
đủ các quyền tựdo căn bản, tôi chợt nhớ lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh :
“Ðộc lập mà dân không được tự do, không được hạnh phúc, thì độc lập không có
nghĩa gì”. Sự thật ngày nay, 80% nông dân và người lao động sống trong cảnh
bần hàn, đói khổ. Sung túc bề ngoài chỉ thấy ở vài thành phố lớn, làm màu mè cho
khách du lịch hay những nhà ngoại giao phương Tây, nhằm cầu viện trợ kinh
tế.Sung túc nói đây là sung túc trong tham nhũng và chụp giựt của nhau, chứ chưa
làđời sống ổn định thái hòa của một xã hội an sinh.
Muốn biết quốc gia thịnh suy như thế nào,
chỉ cần nhìn vào đời sống của một người dân thường, một đoàn thể, một tôn giáo.
Hiện tại ởnước ta, đoàn thể hay tôn giáo không được quyền tự do tồn tại, vì điều
4 trên Hiến pháp quy định sự độc tôn của tư tưởng Mác Lê-nin, và độc quyền cai
trị của Ðảng Cộng sản. Mọi hình thái sinh hoạt của đoàn thể, tôn giáo ngoài chủ
nghĩa cộng sản đều bị loại trừ. Con người Việt ở đầu thế kỷ 21 chỉ còn hai chọn
lựa : vào nhà tù hay vào guồng máy Ðảng.
Khổ thay khi vào guồng máy Ðảng, con người
chẳng còn được hiện hữu theo cá tính tự do của họ. Có miệng không được nói, có
đầu óc khôngđược suy nghĩ, có trái tim không được thương yêu nòi giống và quê
hương theo quan điểm riêng biệt.
Còn vào nhà tù hay trại cải tạo thì được tự
do suy nghĩmột mình, tự do ăn nói một mình. Song tự do như thế là tự do di động
trong mồsống, chẳng ai biết chẳng ai hay, vô tích sự với xã hội, nhân quần. Tự
do theo kiểu này, khi nhân phẩm đã bị giải thể, có khác chi thứ tự do của loài
trùn quằn quại trong lòng đất ?
Lời tra vấn cho nền văn hiến Việt và sự sinh tử cho mỗi con người
Thưa quý Ngài,
Là Tăng sĩ Phật giáo, với 83 tuổi đời, tôi
không được sống và hoằng dương giáo lý Từ bi của đức Phật cho đồng bào tôi. Từ
dưới thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa ngày nay, tôi
chỉ biết mùi vị của nhà tù. Bởi cớ gì một công dân, một người tôn giáo như tôi
không được sống trong cảnh tự do ? Và qua tôi, một Giáo hội dân lập có truyền
thống 20 thế kỷ trên đất nước này, là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
không được tự do sinh hoạt, như Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính
trị của Liên Hiệp Quốc quy định và bảo đảm ?
Câu hỏi tôi đặt ra đây không là sự oán hận
cá nhân hay lời than phiền của một tôn giáo. Mà là lời tra vấn thống thiết về
tiền đồ của nền văn hiến Việt, và sự sinh tử cho mỗi con người. Là nạn nhân và
chứng nhân lịch sử 55 năm qua, tôi muốn được thấy đất nước đổi thay trong khi
mình còn sống. Chứ không muốn từ giả cõi đời với hình ảnh của một chính thể bất
biến trong chủ trương kỳ thị và đàn áp tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tự do lập hội cùng mọi quyền tự do căn bản của nhân
quyền.
10 ngón tay chặt 5 ngón :
tiêu diệt
Trí, Phú, Ðịa, Hào và Tôn giáo thời Việt
Minh
Năm 1950, sống ở Liên khu 5 vào thời Chủ
tịch Hồ Chí Minh phát động Cải cách Ruộng đất, tôi đã từng nghe cán bộ và loa
phóng thanh ra rảngày đêm kêu gọi nhân dân tiêu diệt năm thành phần xã hội “Trí,
phú, địa, hào, và tôn giáo lưu manh”. Mười ngón tay mà chặt mất năm thì còn lại
gì ? Năm 1951, ông Nguyễn Duy Trinh, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên
khu 5,đại diện Chính phủ Trung ương, tuyên bố rằng : “Phật giáo đã đến lúc
cáo chung”. Ông Trinh nêu đích danh Phật giáo, không nhắc nhở hay công kích
các tôn giáo khác. Thế là sang năm 1952, chính quyền kháng chiến bắt quần chúng
Phật tử phải rời bỏ hàng ngũ Phật giáo để sáp nhập vào Liên Việt, một tổ chức
ngoại vi của Ðảng. Tôi phản đối, liền bị bắt giam tại Quảng Ngãi, Hội Phật giáo
Cứu quốc của chúng tôi bị giải tán. Nhờ có Hiệp định đình chiến Genève năm 1954,
tôi mới được trả tự do. Giấy phóng thích không ghi tôi phạm tội
gì.
Kỳ thị và đàn áp Phật giáo sau ngày 30.4.1975
Sau ngày 30.4.1975, chính quyền Cách mạng
lên ngôi, ai cũng tưởng mọi thành phần dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân sẽ được
yên ổn làm ăn, tự do sinh họat trong tinh thần hòa hợp hòa giải ghi trong Hiệp
định Paris. Nhưng không, chuyện cũ tái hiện. Thành phần đông đảo quần chúng là
Phật giáo đồ,tổ chức có truyền thống dân tộc và quy mô là Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất, là những nạn nhân bị kỳ thị và bị đàn áp trước tiên. Mặc dù
lập trường của Giáo hội chúng tôi trước sau như một : dân tộc, hòa bình, từ
bi, cứu khổ.
Chính sách kỳ thị và đàn áp thể hiện qua
việc bắt Tăng Ni hoàn tục, bắt họ đi kinh tế mới, đi nghĩa vụ sang chiến trường
Kampuchia hay đem giam vào trại Cải tạo ; chiếm đoạt tại Saigon và trên khắp các
tỉnh thành ởmiền Nam tất cả các cơ sở tự viện, gia ốc của Giáo hội, các cơ sở
văn hóa, giáo dục, xã hội, kinh tế, viện đại học Vạn Hạnh, hệ thống trường
trung, tiểu học BồÐề, trường Thanh niên Phụng sự xã hội, cơ quan từ thiện, nhà
nuôi trẻ, cô nhi viện, đất chùa, kinh sách, v.v... . Khiến cho 12 Tăng Ni đã
phải tự thiêu tập thể tại Chùa Dược Sư ở Cần Thơ ngày 2.11.1975 để phản đối và
yêu sách quyền tựdo tôn giáo.
Trong bức thư đề ngày 20.9.1975, mang số
0278-VHÐ/VP, nhân danh Viện Hóa Ðạo gửi ông Chủ tịch Chánh phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam (kính quá Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân
Quản Saigon -Gia định), tôi đã yêu cầu chấm dứt hành động đập phá tượng Phật.
Trong thư, tôi nêu rõ 3 trường hợp cụ thể phá tượng Phật tại chùa Bửu Long ở Sóc
Trăng ngày 2.9.75 ; đặt mìn phá tượng Phật Quan Âm lộ thiên cao 9 thước tại đồi
Phú Hải ở Phan thiết ngày 11.9.75 ; đặt mìn phá tượng Phật Quan Âm tại Biển Hồ ở
Pleiku ngày 11.9.75.
Tình trạng càng lúc càng tệ hại, nên ngày
17.3.1977 tôi lại nhân danh Viện Hoá Ðạo viết thư, mang số 044/VHÐ/VP, gửi Thủ
tướng Phạm Văn Ðồng, nói lên chính sách đàn áp tôn giáo quy mô tại miền Nam cũ.
Kèm thư, tôi nêu rõ 88 trường hợp đàn áp cụ thể và các vụ cưỡng chiếm văn phòng
trụ sở Giáo hội tại 29 tỉnh thành : Phú bổn, Long khánh, Khánh hòa, Nhatrang, Ðà
Nẵng, Quảng ngãi, Bình thuận, Sóc trăng, Chương thiện, Saigon, Thủ đức, Long
châu tiền, Kiên giang, Tuyên đức, Gia lai, Kontum, Pleiku, Ban Mê thuộc, Ðịnh
tường, Phan thiết, Bình tuy, Hậu giang, Kiến phong, Thuận hải, Ðồng nai, Bình
chánh, Biên hòa, Long an, Minh hải. Việc tàn phá các Phật đài tôn nghiêm vẫn
tiếp diễn. Cho đến đầu năm 1977, gần 20 tượng Phật Thích Ca và Quán Thế Âm bị
phá hủy bằng chất nổ, bằng búa, thủ tiêu hoặc vứt xuống sông. Như các trường hợp
xẩy ra tại các chùa Tỉnh hội ở Gia Lai, Kontum, Ban Mê thuộc, chùa Vạn Hòa ở
Kiên giang, chùa Khánh Minh ở Cần giuộc, chùa Thiền Tôn ở Minh Hải, Niệm Phật
đường trong bệnh viện Nguyễn Văn Nhựt, v.v...
Bây giờ Dân khinh đáo để
Ðại lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu ở miền Bắc
trở về Nam thấy tình hình đàn áp nhân quyền nói chung và khủng bố Phật giáo nói
riêng, đã phải thán lên trong băng hồi niệm mà ngài cho ghi âm, hiện chúng tôi
còn giữ,rằng : “Tình đoàn kết, thương yêu, kính trọng của nhân dân miền Nam
chỉ được 10 ngày. Sau 10 ngày “giải phóng” : tình đoàn kết tan rã, lòng yêu
thương đổi thành ghét cay ghét đắng, sự kính trọng bây giờ người dân trở lại
khinh đáo để”.
Dù tình hình khó khăn khốc liệt như thế,
nhưng Viện Hóa Ðạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, vẫn nghĩ đến sự đóng
góp phần mình vào cuộc tái thiết quê hương sau thời chiến, nghĩ đến việc thống
nhất khối lượng Phật giáo đồ hai miền Nam Bắc, y như thời đất nước chưa bị Hiệp
định Genève qua phân, để chấn chỉnh đạo đức, bảo vệ nền hòa bình dân tộc, băng
bó vết thương tranh chấp, bất hoà, và bài trừ các tệ nạn xã hội. Viện chúng tôi
đã cẩn thỉnh Ðại lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu đại diện đến gặp ông Nguyễn Văn
Hiếu, Bộ trưởng bộ Văn hóa, trình bày sự việc. Nhưng ông Hiếu trả lời : Thống
nhất rất tốt, nhưng không thống nhất với Phật giáo phản động. Hỏi Phật giáo phản
động là ai ? Ông Hiếu không trả lời. Phải chăng ông Hiếu và chính quyền Cách
mạng không muốn cho Phật giáo đồ Bắc Nam Trung thống nhất trong lẽ Ðạo, mà chỉ
nhằm bắt họ “thống nhất” với chính trị ?
Những ai không chịu thế tục hóa đạo Phật
liền bị bắt nhốt, bị chụp cho đủ thứ mũ. Hiện trạng mà năm 1977, tôi cùng các vị
lãnh đạo cao cấp và trung cấp trong Viện Hóa Ðạo, như quý Thầy Thiện Minh, Quảng
Ðộ, Trí Giác, Thông Huệ, v.v... bị bắt giam ở Phan Ðăng Lưu. Cuối năm 1977, Hòa
thượng Thích Thiện Minh bị tra tấn đến chết trong tù, Giáo hội xin nhận thi hài
làm lễan táng, thì bị từ chối. Hai năm sau, tất cả chúng tôi bị đưa ra tòa xét
xử mà vẫn không biết mình phạm tội gì. Bởi chỉ đứng nghe lời vu cáo phán quyết,
khôngđược quyền tự biện hộ, cũng chẳng có luật sư bảo vệ như tại các nước văn
minh tôn trọng pháp quyền. Người lãnh án treo, người tha bỗng, người bị 2 năm, 3
năm, 7 năm tù.
Nền“Phật giáo Nước nhà” biến thành “Phật giáo Nhà nước”
Cuối năm 1981, Ðảng và Nhà nước dựng lên tổ
chức Phật giáo làm công cụ cho chính trị, bỏ tinh thần thống nhất đặc thù của
Phật giáo Việt Nam để thu hình vào danh xưng “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”. Từ
phong trào Chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX, suốt 70 năm qua, tâm nguyện chúng
tôi hành trì cho cuộc thống nhất nền Phật giáo Nước nhà, thì nay Ðảng nắn dựng
ra tổ chức Phật giáo Nhà nước. Vì vậy mà chúng tôi phản đối. Việc Giáo hội là
của chư Tăng Ni và Phật tử quyết định, cớ sao Ðảng lại nhúng tay sắp đặt và
quyết định thay cho hàng giáo phẩm Giáo hội và quần chúng Phật tử ? Báo chí Ðảng
và Nhà nước dựa vào vài Tăng sĩ tên tuổi làm bình phong trấn an quần chúng trong
nước và dư luận thế giới. Nhưng ngoài những người đội lốt Tăng già, còn lại là
những trường hợp cá nhân bị bó buộc, bị lũng đoạn, thúc ép, hoặc nhiều vị lâm
cảnh giảdại qua ải. Khiến Phật tử toàn quốc khổ tâm chứng kiến cảnh : Một
Giáo hội Nhà nước đã chết mà chưa chôn ! Một Giáo hội Dân lập (Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất) đã chôn mà vẫn sống
!
Giáo hội là nơi tập họp những người mang
cùng chí nguyệnđem lại Chân, Thiện, Mỹ và giải thoát khổ đau cho đời. Không thể
là nơi hoan hô,đả đảo suốt ngày. Vì vậy chúng tôi từ khước hình thức và nội dung
của một Giáo hội công cụ. Thế là ngày 25.2.1982, tôi nhận Quyết định số 71/QÐ-UB
của Ủy ban Nhân dân TP Hồ Chí Minh do ông Nguyễn Minh Ðạm, Phó giám đốc Công an
thành phốvà ông Lê Quang Chánh, thay mặt Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố ký,
trục xuất tôi ra khỏi thành phố Saigon. Áp giải về quản thúc tại tỉnh Nghĩa Bình
từ đó đến nay. Bản Quyết định ghi tội danh của tôi là “lợi dụng tôn giáo để gây
chia rẽkhối đoàn kết dân tộc (...), gây nguy hại và an ninh trật tự của thành
phố”. Lấy quyền gì mà Ủy ban Nhân dân Thành phố quyết định, bắt giam, lưu đày
một tu sĩcũng là công dân như tôi, chẳng cần thông qua sự xét xử của bất cứ tòa
án nào. Cung cách ấy có là tôn trọng pháp quyền chăng ? Cùng bị bắt, cùng bị đưa
vềnguyên quán quản thúc như tôi, còn có Hòa thượng Thích Quảng Ðộ giải về Thái
Bình ở miền Bắc.
Dân biết, dân câm họng. Ðảng biết, đảng bỏtù
Năm 1992, Ðại lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu
viên tịch tại chùa Linh Mụ ở Huế. Cuối tháng 4 năm ấy, tôi xin phép ra Huế thọ
tang Ngài cùng với chư tôn Giáo phẩm cao cấp, trung cấp của Giáo hội và Tăng Ni,
Phật tử quy tập về từ các miền Nam, Trung, Bắc. Tại lễ điếu này, tôi được chư vị
Giáo phẩm có mặt, chiếu Chúc thư của cố Ðại lão Hòa thượng Thích Ðôn Hậu, ủy
nhiệm tôi làm Quyền Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, để cùng với nhị vị Hòa thượng
Thích Quảng Ðộ,Thích Pháp Tri lãnh đạo Giáo hội vận động phục hồi quyền sinh
hoạt cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và tổ chức Ðại hội VIII để bổ
sung nhân sự lo việc hoằng pháp lợi sanh.
Tiếp nhận ấn tín của Giáo hội và trọng
trách chư Giáo phẩm giao phó, về lại Quảng Ngãi tôi viết “Ðơn xin cứu xét nhiều
việc” đề ngày 25.6.1992 bao gồm 9 yêu sách gửi các ông Tổng bí thư Ðảng, Chủ
tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch
Tối cao Pháp viện và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc. Lạ thay, thư không được hồi âm.
Không bao giờ được hồi âm, những thư trước đó cũng như nhiều thư sau này. Ðảng
và Nhà nước thường tuyên bố nền dân chủ Xã hội Chủ nghĩa dân chủ một triệu lần
hơn các nước dân chủ tư sản phương Tây. Sao lại giữ thái độ xem thường tiếng kêu
cứu của người dân như thế ? Khẩu hiệu tuyên truyền của Ðảng và Nhà nước là “dân
biết, dân làm, dân kiểm tra” còn mang ý nghĩa gì nữa
?
Sự trả lời gián tiếp mà chúng tôi nhận được
là hai tài liệu “Mật” mang số 125/TUDV của Ban Dân vận và “Tuyệt Mật” mang số
106/PA 15-16 của cơ quan Công an Bộ Nội vụ vào năm 1993. Hai tài liệu này chỉ
thị cán bộ công an và tôn giáo vận “cắt đứt tay chân” và lấy “giáo luật, pháp
luật” cô lập tôi và chống hàng giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất,
mà tài liệu gọi bằng danh xưng không mấy lễ độ và rất thiếu chính trị “Bọn phản
động Phật giáoẤn Quang” !
Phản động hay không phản động chỉ là cách
Ðảng phân chia thù bạn. Chứ trong thực tế, tôn giáo nói chung, Phật giáo nói
riêng, chẳng ai thoát khỏi sự kìm kẹp, hạn chế tối đa nếu không nói là ức chế
của những sắc luật, nghị định, hướng dẫn về tôn giáo.
Suốt hai ngàn năm lịch sử Việt, ở vào các
triều đại tựchủ và độc lập, Phật giáo chưa bao giờ nhận các loại Sắc luật dành
cho tôn giáo như thế. Từ Nghị định 297/CP, rồi 69 của Hội đồng Bộ trưởng năm
1991 đến Nghị định 26/1999/NÐCP, từ các Chỉ thị, Hướng dẫn 379/TTG, 500/HD/TGCP
đến Hướng dẫn Nghị định 26 của Ban Tôn giáo Chính phủ hôm 16.6.1999, 25 năm ròng
rã vừa qua tất cả các tôn giáo, các người có tín ngưỡng đều buộc phải đứng sắp
hàng nghe Nhà nước dạy bảo qua Ban Tôn giáo Chính phủ về những điều chẳng dính
líu chi đến chuyện tín ngưỡng, chuyện giác ngộ hay giải thoát khỏi vô minh, khổ
nạn. Chẳng có gì gọi là tự do cả.
Ðấy là tình trạng và hoàn cảnh người dân
nói chung, người tu sĩ và Phật tử nói riêng chịu đựng trong ức chế và khốn cùng
tại miền Nam 25 năm qua, tại miền Bắc 45 năm qua.
Phục hồi quyền sinh hoạt của GHPGVNTN, trả tự do cho tù nhân tôn giáo và bãi bỏ Nghị định 31/CP
Con chim sắp chết tiếng nó kêu thống thiết.
Người lão tăng sắp về cõi Phật như tôi không nói lời gian dối : Ðảng và Nhà nước
không thể mãi mãi che đậy những lỗi lầm của mình để làm chuyện thất đức, mà hậu
quả khiến nhân dân bần cùng, tôn giáo bị đàn áp, trí thức mất tự do tư tưởng,
nhà báo mất tự do ngôn luận, văn nghệ sĩ mất quyền sáng tạo, người lao động
không tự do nghiệp đoàn...
Ðã đến lúc cần chấm dứt tình trạng làm cho
dân nghèo nước yếu, nhân tài và trí thức tiêu ma.
Ðối với Phật giáo, chúng tôi yêu sách Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất phải được phục hồi quyền tự do sinh hoạt trên
pháp lý hiện hành, vốn được quy định và bảo đảm tại Hiến chương, Tuyên ngôn Quốc
tế Nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của LHQ. Các
Hòa thượng, Thượng tọa, Ðại đức Tăng Ni, Phật tử sau khi được trả tự do phải
được phục hồi hộ khẩu, quyền công dân và quyền tự do hành đạo ; bãi bỏ Nghị định
31/CP để chấm dứt vĩnh viễn chế độ quản chế hành chính phi luật pháp khiến kẻ
được trả tự do vẫn thấy như mình bị dẫn độ từ nhà tù nhỏ sang nhà tù lớn, khiến
ai nấy nơm nớp lo âu bị bắt vô cớ bất cứ lúc nào. Các Tăng sĩ, Phật tử còn
bịgiam giữ hay quản chế phải được trả tự do và giải chế. Nếu xét thấy họ có tội,
thì đưa ra xét xử công khai trước một tòa án với quyền bào chữa của luật sư do
họ chọn lựa, cùng sự hiện diện của báo chí quốc tế.
Ngoài ra, chúng tôi xin trả lại “chiếc mũ
phản động”,“chiếc mũ phá hoại”, “chiếc mũ vu cáo chống đối” cho những ai chụp
lên đầu chúng tôi. Ðạo Phật là đạo thực hành sự Giác ngộ và Cứu khổ. Ðạo Phật là
đạo xây dựng một cõi người nhân ái và huynh đệ. Ðạo Phật không chống đối những
tư tưởng thờiđại, vì những tư tưởng ấy sẽ theo thời đại đi qua. Ðạo Phật lấy
Chánh Kiến soi sáng các thiên kiến, tà kiến mà thôi.
Linh quyền cho người chết và Nhân quyền cho người sống : 3 lời đềnghị
Kỷ niệm 25 năm chấm dứt chiến tranh, theo
tôi nghĩ, Ðảng và Nhà nước nên làm chuyện có một không hai, chuyện không ai dám
làm, ngoại trừkẻ có hùng tâm tráng chí. Ấy là thực hiện ba nghĩa cử văn minh
:
Thứ nhất, chấm dứt vĩnh viễn sự gây
chiếntrong ý nghĩ (tư duy) cũng như trong hành động, đối với mọi thành
phần dân tộc và tôn giáo ngoài đảng Cộng sản. Sự gây chiến ấy đã từ lâu
hóa trang bằng chủ trương đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản
;
Thứ hai, lấy ngày 30.4. làm “Ngày Sám
hối và Chúc Sinh toàn quốc” . Sám hối với người chết và Chúc Sinh người
sống. Các nước dân chủ Tây phương làm cuộc sám hối các lỗi lầm hằng ngày, qua cơ
chế tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do phê phán để chính quyền sửa sai. Một
tôn giáo lớn của phương Tây như Giáo hội Công giáo, mà vừa đây đức Giáo hoàng
cũng phải làm cuộc Thống hối các sai lầm bức tử và bạo động của Giáo hội dọc hai
ngàn năm qua đối với đồng loại và các tôn giáo khác. Có thể nào Ðảng và Nhà nước
Xã hội Chủ nghĩa dám khẳng định không vi phạm sai lầm trong 55 năm qua ? Bao
nhiêu lời tảoán từ hai cuộc chiến, trong Cải cách ruộng đất, trong Tổng tiến
công Tết Mậu thân ở Huế, trong các vùng Kinh tế mới, và tại các Trại tập trung
Cải tạo. Dù chối bỏ cách nào chăng, vẫn khó tránh né một thực tế, là oan hồn bị
bức tử đếm không xiết. Ðảng và Nhà nước hãy xót thương những người chết, hãy
nghĩ đến Linh quyền của họ mà Sám hối và làm lễ Cầu Siêu cho vong hồn họ thôi
vất vưởng gọi kêu báo oán.
Linh quyền cho người chết. Nhân quyền cho người sống, đây là ý nghĩa của lễ Chúc Sinh. Xưa các vua chúa Tế Trời mỗi năm ở đàn
Nam giao cầu cho quốc thái dân an. Nay ở thời đại mới, Nhà nước nên áp dụng luật
pháp bảo đảm các quyền tự do căn bản về dân sự và chính trị cho mọi công dân,
như một cách Tế thờNgười.
Thứ ba, ban hành thành Sắc luật trong việc
tìm kiếm thi hài kẻ chết trận, dù họ thuộc bộ đội miền Bắc hay binh sĩ miền Nam
để chôn cất và trả nghĩa cho gia đình họ khỏi ngậm ngùi ; trả tự do cho toàn bộ
những người tù vì chính kiến hay tôn giáo ; phục hồi danh dự những kẻ chết oan,
và cấp dưỡng xứng đáng những người tàn tật vì chiến tranh, không phân biệt Nam
Bắc, chính kiến.
Làm được ba
điều nói trên cùng với việc tôn trọng quyền tự do sinh hoạt của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất, chiến tranh mới thực sự chấm dứt, cuộc lễ 25 năm mới
mang ý nghĩa khởi đầu cho cuộc hòa hợp dân tộc thực sự.
Mong lắm
thay.
Trân trọng
chào quý Ngài.
Xử lý Thường vụViện Tăng Thống
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất(ký tên)Tỳ kheo ThÍch HuyỀn Quang
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất(ký tên)Tỳ kheo ThÍch HuyỀn Quang
Biết đến bao giờ ?
Trả lờiXóa