
Vietsoul:21 - Họ
bị gán cho là những kẻ vô công rỗi nghề, bọn không công ăn việc làm,
người nhận tiền nước ngoài (thế lực thù địch), mất gốc rễ, dân đầu đường
xó chợ, kẻ ăn bám xã hội, đám ăn trợ cấp (welfare), thứ rác rưởi, bọn
trẻ xuẩn ngốc v.v… Hệ thống quyền lực thành công hay không trong việc
gài khung cô lập những người này hoàn toàn tùy thuộc vào nhận xét của
dân chúng - nhóm/đám này đa phần chịu ảnh hưởng bởi các định kiến tạo ra
và đặt để trong xã hội...
*
Cuối tuần vừa rồi người Việt tỵ nạn cộng sản ở Hoa-kỳ đã tiễn đưa nhà
thơ, ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện ra đi vĩnh viễn. Dù chúng tôi chưa bao giờ
gặp mặt nhưng có đọc nhiều bài thơ của ông và lấy lòng cảm phục với tấm
lòng chân thật và tinh thần bất khuất của con người ấy.
Cái giá mà ông Nguyễn Chí Thiện trả cho việc nói lên sự thật quả rõ đắt
và đắng (1). Dù đó chỉ là sự thật của một sự kiện trong lịch sử:
“Anh chuẩn bị kỹ, giải thích cho học sinh biết rằng phát xít Nhật bị
bắt buộc phải đầu hàng vào tháng 8-1945 là do 2 quả bom nguyên tử của Mỹ
ném xuống Nagasaki và Hiroshima. Thế là có phụ huynh học sinh cùng một
giáo viên ganh tỵ với anh tố cáo với công an quận rằng anh cố tình
truyền bá tư tưởng đế quốc, không theo giáo án, nói trái quan điểm của
đảng, không giải thích rằng phát xít Nhật thua là do công ơn của Nguyên
soái Stalin đã chỉ huy Hồng quân tiêu diệt đạo quân Quan Đông ở Mãn
Châu.”
Có lẽ cái giá của sự thật không bao giờ rẻ, nhất là ở những nơi mị dân
đầy xảo trá lọc lừa thì phải rất đắt. Đắt bằng 3 lần đi tù, gần nửa đời
người cho nhà thơ.
Đắt bằng 34 năm tù còn tiếp tục cho anh Nguyễn Hữu Cầu (2), người cương quyết không ký nhận tội danh của bản án.
Đắt bằng 12 năm tù cho anh Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, 10 năm cho cô Tạ Phong Tần và 4 năm cho Anhbasaigon Phan Thanh Hải (3).
Đắt bằng với 16 năm tù cho Trần Huỳnh Duy Thức, 5 năm cho LS Lê Công Định.
Đắt bằng 9 năm cho Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, 7 năm cho Đỗ thị Mỹ Hạnh và 7 năm cho Đoàn Huy Chương (4).
Đắt bằng 7 năm tù cho anh Cù Huy Hà Vũ.
Đắt bằng giam cầm vô thời hạn cho Paulus Lê Sơn (5) và các thanh niên công giáo vì công lý và sự thật.
Đắt bằng cái chết lần mòn cả tinh thần và thể xác cho LS Nguyễn Mạnh
Tường kẻ bị “mất phép thông công (6), và triết gia Trần Đức Thảo (7)
sống trong tăm tối cho đến cuối đời. Cái chết của những con người lương
thiện trong một thể chế dị dạng vô lương tri.
Và đắt hơn cả là vô số cái chết và tù đày của trăm vạn ngàn người suốt 67 năm dài …
Cực đoan (Cực kỳ)
Đối với những quyền lực, nhất là những quyền lực gần như tuyệt đối thì
bất cứ những ý kiến trái ngược hoặc phản kháng nào – dù phản kháng đó
bằng lời hay bằng hành động – nếu không theo “khuôn khổ” được quy định
thì sẽ được gán cho từ “cực đoan”.
Nhà Thiên văn học Galileo sau bao nhiêu tháng năm quan sát, tìm tòi và
đã khám phá ra rằng “trái đất quay quanh mặt trời”. Thế nhưng sự thật đó
không được công nhận bởi Tòa thánh La Mã. Giáo quyền thời đó đã xem ông
Galileo là kẻ cực đoan, dị giáo (heretics) muốn phao tin giả (hearsay)
trái với giảng giải trong kinh thánh. Ông đã trả giá cho sự thật bằng
một bản án giam tại gia cho đến cuối đời.
Triết gia Socrates lúc làm ủy viên của hội đồng thành phố (boule) đã bất
chấp đe dọa truất phế và tù tội, kiên quyết không bỏ phiếu cho một cuộc
xử án vi hiến – kiểu đấu tố (collective trial) – ngay cả đối với những
tên bạo chúa tiếm quyền. Dù rằng trước đó không lâu ông suýt bị nhóm 30
tên bạo chúa này (Thirty Tyrants) xử tử chỉ vì ông lặng lẽ từ chối không
làm đồng lõa cho các cuộc xử tử bất công do họ dựng ra. Socrates phản
kháng cái quyền lực bất công quy buộc ông vào tội danh “đầu độc tâm hồn
thanh thiếu niên” dù rằng ông chỉ giảng dạy triết lý muốn đi tìm sự thật
và công lý. Ông chấp nhận uống thuốc độc chết để bảo tồn danh dự và khế
ước xã hội dù có cơ hội trốn thoát khỏi lao tù. Socrates đã bị gán là
kẻ “cực đoan” về mặt tư tưởng chỉ vì muốn bảo vệ công lý và sự thật.
Ông Ghandi, người hiện được mọi người ca tụng là vĩ nhân hòa bình vì là
người chủ xướng đấu tranh bất bạo động chống thực dân Anh, cũng bị chính
quyền thời đó gán tội danh “quấy rối trật tự” chống nhà nước. Rất nhiều
quan chức, giới thượng lưu, thành phần ưu tú (elites), và ngay cả trí
thức trong giai đoạn ấy đã dán cho ông nhãn hiệu “cực đoan”. Họ muốn ông
đàm phán, hòa giải bất công qua các “thủ tục” quy định bởi chính quyền
thực dân.
Ông Martin Luther King Jr., mục sư đạo Tin Lành và thủ lãnh phong trào
dân quyền ở Hoa-kỳ, đã noi gương Ghandi đấu tranh bất bạo động, đòi hỏi
quyền làm người, bình đẳng và công lý cho người Da Đen nên cũng bị gán
cho là thành phần nguy hiểm, khích động. Không ít những mục sư Tin Lành
và một số trí thức cùng màu da, cùng lý tưởng đấu tranh dân quyền đã
tránh né xa lánh ông vì cho rằng phương thức hành động và tuyên ngôn quá
“cực đoan” sẽ đưa tới phản ứng mạnh đàn áp phong trào.
Nguyễn Chí Thiện, Dương Thu Hương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Cù Huy
Hà Vũ, Phan Thanh Nghiên, Bùi Thị Minh Hằng đều “được” gán cho cái mác
“cực đoan”, “quá khích” v.v…
Những người vì sự thật, công lý, bình đẳng khi cương quyết, nhất quán
trong đấu tranh thường (luôn) hay bị giới cầm quyền gán cho cái mác “cực
đoan” và “quá khích”. Đặc biệt là nhà nước cộng sản Việt Nam thì họ sẽ
được cho thêm cái mũ “phản động” kèm với “cực đoan”.
Anh em Đoàn Văn Vươn sử dụng mìn tự chế chống lại cưỡng chế bất công,
tàn bạo của công an, cảnh sát, dân phòng thì được “phong” hàm “manh
động”, “cực đoan”, “quá khích”.
Giáo dân cùng tu sĩ xứ Thái Hà (8), Con Cuông, Cồn Dầu tụ tập để cầu
nguyện hiệp thông, bảo vệ tài sản, giáo đường cũng bị chụp cái mác “cực
đoan”, “quá khích”.
Những người dân oan bị cướp đất đi khiếu kiện, lê la lếch thếch từ xã
tới huyện đến thành phố và tận trung ương cũng bị mồm loa, mép giải của
báo của đài gọi là “khích động” và “cực đoan”.
Hai mẹ con cởi truồng giữ đất (9) vì không muốn bị cướp đi phần mồ hôi
nước mắt bao năm gầy dựng. Họ trần truồng bám trụ giữ phần tài sản nhỏ
bé nghèo nàn để “cạp đất mà ăn” cũng bị gán là có hành động “cực đoan”.
Cơ chế và Quyền lực
Các quyền lực độc đoán không bao giờ chấp nhận ý kiến trái ngược với họ
để bảo vệ giữ vững cái vị trí độc đoán đó. Những quyền lực này luôn gieo
ảnh hưởng lên công chúng bằng cách sử dụng ngôn ngữ để gài khung
(framing) hầu tạo cái nhìn phán đoán về dị biệt (deviant) để dễ dàng
cách ly (isolate) người/nhóm phản kháng ra khỏi đám đông. Kế tiếp là họ
sẽ tấn công vào thân thế, bôi nhọ cá nhân hay tập thể nhỏ đó. Và sau
cùng là dùng cả hai cơ chế luật pháp (các luật lệ khiếm khuyết, hoặc vi
hiến) và luật rừng để cưỡng chế và vô hiệu hóa người/nhóm phản kháng.
Phương tiện để gài khung là thuật ngữ. Đó là việc sử dụng những từ ngữ
phổ thông và có định kiến xấu để quy chụp vào tình huống cá biệt. Họ
dùng những cây cọ thật to – các phương tiện truyền thông đại chúng – để
tô hồng (đồng chí) và bôi đen (đồng bọn/đối tượng) tạo phán xét dễ dãi
không cần tư duy định hướng dư luận.
Những quan sát trên thuộc cái nhìn về “cực đoan” dưới lăng kính tương
quan giữa quyền lực và cá nhân/tập thể thiểu số. Còn cái nhìn về “cực
đoan” dưới lăng kính tương quan xã hội thì sao?
Ở các nước Á Đông, nền văn hóa Khổng, Nho, Lão giáo vẫn còn ảnh hưởng
đẫm đặc trong tư duy của mọi người, nhất là trong tầng lớp có học vấn.
Cái tinh thần “dĩ hòa vi quý”, thuyết “trung dung”, “vô vi” thường được
sử dụng làm chỗ dựa để biện minh cho việc an vị, tịnh tâm và để rúc vào
đám đông thầm lặng “ôn hòa”.
Dĩ nhiên khi đã tự xưng là thành phần “ôn hòa” thì mối liên hệ với những
người cương quyết, nhất quán trở thành mối liên hệ xa lạ – giữa ta và
kẻ kia (other) – cho dù ngay lúc cả hai đều có cùng một mục đích hoặc lý
tưởng đi nữa. Không thiếu gì trường hợp người ôn hòa gán cho người khác
là “quá khích”, “cực đoan”, là “bất hảo”, “mất gốc rễ”, là “vô liêm sỉ,
man rợ”(10), là “ô hợp” thiếu “văn minh” một khi kẻ kia có những ứng xử
không theo “tiêu chuẩn” của người chủ quan tự cho mình là thành phần ôn
hòa. Vô hình chung cách ứng xử này sẽ cô lập và tách biệt quần thể ra
thành hai nhóm - một tập thể bỗng dưng có hai thái cực đối kháng và khắc
kỵ nhau. Kết quả cả hai đều rơi vào bẫy phân hóa do diễn luận cài khung
thực thi bởi quyền lực hiện hành.
Bên cạnh chỗ dựa “ôn hòa” trong đám đông thầm lặng những kẻ tựa vào
quyền lực lại còn có chiếc ô che “khách quan” vô tư tránh nắng (thiếu)
khoa học tạo thuận lợi giúp những phán quyết về người khác được xem như
là chuẩn mực.
Nơi an toàn nhất đối với họ là vị thế “ôn hòa”, “việc đâu còn có đấy”,
“bình chân như vại” không động đến cái lông chân. Chốn khó khăn đầy hiểm
nguy là điểm trực diện đương đầu với quyền lực của những ai chọn dấn
thân.
Ngược lại, người phản kháng luôn tìm mọi phương cách để trực diện đương
đầu, biểu lộ chính kiến của mình nhất là khi họ bị cô lập và giới hạn
trong các phương tiện truyền thông đại chúng. Họ dùng mọi phương thức,
cả kiểu sáng tạo lẫn lối thông thường từ việc chiếm phố Wall (Occupy
Wall Street) đến chuyện ban nhạc Bướm Nổi Loạn (Pussy Riots) hóa trang
hát nhạc rock trong nhà thờ diễu cợt Putin, từ nhóm người bảo vệ môi
trường “cắm dùi” trên ngọn cây chống đường ống dẫn dầu xuyên đại lục (XL
pipeline, tar sands) đến nhóm chống bom nguyên tử dùng thuyền chèo
(kayak) và thuyền buồm cản trở hải trình tàu ngầm nguyên tử, từ nhóm bảo
vệ quyền thú vật (animal rights) dùng thuyền cao tốc đuổi cản tàu đánh
bắt cá voi/ông đến nhóm chống chiến tranh lấy thân mình làm lưới chắn
cổng hải quân vận chuyển vũ khí ra ngoại quốc, từ phong trào người Tây
Tạng lưu vong tự thiêu chống Trung Quốc đến hiện tượng người Việt Nam tỵ
nạn biểu tình chống cộng sản ở phố Bolsa v.v… Bất cứ phản ứng nào dù
thật sự ôn hòa cũng có thể bị gán ghép là “cực đoan”.
Họ bị gán cho là những kẻ vô công rỗi nghề, bọn không công ăn việc làm,
người nhận tiền nước ngoài (thế lực thù địch), mất gốc rễ, dân đầu đường
xó chợ, kẻ ăn bám xã hội, đám ăn trợ cấp (welfare), thứ rác rưởi, bọn
trẻ xuẩn ngốc v.v… Hệ thống quyền lực thành công hay không trong việc
gài khung cô lập những người này hoàn toàn tùy thuộc vào nhận xét của
dân chúng – nhóm/đám này đa phần chịu ảnh hưởng bởi các định kiến tạo ra
và đặt để trong xã hội.
Tính Năng Động của Quyền Lực – Ký Sinh – Đồng hóa
Hãy thử thoáng nhìn về các tính năng động phức tạp của quyền lực trong xã hội (complex power dynamics within society).
Nhà nước nắm giữ hệ thống quyền lực là chủ (host) trong chuỗi quyền lực
mang tính ký sinh “trao thân gởi phận”. Nhà nước luôn chủ động trong vận
hành, đặt ra kế hoạch mà không cần phải trao đổi với những nhân vật hữu
quan chủ yếu, và từ đó áp đặt quyền lực lên các thành viên trong xã
hội. Và xoay quanh quyền lực hiện hành này là vô số những ký sinh (sát
cánh) giúp vận hành cỗ máy đó.
Có rất nhiều móc xích trong chuỗi ký sinh, loại trực tiếp và loại gián
tiếp. Có ký sinh trực tiếp “còn đảng, còn mình”. Có ký sinh gián tiếp
thoáng ra không ai nhìn thấy vì nó nằm xa mãi ở tận cuối chuỗi móc xích.
Ký sinh trực tiếp thì biết (bám) chủ còn ký sinh gián tiếp nằm ở cuối
chuỗi móc xích thì lờ mờ (lửng lơ) với chủ gốc.
Điểm đặc biệt ở đây khác với định luật sinh tồn trong quan điểm sự tồn
tại thuộc về loại mạnh nhất (survival of the fittest) ở chỗ ký sinh rất
dị ứng với việc chủ bị triệt tiêu. Vấn đề này rất hệ trọng vì làm rối
loạn mối liên hệ của chủ-ký sinh (host-parasite relationship). Nguyên do
bởi lẽ ký sinh và chủ có cùng một chu trình tiến hóa tương tác
(co-evolution). Chủ có sống thì ký sinh mới tồn tại. Chính đó mới là cái
nhập nhằng, đan chéo trong các mối quan hệ của quyền lực trong xã hội.
Quyền lực chuyên chính không bỏ qua một thủ thuật tinh vi và lắm lúc
miễn cần gông cùm mã tấu. Đó là chước tạo đồng hóa
(assimilate/cooptation) về mặt tư tưởng, lợi ích, và danh vọng
nhằm loại trừ và dập tắt những thành phần kháng cự, chống đối, và muốn
phản ứng ngược. Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã sử dụng thủ thuật
này xuyên suốt chiều dài lịch sử ngay từ khi cướp chính quyền.
Đồng hóa tư tưởng qua nhiều phương tiện tuyên truyền: từ cái loa
phường, các bích chương khẩu hiệu, đội thiếu niên quàng khăn đỏ, đoàn
thanh niên, đến họp tổ dân phố, họp hội phụ nữ, hội người cao niên, hội
cựu chiến binh, nghị quyết, báo, đài v.v…
Đồng hóa lợi ích qua cơ chế tạo hệ thống đồng lõa với các tổ chức
ngoại vi và nhà nước. Số cán bộ (gần xa) và nhân viên nhà nước được bổ
sung, cồng kềnh cho nên có xã có trên 500 cán bộ (11). Gần như ai ai
cũng có dính phần tí tẹo nào đó vào cơ chế để móm chút lợi. Những ký
sinh và các con vắt này liên tục hút máu tài sản nhân dân và tài nguyên
quốc gia.
Việc đồng hóa lợi ích đã được thể hiện rõ trong Hội nghị Trung
ương 6 vừa qua. Toàn thể BCHTƯ và BCT đã đồng hóa về lợi ích và dĩ nhiên
không thể nào có việc phản kháng lại lợi ích chung ăn sâu tận gốc rễ.
Nếu nói theo giới cầm (tu) chai thì đây quả là “nguyên lý mâm thịt chó” (12) (Hất đổ thì mất ăn, mà tất cả mọi người đều muốn ăn!)
Đồng hóa lợi ích với hia mão qua phong trào tấn phong “nghệ sĩ ưu
tú”, “nghệ sĩ nhân dân”, “anh hùng lao động”, “chiến sĩ thi đua” v.v…
“Đại văn hào” Mạc Ngôn chẳng phải đã tự mình làm tròn sứ mệnh Đảng CS
Trung Quốc áp đặt, ngay từ bút danh cho đến thực danh, là “mất/tắt lời”
đấy ư!? Một câu nói vớt vát “Tôi hy vọng ông ấy sẽ được tự do nhanh
chóng” (13) hầu chống đỡ các chỉ trích thì chỉ tiêu hao tí tị điểm thi
công (political capital) mà ông đã vón vén “xin/cho” được từ cái giải
văn học làm giải tỏa “mặc cảm Nobel” của Trung Quốc. Đương nhiên sẽ có
tiếng thổi kèn đồng nhịp tương tác vào diễn luận “ôn hòa” (14), “ổn
định”, và “phát triển”. Những ai không muốn bị đồng hóa là tất nhiên
thuộc thành phần “bất hảo”, “phản động” như nhà thơ Hữu Loan, LS Nguyễn
Mạnh Tường, ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện, Khôi Nguyên Hòa Bình Lưu Hiểu Ba,
và nghệ sĩ Ngãi Vị Vị.
Tương Quan Quyền Lực
Tương quan quyền lực trong xã hội rất đa dạng. Nó không chỉ đơn thuần là
tương quan giữa nhà nước và cá nhân viết tắt là nhà nước-cá nhân
(state-individual) nhưng còn ở nhà nước-tổ chức (state-group) và giữa
nhóm-cá nhân (group-individual) hoặc nhóm-nhóm (group-group) v.v…
Trong tương quan quyền lực (đặc biệt là quyền lực chuyên chế) giữa nhà
nước và cá nhân hay thiểu số thì chắc chắn cá nhân/thiểu số là bị lép vế
hoàn toàn. Những gì được cho là cực đoan của cá nhân/thiểu số không thể
nào so bằng cái cực đoan, cực kỳ phản động ngàn vạn lần của tập đoàn
quyền lực chuyên chế (nhà nước độc tài).
Thiết nghĩ các sự việc liên hệ đến đấu tranh giữa hai thế lực luôn phải
được nhìn qua lăng kính tương quan quyền lực để xem xét. Chúng ta chỉ có
thể tạm bỏ qua lăng kính quan trọng này khi hai lực nằm trong lãnh vực
cá nhân riêng tư, thí dụ như tranh chấp của người này với người nọ trong
các sinh hoạt hàng ngày.
Dù vậy chúng ta vẫn không thể làm ngơ không xét đến các quyền lực ngầm
hoặc quyền lực mềm. Thí dụ như mâu thuẫn giữa một thường dân với ông
hàng xóm quan quyền (chủ tịch, bí thư, trưởng CA, v.v…) thì ông hàng xóm
quan quyền có quyền lực ngầm. Hoặc mâu thuẫn giữa một người lao động
chân tay không học vấn với người lao động trí óc thì người trí óc hẳn có
quyền lực mềm vì biết các thủ tục pháp lý có mối liên hệ với các bộ máy
nhà nước v.v…
Ta cũng không thể quên việc “ở đâu có áp bức ở đó có đấu tranh”. Các áp
bức, oan ức, ép uổng thường tạo kích động gây phản ứng “cực đoan” vì chỉ
có bằng cách đó những nỗi oan khiên mới được nghe, biết, và hiện hữu
(heard, known, and existed).
Khi đối diện với những hiện tượng “cực đoan” nếu chúng ta không vội vàng
phán đoán chỉ trên bề mặt của hiện tượng mà cố gắng hàm dung (cởi mở)
để lắng nghe mặt chìm đằng sau những cử chỉ hành vi “cực đoan” kèm tiếng
kêu gào này thì có thể tìm đến bản chất và nguyên nhân của sự việc. Ít
ra thì từ đấy chúng ta có thể đồng cảm hoặc dù gì cũng trút bỏ định kiến
và cảm thông được phần nào tại sao kẻ/nhóm thấp cổ bé miệng kia hành xử
như thế.
Điều cần tránh nhất là không tự dễ dãi phang ra những phán xét trên quan
điểm cá nhân (trong lối mòn nhận thức) vô tình làm cánh tay nối dài của
quyền lực chuyên chế và gián tiếp bóp mũi, bịt miệng, thậm chí xiết cổ
cái khát vọng cũng như nỗi oan khiên từ kẻ khốn cùng.
© 2012 Vietsoul:21
gửi Dân Làm Báo
_____________________________________________
Chú thích:
[3] VN xử nặng Điếu Cày và Tạ Phong Tần, BBC Vietnamese
[5] Vài dòng nghĩ vội khi nhận được tin Paulus Lê Sơn, thằng em trong tù, J.B. Nguyễn Hữu Vinh
[6] Kẻ bị mất phép thông công, viet-studies
[7] TRẦN ĐỨC THẢO, Người trí thức lầm đường! Blog Nguyễn Thiếu Nhẫn
[9] Chẳng lẽ nhà nước cũng cởi truồng? blog Mai Xuân Dũng
[10] vô liêm sĩ – man rợ, Vietsoul:21
[11] Rùng mình xã 500 “cán bộ” ở Thanh Hóa, kienthuc.net.vn
[14] “Người ta nói rằng, giải thưởng Nobel văn chương năm nay ôn hòa về mặt chính trị.” Phạm Xuân Nguyên – Mạc Ngôn giải tỏa ‘mặc cảm Nobel’ cho Trung Quốc, VTC News
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2012/10/cuc-oan-phan-ong.html#more
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001