Max Boot
L.V. chuyển ngữ
L.V. chuyển ngữ
Thanh niên Việt Nam xếp hàng mua cà phê Mỹ chứ không vào xem nhà trưng bày “tội ác” của Mỹ.
Tôi vừa đến thăm Việt Nam, chủ yếu là vì tôi quan tâm đến lịch sử của nước này - và đặc biệt là hai cuộc chiến của Việt Nam trong thế kỷ 20, cuộc chiến đầu giữa phe Việt Minh chống lại người Pháp và đồng minh bản xứ, cuộc chiến thứ hai giữa phe Bắc Việt cùng Việt Cộng chống lại Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Trong quá trình du hành trên khắp nước, từ Hà Nội miền bắc, Huế miền Trung, đến Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) miền Nam, tôi cũng đã tìm hiểu được vài thành tựu cũng như thử thách hiện tại của đất nước này.
Có vô số điều gợi lại những kỷ nguyên của Pháp và Mỹ, từ khách sạn Metropole thanh nhã thời thuộc địa ở Hà Nội cho đến những đường địa đạo ở Củ Chi gần Sài Gòn, nơi từng được Việt Cộng sử dụng, hiện là một khu du lịch. Bất chấp những cải cách kinh tế bắt đầu từ thập niên 80, Việt Nam vẫn còn là một chính thể Cộng sản vô cùng độc tài, và chính quyền đang tìm cách củng cố tính chính danh bằng cách kéo dài vai trò của mình trong việc đánh đổ những thiết kế của Pháp và Mỹ.
Viện Bảo tàng Tội ác Chiến tranh tại Thành phố Hồ Chí Minh có thể đã được đổi sang một cái tên nghe trung lập hơn là Viện Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nhằm trân trọng mối quan hệ ngày càng gần gũi hơn giữa Hà Nội và Washington, nhưng nó vẫn là thành trì của bộ máy tuyên truyền chống Mỹ. Nhà trưng bày chỉ chú trọng vào cái gọi là tội ác do quân đội Mỹ gây ra - một số là sự thật (như Mỹ Lai), - những trưng bày khác được phóng đại mạnh mẽ hoặc hoàn toàn bịa đặt từ đầu đến cuối. Những bức tường được gắn đầy những trích dẫn từ những nhân vật như triết gia thiên tả người Anh Bertrand Russell lên án hành động của Mỹ.
Nguyên một gian nhà chú trọng vào những tàn phá của chất Da cam, loại thuốc huỷ diệt thực vật do quân đội Hoa Kỳ xịt trong những năm 60, hiện đang được chính quyền Việt Nam đổ tội cho hầu như bất cứ bào thai dị dạng trên đất nước này. (Chính quyền Obama vừa đồng ý giúp tẩy rửa những khu đất bị ô nhiễm chất hoá học gần căn cứ không quân cũ của Hoa Kỳ ở Đà Nẵng nhưng không thừa nhận bất kỳ trách nhiệm đối với những hệ quả được xem là có liên quan đến chất Da cam.) Không cần phải nói là chẳng có một trưng bày nào đề cập đến những tội ác của Cộng sản, ví dụ như việc giết hại hàng nghìn người dân miền Nam khi lực lượng Cộng sản chiếm đóng thành phố Huế một thời gian ngắn trong cuộc Tổng Tấn công Tết năm 1968.
Tại dinh tổng thống với phong cách hiện đại nơi các tổng thống Nam Việt Nam từng ở, có những trưng bày ca ngợi những người lính Bắc Việt Nam từng phá đổ những cánh cổng bằng xe tăng của Liên Xô. Chẳng một nhắc nhở nào về hàng triệu người miền Nam sau đấy bị đưa vào những “trại cải tạo” hoặc là những “thuyền nhân” trên những chiếc thuyền thủng đáy.
Trong khi Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nhấn mạnh chuyện người Việt là nạn nhân, những trưng bày tại địa đạo Củ Chi, nơi Việt Cộng ẩn náu sau khi tấn công quân đội Nam Việt Nam và Mỹ, lại miêu tả người Việt như những chiến binh dũng cảm. Thậm chí có cả một chiếc tivi chiếu đi chiếu lại một bộ phim tuyên truyền thời 60 ca ngợi quân Việt Cộng và đương nhiên chẳng đề cập gì đến mối quan hệ mật thiết của họ với chính quyền Bắc Việt Nam.
Trong khi ấy, tại nhà giam Hoả Lò tối tăm, vốn được giới tù binh Mỹ gọi là Hà Nội Hilton, lại có một tương phản đầy lố bịch: Nhà tù này miêu tả một cách chính xác những hình thức tra tấn mà các cai ngục người Pháp sử dụng đối với các tù nhân chính trị người Việt, trong khi lại tô vẽ đầy sai lạc cách đối xử của quản tù người Việt với các tù nhân quân sự người Mỹ. Một tấm bảng giới thiệu với khách viếng thăm (không hoàn toàn đúng văn phạm): “Trong thời kỳ chiến tranh nền kinh tế quốc gia gặp khó khăn nhưng chính quyền Việt Nam đã thiết lập những điều kiện sống tốt nhất cho các phi công Hoa Kỳ để họ có được một cuộc sống ổn định trong giai đoạn tạm giam.” Thôi, đấy cũng là một cách tường thuật những trò tra tấn dã man mà John McCain, James Stockdale và những tù nhân chiến tranh khác phải chịu đựng.
Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là chẳng có một khách người Việt nào tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, địa đạo Củ Chi hay nhà lao Hoả Lò - những ai đến đấy toàn là người nước ngoài như tôi. Nhưng câu chuyện lại hoàn toàn khác tại Lăng Hồ Chí Minh hoành tráng ở Hà Nội, nơi hàng nhóm những khách thăm người Việt đến để chiêm ngưỡng xác ướp của Hồ (hoặc có thể chỉ là một hình nộm bằng sáp). Chiếc Lăng nằm cận ngôi nhà sàn giản dị nơi Hồ từng sống và làm việc trong vai trò chủ tịch nước Bắc Việt Nam. Nói đúng ra thì đa số khách thăm người Việt là những học sinh trong những chuyến tham quan bắt buộc, nhưng rõ ràng là người dân có một tình cảm sâu nặng đối với “Bác Hồ”, người mà theo tiêu chuẩn độc tài của thế giới, lại giản dị và khiêm tốn khác thường. (Ông hẳn rất ghét chiếc lăng kiểu Lenin vốn được xây dựng và bảo hành với sự giúp đỡ của người Nga - ông từng yêu cầu một lễ hoả thiêu đơn giản.)
Ngược lại, có vẻ người dân tương đối ít quan tâm đến hai cuộc chiến Việt Nam - chẳng có gì ngạc nhiên khi tuổi trung bình ở Việt Nam hiện là 28, có nghĩa là đa số người dân xem những cuộc chiến này là lịch sử xa xưa.
Cùng ngày tôi đến thăm địa đạo Củ Chi và Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, tôi cũng đã ghé ngang mua một ly cà phê đá ở Sài Gòn, nơi nhiều người Việt vẫn xem là thành phố lớn nhất nước. Tôi mua ly cà phê (rất ngon) từ một cửa hàng có tên là NYDC, viết tắt của “New York Desert Café.” Nó được trang hoàng bằng những bức ảnh của tượng Nữ thần Tự do và những biểu tượng khác của nước Mỹ. Một chiếc tivi đang chiếu phim “Ice Age” với phụ đề tiếng Việt, trong khi hàng đám thanh niên thời thượng tụ tập chung quanh những chiếc Ipad và bánh kem. Bên cạnh là một chi nhánh The Coffee Bean của Mỹ, cũng đông đúc không kém.
Có một điều gì mang tính biểu tượng về thực tế của giới trẻ thành thị Việt Nam đang hấp thụ nền văn hoá Mỹ, trong khi chính quyền của họ lại tiếp tục bám giữ quan điểm của đảng về sự độc ác của chủ nghĩa đế quốc Mỹ hung hãn. Thậm chí quan điểm này cũng đang dịu đi khi Hà Nội nhận thấy rằng họ đang cần sự giúp đỡ của Washington để chống lại kẻ thù xâm lược lâu dài trong lịch sử của mình - Trung Quốc. Điều không thay đổi là chế độ độc đảng, hiện vẫn được giữ nguyên một cách lố bịch bất chấp hàng thập niên giải phóng kinh tế. Như tổ chức Theo dõi Nhân quyền lưu ý:
Chính quyền Việt Nam đã đàn áp một cách có hệ thống quyền tự do ngôn luận, lập hội và biểu tình hoà bình. Các nhà báo độc lập, các blogger và các nhà hoạt động nhân quyền nào chất vấn chính sách của chính quyền, tố cáo quan chức tham nhũng, hoặc kêu gọi những hình thức dân chủ khác ngoài chính thể độc đảng thì thường xuyên bị công an quấy nhiễu và theo dõi sát sao, bị bắt biệt giam trong thời gian dài mà không được quyền tư vấn pháp lý, và bị tuyên án tù nhiều năm vì vi phạm những luật lệ an ninh nhà nước đầy mơ hồ.
Gần đây, khi đất nước đang đối diện với mức tăng trưởng yếu, nạn suy giảm tín dụng và bong bóng nhà đất, chính quyền đã ra tay đối với những doanh nhân giàu có với doanh nghiệp đang nặng nợ hoặc thất bại. Họ bị bắt giữ và truy tố với những tội danh khác nhau, dù có thật hay không, vốn từng được nhân nhượng trong những năm kinh tế bùng nổ. Thật khó mà hiểu được vì sao lại có những vụ bắt giữ này trong khi tại Trung Quốc cũng hoàn toàn chẳng có tính minh bạch và nạn tham nhũng còn tội tệ hơn. Giới cầm đầu đảng Cộng sản có quan hệ mật thiết với những doanh vụ thương mại; những cuộc bắt giữ nào có thể phản ánh sự dịch chuyển tài sản trong Bộ Chính trị, với những doanh nghiệp đồng minh của một số lãnh đạo đang phải chịu đựng vì sự suy giảm quyền lực chính trị của họ. Hoặc những vụ bắt giữ này đơn giản là một cố gắng nhằm xoa dịu cơn giận dữ của công chúng đối với nạn tăng trưởng bị đình trệ.
Những người phương Tây mà tôi trò chuyện ở Thành phố Hồ Chí Minh đã kinh ngạc đối với nạn tham nhũng đang cực kỳ lộng hành trên khắp Việt Nam; cũng giống như ở Trung Quốc, điều này đang làm chậm chân quá trình phát triển về lâu dài của đất nước. Luật lệ pháp quyền chẳng hề tồn tại. Thay vào đó là luật lệ của quan hệ mật thiết; nếu không doanh nghiệp của bạn bị ra lệnh đóng cửa hoặc bị trưng thu một cách bí ẩn.
Tình trạng hiện tại đã tạo ra sự bối rối và dung dưỡng thói đi tắt đối với những ai biết rằng những tuyên truyền Cộng sản mà họ được giáo dục là dối trá và rằng giới lãnh đạo đất nước chỉ lo trước cho bản thân và gia đình. Nhưng người Việt chẳng có lựa chọn nào khác, chẳng có một viễn kiến phi Cộng sản nào để tin cậy vào. Thay vì thế, cũng như những người dân ở các quốc gia hậu Marxist như Nga và Trung Quốc, họ cho rằng mọi thứ mình nghe được đều là dối trá và mọi điều đều có thể được chấp nhận trong quá trình làm giàu cho bản thân.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đang tìm cách giải quyết vấn đề chính danh tương tự bằng cách khuyến khích tinh thần dân tộc trong những tranh chấp về các hòn đảo ở Nam Hải và Đông Hải vốn được những quốc gia láng giềng tuyên bố chủ quyền - trong đó có Việt Nam. Bắc Kinh và Hà Nội, cùng với Đài Bắc đang nghênh chiến đối đầu, đặc biệt là đối với quần đảo Hoàng Sa, vốn được Việt Nam kiểm soát từ năm 1932 cho đến khi một tiền đồn của quân đội Nam Việt Nam bị lính Trung Quốc chiếm đánh vào năm 1974. Một số nước bé có thể đã nhường bước trước sự lấn lướt của Trung Quốc. Nhưng Việt Nam thì không, họ đã từng đánh lùi cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào năm 1979. Một cuộc chiến tranh Trung-Việt rất có thể xảy ra trong tương lai khi giới đầu xỏ chính trị của cả hai nước tìm cách củng cố uy tín dân tộc chủ nghĩa của mình.
Có một cơ hội rõ rệt để Hoa Kỳ tiến gần với Việt Nam hơn và để kiềm chế sâu hơn hơn sự đi lên của Trung Quốc bằng hàng loạt những liên minh với các quốc gia chung quanh con rồng đang lên này. Tuy nhiên, đừng quên rằng Việt Nam là một chính quyền độc đoán, khắt nghiệt và không chính đáng. Như ta vừa thấy qua tại Ai Cập, những đồng minh như thế không nhất thiết có thể nhờ tựa về lâu dài.
Nguồn: The Weekly Standards
Tôi vừa đến thăm Việt Nam, chủ yếu là vì tôi quan tâm đến lịch sử của nước này - và đặc biệt là hai cuộc chiến của Việt Nam trong thế kỷ 20, cuộc chiến đầu giữa phe Việt Minh chống lại người Pháp và đồng minh bản xứ, cuộc chiến thứ hai giữa phe Bắc Việt cùng Việt Cộng chống lại Hoa Kỳ và Nam Việt Nam. Trong quá trình du hành trên khắp nước, từ Hà Nội miền bắc, Huế miền Trung, đến Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) miền Nam, tôi cũng đã tìm hiểu được vài thành tựu cũng như thử thách hiện tại của đất nước này.
Có vô số điều gợi lại những kỷ nguyên của Pháp và Mỹ, từ khách sạn Metropole thanh nhã thời thuộc địa ở Hà Nội cho đến những đường địa đạo ở Củ Chi gần Sài Gòn, nơi từng được Việt Cộng sử dụng, hiện là một khu du lịch. Bất chấp những cải cách kinh tế bắt đầu từ thập niên 80, Việt Nam vẫn còn là một chính thể Cộng sản vô cùng độc tài, và chính quyền đang tìm cách củng cố tính chính danh bằng cách kéo dài vai trò của mình trong việc đánh đổ những thiết kế của Pháp và Mỹ.
AP
Nguyên một gian nhà chú trọng vào những tàn phá của chất Da cam, loại thuốc huỷ diệt thực vật do quân đội Hoa Kỳ xịt trong những năm 60, hiện đang được chính quyền Việt Nam đổ tội cho hầu như bất cứ bào thai dị dạng trên đất nước này. (Chính quyền Obama vừa đồng ý giúp tẩy rửa những khu đất bị ô nhiễm chất hoá học gần căn cứ không quân cũ của Hoa Kỳ ở Đà Nẵng nhưng không thừa nhận bất kỳ trách nhiệm đối với những hệ quả được xem là có liên quan đến chất Da cam.) Không cần phải nói là chẳng có một trưng bày nào đề cập đến những tội ác của Cộng sản, ví dụ như việc giết hại hàng nghìn người dân miền Nam khi lực lượng Cộng sản chiếm đóng thành phố Huế một thời gian ngắn trong cuộc Tổng Tấn công Tết năm 1968.
Tại dinh tổng thống với phong cách hiện đại nơi các tổng thống Nam Việt Nam từng ở, có những trưng bày ca ngợi những người lính Bắc Việt Nam từng phá đổ những cánh cổng bằng xe tăng của Liên Xô. Chẳng một nhắc nhở nào về hàng triệu người miền Nam sau đấy bị đưa vào những “trại cải tạo” hoặc là những “thuyền nhân” trên những chiếc thuyền thủng đáy.
Trong khi Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh nhấn mạnh chuyện người Việt là nạn nhân, những trưng bày tại địa đạo Củ Chi, nơi Việt Cộng ẩn náu sau khi tấn công quân đội Nam Việt Nam và Mỹ, lại miêu tả người Việt như những chiến binh dũng cảm. Thậm chí có cả một chiếc tivi chiếu đi chiếu lại một bộ phim tuyên truyền thời 60 ca ngợi quân Việt Cộng và đương nhiên chẳng đề cập gì đến mối quan hệ mật thiết của họ với chính quyền Bắc Việt Nam.
Trong khi ấy, tại nhà giam Hoả Lò tối tăm, vốn được giới tù binh Mỹ gọi là Hà Nội Hilton, lại có một tương phản đầy lố bịch: Nhà tù này miêu tả một cách chính xác những hình thức tra tấn mà các cai ngục người Pháp sử dụng đối với các tù nhân chính trị người Việt, trong khi lại tô vẽ đầy sai lạc cách đối xử của quản tù người Việt với các tù nhân quân sự người Mỹ. Một tấm bảng giới thiệu với khách viếng thăm (không hoàn toàn đúng văn phạm): “Trong thời kỳ chiến tranh nền kinh tế quốc gia gặp khó khăn nhưng chính quyền Việt Nam đã thiết lập những điều kiện sống tốt nhất cho các phi công Hoa Kỳ để họ có được một cuộc sống ổn định trong giai đoạn tạm giam.” Thôi, đấy cũng là một cách tường thuật những trò tra tấn dã man mà John McCain, James Stockdale và những tù nhân chiến tranh khác phải chịu đựng.
Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là chẳng có một khách người Việt nào tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, địa đạo Củ Chi hay nhà lao Hoả Lò - những ai đến đấy toàn là người nước ngoài như tôi. Nhưng câu chuyện lại hoàn toàn khác tại Lăng Hồ Chí Minh hoành tráng ở Hà Nội, nơi hàng nhóm những khách thăm người Việt đến để chiêm ngưỡng xác ướp của Hồ (hoặc có thể chỉ là một hình nộm bằng sáp). Chiếc Lăng nằm cận ngôi nhà sàn giản dị nơi Hồ từng sống và làm việc trong vai trò chủ tịch nước Bắc Việt Nam. Nói đúng ra thì đa số khách thăm người Việt là những học sinh trong những chuyến tham quan bắt buộc, nhưng rõ ràng là người dân có một tình cảm sâu nặng đối với “Bác Hồ”, người mà theo tiêu chuẩn độc tài của thế giới, lại giản dị và khiêm tốn khác thường. (Ông hẳn rất ghét chiếc lăng kiểu Lenin vốn được xây dựng và bảo hành với sự giúp đỡ của người Nga - ông từng yêu cầu một lễ hoả thiêu đơn giản.)
Ngược lại, có vẻ người dân tương đối ít quan tâm đến hai cuộc chiến Việt Nam - chẳng có gì ngạc nhiên khi tuổi trung bình ở Việt Nam hiện là 28, có nghĩa là đa số người dân xem những cuộc chiến này là lịch sử xa xưa.
Cùng ngày tôi đến thăm địa đạo Củ Chi và Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh, tôi cũng đã ghé ngang mua một ly cà phê đá ở Sài Gòn, nơi nhiều người Việt vẫn xem là thành phố lớn nhất nước. Tôi mua ly cà phê (rất ngon) từ một cửa hàng có tên là NYDC, viết tắt của “New York Desert Café.” Nó được trang hoàng bằng những bức ảnh của tượng Nữ thần Tự do và những biểu tượng khác của nước Mỹ. Một chiếc tivi đang chiếu phim “Ice Age” với phụ đề tiếng Việt, trong khi hàng đám thanh niên thời thượng tụ tập chung quanh những chiếc Ipad và bánh kem. Bên cạnh là một chi nhánh The Coffee Bean của Mỹ, cũng đông đúc không kém.
Có một điều gì mang tính biểu tượng về thực tế của giới trẻ thành thị Việt Nam đang hấp thụ nền văn hoá Mỹ, trong khi chính quyền của họ lại tiếp tục bám giữ quan điểm của đảng về sự độc ác của chủ nghĩa đế quốc Mỹ hung hãn. Thậm chí quan điểm này cũng đang dịu đi khi Hà Nội nhận thấy rằng họ đang cần sự giúp đỡ của Washington để chống lại kẻ thù xâm lược lâu dài trong lịch sử của mình - Trung Quốc. Điều không thay đổi là chế độ độc đảng, hiện vẫn được giữ nguyên một cách lố bịch bất chấp hàng thập niên giải phóng kinh tế. Như tổ chức Theo dõi Nhân quyền lưu ý:
Chính quyền Việt Nam đã đàn áp một cách có hệ thống quyền tự do ngôn luận, lập hội và biểu tình hoà bình. Các nhà báo độc lập, các blogger và các nhà hoạt động nhân quyền nào chất vấn chính sách của chính quyền, tố cáo quan chức tham nhũng, hoặc kêu gọi những hình thức dân chủ khác ngoài chính thể độc đảng thì thường xuyên bị công an quấy nhiễu và theo dõi sát sao, bị bắt biệt giam trong thời gian dài mà không được quyền tư vấn pháp lý, và bị tuyên án tù nhiều năm vì vi phạm những luật lệ an ninh nhà nước đầy mơ hồ.
Gần đây, khi đất nước đang đối diện với mức tăng trưởng yếu, nạn suy giảm tín dụng và bong bóng nhà đất, chính quyền đã ra tay đối với những doanh nhân giàu có với doanh nghiệp đang nặng nợ hoặc thất bại. Họ bị bắt giữ và truy tố với những tội danh khác nhau, dù có thật hay không, vốn từng được nhân nhượng trong những năm kinh tế bùng nổ. Thật khó mà hiểu được vì sao lại có những vụ bắt giữ này trong khi tại Trung Quốc cũng hoàn toàn chẳng có tính minh bạch và nạn tham nhũng còn tội tệ hơn. Giới cầm đầu đảng Cộng sản có quan hệ mật thiết với những doanh vụ thương mại; những cuộc bắt giữ nào có thể phản ánh sự dịch chuyển tài sản trong Bộ Chính trị, với những doanh nghiệp đồng minh của một số lãnh đạo đang phải chịu đựng vì sự suy giảm quyền lực chính trị của họ. Hoặc những vụ bắt giữ này đơn giản là một cố gắng nhằm xoa dịu cơn giận dữ của công chúng đối với nạn tăng trưởng bị đình trệ.
Những người phương Tây mà tôi trò chuyện ở Thành phố Hồ Chí Minh đã kinh ngạc đối với nạn tham nhũng đang cực kỳ lộng hành trên khắp Việt Nam; cũng giống như ở Trung Quốc, điều này đang làm chậm chân quá trình phát triển về lâu dài của đất nước. Luật lệ pháp quyền chẳng hề tồn tại. Thay vào đó là luật lệ của quan hệ mật thiết; nếu không doanh nghiệp của bạn bị ra lệnh đóng cửa hoặc bị trưng thu một cách bí ẩn.
Tình trạng hiện tại đã tạo ra sự bối rối và dung dưỡng thói đi tắt đối với những ai biết rằng những tuyên truyền Cộng sản mà họ được giáo dục là dối trá và rằng giới lãnh đạo đất nước chỉ lo trước cho bản thân và gia đình. Nhưng người Việt chẳng có lựa chọn nào khác, chẳng có một viễn kiến phi Cộng sản nào để tin cậy vào. Thay vì thế, cũng như những người dân ở các quốc gia hậu Marxist như Nga và Trung Quốc, họ cho rằng mọi thứ mình nghe được đều là dối trá và mọi điều đều có thể được chấp nhận trong quá trình làm giàu cho bản thân.
Giới lãnh đạo Trung Quốc đang tìm cách giải quyết vấn đề chính danh tương tự bằng cách khuyến khích tinh thần dân tộc trong những tranh chấp về các hòn đảo ở Nam Hải và Đông Hải vốn được những quốc gia láng giềng tuyên bố chủ quyền - trong đó có Việt Nam. Bắc Kinh và Hà Nội, cùng với Đài Bắc đang nghênh chiến đối đầu, đặc biệt là đối với quần đảo Hoàng Sa, vốn được Việt Nam kiểm soát từ năm 1932 cho đến khi một tiền đồn của quân đội Nam Việt Nam bị lính Trung Quốc chiếm đánh vào năm 1974. Một số nước bé có thể đã nhường bước trước sự lấn lướt của Trung Quốc. Nhưng Việt Nam thì không, họ đã từng đánh lùi cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào năm 1979. Một cuộc chiến tranh Trung-Việt rất có thể xảy ra trong tương lai khi giới đầu xỏ chính trị của cả hai nước tìm cách củng cố uy tín dân tộc chủ nghĩa của mình.
Có một cơ hội rõ rệt để Hoa Kỳ tiến gần với Việt Nam hơn và để kiềm chế sâu hơn hơn sự đi lên của Trung Quốc bằng hàng loạt những liên minh với các quốc gia chung quanh con rồng đang lên này. Tuy nhiên, đừng quên rằng Việt Nam là một chính quyền độc đoán, khắt nghiệt và không chính đáng. Như ta vừa thấy qua tại Ai Cập, những đồng minh như thế không nhất thiết có thể nhờ tựa về lâu dài.
Nguồn: The Weekly Standards
Admin gửi hôm Thứ Bảy, 06/10/2012
nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20121006/viet-nam-noi-thap-nien-70-tro-thanh-lich-su-co-xua
=====================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001