Nguyễn Đức Tường
Hoàng Đạo, tên thật
là Nguyễn Tường Long, quê ở Quảng Nam, sinh năm 1906 tại
phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Thời kỳ viết
báo Phong Hóa (1932) ông còn dùng biệt hiệu khác nữa là
Tứ Ly. Ông là em của Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và là
anh của Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân).
Thuở nhỏ ông học tiểu học ở Cẩm Giàng, sau học trung học và đỗ tú tài ở Hà Nội rồi làm tham tá kho bạc. Năm 1930, sau khi đỗ cử nhân luật ở Hà Nội, ông làm tham tá lục sự tại tòa án Đà Nẵng. Năm 1932, ông xin đổi về tòa án Hà Nội đồng thời cùng Nhất Linh chủ trương viết tuần báo Phong Hóa.
Hoàng Đạo – nhà
báo
Hoàng Đạo là một
trong những nhà văn sáng lập Tự Lực Văn Đoàn. So với
các nhà văn khác trong nhóm như Khái Hưng hay Nhất Linh,
tác phẩm của ông không có nhiều:
- Nghị luận: Mười
Điều Tâm Niệm (1936),
- Bùn Lầy Nước Đọng (1937);
- Phóng sự: Trước
Vành Móng Ngựa (1938);
- Tiểu thuyết: Con
Đường Sáng (1940);
- Truyện ngắn: Tiếng
Đàn (1941).
Theo Nhật Thịnh,
trong cuốn Chân Dung Nhất Linh, năm 1939, Nhất Linh ngưng
viết để hoạt động chính trị. Ông trao bản thảo Bướm
Trắng để cho Thạch Lam in và bỏ dở truyện dài Con
Đường Sáng mới viết chừng 30 trang cho Hoàng Đạo viết
tiếp. Tuy gọi là truyện dài, Con Đường Sáng thật ra
không dài lắm và ta không biết Hoàng Đạo sửa đổi,
viết tiếp như thế nào. Hoàng Đạo cũng viết nhiều
truyện ngắn đăng trên báo, một số gom lại in trong tập
truyện Tiếng Đàn. Vào thời điểm này, sa đọa, chán
chường là căn bệnh chung của thời đại. Trong Tiếng
Đàn, truyện đầu tiên trong tập truyện, với một giọng
văn ngắn gọn, vừa chính xác vừa man mác, tương phản
một vẻ đẹp thuần túy, mong manh với một thực tại
nhầy nhụa, Hoàng Đạo tả cảnh mấy thanh niên đi đò
đêm trên sông Hương, hút thuốc phiện, nghe cô gái mãi
dâm hát điệu Nam Bình, Nam Ai ai oán của một dân tộc
mất nước thời xa xưa nhưng cũng là một thực tế thời
nay:
“Ngọn đèn thuốc
phiện khêu cao, Lương ung dung tiêm thuốc mời Huyền hút,
Xuân hết đỗi ngạc nhiên lúc thấy Huyền nhận lời,
ngả người sát vào người chàng, gối đầu lên vai
chàng, tóc xõa cả lên mặt chàng. Nhưng lúc ấy chàng
không thấy trong mạch máu bồng bột khí phách của kẻ
thắng trận nữa; chàng chỉ thấy trong lòng tê tái như
kẻ bị thua vì chàng chợt nhận ra Huyền là người cùng
nước, và tiếng ca ban nãy là tiếng than của thời đại
chàng đương sống. Một nỗi buồn nản mênh mông tràn
ngập vào tâm hồn Xuân như nước triều trên bãi biển
xa vắng. Xuân lắng tai nghe tiếng sóng vỗ róc rách bên
mạn thuyền, chàng tưởng là dư âm của điêu tàn đã
hết…”
và rồi, không mấy
tế nhị, Xuân
“… không chìm
đắm trong sự phân giải đau đớn, chỉ cố xuất tàn
lực để thoát khỏi cái khối nặng đương đè nén linh
hồn. Xuân phải dùng hết can đảm mới nâng được đầu
Huyền đặt lên gối, vùng trở dậy chui ra mũi thuyền.”
Thế nào chăng nữa,
đóng góp quan trọng của Hoàng Đạo không phải là ở
tiểu thuyết hay truyện ngắn, mà là công việc điều
hành tuần báo Phong Hóa với Nhất Linh, cùng những bài
luận thuyết ông viết thoạt tiên dưới bút hiệu Tứ
Ly, rồi sau trên tuần báo Ngày Nay dưới tên Hoàng Đạo.
Ngoài Tứ Ly, hình như ông còn dùng bút hiệu khác như Tứ
Linh; Nguyễn Tường Tam dùng nhiều bút hiệu: Nhất Linh,
Nhị Linh, Đông Sơn, Bảo Sơn…
Báo Phong Hóa, cái nôi
sinh dưỡng của Tự Lực Văn Đoàn, có một chủ trương
rõ rệt. Chủ trương này tất nhiên là kết quả của
những suy nghĩ, bàn cãi của nhiều người; tuy vậy Hoàng
Đạo thường được coi là phát ngôn viên, lý thuyết gia
của cả nhóm. Để tóm tắt trong một vài chữ, Phong Hóa
muốn “hiện đại hóa” xã hội Việt, từ nhỏ đến
nhớn, từ cao đến thấp. Mà hiện đại hóa là gì, nếu
không phải là thay thế những nề nếp cũ bằng những
vật phẩm mới, mang nhãn hiệu Âu Tây, nhập cảng từ
cái xã hội đã thành công trong việc chinh phục đất
nước mình (khi ấy) đã quá nửa thế kỷ?
Trong Phong Hóa, Hoàng
Đạo phụ trách ba mục chính: Từ Nhỏ Đến Nhớn bàn về
việc, Từ Cao Đến Thấp bàn về người và Bàn Ngang nói
ngược mà hóa ra xuôi. Ta chép dưới đây ít hàng rải
rác trong Phong Hóa dưới ngòi bút của ông, đả phá cái
xã hội nho phong với tập tục lễ giáo cổ truyền, những
hủ tục của dân quê, không khí buồn thảm chán đời
của những người khác.
Nho giáo lung lay sắp
đổ, sắp sửa theo mấy nhà thâm nho còn sót lại mà tiêu
diệt với thời gian. Còn đạo Lão, đạo Phật chỉ đem
lại cho thiếu niên những tư tưởng chán đời, ta không
thể nương tựa vào đấy mà sống được.
Ta phải thay thế
cái mớ lễ nghi cũ rích nó phân đẳng cấp xằng, nó
xướng lên rằng một miếng giữa làng bằng một sàng xó
bếp, bằng một cái lễ mới. Những điều lễ mới này
dạy cho dân quê rằng một người trong làng là một người
công dân, có đủ quyền tự do làm một người công dân,
dù là một bạch đinh hay là ông Lý ông Chánh, quý hồ
mình đóng góp đủ sưu thuế cho đúng luật lệ là không
ai ức hiếp được mình, chớ không cần phải khoác cái
chức nọ chức kia.
Ta phải tìm thấy
tinh thần văn minh Thái Tây rồi tự tạo lấy những điều
nhu cần cho ta, và muốn thế ta phải dứt bỏ những dây
buộc chằng chịt lấy linh hồn ta tức là những tục lệ
cổ hủ và trí phục tòng của cả một dân tộc.
Ta cần phải hiểu
rõ rằng chán nản buồn rầu là một cái hèn nhát không
phải là cái cao thượng. Không biết đến sự thật trước
mắt chỉ tiếc thương cái đã qua và buồn rầu về những
khó khăn cản trở, như vậy là vô ích.
Nền luân lý (cũ)
ấy bắt ta phải bái phục lời nói cổ nhân dầu lời
nói có sai cũng mặc, không được đem lý luận ra mà bẻ
bác. Cha mẹ đẻ ra ta thì những câu bảo ban, ta phải cúi
đầu vâng theo dù những câu ấy trái với tư tưởng của
ta.
Chữ tự do cá nhân
là một chữ từ xưa đến nay ta không biết nghĩa là gì.
Ngày nay cái óc biết suy xét của ta bắt ta không nhắm
mắt như xưa, mà bắt ta đem lẽ phải, lương tri, ra mà
suy nghĩ cứu cánh mọi sự ở đời.
Vân vân.
Cách mạng là phá vỡ
một trật tự cũ và thay thế vào đó bằng một trật tự
mới, hiểu ngầm là tốt đẹp hơn. Hiểu theo nghĩa này,
việc làm của Phong Hóa là một cuộc cách mạng, không
hơn không kém. Và ta phải nhận rằng trong cuộc cách mạng
này, nhóm Phong Hóa rồi tiếp đó Tự Lực Văn Đoàn, nói
chung, và Hoàng Đạo, nói riêng, đã thành công có thể
gọi là mỹ mãn. Họ đã đem lại cho xã hội và văn học
Việt Nam những thay đổi sâu sắc. Tất nhiên, vào thời
ấy, muốn cho dân Việt một khi đã “đóng góp đủ
sưu thuế cho đúng luật lệ là không ai ức hiếp được
mình”là điều khó thực hiện, họ sớm nhận
thấy cuộc cách mạng “nhung” của họ còn thiếu sót
trầm trọng. Họ sẽ phải đi làm cách mạng “nóng”,
vì một lẽ rất giản dị là chỉ một chuyện như sưu
thuế cũng đủ để đa số dân Việt chịu trăm nghìn
khốn khổ.
Cách mạng nào cũng
có những cái quá khích, đáng tiếc của nó. Cách mạng
Pháp không cần khoa học, à la guillotine, người ta
hò hét và, như vậy, Lavoisier, một trong những nhà khoa
học quan trọng nhất của đất nước thời ấy, phải
lên đoạn đầu đài. Cách mạng này cũng vậy thôi. Không
phải những tập tục, nghi lễ nào của ta cũng đều xấu
cả; hơn nữa, một số nghi lễ cầu kỳ – trông ngoài
mặt vô ích – chính là cái neo, cái mốc để cho con
người thấy có một cái gì chung với nhau, để có thể
tìm thấy lại nhau. Vẫn cùng một lý luận, không phải
mọi thứ “Thái Tây” đều tốt và thích hợp.
Về luân lý, “Cha
mẹ đẻ ra ta thì những câu bảo ban, ta phải cúi đầu
vâng theo dù những câu ấy trái với tư tưởng của ta.”
Nếu quả thực đạo lý có dạy ta ở một chỗ nào
đó như vậy, thì cũng chính đạo lý này dạy ta ở một
chỗ khác phải biết mềm dẻo trong cách ứng xử, chuyện
Tăng Sâm bừa cỏ ruộng dưa (1) là một thí dụ
điển hình. Lý luận vừa phải như vậy dễ bị quên mất
trong cái ồ ạt của cách mạng.
Để chế diễu hủ
tục của dân quê, Nhất Linh dưới bút hiệu Đông Sơn
phát minh ra Lý Toét, Xã Xệ nổi tiếng một thời, còn
Hoàng Đạo thì có anh Ba Ếch, lố bịch hóa hạng người
nhà quê một cách tai ác! Nhưng có lẽ những quá đáng,
tai ác của Phong Hóa chỉ có mục đích nhấn mạnh, lấy
điểm thôi. Phong Hóa hay chế diễu Tản Đà, nhiều khi
cũng rất tệ, nhất là cái tật nát rượu của nhà thơ.
Tú Mỡ kể lại:
Một hôm, sau khi
đọc bài thơ Giời đầy Nguyễn Khắc Hiếu nhà thơ thân
đến tòa soạn, cười ngất phê bình: “Bài thơ thú lắm,
nhưng mà xược!” Khái Hưng hỏi: “Thực tình anh có
giận chúng tôi không?”Tản Đà cười khà đáp: “Chúng
ta ví như những vai hề trên sân khấu, có khi giễu xỏ
nhau ở rạp hát để thiên hạ mua vui. Nhưng diễn xong
trò, ta vẫn là ta, bạn đồng nghiệp cả, việc quái gì
mà giận nhau!”
Từ đó, chúng tôi
lại càng quý mến Tản Đà và đi lại cùng nhau thân mật
hơn.
Phong Hóa đả đảo
chế diễu đủ mọi thứ người: các vị thượng lưu
(hay kém thượng lưu hơn) trí thức, dân biểu bù nhìn,
quan liêu phong kiến. Hoàng Đạo (Tứ Ly) viết tường
thuật Cuộc Chợ Phiên do Phong Hóa tổ chức, có đầy đủ
nhân vật Lý Toét vàBa Ếch, hay kịch Tuồng Cổ Tân Thời,
đăng nhiều kỳ, có đủ mặt chư vị anh hùng. Tuồng Cổ
Tân Thời, hồi thứ nhất, cảnh thứ nhất có cảnh sơn
trại, với Trại Chủ Hoàng Tăng Bí, Hữu Tham Mưu Nguyễn
Khắc Hiếu, Tả Tham Mưu Nguyễn Văn Vĩnh. Trích một đoạn
dưới đây:
Hữu Tham Mưu Nguyễn
Khắc Hiếu ra:
– Bạch ta nay:
Hường – Tản Đà
thi sĩ, Khắc Hiếu nãi danh, làm tham mưu lạm dự chút
quyền, chỉ một việc rượu tràn quí tị, thơ sẵn có
khối tình bé tí, văn thời nào mộng lớn, mộng con, rượu
càng say ngâm giọng càng ròn, tiếng ngông đã vang trời
dậy đất.
Ngâm:
Say sưa nghĩ cũng
hư đời,
Hư thời hư vậy,
say thời cứ say.
Đất say đất
cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng
đỏ gay ai cười!
Tán – Rứa mà
chừ, có tin chủ trại triệu đến trướng tiền, việc
dữ lành chưa rõ căn nguyên, mau tới đó cho tường hắc
bạch.
Cười nói: khà,
khà! Hay chủ trại nhớ tên lính cũ, phố hàng Bông bán
đủ hạng văn, mà bây giờ cho uống cho ăn, để cho được
say lăn say lóc.
(Tham Mưu Hiếu cầm
hũ ra)
Tả Tham Mưu Nguyễn
Văn Vĩnh ra bạch:
Người đời thay ý
kiến như chong chóng quay, quay thế mà nghĩ cũng hay hay,
tít mù tắt hết ngày hết tháng.
Tán – Ta tên Văn
Vĩnh, chủ báo Annam, đường văn minh đi bước tiên phong,
tư tưởng mới giốc lòng truyền bá.
Thét hường – Rứa
mà khi nhàn rỗi, còn thú đánh tổ tôm. Lại giỏi nghề
bấm độn cát hung, tìm long mạch cùng là xem số, quyết
đem tài thi thố mà phò chủ trại Hoàng. Theo phương trâm
“quốc túy bảo tồn,” cho thiên hạ biết ta thủ cựu.
(Tả Tham Mưu Vĩnh
cầm quyển Niên Lịch Thông Thư ra.)
Hai tham mưu chõ vào
chủ trại Hoàng cùng nói:
Hường – Dám bẩm
đại nhân có lệnh, bản chức vô hầu.
Chủ Trại nói:
thỉnh nhị tham mưu an vị.
Khen – Hảo a! khá
khen cho hữu tham mưu: hay mộng, hay mị, biết uống, biết
say; khá khen cho tả tham mưu: biết thế, biết thời, hay
nhâm, hay bói.
Tán – Nhân hôm
nay có điều rắc rối, thỉnh tham mưu lai đáo luận bàn.
Số là ít lâu nay trên chốn văn đàn, có chú Phong Hóa
đầu còn xanh tuổi trẻ, mới ra đời được 20 tuần có
lẻ, đã chơi trèo khiếm lễ với đàn anh. Hai tham mưu đã
rõ sự tình, âu ta phải tìm phương triệt hạ.
Hay cho thằng Phong
Hóa khéo cợt cợt, cười cười, đem cái vui mua lấy lòng
người, cũng vì thế mỗi ngày mỗi tiến. Nếu chẳng
triệt sau này sinh biến, còn đâu là mỹ tục thuần
phong, còn đâu là cha cha, con con, vợ vợ, chồng chồng,
còn đâu là lễ lễ, nghĩa nghĩa, trung trung, tín tín, há
để cho nước đến chân mới nhảy, cờ đến tay ta phải
phất ngay, phiền tham mưu tìm lấy mẹo hay, phá được
Phong Hóa mỗ đây trọng thưởng.
Cũng chỉ vui đùa
lành mạnh thôi, không có gì ác độc. Phong Hóa trêu chọc
đến độ cụ Nguyễn Văn Tố phải cắt bỏ búi tó, Tản
Đà bớt ngông nhưng không bỏ rượu, Hoàng Tăng Bí thôi
Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh đình Niên Lịch Thông
Thư. Truyện Hậu Tây Du với những nhân vật mới trong
triều đình Huế như Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng, v.v…
phò Hoàng Đế Bảo Đại và Hoàng Hậu Nam Phương sang
Tây, nguy hiểm hơn nhưng rồi cũng qua. Đến khi Phong Hóa
đụng tới Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu với loạt bài Đi
Xem Mũ Cánh Chuồn thì báo đã đến ngày tới số. Báo bị
đóng cửa ba tháng rồi đến đầu năm 1936 thì bị đóng
cửa vĩnh viễn.
Báo Ngày Nay xuất bản
song song với Phong Hóa cả năm trước đó, bây giờ tiếp
tay, cẩn thận khôn ngoan hơn. Cái cười trong Ngày Nay nay
chỉ còn là cái “Cười Nửa Miệng.” Và theo Tú Mỡ:
“Ngày Nay là hình ảnh trung thực của tâm trí mọi tầng
lớp bình dân trong nước, là người bạn tri kỷ, vui vẻ
khuyên nhủ mọi người, mách bảo những sáng kiến hay,
cần thiết cho cuộc đời mới.”
Năm 1936, chính phủ
bình dân lên cầm quyền tại Pháp, chính phủ thực dân
thuộc địa bắt buộc phải nới tay, Ngày Nay viết mạnh
bạo hơn. Hoàng Đạo viết một số bài in trên Ngày Nay
được gom lại in thành tập Mười Điều Tâm Niệm. Mười
Điều Tâm Niệm đúc kết nhiều ý tưởng đã từng được
phổ biến trong Phong Hóa và thêm vào đó một vài điều
mới, mục đích kết hợp thanh niên cho một cuộc cách
mạng tương lai:
- Theo mới, hoàn toàn theo mới: bỏ văn hóa cũ, theo văn hóa Tây Phương;
- Tin ở sự tiến bộ một ngày có thể một hơn;
- Sống theo một lý tưởng;
- Bỏ óc vị kỷ, làm việc xã hội;
- Luyện tính khí để giữ vững nhân phẩm;
- Phụ nữ phải ra ngoài xã hội, bình đẳng với nam giới về quyền lợi và nghĩa vụ;
- Luyện lấy bộ óc khoa học;
- Lập sự nghiệp, bỏ óc hư chuộng công danh;
- Luyện thân thể cường tráng;
- Học trí xếp đặt và tổ chức của Thái Tây, bài trừ thói luộm thuộm cẩu thả.
Với ngòi bút sắc
bén, Hoàng Đạo viết về những vấn đề chính trị và
xã hội, vạch trần những thối nát của chế độ phong
kiến. Ông viết về tự do nghiệp đoàn, báo chí, về đời
sống dân quê trong Bùn Lầy Nước Đọng, và về công
bằng và luật pháp trong Trước Vành Móng Ngựa.
Để kết luận, trong
cuộc cách mạng không đổ máu này, Phong Hóa đã thành
công rực rỡ. Không những bằng tiếng cười, mà bằng
thơ, bằng tiểu thuyết, bằng những sáng tác văn nghệ
Phong Hóa đã đi sâu vào tâm hồn, thay đổi cách nhìn,
cảm nghĩ của cả một thế hệ độc giả.
Năm 1940, nhóm ngừng
hoạt động, đi làm cách mạng chính trị. Bị săn bắt,
Nhất Linh chạy thoát sang Tàu. Hoàng Đạo, Khái Hưng ở
nhà bị bắt giam ở Vụ Bản.
Thời đại Phong
Hóa
Báo Phong Hóa nguyên
là của mấy vị giáo sư trường tư thục Thăng Long, ra
đời năm 1932, với ông Phạm Hữu Ninh, người sáng lập
trường Thăng Long làm quản lý, Nguyễn Xuân Mai giám đốc
chính trị và Trần Khánh Giư (Khái Hưng), giáo sư Thăng
Long, làm chủ bút. Lúc đầu, Phong Hóa rất được chú ý
nhưng có lẽ vì thái độ chung chung, thiếu mạnh dạn
khiến cho báo mất độc giả, sống dở chết dở, đến
độ sắp phải đình bản.
Năm 1930, Nguyễn Tường
Tam (Nhất Linh), mới 24 tuổi, từ Pháp trở về nước,
trong đầu là cả một chân trời mới, ý tưởng mới
muốn thay đổi hẳn những quan niệm về xã hội và văn
chương đất Việt. Để thực hiện được cuộc cách
mạng xã hội này, ta khó có thể tìm được người có
khả năng hơn Nhất Linh. Ông là một người có tài tổ
chức, có con mắt nhìn người rất tinh và nhất là học
rộng, biết nhiều, tài hoa, nghệ sĩ: năm 1925, vào học
trường thuốc, bỏ trường thuốc vào học trường Cao
Đẳng Mỹ Thuật, rồi đến năm 1927 xin đi Tây học, sau
hai năm, đỗ cử nhân Khoa Học.
Về nước, Nhất Linh
xin phép làm báo Cười, nhưng mãi mãi không được. Người
ta có lý do để không sốt sắng lắm với một ông đi
Tây về, đã hấp thụ đủ không khí tự do dân chủ của
mẫu quốc, và ông này muốn làm báo Cười! Ông đề nghị
với ông Ninh và ông Mai mua lại Phong Hóa, nhượng cho mình
làm chủ bút. Mọi người đều có lợi: Phong Hóa không
bị đình bản, ông Ninh ông Mai vẫn giữ nguyên chức, có
lương tháng và Nhất Linh có báo. Phụ trách đắc lực,
trông coi báo cùng ông có Hoàng Đạo và đám anh em trong
nhà: Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam)
và Nguyễn Tường Bách; bên ngoài có Tú Mỡ, Khái Hưng,
Thế Lữ và đám họa sĩ tài ba bên trường Mỹ Thuật.
Báo Phong Hóa, từ
nhiều số trước, đã quảng cáo ở trang nhất, ngày thứ
năm 22 Sept. 1932, báo Phong Hóa sẽ ra số mới, từ 9 đến
12 trang, mỗi số 7 xu! Phong Hóa số mới và số cũ khác
nhau thế nào? Ngày thứ năm 22 Sept. 1932, Phong Hóa số 14
đổi mới ra mắt độc giả, như một trái bom. Tờ báo
không còn đen ngòm từ đầu đến cuối như tờ báo hàn
lâm Nam Phong. Phong Hóa đã mang lại một món quà mà độc
giả Việt chưa bao giờ được thưởng thức – cái cười
– với những mẩu chuyện, bài vở (Phan Khôi có cả một
bài bàn về “Cái địa vị khôi hài trên đàn văn”;
bài “Tình Già” của ông cũng được đăng lần đầu
tiên trong Phong Hóa), rải rác trên trang Phong Hóa có những
biếm họa, hí họa duyên dáng, mỹ thuật, rất nhiều vẽ
bởi chính Nhất Linh (Đông Sơn), một ít vẽ bởi Hoàng
Đạo (Tứ Ly).
Phong Hóa thành công
nhanh chóng về mọi phương diện. Báo phát hành mỗi kỳ
tăng vọt từ 3000 đến 10000, một con số khổng lồ trong
làng báo Việt. Một năm sau khi Phong Hóa ra đời, Tự Lực
Văn Đoàn được tuyên bố thành lập, và rồi để kỷ
niệm ba năm ngày báo ra đời, Hoàng Đạo có thể hoan hỉ
viết:
Ba năm qua… Sự
thay đổi của phong tục, tuy chưa rõ rệt; nhưng sự thay
đổi linh hồn của dân ta đã ngấm ngầm, từ tốn mà
tiến hành, không có sức mạnh nào ngăn lại được nữa…
Đọc lại Phong Hóa,
một tờ báo có ảnh hưởng lớn trong xã hội và văn
chương Việt, người đọc có cảm giác là lạ của khán
giả đang xem một tấn tuồng, rất gần mà cũng rất xa.
Có lẽ đây là một xã hội giả tưởng Paradiso trong
Divine Comedy của Dante, trong đó các diễn viên, les
indigènes, sống có vẻ thanh bình sung sướng, đi chơi
Hội Tây Cát-tó (2), vui cười xem trò “liếm chảo”
hay “câu xu”; nhưng người ta cũng biết tai vạ không xa
vì thỉnh thoảng báo lại loan tin mấy người cách mạng
bị chém đầu.
Thời đại Phong Hóa
là một thời đại phức tạp, cả nước hãy còn bàng
hoàng, bất an về những khủng bố của chính quyền thuộc
địa đầu thập niên 1930. Đó là cái thời mà dân bản
xứ được ru ngủ bằng những chợ phiên, những cuộc
đua thể thao… đang mọc lên như nấm. Sản phẩm thặng
dư của thời đại là công tử Hà Nội, ăn mặc đúng
mốt Paris, lăng xăng đi lại trong chợ phiên, tay cầm yoyo
hoặc ném confetti lên đầu các cô “tân thời”. Nếu
các cô tân thời có tình cờ mặc áo dài Lemur của họa
sĩ Cát Tường của Phong Hóa thì ta cũng không nên trách
Phong Hóa hay nhóm Tự Lực Văn Đoàn đã bày đầu cho họ.
Trước những cảnh lố lăng đó, các cụ ta cảm thấy
bất an là phải, không hiểu rằng đó là những sản phẩm
thặng dư của thời đại không thể tránh được, thời
nào cũng có.
(Nguyễn Mạnh
Tường)
Thời đại Phong Hóa được hưởng trực tiếp kết quả của chính sách khôn ngoan của quan toàn quyền trứ danh Sa-Lộ (Albert Sarraut), ru ngủ được dân An Nam suốt thời kỳ chiến tranh Pháp-Đức, hứa hẹn khai hóa, mở mang đại học cho thanh niên có hy vọng mà chờ. “Sa-Lộ đại nhân” được tán tụng như một ân nhân của nước Việt qua bài diễn văn nổi tiếng ông đọc ở Văn Miếu Hà Nội, sau này thường được gọi là “Le grand discours de la Pagode des corbeaux.” Dù sao, ta phải lương thiện nhận rằng những Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long… có điều kiện được đi học dễ dàng hơn cũng là nhờ ở ông. Từ Pháp về, có những ông không có bằng cấp gì để khoe nên chỉ tự giới thiệu một cách giản dị: “Mr un tel, retour de France,” nhưng cũng có không thiếu những ông hai ba bằng mà ông Nghè Tường là một.
Năm 1932, Nguyễn Mạnh
Tường 22 tuổi về nước với hai bằng tiến sĩ (ở đâu
đó trong Phong Hóa, Nhất Linh cẩn thận cắt nghĩa sự
khác nhau giữa tiến sĩ quốc gia – docteur d’état và
tiến sĩ đại học – docteur d’université rồi ông bỏ
lửng ở đó!) Cả nước hoan hỉ. Ông Nghè Tường Trả
Lời… trong Phong Hóa câu hỏi về văn học; ở bậc cao
hơn, ông muốn xây dựng cả nền văn chương Việt bằng
“những tảng đá chở từ Pháp về.”
Đọc Phong Hóa, ta gặp
lại hầu hết những bộ mặt quen thuộc tượng trưng một
thời đại, những nhà trí thức lớn mà con số có lẽ
chiếm không đầy một phần trăm dân số cả nước. Tuần
nào ta cũng gặp lại một vài vị như Phạm Quỳnh, Nguyễn
Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Khắc
Hiếu... người nào Phong Hóa cũng tìm được một điều
gì để nói. Tản Đà được Phong Hóa đặc biệt chiếu
cố; hí họa kèm ở đây vẽ bởi chính Hoàng Đạo, giễu
Tản Đà đang dạy làm thơ, “khó gì đâu, tửu nhập thi
xuất!” người đứng vỗ tay trông hao hao giống Nhất
Linh.
Sau này có tác giả
phê bình tác dụng của Phong Hóa và nhóm Tự Lực Văn
Đoàn là ru ngủ quần chúng, gián tiếp giúp chính quyền
đế quốc; có lẽ các vị này viết theo một định kiến,
do đấy, phiến diện và không công bình. Đọc Phong Hóa,
quả thực ta thấy một thời đại thanh bình nhưng cũng
đồng thời cảm thấy nó ngụy trang những chống đối
thụ động, những sôi sục bị đè nén chờ ngày bột
phát. Ngày ấy đến vào cuối thập niên khi những người
sáng lập nó: Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo… lặng lẽ
ra đi!
Hoạt động chính
trị
Nếu cần có một cái
mốc để đánh dấu ngày chính quyền thực dân Pháp bắt
đầu một cuộc khủng bố trắng trên dân Việt Nam thì
ta không thiếu gì chọn lựa. Và một trong những ngày ta
có thể chọn mà không sợ sai lầm là ngày 17 tháng 6 năm
1930. Vào ngày ấy, lúc 5 giờ 35 phút sáng, viên Công Sứ
De Bottini vẫy tay lần thứ 13, ra lệnh cho lưỡi dao máy
chém rơi xuống và đầu nhà cách mạng Nguyễn Thái Học
rơi khi ông chưa kịp hô xong khẩu hiệu: “Việt Nam muôn
năm!”
Hàng ngàn người
chết, bị chém giết, tù đầy; phong trào cách mạng trong
nước gần như hoàn toàn tê liệt. Trong thời gian này,
bắt đầu từ năm 1932, Hoàng Đạo cùng Nhất Linh viết
và điều khiển tuần báo Phong Hóa. Đọc lại Phong Hóa,
cứ vài số lại thấy vài dòng chữ nhỏ đưa tin năm ba
người bị xử chém ở tỉnh này hay tỉnh khác. Trong hoàn
cảnh này, những hoạt động chính trị công khai của
Hoàng Đạo giới hạn trong việc viết báo. Những hoạt
động chính trị khác, nếu có, tất nhiên phải rất kín
đáo, bí mật.
Phải chờ đến năm
1936, khi Mặt Trận Bình Dân lên nắm chính quyền ở bên
Pháp với lãnh tụ đảng xã hội Léon Blum làm thủ tướng,
không khí ở các thuộc địa mới dễ thở hơn. Các đảng
cách mạng cũ như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đông Dương
Cộng Sản Đảng, Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội bắt
đầu hoạt động trở lại. Một vài đảng cách mạng
mới như Đại Việt Quốc Xã Đảng, Đại Việt Quốc Dân
Đảng, Đại Việt Dân Chính Đảng, Đại Việt Duy Dân
Đảng cùng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (Việt
Minh) ra đời, họat động ráo riết. Đại Việt Dân Chính
Đảng được thành lập bởi Nhất Linh cùng một số đồng
chí của ông. Hoàng Đạo được cử làm Tổng Thư Ký.
Chính phủ của Thủ
Tướng Léon Blum không sống lâu, được chừng một năm.
Ông Chautemps lên thay thế, nhưng cũng chỉ thọ được vài
tháng, cho đến tháng 3 năm 1938. Những cuộc đàn áp, bắt
bớ bắt đầu trở lại. Cũng vậy thôi, vì ngay cả khi
chính phủ Blum mạnh nhất cũng không hoàn toàn vượt qua
được bức tường chống đối của phủ Toàn Quyền Đông
Dương. Đại Việt Dân Chính Đảng bị khám phá và đàn
áp. Rồi tiếp đến việc quân đội Nhật vượt biên
giới Việt-Trung tại Lạng Sơn, tiến vào Đông Dương
tháng 9 năm 1940. Để đề phòng sự chống đối trong khi
có mặt quân đội Nhật, chính quyền thực dân Pháp ra
lệnh bắt giữ một số đông những chính khách và những
nhà cách mạng Việt Nam, tập trung tại Sơn La và Vụ Bản,
Hòa Bình.
Bên Trung Quốc, Nhất
Linh cố tổ chức thống nhất ba đảng Đại Việt Quốc
Xã Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Dân Chính
Đảng. Vài buổi họp với các ông Nguyễn Tiến Hỷ, Vũ
Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ và Vũ Quang Phẩm đưa đến sự
thống nhất trên nguyên tắc như sau: “Ở hải ngoại thì
lấy tên là Việt Nam Quốc Dân Đảng vì ngoại quốc biết
nhiều hơn. Còn ở trong nước thì lấy tên là Đại Việt
Dân Chính Đảng. Các điều khác sẽ bàn sau.”
Năm 1941, Hoàng Đạo
cùng nhiều đồng chí khác bị bắt an trí ở Vụ Bản,
Hòa Bình. Cho mãi đến cuối năm 1942, đầu năm 1943 chính
quyền Pháp mới dần dần trả tự do cho các phần tử
cách mạng VN. Họ bắt đầu hoạt động trở lại.
Để che đỡ cho những
đảng viên khác, một số nhân vật có tên tuổi như
Nguyễn Thế Nghiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Hữu Đạt,
Ngô Thúc Địch và Nhượng Tống công khai lập Tân Việt
Nam Quốc Dân Đảng, có trụ sở ở phố Trường Thi, Hà
Nội. Tân VNQDĐ đứng ra liên minh với các đảng bạn để
thành lập Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh vào
đầu năm 1944 với mục đích là “thân Nhật để hạ
Pháp” (theo Hoàng Văn Đào – Việt Nam Quốc Dân Đảng).
Ban Chấp Hành Trung Ương của Mặt Trận Đại Việt Quốc
Gia Liên Minh gồm có Nguyễn Xuân Tiếu làm chủ tịch với
các thành viên Hoàng Đạo, Trương Tử Anh, Ngô Thúc Địch,
Nhượng Tống…
Tình hình thế giới
thay đổi. Tháng 10 năm 1943, Tướng MacArthur bắt đầu đổ
bộ lên Phi Luật Tân. Và rồi rất có thể quân đội
Đồng Minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương, khi ấy quân đội
Thiên Hoàng sẽ phải đối phó cả hai mặt, trong và
ngoài. Tối ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật tấn
công bất ngờ các đồn binh Pháp trên toàn cõi Đông
Dương. Không đầy 24 tiếng đồng hồ, ngoại trừ một
số quân lính gần biên giới trốn thoát sang lãnh thổ
Trung Hoa, quân đội Nhật làm chủ tình hình, đã bắt
giam các tướng lãnh cùng tất cả những bộ phận cai trị
của Pháp. Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật tại Đông Dương
tuyên bố: “Chính phủ Đông Kinh long trọng trao trả độc
lập cho Việt Nam để cùng lập khối thịnh vượng chung
Đại Á Tế Á.”
Kể từ ngày này,
Việt Nam như trong cơn gió lốc. Việt Nam độc lập trong
khối thịnh vượng chung Đại Á Tế Á? Để có một nhận
định sáng suốt hơn, ta hãy đọc một câu chuyện nhỏ
trong cuốn Hồi Ký của Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ.
“Một nhà lão cách
mệnh trong Nam, bị chính quyền Pháp truy tầm, đến một
căn cứ Nhật ở Tân Sơn Nhất xin trú ẩn. Viên Đại Tá
Nhật vui lòng nhận cho ở đỡ mấy ngày và nói:
- Với tôi, ông xưng
là một nhà ái quốc không sao. Nhưng tôi khuyên ông, khi
đến trú ẩn sau này, ở nơi người Nhật khác, ông đừng
giới thiệu ông là một nhân vật cách mệnh. Thực dân
Tây, Đông đều như nhau. Người Nhật, trong thâm tâm,
không quý trọng những nhà ái quốc Việt Nam như ông
tưởng đâu.”
Thực dân Tây, Đông
đều như nhau! Một ủy ban chính trị Bắc Kỳ được
thành lập dưới sự lãnh đạo của Mặt Trận Đại Việt
Quốc Gia Liên Minh để liên lạc với giới quân sự Nhật.
Nhưng người Nhật không muốn làm đảo lộn guồng máy
cai trị trong lúc chiến tranh bước vào giai đoạn quyết
liệt, đã quyết định giữ lại vai trò của Hoàng Đế
Bảo Đại. Mặt Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh tuyên
bố rút lui và giải tán ủy ban chính trị Bắc Kỳ.
Ngày 27 tháng Giêng
năm Bảo Đại thứ 20 (11 tháng 3 năm 1945), Viện Cơ Mật
thừa lệnh Hoàng Đế Bảo Đại tuyên cáo độc lập, hủy
bỏ tất cả những hiệp ước đã ký với nước Pháp.
Ngày 17 tháng 4, Hoàng Đế Bảo Đại yêu cầu học giả
Trần Trọng Kim lập tân Nội Các. Nội Các Trần Trọng
Kim không có chính trị gia, gồm toàn những nhân vật trí
thức tận tụy với chức nghiệp, đặc sắc ở một điểm
là không có Bộ Quốc Phòng (3) và cũng rất đặc
sắc là dù đời sống của nó ngắn ngủi (chừng bốn
tháng), trong một hoàn cảnh rất khó khăn, dưới sự lãnh
đạo của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã thiết lập được
nền tảng cho nền giáo dục của Việt Nam ở bậc trung
học.
Ngày 6 tháng 8 năm
1945, Hoa Kỳ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima. Nhật sửa
soạn đầu hàng khiến cho tình thế hoàn toàn thay đổi.
Ngày 7 tháng 8, Nội Các Trần Trọng Kim đệ đơn lên
Hoàng Đế Bảo Đại xin từ chức. Nhà vua chấp thuận
nhưng lưu lại với tư cách xử lý thường vụ. Trong tình
trạng này, Triều Đình Huế gửi điện văn ra Bắc mời
vào Huế ba nhân vật là BS Nguyễn Xuân Chữ, Nguyễn Tường
Long (Hoàng Đạo) và Đặng Thái Mai. Nguyễn Tường Long
đang mắc bệnh thương hàn, phải nằm điều trị tại
một bệnh viện, BS Chữ có đến thăm; còn Đặng Thái
Mai thì tìm không thấy.
Chưa quyết định đi
thì GS Hoàng Xuân Hãn được cử làm đặc phái viên của
chính phủ, đã từ Huế ra Bắc với quyền thay mặt Thủ
Tướng giải quyết tại chỗ những vấn đề khẩn cấp.
GS Hãn quyết định sự có mặt tại Hà Nội của BS Chữ
là cần thiết, bèn đề nghị Thủ Tướng điện ra một
sắc lệnh thiết lập một cơ cấu chính trị gọi là Ủy
Ban Giám Đốc Chính Trị Miền Bắc gồm năm ủy viên: một
chủ tịch là BS Nguyễn Xuân Chữ và bốn thành viên là
Phan Kế Toại, Trần Văn Lai, Đặng Thái Mai và Nguyễn
Tường Long.
Tình hình rất rối
ren. Không có sắc lệnh riêng về Khâm Sai Phan Kế Toại.
Có thể chức Khâm Sai không còn nữa vì Phan Kế Toại đã
ở trong Ủy Ban Chính Trị? Có thể chức Khâm Sai vẫn còn
và đặt dưới quyền Ủy Ban? Và cũng có thể Ủy Ban đặt
bên chức Khâm Sai để trợ lực? Thêm vào đó, trong năm
thành viên của Ủy Ban thì Nguyễn Tường Long còn ốm,
Đặng Thái Mai chưa hề có mặt; còn lại ba, thì Phan Kế
Toại vắng mặt ngay hôm sau ngày có sắc lệnh thiết lập
Ủy Ban, Trần Văn Lai, thị trưởng thành phố Hà Nội,
công việc nơi Tòa Thị Chính đã chiếm hết thời giờ.
Còn lại một mình Bác Sĩ chủ tịch với quyền hạn
không rõ rệt. Dù sao chăng nữa, chức vụ và trách nhiệm
cũng chỉ có tính cách hàn lâm vì những biến chuyển
chính trị đã đến quá nhanh chóng và đột ngột: Cách
Mạng tháng Tám (4) thành công và, trong Huế, Hoàng
Đế Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và nhận chức Cố
Vấn trong chính phủ lâm thời!
Được tin Nhật sắp
đầu hàng Đồng Minh, các đảng phái quốc gia (5)
họp khẩn cấp để hoạch định một chương trình hành
động. Chiều ngày 11 tháng 8 năm 1945, Ban Chấp Hành Mặt
Trận Đại Việt Quốc Gia Liên Minh họp để quyết định
việc cướp chính quyền. Hội nghị chia làm hai phái rõ
rệt. Một phái gồm có Trương Tử Anh, Chu Bá Phượng và
đại diện của Nguyễn Tường Long (vẫn ốm, nằm nhà
thương) muốn chờ quân đội cách mạng ở Hải Ngoại
cùng quân đội Đồng Minh (Tàu) sắp nhập cảnh từ Lào
Kai, Lạng Sơn và Móng Cái, rồi sẽ lập chính phủ có
Đồng Minh hậu thuẫn. Còn phái kia, đại biểu là Nguyễn
Xuân Tiếu, chủ trương nên dựa thế lực quân đội Nhật
cướp chính quyền ngay rồi sẽ lập chính phủ sau.
Ta đã biết những gì
đã xảy ra. Ông Hoàng Văn Đào, một trong những đảng
viên sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng viết: “Các lãnh
tụ các đảng phái quốc gia đã thiếu hẳn về phần thủ
đoạn chính trị trong những trường hợp phải áp dụng
linh động để đoạt lấy phần thắng lợi về mình.”
BS Nguyễn Xuân Chữ (không kể tên) kể lại chuyện hai
vị, một là lãnh tụ (Nguyễn Xuân Tiếu) và một phó
lãnh tụ một đảng cách mệnh đã từng cộng tác với
quân đội Nhật và cộng tác chặt chẽ trong thời kỳ
đảo chính, đến ép một cách ngoạn mục ông Khâm Sai
Phan Kế Toại từ chức để nhường chỗ cho vị lãnh tụ
đảng nhưng không thành công.
Trước việc Mặt
Trận Việt Minh đã cướp chính quyền là một sự đã
rồi, ba đảng: Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc
Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng, tái họp để
thi hành việc thống nhất như đã quyết định ở Trùng
Khánh hồi tháng 5 năm 1945. Đầu tháng 12 năm 1945, Trung
Ương Đảng Bộ Quốc Dân Đảng được thành lập, gồm
hai bộ phận: bí mật và công khai. Bộ chỉ huy tối cao
bí mật gồm có Trương Tử Anh, Nguyễn Tiến Hỷ, Vũ Hồng
Khanh, Nghiêm Kế Tổ và Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh). Chủ
tịch đoàn công khai gồm có một chủ tịch Trương Tử
Anh, một bí thư trưởng Vũ Hồng Khanh và ba ủy viên:
Xuân Tùng, Nguyễn Tường Long và Phạm Khải Hoàn. Sau chủ
tịch đoàn là một ban Ủy Viên Trung Ương gồm có nhiều
ủy viên. Trụ sở công khai của Quốc Dân Đảng đặt
tại trường tiểu học Đỗ Hữu Vị, Hà Nội.
Nhưng cũng như những
lần trước, thời cuộc lại bỏ rơi những cố gắng
mới. Mặc dù hết sức chống cộng sản, những phần tử
quốc gia, trước hiểm họa có thể ảnh hưởng đến sự
tồn vong của chính họ, không thể nhắm mắt trước
những ngoan cố, dã tâm của thực dân Pháp với sự trợ
giúp của thực dân Anh. Ngày 23 tháng 10 năm 1945, một thỏa
hiệp được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải
Thần. Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Long được mời
tham gia chính phủ nhưng cũng chẳng đi đến đâu. Tình
thế cấp bách; điều đình dằng dai mãi, đầu tháng 3
năm 1946, một chính phủ liên hiệp được thành lập với
Chủ Tịch Chính Phủ Hồ Chí Minh, Phó Chủ Tịch Nguyễn
Hải Thần và Cố Vấn Chính Phủ Vĩnh Thụy (Cựu Hoàng
Bảo Đại).
Giữa tháng 3 năm
1946, với sự thỏa thuận của Trung Quốc, quân đội Pháp
đổ bộ vào Bắc Việt. Nguyễn Tường Tam, Bộ Trưởng
Ngoại Giao của chính phủ liên hiệp hướng dẫn phái
đoàn Việt Nam điều đình với Pháp tại Đà Lạt. Hội
nghị thất bại. Sẽ còn hội nghị với Pháp nữa để
cứu vãn tình thế, nhưng thực chất là để mua thời giờ
sửa soạn cho cuộc kháng chiến chống Pháp sắp tới.
Chính phủ thành lập Mặt Trận Liên Hiệp Quốc Dân Việt
Nam gọi tắt là Liên Việt để thu hút mọi tầng lớp
nhân dân. Chủ tịch Trung Ương của Liên Việt là cụ
Huỳnh Thúc Kháng, phó chủ tịch Tôn Đức Thắng, bí thư
Cù Huy Cận với các ủy viên là Trần Huy Liệu, Phạm
Ngọc Thạch, Ngô Tử Hạ và Nguyễn Tường Long.
Đầu tháng 5 năm
1946, quân Tàu của Lư Hán và Tiêu Văn bắt đầu rút lui
về Trung Hoa để nhường chỗ cho quân đội Pháp đã đến
để thay thế từ tháng 3, những người quốc gia mất hết
điểm tựa. Ông Nguyễn Hải Thần đã bỏ đi Quảng Tây
từ cuối tháng 3; Ngoại Trưởng Nguyễn Tường Tam, từ
chối không hướng dẫn phái đoàn Việt Nam đi dự hội
nghị tại Pháp, bỏ sang Vân Nam vào cuối tháng 5; Vũ Hồng
Khanh rút về Việt Trì vào thượng tuần tháng 6 rồi sau
cũng chạy sang Trung Hoa. Trong hoàn cảnh ấy, Trung Ương
Đảng Bộ Quốc Dân Đảng được tổ chức lại vào đầu
tháng 7, gồm một quyền Tổng Thư Ký và 11 Ủy Viên với
Nguyễn Tiến Hỷ quyền Tổng Thư Ký và Hoàng Đạo, một
trong những Ủy Viên.
Cuối cùng, cuối năm
1946, Hoàng Đạo cũng chạy sang Côn Minh để tiếp tục
hoạt động. Năm 1948, bà Hoàng Đạo từ Hà Nội sang thăm
chồng. Cụ Trương Bảo Sơn kể lại chính cụ đã sắp
xếp giúp ông bà Hoàng Đạo ở Hương Cảng. Sau khi bà về
nước, Hoàng Đạo đến ở với gia đình cụ, chờ xe lửa
về Quảng Châu. Ngày hôm sau, trên đường về, trên
chuyến xe lửa Hương Cảng – Quảng Châu, Hoàng Đạo
chết bất ngờ vì bệnh đứt mạch máu khi đến trấn
Thạch Long và đã được thân nhân chôn ở trấn này. Ông
mất khi mới 43 tuổi.
Không thành công
thì thành nhân
Với câu nói lịch sử
ấy của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học, Việt Nam lao
mình vào cuộc khởi nghĩa đẫm máu vào đầu năm 1930.
Không thành công, kết quả là những cuộc khủng bố dai
dẳng mãi cho đến ngày Tây thua trận và Việt Nam độc
lập. Nhìn lại, câu nói không thể chấp nhận được như
một quốc sách, đó là một tiếng kêu tuyệt vọng. Thật
vậy, như một đảng chính trị trong một nước bị trị
đang trong một cuộc tranh đấu sống còn, cơ cấu tổ
chức của Việt Nam Quốc Dân Đảng có nhiều thiếu sót
trầm trọng, an ninh nội bộ của đảng thủng dột lỗ
chỗ như một cái sàng. Mật thám Tây xâm nhập, hình như
biết khá rõ chương trình hành động của đảng, thỉnh
thoảng lại kéo một mẻ lưới, mỗi lần bắt được
vài chục đảng viên. Đảng quyết định tiến hành cuộc
Tổng Khởi Nghĩa bởi vì, nếu không, chẳng mấy chốc
đảng viên sẽ bị bắt hết.
Cũng dễ hiểu thôi.
Nếu Việt Nam có một Nguyễn Thái Học thì cũng có không
thiếu gì những BS Lê Quang Trinh, những nhà trí thức thứ
này ngay cả ngày nay cũng hãy còn hiện hữu, vất vưởng
quanh đây. Ông bác sĩ, hội viên Hội Đồng Chính Phủ,
đã viết trong báo Le Progrès Annamite ra ngày 20 tháng 7 năm
1929 như sau (dịch theo Hoàng Văn Đào – VNQDĐ):
“Thí dụ có một
ngày nước Pháp lấy làm chán những sự oán vọng luôn
luôn của mấy tờ báo tự nhận là theo chủ nghĩa quốc
gia, mà bỏ chúng ta không bảo hộ cho nữa! Thì sẽ trở
ra làm sao?”
Ông đưa ra bốn hiểm
họa lớn: thứ nhất là Nhật, thứ hai là Tàu. Nhưng hiểm
họa lớn thứ ba mới thực là độc đáo hơn hẳn:
“3. Nước Xiêm định
ý không kém rõ ràng, cũng có thể đem ngay 600 000 quân và
một đội phi cơ để tàn phá nước ta. Chúng ta nghĩ tới
việc đó không??? (Le Siam, dont les visées ne sont pas moins
manifestes, nous envahirait incontinent avec son armé de 600 000
hommes et avec sa flotte aérienne. Qu’aurions-nous à lui opposer?
Etre dominés par les Siamois? N’y avons-nous jamais songé???)”
Một câu hỏi với ba
dấu hỏi, không kém! Ông bác sĩ quả có tầm mắt nhìn
xa vô địch, trông thấu suốt tương lai. Ông chỉ bị hụt
ở một điểm, ấy là với “600 000 quân và một đội
phi cơ” ở trên đất nước thì đến cả nước Pháp
cũng không bảo hộ ta được, dân Việt phải tự lực
cánh sinh thôi. Etre dominés par les Siamois? “Không,
không bao giờ, không thể để cho bọn Xiêm ngự trị ta
được,” đó phải là ý nghĩa của câu trả lời của
nhà cách mạng họ Nguyễn, qua câu: “không thành công thì
thành nhân.” Nhưng hành động để trả lời câu hỏi
của ông thì lại trái hẳn với ý định của ông bác
sĩ, bất chấp cả cái Hội Đồng Đề Hình khốn kiếp
của Tây, một thứ vòng kim cô đáng ghét đang siết chặt
trên đầu dân Việt. Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái
Học làm bùng cháy ngọn lửa quật cường, yêu nước của
dân tộc. Thất bại của ông là một bài học sáng giá
cho những người đi sau, vạch rõ đâu là những cạm bẫy
phải tránh. Đó là vài lý do tại sao những thành phố
Việt Nam ngày nay còn có nhiều đường phố mang tên
Nguyễn Thái Học.
Việt Nam Quốc Dân
Đảng sau Nguyễn Thái Học không còn oanh liệt như xưa,
có lẽ tại vì các vị lãnh tụ không đủ tầm cỡ. Đọc
lịch sử đảng qua cuốn sách của Hoàng Văn Đào, ngoài
500 trang trong đó gần 200 trang tả lại những đụng độ
võ trang lẻ tẻ trong đó bộ đội VNQDĐ chiến đấu anh
dũng, gần như bao giờ cũng thắng; vậy mà đến cuối
sách thì đảng tự nhiên hầu như biến mất. Đi thêm vào
chi tiết sẽ quá xa phạm vi của bài viết. Ta chỉ cần
nhìn qua Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc một lần cuối
cùng.
Thượng tuần tháng 7
năm 1950, một Đại Hội Đại Biểu Toàn Quốc được
triệu tập ở Hà Nội, có mặt hầu hết các yếu nhân
VNQDĐ: Vũ Hồng Khanh (lúc này từ bên Tàu đã về Hà
Nội), Ngô Thúc Địch… nhưng không có Nhất Linh (ông
không làm chính trị nữa), Hoàng Đạo đã mất được
hai năm. Hội nghị họp trong bốn ngày, mỗi ngày vắng đi
mất một ít đại biểu với Vũ Hồng Khanh vắng mặt
ngay ngày thứ nhì. Hội nghị quyết định giữ tên Việt
Nam Quốc Dân Đảng thay vì đổi tên thành Quốc Dân Đảng
Việt Nam, nhưng đó là một VNQDĐ sứt mẻ, chia bè kéo
cánh. Từ đầu năm 1951, VNQDĐ có hai Ban Chấp Hành Trung
Ương Đảng Bộ đối chọi nhau, một phe là Vũ Hồng
Khanh và phe kia, Ngô Thúc Địch.
Năm sau, Vũ Hồng
Khanh ra làm Bộ Trưởng Bộ Thanh Niên còn Ngô Thúc Địch
thì nhận chức Phó Thủ Tướng trong Chính Phủ Nguyễn
Văn Tâm. Những đồng chí của họ phản đối bị mật
thám Tây săn bắt. Việc tham chính này không phù hợp với
đường lối của đảng, nhất là với một nhân vật như
Vũ Hồng Khanh (mới mấy năm trước hãy còn làm Tổng Tư
Lệnh VNQDĐ, chỉ huy đến 10 000 quân), có thể cho thủ
tiêu không gớm tay một số đảng viên mà ông ta nghi ngờ
(nhầm) có ý định hợp tác với cộng sản (“thủ
tiêu”, chữ dùng của ông Hoàng Văn Đào – VNQDĐ).
Nguyễn Văn Tâm là một ông Tây, cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng, Tây đến độ ông Trần Văn Hữu, một ông Tây
khác, phải nói: “Tâm là nhà ái quốc, một nhà ái quốc
Pháp.” Hơn nữa, Tây 1952 ngoan cố, xảo quyệt không khác
Tây 1946 bao nhiêu; vua Bảo Đại, nay là Quốc Trưởng,
cũng phải than cho độc lập đến năm lần mà vẫn chưa
xong! Vũ Hồng Khanh, Ngô Thúc Địch tất biết rõ những
điều đó. Bị các đồng chí cũ phản đối dữ dội rồi
khai trừ, Ngô Thúc Địch cuối cùng từ chức. Sau mấy
chục năm làm cách mạng, các vị này đã mỏi gối chồn
chân?
Những sự việc trên
tương phản, làm nổi bật nhân cách của mấy anh em họ
Nguyễn Tường. Hoàng Đạo đã mất sớm còn Nhất Linh
giữ vững lòng trung chính cho đến khi ông chết. Giá trị
chính của những hoạt động chính trị của họ là giữ
cho ngọn lửa yêu nước cháy âm ỷ trong người dân Việt.
Thật vậy, đọc qua mấy trang viết về cuộc đời hoạt
động chính trị của Hoàng Đạo, ta thấy ông ở trong Ủy
Ban Trung Ương này, Ban Chấp Hành nọ, toàn là những chức
vụ quan trọng cả, nhưng ta vẫn không biết thêm nhiều
về ông. Thành công của ông trong cuộc đời cách mạng
tương đối giới hạn. Ngày nay, không nhiều người biết
Nguyễn Tường Long nhưng, khá chắc chắn, nhiều người
biết Hoàng Đạo. Để có một cái nhìn toàn diện, công
bình hơn, ta phải đi tìm Hoàng Đạo ở một phương trời
khác, văn hóa hơn; ở phương trời này làm cách mạng
không nhất thiết phải chém giết thủ tiêu người khác
và Nguyễn Tường Long – Tứ Ly – Hoàng Đạo cũng vẫn
là một nhà cách mạng!
Oct 2005
Chú thích:
(1) Chuyện Tăng
Sâm bừa cỏ ruộng dưa, đánh đứt ít rễ bị cha đánh
ngất đi rồi vì chuyện đó mà còn bị Khổng Tử mắng
nữa. Xem Thày Tăng Sâm - Cổ Học Tinh Hoa, quyển 1.
(2) Hội Tây
Cát-tó – quatorze Juillet, ngày kỷ niệm cách mạng Pháp,
người ta hay đi xem có trò “liếm chảo” (mò những
đồng xu vùi trong bột) hay “câu xu” (người ham mồi
nhảy lên đớp, kẻ thả mồi giật lên) hay “leo cột
mỡ”.
(3) Từ đây,
quốc hiệu là Việt Nam thay cho danh từ An-Nam dưới thời
Pháp thuộc. Dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim, quốc
kỳ của Việt Nam là cờ quẻ Ly, nền vàng giữa có ba
vạch ngang màu đỏ mà vạch giữa đứt đoạn – quẻ Ly
trong Kinh Dịch. Quẻ Ly trông giống chữ Vương (王)
nhưng không có nét sổ và ở quẻ Ly, nét sổ lại trống
không. Nhiều nhà nho cho cờ quẻ Ly là điềm xấu, báo
hiệu nền quân chủ sụp đổ. BS Chữ nhận xét một cách
khô khan vua không có xương sống lấy gì để chống
đỡ?
(4) Cách Mạng
tháng Tám, một số tác giả thấy có nhu cầu phải chính
danh, gọi đó là Cướp Chính Quyền. Nếu Việt Nam không
bị dính vào chuyện ngoại lai “cộng sản và thế giới
tự do,” có lẽ chuyện chính danh này không cần thiết
và không xảy ra.
(5) Vì thói
quen và cũng vì không có danh từ khác, hai chữ “quốc
gia” được dùng để chỉ những tổ chức hay chế độ
chủ trương việc bảo vệ chủ quyền của một nước,
đối lại với “cộng sản,” một tập thể vô tính,
khổng lồ duy nhất bao trùm thế giới. Dùng hai chữ quốc
gia theo nghĩa này có điều phiền là hai chữ cộng sản
mất ý nghĩa. Trong thực tế, ta có Cộng Sản Nga, Cộng
Sản Tàu… “quốc gia” hơn bất cứ một nước “quốc
gia” nào trên thế giới, với Stalin là Nga Hoàng, Mao
Trạch Đông là Tần Thủy Hoàng… của thời đại. Mấy
nước cộng sản như Hung, Tiệp giữa thế kỷ thứ 20 chỉ
là những quốc gia “quốc gia” quá yếu mà thôi.
GS Hoàng Xuân Hãn có
gợi ý này ở đâu đó. GS Lê Xuân Khoa, trong cuốn sách
xuất bản mới đây, Việt Nam 1945-1995 (Tập I), cảm thấy
cần phải chính danh hai chữ “quốc gia” và ông đã cho
một định nghĩa.
Tài liệu tham khảo:
- Nhật Thịnh, Chân
Dung Nhất Linh, Đại Nam.
- Nhiều Tác Giả,
Nhất Linh – Người Nghệ Sĩ Người Chiến Sĩ, Thế
Kỷ 2004.
- Tạp chí Phong Hóa
(1932-36), Ngày Nay (1935-1939).
- Phạm Thế Ngũ, Việt
Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Đại Nam.
- Nguyễn Xuân Chữ,
Hồi Ký Nguyễn Xuân Chữ, Văn Hoá 1996.
- Hoàng Văn Đào, Việt
Nam Quốc Dân Đảng, 1970.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2012/12/nguyen-uc-tuong-hoang-ao-va-cach-mang.html?utm_source=BP_recent
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận
xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001