Trần Minh Khôi
I.
Ngay cả những người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam lúc
này cũng phải nhìn nhận rằng đảng của họ đang suy thoái. Sự suy thoái
này đã xãy ra từ lâu. Nhưng, cũng như với các tiến trình suy thoái chính
trị xưa nay trong lịch sử, người ta chỉ nhận ra chúng ở giai đoạn cuối.
Tâm lý phủ nhận suy thoái nằm trong bản năng xã hội của con người, cho
đến khi khối ung thư tràn lan…
Có hai dấu hiệu, và cũng là lý
do, đưa đến suy thoái chính trị trong lịch sử nhân loại, theo Fukuyama,
viết trong cuốn Những Nguồn gốc của Trật tự Chính trị.
Dấu hiệu thứ nhất của suy thoái
là ở sự đổ vỡ của các định chế cũ, biểu hiện qua các quan hệ giữa nhà
nước và xã hội dân sự, và sự thất bại trong việc thiết lập những định
chế mới phù hợp với điều kiện xã hội mới.
Dấu hiệu thứ hai của suy thoái
là ở tiến trình mà Fukuyama gọi là “tái thân tộc hóa”
(repatrimonialization) các vị trí quyền lực trong chính quyền.
Lấy định chế sở hữu đất đai làm
ví dụ. Hàng chục năm nay, số dân oan đi khiếu kiện việc đất đai của họ
bị tước đoạt ngày càng tăng. Trường hợp Đoàn Văn Vươn mới đây chỉ là một
trong chuỗi những sự kiện liên tục của hiện trạng đổ vỡ của các định
chế nhà nước sở hữu đất đai đã trở nên lạc hậu và phản động. Cũng theo
Fukuyama, đằng sau sự tồn tại của một định chế cố hữu nào đó là một nhóm
đặc quyền. Lý do chính mà những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam
vẫn dây dưa trong việc xác định quyền tư hữu đất đai không phải là vì lý
tưởng “chủ nghĩa xã hội” gì đó của họ. Lý do chính, và lý do quyết
định, là nhóm đặc quyền trong Đảng, hoặc cấu kết với Đảng, sẽ không từ
bỏ một công cụ tước đoạt tài sản công dân mà Đảng, thông qua nhà nước,
đã trao cho họ. Khi cần, những người lãnh đạo của Đảng đã không ngần
ngại chia tay với những nguyên tắc nền tảng nhất của chủ nghĩa
Mác-Lênin; đi theo kinh tế thị trường hoặc cấu kết với các thế lực tư
bản nước ngoài để bóc lột công nhân chẳng hạn. Việc Đảng không muốn từ
bỏ “sở hữu toàn dân” về đất đai chắc chắn không phải là vì trung thành
với lý tưởng đã chọn của thế hệ công thần.
Tương tự, những định chế khác
trong các lãnh vực như giáo dục, truyền thông, quản lý kinh tế,… đều đã
phơi bày những dấu hiệu đổ vỡ vì không thể chuyển hóa được do sức ì của
các nhóm đặc quyền.
Thân tộc hóa là một hiện tượng
chính trị có nguồn gốc từ trong bản năng xã hội của con người. Con
người, khi có quyền lực trong tay, có khuynh hướng đưa thân nhân và
những người có quan hệ mật thiết với họ vào nắm các vị trị quan trọng
trong chính quyền. Hiện tượng thân tộc hóa xuất hiện trong tất cả các xã
hội và hệ thống chính trị khác nhau. Nó lập đi lập lại trong lịch sử.
Khi một chính quyền đang lên, nó có khuynh hướng biến mất, thay vào đó
là một hệ thống tuyển chọn nhân sự làm việc trong các cơ chế công quyền
dựa trên những tiêu chuẩn khách quan, như hệ thống tuyển chọn quan lại
mà Tần Thủy Hoàng đã dùng, và được tiếp tục bởi Nhà Tiền Hán, chẳng hạn.
Nhưng cùng với thời gian, và
trong sự thiếu vắng các định chế tiến bộ để tuyển chọn nhân sự của chính
quyền một cách khách quan, hiện tượng thân tộc hóa dần dần phục hồi.
Đây là dấu hiệu của suy thoái. Các thế lực thân tộc này cấu kết thành
một lực lượng đặc quyền phản động, ngăn cản sự chuyển hóa và phát triển
của các định chế xã hội mà họ đang được hưởng lợi, đưa đến suy thoái và
sụp đổ. Sự suy thoái và sụp đổ của nhà Đông Hán, đưa đến loạn Vương
Mãn, của Vương triều Louis XVI, đưa đến Cách mạng Pháp, đều có lý do
này. Sự suy thoái hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng vì lý do
này.
Một người ngày trước không thể
vào đại học vì lý lịch của cha anh thì ngày nay có thể trở thành đảng
viên Đảng Cộng sản. Đây là một ví dụ cho thấy các tiêu chuẩn chính
thống, dựa vào nguồn gốc xuất thân chẳng hạn, có thể coi là một tiêu
chuẩn “khách quan”, đã không còn được ủng hộ nữa. Ngày nay cơ chế tuyển
người vào các vị trí công quyền hoàn toàn dựa trên quan hệ thân tộc và
quan hệ cá nhân. Hiện tượng mua bán chức quyền, từ những vị trí rất cao
trong chính quyền như bộ trưởng, được mặc nhận như một thực tế. Hiện
tượng tái thân tộc hóa xảy ra ở những vị trí quyền lực nhất của nhà nước
Việt Nam.
Các định chế xã hội không chuyển
hóa và phát triển để phù hợp với điều kiện mới được là vì sự khống chế
của các nhóm đặc quyền. Sự hình thành các nhóm đặc quyền là từ trong
tiến trình tái thân tộc hóa cơ chế nhà nước. Do đó, để thoát ra khỏi suy
thoái chính trị, những người có tâm huyết trong Đảng Cộng sản (những
người tâm huyết chứ không phải những người lãnh đạo vì những người lãnh
đạo đã là một bộ phận không tách rời của tiến trình tái thân tộc hóa và
nhóm đặc quyền phản động) cần có bản lĩnh chính trị để giải quyết cùng
một lúc hai vấn đề:
- Chặn đứng tiến trình tái thân tộc hóa các cơ cấu quyền lực của nhà nước.
- Dũng cảm bước ra khỏi sự chi phối của các nhóm đặc quyền để vận động thay đổi các định chế đã trở nên lạc hậu.
Sự suy thoái chính trị của Đảng
và của nhà nước sẽ tiếp tục cho đến khi sụp đổ nếu hai vấn đề này không
được giải quyết thỏa đáng.
Đó là lối thoát duy nhất để Đảng
Cộng sản có thể tiếp tục cầm quyền. Tiếng nổ Đoàn Văn Vươn có thể là
lời cảnh báo cuối cùng về sự đổ vỡ của định chế và về mối nguy từ các
thế lực đặc quyền trong việc ngăn chặn tiến trình chuyển hóa của các
định chế nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội.
Đảng Cộng sản cũng chỉ có một
cửa sổ cơ hội rất hẹp để thực hiện những điều này. Lúc này đây, chỉ còn
một lực lượng rất nhỏ của thế hệ công thần còn sống. Họ là những người
có đủ bản lĩnh chính trị và thẩm quyền đạo đức trong nội bộ Đảng để giúp
Đảng vượt ra khỏi suy thoái. Một khi thế hệ công thần này ra đi thì
Đảng Cộng sản không còn ai có khả năng làm điều này nữa. Các thế hệ sau
của Đảng, thế hệ con cha cháu ông, sản phẩm của tiến trình tái thân tộc
hóa, không có sự chính đáng và thẩm quyền đạo đức để thực hiện một cuộc
chuyển hóa chính trị để cứu Đảng.
Sự suy thoái, lúc đó, sẽ đưa đến sụp đổ. Hoàn tất một cuộc cách mạng khứ hồi.
II. Lại nói về hiện tượng thân
tộc hóa cơ cấu quyền lực nhà nước, dẫn đến sự bế tắc của các định chế xã
hội trong việc giải quyết các vấn đề công lý, đưa Đảng đến bên bờ vực
của sự sụp đổ.
Đối với những người thuộc thế hệ
công thần, thế hệ đã tạo dựng nên Đảng Cộng sản Việt Nam, thì Đảng ngày
nay đã là một đứa con hư. Họ biết rất rõ những bê bối của nó những họ
vẫn bảo vệ nó như con đẻ của họ. Nhiều người đã lên tiếng báo động về sự
hư đốn của Đảng nhưng trong thâm tâm họ vẫn nghĩ rằng đảng của họ vẫn
có khả năng thay đổi để vượt qua sự suy thoái hiện nay. Dù sao đi nữa
thì đảng của họ cũng đã thay đổi nhiều lần để vượt ra những thử thách
sống còn như thế; phải tuyên bố giải tán đảng để trở thành một tổ chức
nghiên cứu chủ nghĩa Marx ngay trước kháng chiến chống Pháp hay từ bỏ
niềm tin căn bản của chủ nghĩa Mác để đi theo kinh tế thị trường hồi
những năm ’80 chẳng hạn.
Và đây chính là bi kịch lớn nhất
của họ, bi kịch của một người làm mẹ khi sắp qua đời biết mình đã để
lại những đứa con hư. Đảng Cộng sản, với những người lãnh đạo nó hiện
nay, không còn khả năng thay đổi nữa. Các thế lực đặc quyền, không tồn
tại ở những thời điểm Đảng thay đổi trước đây, sẽ làm tất cả những gì
trong phạm vi quyền lực không giới hạn của họ, kể cả giết người và bỏ
tù, để chống lại thay đổi và bảo vệ những định chế mà họ đang được hưởng
lợi. Năm 1986, khi Đảng quyết định chia tay với kinh tế tập trung xã
hội chủ nghĩa đang tàn phá đất nước để chuyển sang kinh tế thị trường
thì trong Đảng không có một lực lượng đặc quyền nào đang hưởng lợi vì
các định chế của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa đó cả. Ngày nay nếu Đảng
muốn chia tay với “sơ hữu toàn dân” về đất đai để thiết lập quyền tư
hữu, và qua đó thiết lập công lý, thì Đảng phải đối diện mới những thế
lực đặc quyền còn mạnh hơn chính bản thân Đảng. Nếu Đảng muốn trở về lại
với vai trò lãnh đạo và bảo vệ giai cấp công nhân, một lực lượng đông
đảo đang bán sức lao động rẻ mạt cho tư bản nước ngoài ở các khu công
nghiệp, thì Đảng phải đối diện với những thế lực âm binh hùng mạnh đang
hưởng lợi từ các thương vụ buôn bán này. Cái logic làm sụp đổ các vương
triều trong lịch sử, và gần đây hơn là các quốc gia cộng sản và độc tài
các loại, có khả năng làm sụp đổ Đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam.
Hiện tượng thân tộc hóa ngày
càng làm trầm trọng thêm sự bất công đã tồn tại trong bản chất của nhà
nước Việt Nam. Công lý, ở tầm mức nền tảng nhất trên phương diện chính
trị, là sự công bằng về cơ hội thăng tiến trong các cơ cấu quyền lực nhà
nước. Hai đứa trẻ được sinh ra một thời điểm, bất kể hoàn cảnh thân
tộc, môi trường sống, vùng miền, tôn giáo, sắc tộc, điều kiện kinh tế
như thế nào, phải có những cơ hội được thăng tiến ngang nhau trong các
cơ cấu công quyền, ít nhất là trên phương diện lý luận. Đây là tiêu
chuẩn đầu tiên của công lý cho một nhà nước. Nhà nước cộng sản, dựa trên
sự phân chia và duy trì ranh giới giai cấp cố hữu, tự trong bản chất đã
là bất công. Một nhà nước theo mô hình cộng sản, do đó, là một nhà nước
thất bại ngay từ đầu vì nó đã thất bại trong trách nhiệm đầu tiên của
nó là thiết lập và bảo vệ công lý. Hệ thống thi hương thi hội, hình thức
thực thi loại công lý này ở mức sơ đẳng nhất, trong việc chọn người vào
các cơ cấu công quyền của các triều đại phong kiến cũng không tồn tại ở
nhà nước hiện nay.
Cái hệ thống lý luận theo kiểu
“mục đích biện minh cho phương tiện” cho một “nhà nước xã hội chủ nghĩa”
công bằng không tưởng nào đó, từ trước đến nay, trang bị cho Đảng một
công cụ tín lý để áp dụng bạo lực và duy trì sự bất công này. Trong sự
khiếp sợ quyền lực nhà nước truyền thống của một xã hội thần dân, các lý
luận đó, cùng sự hỗ tương của bạo lực, đã tìm thấy sự chính đáng của
chúng. Công lý chính trị vẫn tồn tại trong nội bộ của một đảng, ít nhất
là trong cảm nhận của xã hội. Nhưng ngày nay điều này cũng đã bị các thế
lực đặc quyền phản bội. Hiện tượng thân tộc hóa đem sự bất công này vào
ngay chính trong nội bộ của Đảng, thậm chí vào trong nội bộ của các cơ
cấu lãnh đạo cao cấp của Đảng. Cơ hội thăng tiến của đảng viên hoàn toàn
phụ thuộc vào quan hệ thân tộc của họ. Hai đảng viên, cùng năng lực,
không có cơ hội thăng tiến ngang nhau trong Đảng. Một đảng chính trị có
thể tồn tại và cai trị trong sự bất công đối với xã hội, trong chừng mực
mà xã hội có thể dung thứ sự bất công đó, đặc biệt là những xã hội mà ở
đó công dân chưa coi trọng các quyền tự do chính trị của họ, nhưng nó
không thể tồn tại trong sự bất công đối với chính nó: nó đã đánh mất sự
chính đáng đạo đức ở đảng viên để giữ cho nó tồn tại. Đây là đe dọa lớn
nhất của Đảng.
Và nó cũng là đe dọa lớn nhất
cho xã hội. Sự sụp đổ của một đảng cầm quyền, và cái nhà nước nó thiết
lập để cai trị, ngoài việc làm thỏa mản những uất ức do sự bất công kéo
dài quá lâu, hoặc có thể đem lại lợi ích cho một vài nhóm nào đó (và các
nhóm này ngay lập tức trở thành các nhóm đặc quyền), không phục vụ
quyền lợi lâu dài của một quốc gia. Hiện tượng thân tộc hóa nhà nước đưa
tình trạng bất công lên một tầm mức mà bất cứ xúc tác nào, ngay cả
những sự kiện không ăn nhập gì, cũng có có thể gây nên bất ổn chính trị.
Một khi điều đó xảy ra thì bạo lực và cách mạng là điều không thể tránh
khỏi. Cách mạng xưa nay trong lịch sử luôn phản bội. Các định chế, thay
vì chuyển hóa, bị đập bỏ và được thiết lập lại. Một tầng lớp đặc quyền
mới sẽ thay thế.
Những dân tộc khôn ngoan không
làm cách mạng, mà tìm cách để chuyển hóa các định chế nhà nước và xã
hội, do đó, tránh được những đổ vỡ máu me, tiết kiệm được nhân lực và
tài nguyên để phát triển. Vấn đề trở nên: liệu có thể hóa giải các thế
lực đặc quyền trong Đảng hiện nay để chuyển hóa các định chế theo hướng
phù hợp với các điều kiện xã hội đang đòi hỏi hay không? Nói cách khác,
có thể tránh đổ vỡ không? Không ai biết chắc câu trả lời cho câu hỏi
này. Sự sụp đổ của khối cộng sản, và gần đây hơn, sự ra đi của các chính
thể độc tài ở Bắc Phi, làm ngạc nhiên ngay cả những bộ não uyên bác
nhất của khoa học chính trị thế giới.
Có thể đã quá trễ để cứu Đảng.
Có thể các thế lực thân tộc đặc quyền trong Đảng đã làm Đảng thối rữa
quá mức có thể cứu vãn được. Có thể Đảng sẽ ra đi trong sự sụp đổ như
các vương triều trong lịch sử đã ra đi trong sự sụp đổ. Trần Nghệ Tông,
những ngày cuối cùng của Nhà Trần, đã mặc nhận sự suy thoái và băng hoại
không thể cứu vãn nổi của vương tộc và không muốn làm gì thêm nữa,
ngoài chuyện đi tu. Hiện nay cũng đã có không ít đảng viên thuộc thế hệ
công thần, tính luôn thế hệ “Trường Sơn”, đã mặc nhận và đi tu như thế.
Và đó là điều rất đáng tiếc. Sự chính đáng đạo đức luôn bao gồm thái độ
dũng cảm nhìn nhận, chịu trách nhiệm, và nếu cần thì từ bỏ, những đứa
con hư đốn của mình. Có thể Đảng là không cứu được nữa nhưng đất nước
thì phải cứu.
Sự lựa chọn một ý thức hệ, một
phe nhóm, một chiến tuyến, ở một thời điểm nào đó, có thể đúng có thể
sai. Lịch sử không phán xét điều đó. Nhưng lịch sử sẽ không tha thứ cho
bất cứ ai ngồi nhìn quốc gia băng hoại vì một nhóm sa đọa, do chính mình
tạo dựng nên, mà không làm gì. Nếu sự sụp đổ của Đảng là không tránh
khỏi thì phải chấp nhận sụp đổ. Nhưng cho đến khi đó, những người có ý
thức trách nhiệm đối với quốc gia trong Đảng phải làm tất cả những gì có
thể làm được để tránh cho Đảng Cộng sản sụp đổ.
Và bằng cách đó, họ giúp tránh
cho sự sụp đổ của nhà nước, và tránh được bạo lực của một cuộc cách mạng
không cần thiết cho quốc gia.
Quê Choa
nguôn:http://phongchongthamnhungvietnam2012.blogspot.com/2013/01/su-suy-thoai-chinh-tri-va-loi-thoat-cua.html
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001