Chế độ nghị viện
Phan Thành Đạt
(Kỳ 1)
Chế độ nghị viện, chế độ tổng thống, lựa chọn nào thích hợp cho Việt Nam?
Tam quyền phân lập là điều kiện đầu tiên của một Nhà nước tự do
(Điều 19 Hiến pháp Pháp, ngày 04 tháng 11 năm 1848)
(Kỳ 1)
Chế độ nghị viện, chế độ tổng thống, lựa chọn nào thích hợp cho Việt Nam?
Tam quyền phân lập là điều kiện đầu tiên của một Nhà nước tự do
(Điều 19 Hiến pháp Pháp, ngày 04 tháng 11 năm 1848)
Trên
thế giới hiện nay có ba thể chế chính trị phổ biến, chế độ nghị viện ở
Châu Âu, chế độ tổng thống ở Châu Mỹ và chế độ độc đoán ở các nước thiếu
dân chủ. Chế độ nghị viện và chế độ tổng thống được xây dựng dựa trên
nguyên tắc tam quyền phân lập, đa đảng, có nền tư pháp độc lập và tôn
trọng quyền con người. Chế độ độc đoán hay độc tài hoạt động theo nguyên
tắc quyền lực tập trung trong tay một người duy nhất hay một nhóm
người. Chế độ chính trị thiếu dân chủ không chấp nhận tam quyền phân
lập, các quyền cơ bản của con người có thể bị vi phạm trong bất cứ hoàn
cảnh nào, nếu nhà lãnh đạo nhận thấy các quyền đó ảnh hưởng trực tiếp
đến an ninh trật tự do mình thiết lập ra, hoặc có hại đến sự sống còn
của hệ thống chính trị. Các nước theo học thuyết Mác-Lênin và các nước
chọn đạo Hồi là giáo lí chính thống đều phủ nhận thể chế chính trị
phương Tây.
Thể chế chính
trị phương Tây được phổ biện rộng rãi ở nhiều nước vì đảm bảo được các
quyền cơ bản của con người và là động lực phát triển kinh tế xã hội. Dân
chủ đã trở thành khát vọng của các dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay. Thể chế chính trị phương Tây được nhiều nước ở Châu Phi, Châu
Mỹ la tinh...áp dụng.
Chế độ nghị viện là hệ
thống chính trị thuần túy của Tây Âu, nguyên tắc tam quyền phân lập
tương đối được thể hiện bằng hai phương tiện chính trị hiệu quả: quyền
bỏ phiếu bất tín nhiệm và quyền giải tán Quốc hội. Chế độ nghị viện được
chia thành hai kiểu, chế độ nghị viện chịu trách nhiệm đơn (moniste) và
chế độ nghị viện chịu trách nhiệm kép (dualiste). Trong chế độ nghị
viện có trách nhiệm đơn, Chính phủ chỉ chịu trách nhiệm trước Nghị viện,
trong chế độ nghị viện trách nhiệm kép, Chính phủ chịu trách nhiệm đồng
thời trước Nghị viện và Tổng thống.
Trong chế
độ tổng thống (tiêu biểu là mô hình chính trị của nước Mỹ), hai phương
tiện gây áp lực chính trị là bỏ phiếu bất tín nhiệm và giải tán Quốc hội
không tồn tại. Vì thế, chế độ tổng thống ở Mỹ được xếp loại là thể chế
chính trị theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để. Chế độ chính trị
Mỹ được Hiến pháp 1787 quy định cụ thể. Các nhà lập hiến Mỹ tham khảo mô
hình chính trị ở Anh, họ theo quan điểm của Montesquieu về tổ chức
quyền lực để đảm bảo tính độc lập tương đối giữa các cơ quan (chương 7, Hiến pháp Anh, Tinh thần luật, 1748).
Chế
độ nghị viện phổ biến tại nhiều nước Châu Âu. Đặc điểm chung của mô
hình này như sau: Tổng thống được Hiến pháp trao cho các quyền mang tính
tượng trưng, trong khi đó, Thủ tướng nắm giữ quyền hành pháp thực sự.
Thủ tướng là lãnh tụ của các đảng phái chiếm đa số ghế tại Nghị viện và
nhận được sự ủng hộ của Nghị viện, để thực thi các chính sách của Chính
phủ. Chế độ nghị viện đảm bảo khá tốt các nguyên tắc dân chủ, tuy nhiên
chế độ này cũng bộc lộ một số nhược điểm. Để hình thành được một tập hợp
đa số tại Nghị viện, các đảng phái buộc phải liên minh, khi đó nhiều
bất đồng về quan điểm chính trị dễ xảy ra, liên minh trở nên mong manh
và có thể tan vỡ. Điều này dễ nhận thấy ở các nước dân chủ mới tại Đông
Âu. Ở các nước như Anh, Pháp, Đức hạn chế này đã khắc phục được.
So
với chế độ nghị viện, chế độ tổng thống đảm bảo ổn định chính trị tốt
hơn. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý, nước Mỹ là nước duy nhất trên thế
giới theo chế độ tổng thống đúng nghĩa. Các nước Châu Phi và Nam Mỹ theo
mô hình tổng thống, nhưng thể chế này bị áp dụng sai lệch và chuyển hóa
thành chế độ độc đoán, ví dụ Vénézuéla với Hugo Chavez, Bolivia với Evo
Morales, Zimbabwe với Robert Mugabe...
Liệu các
thể chế dân chủ tiêu biểu này có thể trở thành mô hình chính trị cho
Việt Nam trong tương lai? Việt Nam là đất nước có nền văn hiến lâu đời.
Các di sản văn hóa cùng với truyền thống tốt đẹp được tổ tiên gìn giữ
trong mấy nghìn năm lịch sử sẽ là điểm tựa để tiếp thu và chọn lọc những
tiến bộ của thế giới. Liệu các giá trị dân chủ phương Tây có thể kết
hợp được với những giá trị dân chủ truyền thống của Việt Nam được lưu
giữ ở các làng quê Việt Nam qua nhiều thế hệ? Chính tâm hồn và trí tuệ
Việt Nam phản ánh các giá trị dân chủ của người Việt Nam. Áp dụng thể
chế chính trị của phương Tây sẽ góp phần làm tỏa sáng hơn nền văn hóa
Việt Nam, sẽ tạo đà cho Việt Nam phát triển hay sẽ khiến Việt Nam rơi
vào hỗn loạn như cảnh báo của một số bài viết trên các trang báo của Nhà
nước?
Để trả lời được các câu hỏi trên, chúng
ta sẽ phân tích những điểm khác biệt giữa thể chế nghị viện và thể chế
tổng thống (I) đồng thời tìm ra những điểm chung của hai chế độ này
(II). Dựa trên những phân tích đó, chúng ta sẽ có một quyết định đúng
đắn để chọn lựa một thể chế chính trị thích hợp cho đất nước (III), nhằm
đảm bảo tự do, hạnh phúc, thực sự cho các thế hệ mai sau.
I. Đặc điểm khác biệt giữa chế độ nghị viện và chế độ tổng thống
Chế
độ nghị viện hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập tương đối
(A), trong thể chế này, các cơ quan quyền lực luôn cộng tác với nhau.
Chế độ tổng thống vận hành theo nguyên tắc tam quyền phân lập triệt để
(B). Tuy nhiên, các cơ quan vẫn liên hệ với nhau trong những giới hạn
nhất định để đảm bảo cân bằng quyền lực.
A. Tam quyền phân lập tương đối, đặc điểm cơ bản của chế độ nghị viện
Tam
quyền phân lập trong chế độ tổng thống hay chế độ nghị viện luôn gắn
liền với cân bằng quyền lực, có sự hợp tác hài hòa giữa các cơ quan
quyền lực. Mỗi cơ quan có thẩm quyền riêng, cơ quan hành pháp không thể
lấn quyền của cơ quan lập pháp và ngược lại. Tuy nhiên, điều này không
có nghĩa là không có mối liên hệ nào giữa các cơ quan, bởi vì các chức
năng quan trọng của Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp, lập pháp và tư
pháp sẽ không thực hiện được, nếu thiếu sụ hợp tác hiệu quả trong một
giới hạn nhất định.
Khi một cơ quan lạm quyền
bằng cách lấn át thẩm quyền của cơ quan khác, điều này sẽ gây ra bất ổn
chính trị và đe dọa nền dân chủ. Chế độ chính trị có thể bị sụp đổ, nhà
lãnh đạo chỉ có thể duy trì quyền lực dựa trên sự dối trá và sợ hãi. Cần
có các phương tiện hữu hiệu để cân bằng quyền lực, "Để con người không
thể lạm dụng quyền lực, bằng các biện pháp sẵn có, quyền lực cần ngăn
chặn quyền lực" (Montesquieu), vũ khí để ngăn ngừa việc lợi dụng và thao
túng quyền lực luôn tồn tại trong chế độ nghị viện.
Hai
phương tiện gây sức ép hiệu quả trong chế độ nghị viện là bỏ phiếu bất
tín nhiệm và giải tán Quốc hội. Hai vũ khí này cần được sử dụng trong
hoàn cảnh thực sự cần thiết, và luôn cùng tồn tại để phủ định lẫn nhau.
Nếu thiếu một trong hai phương tiện này, sẽ dẫn đến bất ổn chính trị.
Nếu quyền giải tán Quốc hội không tồn tại, chế độ nghị viện sẽ có quyền
lực tuyệt đối, ví dụ nền cộng hòa đệ tam và đệ tứ ở Pháp từ 1875 đến
1940. Nghị viện trong giai đoạn này có thể thông qua tất cả các đạo luật
mà không vấp phải bất kì sự phản đối nào, Nghị viện có thể lật đổ Chính
phủ vào mọi thời điểm. Nếu quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm không có tính
thực tế, cơ quan hành pháp sẽ có nhiều quyền quan trọng, và chế độ chính
trị có nguy cơ chuyển thành chế độ tổng thống có quyền lực tuyệt đối.
Ví dụ hoàn cảnh chính trị ở hầu hết các nước Châu Phi, sau khi giành độc
lập vào những năm 60, thế kỉ XX. Những nước này có Hiến pháp dân chủ,
thiết lập chế độ nghị viện theo mô hình của Anh và Pháp, nhưng do các
điều kiện kinh tế, xã hội chưa đáp ứng được với mô hình dân chủ, thể chế
chính trị ở các nước này chuyển hóa thành chế độ độc tài, quyền lực nằm
trong tay Tổng thống mà không hề có cơ chế giám sát và ngăn ngừa lạm
quyền.
Trong thể chế nghị viện, các thành viên
Chính phủ và các nghị sĩ có sáng kiến đưa ra các dự luật. Nghị viện sẽ
thảo luận các dự luật, đồng thời sửa đổi và bổ sung thêm các văn bản đó
(ở các nước Bắc Âu, Nghị viện chỉ gồm một viện duy nhất, Nghị viện gồm
hai viện ở các nước liên bang và các nước lớn). Tại Pháp 90 % các đạo
luật được ban ra theo sáng kiến của Chính phủ. Cơ quan hành pháp và lập
pháp hợp tác chặt chẽ trong quá trình làm luật. Tuy nhiên quyết định
cuối cùng để đạo luật được thông qua vẫn thuộc về Nghị viện.
Chính
phủ trong trường hợp khẩn cấp, có thể yêu cầu Nghị viện đồng ý cho phép
một nghị định có giá trị ngang với một đạo luật được phép lưu hành
trong một thời gian ngắn (điều 38, Hiến pháp Pháp năm 1958), nghị định
khi đó có giá trị như một đạo luật tạm thời, với sự chấp thuận của Nghị
viện. Nghị định sẽ hết giá trị, ngay khi một đạo luật có cùng nội dung
được thông qua. Giải pháp này sẽ giúp Chính phủ thực hiện nhanh hơn các
chính sách của mình, vì nếu chờ đợi một đạo luật, để cho phép Chính phủ
thực hiện các chính sách, sẽ mất rất nhiều thời gian. Mối liên hệ giữa
cơ quan hành pháp và lập pháp đảm bảo cho các thể chế vận hành hiệu quả
hơn.
Hợp tác giữa các cơ quan công quyền còn
được thể hiện qua thủ tục xét xử Tổng thống và các thành viên Chính phủ:
Nghị viện chuyển thành Tòa án tối cao đặc biệt để luận tội Tổng thống.
Nếu các bộ trưởng thiếu trách nhiệm vi phạm luật pháp, các nghị sĩ và
thẩm phán của Tòa án tối cao sẽ tiến hành xét xử (các điều 68, 68-1,
68-2, Hiến pháp Pháp năm 1958). Nghị viện trong tình huống đặc biệt này
kiêm thêm vai trò tư pháp, nhằm xét xử các viên chức cao cấp trong bộ
máy nhà nước. Thủ tục xét xử các nhà lãnh đạo (l’impeachment) cũng được
thiết lập trong chế độ tổng thống (Điều 1, khoản 6, Hiến pháp Mỹ năm
1787).
Tam quyền phân lập tuyệt đối sẽ dẫn đến
tình trạng bế tắc, khiến các cơ quan nhà nước không vận hành được. Nếu
tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến sụp đổ cả hệ thống chính trị. Ví dụ,
Hiến pháp Pháp năm 1791 thiết lập nguyên tắc tam quyền phân lập tuyệt
đối, Quốc hội và cơ quan hành pháp đứng đầu là vua Louis XVI đều phủ
định vai trò của nhau, xung đột chính trị đã diễn ra vì bất đồng quan
điểm giữa nhà vua và các đại biểu của nhân dân.
Tam
quyền phân lập triệt để trong mô hình chính trị của nước Mỹ có nhiều ưu
điểm. Nếu không có các phương tiện gây sức ép chính trị, chế độ tổng
thống có các giải pháp khác, để các cơ quan quyền lực gây ảnh hưởng lẫn
nhau.
B. Tam quyền phân lập triệt để, đặc điểm cơ bản của chế độ tổng thống
Nguyên
tắc tam quyền phân lập là đặc điểm nổi bật trong thể chế dân chủ, tuy
nhiên, nguyên tắc này thực sự luôn được tôn trọng trong thực tế, hay chỉ
tồn tại trên lí thuyết khi mà quyền lập pháp vẫn luôn lấn át quyền hành
pháp và ngược lại? Montesquieu, nhà tư tưởng thời kì Ánh sáng, luôn lo
lắng về thói đam mê quyền lực của con người và xu hướng lạm quyền của
các nhà lãnh đạo. Ông cho rằng cần có cơ chế kiểm soát để đảm bảo cân
bằng quyền lực (le checks and balances), nếu không, các quyền tự do của
con người sẽ bị chà đạp. Luật pháp phải xuất phát từ bản chất của sự
vật, luật pháp cần tạo ra những giới hạn mà con người không thể vi phạm.
Montesquieu quan sát thể chế chính trị ở Anh, dựa theo đó, ông xây dựng
nguyên tắc tam quyền phân lập. Thể chế chính trị nước Anh hướng đến sự
ổn định, Vua và Nghị viện hợp tác với nhau trong công tác lập pháp.
Tam
quyền phân lập triệt để trong thể chế tổng thống vẫn gây nhiều tranh
cãi. Dù Nghị viện không thể lật đổ Chính phủ và Tổng thống không có
quyền giải tán một trong hai viện (đây là đặc điểm khác biệt nhất giữa
thể chế ở Châu Âu và Mỹ), nhưng vẫn có các thiết chế gây sức ép giữa cơ
quan hành pháp và lập pháp.
Tổng thống có quyền
phủ quyết các dự thảo luật ở Thượng viện và Hạ viện. Nhưng Tổng thống
không có quyền đưa ra sáng kiến để xây dựng các dự luật. Nhiệm vụ này
thuộc về Nghị viện, tuy nhiên, Tổng thống vẫn có thể tác động đến quá
trình hình thành các dự luật, bằng cách đề nghị các nghị sĩ thuộc đảng
mình đưa ra các ý tưởng để xây dựng các đạo luật phù hợp với các chính
sách đang thực thi.
Tổng thống là người trực
tiếp ban hành các chỉ thị và nghị định quan trọng. Mỗi năm, Tổng thống
ban hành khoảng 50.000 nghị định và chỉ thị ở Mỹ. Tổng thống có quyền bổ
nhiệm các viên chức cao cấp trong bộ máy hành chính; bổ nhiệm các quốc
vụ khanh, các đại sứ, thẩm phán ở Tòa án tối cao… Tổng thống có thể đem
quân ra nước ngoài trong một thời hạn nhất định trước khi có ý kiến của
Thượng viện và Hạ viện. Sau sự kiện khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001,
Nghị viện thông qua một đạo luật cho phép Tổng thống áp dụng các biện
pháp cần thiết để ngăn chặn các hoạt động khủng bố, kể các việc áp dụng
các biện pháp có thể vi phạm đến quyền công dân, nếu điều đó là cần
thiết. Dù Tổng thống được luật pháp ban cho nhiều quyền, nhưng khi có
bất đồng chính trị giữa người đứng đầu cơ quan hành pháp với cơ quan lập
pháp, Nghị viện vẫn lấn át Tổng thống. Các chính sách của Tổng thống dễ
rơi vào bế tắc và không thực hiện được, vì một số nghị sĩ có quan điểm
đối lập, đặc biệt là các nghị sĩ bảo thủ tại Thượng viện.
Tổng
thống Wilson là người đưa ra ý tưởng thành lập Hội Quốc Liên, tổ chức
quốc tế tiền thân của Liên Hiệp Quốc, Thượng viện không chấp nhận kế
hoạch này, vì các thượng nghị sĩ vẫn trung thành với chính sách biệt lập
có từ thời Tổng thống Washington và Monroe. Kết quả là, nước Mỹ đưa ra ý
định xây dựng một tổ chức quốc tế vì hòa bình, sau đó lại quyết định
rút lui vì một thiểu số theo quan điểm bảo thủ ở Thượng viện. Năm 2000,
Thượng viện Mỹ không chấp nhận việc phê chuẩn hiệp ước quốc tế cấm phổ
biến vũ khí hạt nhân, kết quả là Tổng thống Georges W Bush đã từ chối ký
hiệp ước này. Tổng thống Barack Obama mong muốn siết chặt quyền sử dụng
súng, được điều sửa đổi thứ hai trong Hiến pháp Mỹ công nhận, nhưng dự
luật bị cả Thượng viện và Hạ viện bác bỏ. Bằng các chính sách phong tỏa
tại Nghị viện, Tổng thống Mỹ trở thành con lừa vô dụng. Cân bằng quyền
lực nhằm ngăn chặn lạm quyền, lại dẫn đến bế tắc trong những hoàn cảnh
đặc biệt.
Thượng viện có quyền phản đối việc bổ
nhiệm các viên chức cao cấp, nếu Thượng viện không chấp thuận, Tổng
thống buộc phải nhượng bộ vì không muốn có xung đột bất lợi với cơ quan
này. Thông thường, Thượng viện nhân nhượng và phê chuẩn lựa chọn của
Tổng thống. Nghị viện có quyền kết tội Tổng thống và các nhân vật cao
cấp trong bộ máy hành chính theo thủ tục impeachment. Khi Tổng thống và
các viên chức cao cấp phản bội tổ quốc, tham nhũng, hay lạm dụng quyền
lực... Hạ viện sẽ tiến hành điều tra, Thượng viện sẽ trở thành Tòa án
đặc biệt để kết tội Tổng thống và các quan chức cao cấp. Tổng thống
Nixon vì nghe trộm tin tức, trong vụ Wategate năm 1973, bị báo chí phát
hiện, Hạ viện tiến hành điều tra và Thượng viện chuẩn bị luận tội Tổng
thống. Nhưng vụ việc bị gián đoạn giữa chừng, vì Nixon từ chức trước khi
bị kết tội. Tổng thống Bill Clinton cũng bị xét xử trong vụ Monica
Lewinski, nhưng ông được Thượng viện xử trắng án, vì vụ việc không đủ
nghiêm trọng!
Nghị viện có quyền thông qua ngân
sách. Điều này rất quan trọng, vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến các
chính sách của Tổng thống. Không có sự đồng ý của Nghị viện về các khoản
chi tiêu cho ngoại giao, quốc phòng, an ninh... Tổng thống và toàn bộ
cơ quan hành pháp không thể giải quyết được mọi việc. Cơ quan lập pháp
luôn có ảnh hưởng và gây sức ép với cơ quan hành pháp trong thể chế tổng
thống. Cân bằng quyền lực chỉ có giá trị tương đối. Nhưng điều này
không trái với quan điểm của Montesquieu. Vì khi ông quan sát chế độ
chính trị ở Anh, quyền lập pháp thuộc thẩm quyền của Vua và hai Viện. Ba
đại diện này làm ra luật, Chính phủ là người thi hành luật và tuân theo
pháp luật, cơ quan tư pháp giám sát quá trình thực hiện công việc của
hai bên và thực hiện vai trò xét xử theo luật định. Vì lí do đó, cơ quan
lập pháp luôn ở vị thế quan trọng hơn và là cơ sở cho hai cơ quan khác
tồn tại.
Hệ thống chính trị của Mỹ và Châu Âu
được xây dựng theo khuôn mẫu của nước Anh, vì vậy hai mô hình này có
nhiều điểm chung. Cùng với thời gian, mỗi nước đều cố gắng xây dựng một
chế độ chính trị hoàn hảo, thích hợp với điều kiện kinh tế, chính trị,
văn hóa của mình. Không có một chế độ nghị viện duy nhất tại Châu Âu,
nhưng có nhiều thể loại chế độ nghị viện. Ngược lại, có chế độ tổng
thống tiêu biểu ở Mỹ và các chế độ chính trị theo mô hình nước Mỹ trên
thế giới, nhưng đã có nhiều biến thái.
P.T.Đ.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:56
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/che-o-nghi-vien.html#more
=======================================================================
Chế độ nghị viện
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 21:30
Chế độ nghị viện
Phan Thành Đạt
(Kỳ 2)
II. Đặc điểm chung giữa chế độ nghị viện và chế độ tổng thống
Tất cả sẽ dẫn đến thất bại, nếu một người duy nhất, một nhóm người duy nhất, hay đó là các nhà quý tộc, hoặc quần chúng, cùng nắm trong tay ba quyền cơ bản: Quyền làm ra các đạo luật, quyền thi hành các nghị quyết, quyền xét xử các trọng tội hoặc các xung đột giữa các cá nhân.
(Montesquieu, Tinh thần luật, 1748)
Chế
độ nghị viện sơ khai xuất hiện ở Anh, từ thế kỷ XIII, thể chế này hoàn
thiện vào thế kỷ XVIII, bỏ phiếu bất tín nhiệm đã được tiến hành đối với
Chính phủ của Lord North. Do thất bại quân sự của Anh tại 13 thuộc địa ở
Bắc Mỹ, Nghị viện Anh gây sức ép buộc Chính phủ phải giải tán. Chế độ
chính trị Anh trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà lập hiến Mỹ và Châu
Âu (A). Hai thể chế chính trị được xây dựng và củng cố suốt hơn hai thế
kỷ và trở thành mô hình đảm bảo khá tốt quyền con người và các giá trị
dân chủ trong giai đoạn hiện nay (B).
I. Các nhà lập hiến Mỹ và Châu Âu xây dựng chế độ chính trị theo mô hình của nước Anh
Sau
khi giành độc lập, những người sáng lập ra nước Mỹ học theo cách tổ
chức nhà nước ở Anh, nhưng họ có một số thay đổi cho phù hợp với điều
kiện chính trị và lịch sử của nước Mỹ. Nước Anh theo chế độ quân chủ lập
hiến, vua có quyền tối cao, truyền thống lãnh đạo trong nhà nước quân
chủ được kế thừa từ nhiều đời. Vua vừa có quyền hành pháp vừa có quyền
lập pháp. Nước Mỹ mới được khai sinh, và không biết đến chế độ quân chủ,
các nhà lập hiến đã chọn Tổng thống giữ vai trò điều hành đất nước.
Quyền lập pháp ở Anh thuộc về Hạ viện, nơi tập hợp các đại biểu của nhân
dân ở các thành phố và các khu vực nông thôn. Thượng viện, nơi tập hợp
các nhà quý tộc và các chức sắc tôn giáo. Các nhà lập hiến Mỹ cũng lập
ra hai viện. Thượng viện gồm các đại biểu đến từ các bang, bảo vệ quyền
lợi cho các bang, Hạ viện tập hợp các dân biểu địa phương. Khác với nước
Anh, Nghị viện Mỹ là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Nguyên tắc tam
quyền phân lập triệt để được đề cao, nhằm loại bỏ chồng chéo về quyền lực, vì dễ dẫn đến khủng hoảng chính trị.
Trước
đây, thể chế chính trị ở Anh được tổ chức theo cơ chế hành chính tập
trung, nhưng hiện nay các quyền về chính trị, kinh tế, giáo dục... ở Anh
được chuyển giao cho các vùng miền. Nhưng nước Anh về cơ bản vẫn là Nhà
nước có nền hành chính tập trung và đồng nhất, quyền lực quan trọng vẫn
nằm trong tay các cơ quan đầu não ở trung ương. Nước Anh trao nhiều
quyền cho các địa phương, theo chính sách chuyển giao quyền lực dưới
thời Thủ tướng Tony Blair. Tuy nhiên, Anh không phải là Nhà nước liên
bang.
Các nhà lập hiến Mỹ xây dựng Nhà nước
liên bang, theo hình thức phân quyền theo chiều dọc. Nhà nước liên bang
nắm giữ các quyền quan trọng nhất như quốc phòng, ngoại giao, tài
chính... Các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, y tế, các chính sách phát triển
ở đại phương thuộc về Nhà nước liên bang cấp dưới. Ngoài ra còn có
quyền lực cạnh tranh thuộc về Nhà nước trung ương và các bang, quyền lực
cạnh tranh trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, cơ sở hạ tầng...
Nếu quyền lực cạnh tranh được Nhà nước liên bang đảm nhiệm tốt hơn trong
một lĩnh vực cụ thể, quyền này sẽ thuộc về Nhà nước liên bang và ngược
lại. Nếu Nhà nước liên bang và các bang đều có năng lực để đảm nhận
quyền lực cạnh tranh, ưu tiên luôn thuộc về Nhà nước liên bang.
Luật
cơ bản Đức năm 1949 (Hiến pháp Đức) xây dựng Nhà nước liên bang theo
cách thức tổ chức hành chính của Mỹ. Xây dựng nước Mỹ theo mô hình liên
bang đã đem lại nhiều thành tựu cho đất nước này. Các nhà luật học cho
rằng lựa chọn này khẳng định tài năng vượt bậc của các nhà khai sáng ra
nước Mỹ. Thực tế chứng minh lựa chọn này do hoàn cảnh lịch sử quyết
định, vì nước Mỹ bao gồm 13 thuộc địa mới giành được độc lập, các đại
biểu trong Đại hội Philadelphie đều muốn bảo vệ lợi ích của vùng do mình
làm đại diện. Để bảo vệ quyền lợi của các vùng và quyền lợi chung cho
tất cả, cần xây dựng một kiểu Nhà nước đáp ứng đòi hỏi của đa số đại
biểu. Nhà nước liên bang sơ khai là giải pháp thích hợp nhất. Cùng với
thời gian, lựa chọn ngẫu nhiên này đã góp phần tích cực cho sự nghiệp
xây dựng đất nước và đảm bảo nền dân chủ ở Mỹ. Nước Mỹ khi mới thành lập
chỉ có diện tích bằng 1/10 so với diện tích hiện nay, dân số khoảng 4
triệu người. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XIX, nước Mỹ đã sở hữu thêm những
vùng đất mới bằng chính sách quân sự, hoặc bằng cách mua lại các vùng
đất rộng lớn. Ví dụ, nước Mỹ đã mua lại vùng Louisanne có diện tích hơn 2
triệu km từ tay người Pháp. Napoléon đã bán vùng này cho Mỹ với khoản
tiền 15 triệu đô la để chi phí cho chiến tranh. Thế kỉ XIX cũng là thời
kì di dân từ Châu Âu đến Mỹ, khoảng 50 triệu người đã bỏ các làng quê và
các đô thị nghèo, có những nơi như ở Iceland, toàn bộ dân làng đều di
cư sang Mỹ để tránh nạn đói. Mô hình nhà nước liên bang rất thích hợp
đối với các nước lớn, nơi có nhiều cộng đồng người và có nhiều nền văn
hóa đa dạng cùng chung sống.
Tocqueville, trong tác phẩm nổi tiếng Bàn về nền dân chủ ở Mỹ, Paris, 1838
đưa ra nhận xét: "Nhà nước liên bang là sáng tạo tuyệt vời nhất của nền
dân chủ". Thực ra, vào thời điểm đó, các nhà lập hiến Mỹ cũng không
hiểu rõ về chế độ tổng thống và mô hình nhà nước liên bang, bởi vì tất
cả đều mới và chưa có thời gian trải nghiệm để biết đúng sai, nhiệt tình
và trách nhiệm đã thôi thúc họ tìm ra một thể chế chính trị ổn định hơn
mẫu hình của nước Anh lúc bấy giờ. Họ cố gắng tạo ra một thể chế hợp lí
để đảm bảo hạnh phúc lâu dài cho con người. Chế độ tổng thống và mô
hình nhà nước liên bang sơ khai liệu có đảm bảo thực sự lợi ích cho nước
Mỹ trong tương lai hay không? Bản thân họ cũng không chắc chắn, nhưng
họ tin rằng đó là thể chế ổn định hơn mô hình của nước Anh. Trải qua 226
năm tồn tại và phát triển, chế độ chính trị ở Mỹ trở nên hoàn thiện, và
trở thành mẫu hình của 22 nước trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay nước
Mỹ đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoàng về Hiến pháp và khủng
hoảng về thể chế. Để khắc phục điều này, người Mỹ cần sửa đổi Hiến pháp
và cải cách bầu cử, cải cách hành chính, cần loại bỏ một số điều khoản
được Hiến pháp quy định gây nhiều tranh cãi, như quyền sử dụng súng.
Hiến pháp Mỹ hiện nay đã trở nên cũ kỹ và cần được bổ sung, nhiệm vụ
này, dường như không thực hiện được.
Chế độ
nghị viện du nhập vào Pháp năm 1814, vua Louis XVIII, trong thời gian
sống lưu vong tại đây, đã tìm hiểu về thể chế chính trị ở Anh. Ông nhận
thấy nền chính trị ở Anh hoạt động khá hiệu quả, do luôn có cơ chế tạo
cân bằng quyền lực. Chế độ quân chủ ở Pháp lẽ ra có thể trụ vững sau
cuộc cách mạng năm 1789, nếu như nhà vua chấp nhận chuyển giao quyền lực
cho Quốc hội hay nếu như vua và Quốc hội hợp tác với nhau, hai bên có
thể tránh được xung đột. Điều kì lạ ở chỗ, vua đại diện cho chế độ quân
chủ chuyên chế, lại là người thiết lập thể chế nghị viện, một mô hình
chính trị thể hiện nền dân chủ đại diện và chủ quyền quốc gia. Hiến pháp
năm 1814 công nhận cơ quan lập pháp gồm hai viện, theo mô hình nước
Anh. Thượng viện tập hợp các đại diện là giới quý tộc và các thành viên
trong gia đình hoàng tộc được chính vua bổ nhiệm. Một số người sẽ giữ
vai trò Thượng nghị sĩ đến suốt đời giống như ở Anh. Quốc hội là cơ quan
do nhân dân trực tiếp bầu ra. Một số quyền của nhà vua được trao cho
Nghị viện, các lợi ích của giai cấp quý tộc được đảm bảo.
Sau
Cách mạng 1789, một giai đoạn đầy biến động về các thể chế chính trị
tại Pháp bắt đầu diễn ra: Nền cộng hòa đệ nhất do phái cực tả thiết lập
năm 1793, nền cộng hòa đệ nhị năm 1848, hai lần nước Pháp theo đế chế
thời Napoléon I và Napoléon III. Chế độ quân chủ cũng được thiết lập trở
lại vào các năm 1814 và 1830. Sau thất bại trong trận chiến Sédan trước
quân Đức, đế chế Napoléon III sụp đổ. Nền cộng hòa đệ tạm ra đời, thời
kỳ này ghi dấu những bước tiến quan trọng về dân chủ ở Pháp. Chế độ nghị
viện Pháp trở thành thể chế chính trị duy nhất thời kỳ cộng hòa đệ tam
và đệ tứ. Nền chính trị Pháp trong giai đoạn từ 1873 đến 1958 theo chế
độ nghị viện mất cân bằng (Ngoại trừ giai đoạn 1940 đến 1944, nước Pháp
theo chế độ độc tài, hợp tác với Đức Quốc xã). Quyền bỏ phiếu bất tín
nhiệm thường xuyên được Nghị viện sử dụng để lật đổ Chính phủ, trong khi
đó quyền giải tán Quốc hội, phương tiện tạo thế cân bằng trong chế độ
nghị viện không còn được sử dụng, kể từ tuyên ngôn của Jules Grévy trước
Nghị viện năm 1879 (Hiến pháp Grévy), nội dung chính của bản tuyên ngôn
của người đứng đầu cơ quan hành pháp thể hiện lời hứa phục tùng của cơ
quan hành pháp đối với cơ quan lập pháp: Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng sẽ
luôn tránh xung đột với Nghị viện và sẽ chấp nhận tất cả các yêu cầu của
Nghị viện. Quyền giải tán Quốc hội, vũ khí lợi hại trong tay người đứng
đầu cơ quan hành pháp sẽ không được sử dụng. Ngược lại, quyền bỏ phiếu
bất tín nhiệm nhằm giải tán Chính phủ được Nghị viện sử dụng tối đa. Bất
ổn chính trị diễn ra trong suốt một thời gian dài. Trung bình cứ 10
tháng lại có một Chính phủ bị lật đổ. Dưới nền Cộng hòa đệ tứ, từ 1945
đến 1958, trong giai đoạn 13 năm, đã có 24 Chính phủ phải ra đi.
Để
tránh tình trạng lấn quyền trong chế độ nghị viện có quyền lực tuyệt
đối, Charles de Gaulle lập nên nền cộng hòa đệ ngũ. Hiến pháp 1958 quy
định cụ thể thẩm quyền của cơ quan lập pháp (điều 34) và thẩm quyền của
cơ quan hành pháp (điều 37). Nghị viện không được phép lấn quyền của
Chính phủ và ngược lại. Hội đồng hiến pháp được lập ra với vai trò ban
đầu là giám sát quyền lực được phân chia theo quy định của Hiến pháp.
Hội đồng Hiến pháp sẽ trừng phạt cơ quan vi phạm nguyên tắc phân quyền.
Để củng cố quyền lực cho người đứng đầu cơ quan hành pháp, Tổng thống
Charles de Gaulle còn đi xa hơn, khi ông quyết định tổ chức trưng cầu
dân ý để hợp thức hóa ý tưởng "nhân dân sẽ bầu trực tiếp Tổng thống".
Người dân ủng hộ sáng kiến này, kết quả là Hiến pháp được sửa đổi theo ý
của Charles de Gaulle, chế độ nghị viện truyền thống vì thế cũng chuyển
thành chế độ nửa nghị viện nửa tổng thống (theo cách gọi của nhà luật
học Maurice Duverger). Tổng thống có quyền lực ngang bằng với Nghị viện,
và trở thành trọng tài để giải quyết các tranh chấp chính trị giữa Quốc
hội và Chính phủ, quyền giải tán Quốc hội tồn tại song song với quyền
bỏ phiếu bất tín nhiệm. Cân bằng quyền lực vì vậy lại xuất hiện, ổn định
chính trị được đảm bảo.
Chế độ nghị viện ở Pháp
đã chuyển hóa thành chế độ chính trị đặc biệt. Nếu đa số tại Nghị viện
có quan điểm chính trị đối lập với Tổng thống, khi đó cơ chế hoạt động
của Nhà nước vận hành theo thể chế nghị viện, Tổng thống chỉ có các
quyền tượng trưng được Hiến pháp công nhận, thực quyền nằm trong tay Thủ
tướng được đa số tại Nghị viện ủng hộ. Tổng thống buộc phải chọn thủ
lĩnh của đảng chiếm đa số ghế tại hai viện làm Thủ tướng. Một số bất
đồng về chính trị giữa hai nhân vật quan trọng này có thể xảy ra, nhưng
mỗi người thực hiện bổn phận của mình theo Hiến pháp quy định. Nếu đa số
tại Nghị viện có cùng quan điểm chính trị với Tổng thống, (khi Tổng
thống và các nghị sĩ chiếm đa số đều là thành viên một đảng, hoặc cùng
một liên minh chính trị vững chắc), Nhà nước vận hành theo thể chế tổng
thống. Tổng thống có thể tiến hành các chính sách cải tổ mà không vấp
phải kháng cự nào, vì luôn có đa số tại Nghị viện ủng hộ. Hai phương
tiện gây sức ép là bỏ phiếu bất tín nhiệm và giải tán Quốc hội khi đó
chỉ tồn tại trên lí thuyết và không còn tác dụng trong thực tế. Phe
thiểu số tại Quốc hội bỏ phiếu bất tín nhiệm để bày tỏ quan điểm đối lập
đối với Tổng thống, nhưng biện pháp này không buộc Chính phủ phải giải
tán, vì phe đối lập không tập hợp đủ số phiếu cần thiết. Bỏ phiếu bất
tín nhiệm chỉ là cách thể hiện thái độ không hài lòng của những người có
quan điểm chính trị khác.
Bầu cử lập pháp hiện
nay được tiến hành sau bầu cử Tổng thống, điều này tạo điều kiện cho
việc hình thành đa số tại Nghị viện ủng hộ Tổng thống. Vì một lí do đơn
giản, khi nhân dân chọn Tổng thống từ một đảng phái chính trị, nhân dân
cũng sẽ chọn các Nghị sĩ có cùng đảng phái với Tổng thống, để hình thành
đa số ủng hộ Tổng thống. Sự có mặt của đa số tại Nghị viện cùng một
chính đảng với Tổng thống đảm bảo ổn định chính trị, giúp Tổng thống dễ
dàng thực hiện các chính sách của mình. Nền chính trị tại Pháp hiện nay
vận hành theo mô hình thể chế tổng thống đặc biệt.
Chế độ chính trị ở Mỹ và Châu Âu được xây dựng trên nền tảng dân chủ, hình thành từ thời kì Ánh sáng.
B. Chế độ nghị viện, chế độ tổng thống đảm bảo các nguyên tắc dân chủ có từ thời kì Ánh sáng
Dân
chủ đại diện và dân chủ trực tiếp luôn luôn hiện diện trong Nhà nước
hiện đại. Các đại biểu thực thi quyền lực sau khi được nhân dân bầu ra.
Một định nghĩa nổi tiếng về dân chủ được Abraham Lincoln đưa ra trong
bài diễn văn Gettysburg, tháng 11 năm 1863: "Dân chủ là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân". Giáo sư Jean-Louis Quermone làm rõ nghĩa quan
điểm về dân chủ của Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln khi đưa ra nhận xét:
"Nhà nước của dân, do đa số lãnh đạo, và thực hiện các chính sách theo
tinh thần tôn trọng luật pháp, đảm bảo quyền lợi của thiểu số vì vai trò
đối lập của thiểu số được Nhà nước pháp quyền tôn trọng". Nền dân chủ
gắn liền với đa đảng, tôn trọng phe đối lập, bảo đảm các quyền dân sự và
chính trị của công dân, bầu cử tự do có cạnh tranh.
"Ở
mỗi Nhà nước dân chủ, không ai được phép đứng trên luật pháp, các công
dân đều bình đẳng trước luật pháp. Hòa bình, phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội vừa là điều kiện vừa là kết quả của nền dân chủ. Ở đây có
mối liên hệ mật thiết giữa hòa bình và phát triển, giữa xây dựng Nhà
nước pháp quyền và tôn trọng quyền con người." (Quốc hội Pháp). Dân chủ
phải được đảm bảo bằng một nền tư pháp độc lập với sự góp mặt của Tòa án
Hiến pháp. Nếu tư pháp bị cơ quan hành pháp và lập pháp lấn át, Nhà
nước sẽ có sức mạnh của kẻ áp bức, khi đó quyền con người sẽ bị vi phạm
nặng nề. Tam quyền phân lập vì thế đã trở thành điều kiện tiên quyết để
duy trì nền dân chủ, nếu nguyên tắc này không được tôn trọng, tất cả sẽ
dẫn đến thất bại. Đây chính là điều Montesquieu luôn cảnh báo.
Hiến
pháp của Nhà nước độc đoán ghi nhận quyền con người. Nhưng bản khế ước
tối cao này chỉ có giá trị thông báo vì nền tư pháp không có vị trí độc
lập. Nguyên tắc dân chủ tập trung là rào cản trong việc đảm bảo các
quyền tự do cho con người. Nếu Nhà nước có thể can thiệp vào các vụ án,
thẩm phán không thể có cái nhìn khác quan và xét xử đúng người đúng tội.
Thẩm phán khi đó trở thành công cụ trong tay những người nắm giữ quyền
lực. Họ không phải là cái miệng của luật pháp mà trở thành cái loa của
những người có chức quyền. Liên bang Xô viết và các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu trước đây được gọi là những nền dân chủ nhân dân đã phản
ánh thực tế đó. Các nước này đều có Hiến pháp đề cao quyền con người và
quyền làm chủ của nhân dân trên lí thuyết, nhưng tổ chức quyền lực
chồng chéo và việc áp dụng mô hình dân chủ tập trung đã triệt tiêu xã
hội dân sự. Chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành học thuyết chính trị chi phối
mọi hoạt động của Nhà nước, cuộc sống trở nên ngột ngạt, khiến nhiều
người phải trốn chạy sang các nước Tây Âu, với hi vọng cuộc sống sẽ tốt
hơn.
Các nhà tư tưởng lớn trong thời kì Ánh
sáng, thể kỷ XVII, XVIII đã góp phần hoàn thiện các thể chế dân chủ và
đề cao giá trị quyền con người. Các đại diện tiêu biểu như John Locke,
Jean-Jacques Rousseau, Emmanuel Kant, Voltaire, Montesquieu đã để lại
nhiều dấu ấn quan trọng. Tư tưởng của họ giải phóng con người khỏi các
giáo lí của nhà thờ. Quan điểm về triết học, chính trị, luật pháp của
thời kỳ Ánh sáng được phản ánh qua các văn bản quan trọng như Tuyên ngôn
độc lập Mỹ năm 1774, Hiến pháp Mỹ năm 1787, Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền Pháp năm 1789. John Locke đề cao các quyền dân sự. Công dân và
Nhà nước kí kết một khế ước xã hội, Nhà nước buộc phải tôn trọng các
quyền tự nhiên của con người, khế ước xã hội ra đời để đảm bảo tốt hơn
các quyền đó. Emmanuel Kant mơ ước về một nền hòa bình vĩnh viễn, bằng ý
tưởng lập ra các tổ chức quốc tế. Các nước tôn trọng luật quốc tế để
tránh chiến tranh. Montesquieu luôn lo lắng vì tình trạng lạm dụng quyền
lực của nhà lãnh đạo, ông mong muốn thiết lập một Nhà nước, ở đó quyền
lực được phân chia hợp lí và có kiểm soát. Voltaire đề cao các quyền cá
nhân, ông phản đối ảnh hướng quá lớn của Giáo hội trong đời sống chính
trị, văn hóa. Ông đối lập với Jean-Jacques Rousseau, vì Rousseau khẳng
định con người chỉ có tự do trong tình trạng tự nhiên và phủ nhận quyền
sở hữu.
Hiến pháp Mỹ năm 1787 cùng với Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789 ghi nhận và bảo vệ các quyền
cơ bản của con người. Hai văn bản quan trọng này cũng bàn về cách thức
tổ chức Nhà nước. Các tác phẩm của John Locke và Montesquieu đã thu hút
các nhà lập hiến Mỹ và Pháp. Cũng cần nhấn mạnh rằng tư tưởng của hai
thiên tài này hoàn toàn đối lập với quan điểm của Karx Marx. Tư tưởng
của Montesquieu và John Locke phủ định tư tưởng của Karx Marx, quan điểm
của Karx Marx trái với suy nghĩ của hai nhà triết học này, cho dù họ
sống cách nhau hàng thế kỷ. Montesquieu cảnh báo nguy cơ khi quyền lực
tập trung trong tay một người hay một nhóm người, đó sẽ là một khoảng
trống nguy hại cho dân chủ. Ông mong muốn con người cần tôn trọng luật
pháp và hoàn thành tốt trách nhiệm của mình, con người cần thoát khỏi
những định kiến của mình, do những yếu kém mà chính bản thân không phát
hiện ra. Montesquieu muốn xây dựng Nhà nước được kế thừa giữa truyền
thống và hiện đại, ông ủng hộ các quan điểm chính trị khác nhau. Karl
Marx dự báo về một Nhà nước không có giai cấp và luật pháp sẽ biến mất,
vì luật pháp là công cụ của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị,
Nhà nước cũng sẽ không tồn tại, khi xã hội phát triển ở mức cao. Xã hội
lí tưởng của Karx Marx rất giống với xã hội trong tình trạng tự nhiên
theo quan điểm của Jean-Jacques Rousseau, người có cùng quan điểm cực tả
như Karx Marx. Montesquieu ủng hộ quyền lực được chuyển giao bằng
thương lượng hòa bình, Karx Marx dự báo về một cuộc cách mạng làm rung
chuyển xã hội để thiết lập nền chuyên chính vô sản, "Giai cấp vô sản sẽ
là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản". Montesquieu là nhà quý tộc, ông
cũng như John Locke, Voltaire đề cao quyền sở hữu, Jean-Jacques
Rousseau, Karx Marx khuyến khích việc quốc hữu hóa tài sản, quan điểm
này đã được áp dụng ở thành bang Sparte, Nhà nước cộng sản đầu tiên, tồn
tại từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên, Montesquieu
phê phán thể chế chính trị của Sparte.
Trong tác phẩm trí tuệ nhất của thời kì Ánh sáng, Tinh thần luật, 1748,
Montesquieu luôn đưa ra các quan điểm khái quát, khiến các trí thức sau
này có thể tiếp tục phát triển tư tưởng của ông. Các tác phẩm của Karx
Marx đạt đến mức hoàn hảo, với lối tư duy chặt chẽ, khiến các trí thức
khi đọc Karx Marx có thể mất hết tư duy độc lập, vì những gì cần suy
nghĩ, cần sáng tạo Karx Marx đã nghĩ hết cả rồi, chỉ cần nắm lấy và vận
dụng theo phương pháp của Karx Marx. Jean-Paul Sartre, người từ chối
giải Nobel văn học, đã có nhận xét khá sâu sắc về tư tưởng của Karx
Marx: "Chủ nghĩa Mác là chân trời không thể vượt qua" (le marxisme est
un horizon indépassable), Karx Marx đã dành cả cuộc đời để viết, rất
hiếm có tác giả nào viết nhiều như ông. Điều này khẳng định trí tuệ của
Karx Marx, nhưng thiên tài, không có nghĩa là không có sai sót. Raymond
Aron, một trí thức uyên bác và là bạn cùng khóa tại trường sư phạm với
Jean-Paul Sartre, trong cuốn sách Thuốc phiện của giới trí thức (l'opium des intellectuels)
đưa ra nhận xét rằng quá nhiều trí thức và học giả nghiên cứu về Karx
Marx, ông đặt ra câu hỏi vì sao ít người quan tâm đến các tác giả tiến
bộ như Montesquieu, Tocqueville... bản thân ông vẫn gắn bó với tư tưởng
của Montesquieu.
Montesquieu và Karx Marx ai là
người có lí? Tư tưởng của Montesquieu vẫn còn tòa sáng đến ngày hôm nay.
Hiến pháp Mỹ năm 1787 tổ chức Nhà nước theo quan điểm của Montesquieu,
vẫn có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa, chính trị ở Mỹ và tại
các nước dân chủ mới. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp năm 1789,
với điều 16 "Ở mỗi xã hội mà quyền con người không được bảo đảm, nguyên
tắc tam quyền phân lập không được tôn trọng, sẽ không có Hiến pháp".
Nguyên tắc này khái quát tư tưởng của Montesquieu. Tam quyền phân lập
trở thành điều kiện cần thiết để xây dựng và duy trì nền dân chủ ở mỗi
nước. Nhiều nhà luật học có thể phê phán hoặc bổ sung nguyên tắc này,
nhưng họ không thể phủ nhận nó. Tư tưởng của Karx Marx được phản ánh lần
đầu tiên trong Tuyên ngôn đảng cộng sản, năm 1848, Le Manifeste du Parti communiste (Manifest der Kommunistischen Partei), văn bản này ra đời đúng 100 năm, sau tác phẩm Tinh thần luật
của Montesquieu. Bản tuyên ngôn này trở thành kim chỉ nam của tất cả
các đảng cánh tả và cực tả, nơi tập hợp những người lao động nghèo, đặc
biệt là công nhân. Karx Marx quan sát cuộc nổi dậy của những người vô
sản ở Pháp, họ lập ra Công xã Paris, Karx Marx tin tưởng Công xã Paris
sẽ là nơi thực hiện đầu tiên mô hình xã hội của mình. Công xã Paris đã
thất bại, Karx Marx lặng lẽ viết mấy câu dưới đâu: "Tôi muốn bổ sung một
điều rất quan trọng, điều này sẽ làm thay đổi toàn bộ nội dung của bản Tuyên ngôn đảng cộng sản, văn bản này từ nay không còn áp dụng được nữa", (theo giáo sư Jacques Ellul, Học viện nghiên cứu chính trị Bordeaux, (Tư tưởng Marxiste, 1992, la pensée marxiste).
Jacques Ellul đánh giá Karx Marx không phủ nhận nền dân chủ với một nền
chính trị đa dạng. Viện sĩ hàn lâm Jean-François Revel, nhà triết học
thuộc cánh hữu lại cho rằng tư tưởng của Karx Marx dẫn đến bế tắc.
Xây
dựng Nhà nước dân chủ bằng cách áp dụng chủ nghĩa Mác có nhiều mâu
thuẫn. Làm sao con người có thể tạo ra được một xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh, khi những nguyên tắc đảm bảo cho dân chủ đã tồn tại và
được hoàn thiện từ 2500 năm không được chú ý đến.
Thể
chế chính trị phương Tây đã được du nhập vào Việt Nam từ khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam thiết lập
chế độ nghị viện, nhưng bản khế ước xã hội quan trọng này chưa bao giờ
được thực thi. Bản Hiến pháp chết yểu 1946 đánh dấu một thời kì đầy biến
động của đất nước. Ở miền Nam Việt Nam, người Mỹ muốn thiết lập chế độ
tổng thống cho Việt Nam Cộng hòa, Nhà nước này đã tồn tại được 20 năm
trong thời kỳ chiến tranh. Như vậy, chế độ nghị viện và chế độ tổng
thống không phải là thể chế xa lạ với người Việt Nam, điều ngạc nhiên
là, một số điều khoản của Hiến pháp năm 1946 vẫn hiện diện trong các bản
Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Các văn bản luật tối cao này chịu ảnh
hưởng sâu sắc Hiến pháp Liên bang Xô viết năm 1936 và Hiến pháp năm
1977. Khi tìm hiểu Hiến pháp các nước Đông Âu trước đây và Hiến pháp
Cuba năm 1976, sửa đổi năm 2002 đang được áp dụng hiện nay, các nhà luật
học nhận thấy các văn bản này rất giống nhau, có những điều giống nhau
đến từng câu, từng chữ, bởi lẽ Đế chế Liên bang Xô viết áp đặt thể chế
chính trị của mình cho Đông Âu và nhiều nơi khác cũng chịu ảnh hưởng
theo.
P.T.Đ.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/che-o-nghi-vien_2.html
======================================================================
Chế độ nghị viện (Kỳ 3 – Kỳ cuối)
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:46
Chế độ nghị viện (Kỳ 3 – Kỳ cuối)
Phan Thành Đạt
(Kỳ 3)
III. Chế độ tổng thống, mô hình chính trị thích hợp cho Việt Nam
Cây tự do lớn rất nhanh, một khi nó bén rễ sâu trong lòng đất
George Washington, Tổng thống Mỹ
Việt
Nam có vị trí địa lí chiến lược ở Đông Nam Á, vì vậy các cường quốc đều
muốn có ảnh hưởng ở đây. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, phe cộng sản
và phe tư bản đối đầu trong một cuộc chiến ý thức hệ, bằng chạy đua vũ
trang và tạo ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới. Triều Tiên và Việt
Nam là nơi đối đầu trực tiếp giữa hai phe. Về phía Trung Quốc, láng
giềng khổng lồ bên cạnh Việt Nam, nước này luôn muốn có ảnh hưởng chính
trị và kinh tế, khiến Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc. Để giữ vị thế
độc lập, tự chủ, tránh rơi vào vòng xoáy của nước lớn, Việt Nam cần xây
dựng một thể chế dân chủ, để phát huy trí tuệ của con người nhằm giúp
đất nước vượt qua những khó khăn hiện tại. Muốn vậy, Việt Nam cần có một
bản Hiến pháp tiến bộ. Hiến pháp năm 1946 và Kiến nghị 7 điểm của các
nhà trí thức đã tìm được lối thoát cho đất nước (A). Thêm một số đề nghị
bổ sung nhằm xác định rõ thẩm quyền của các cơ quan lãnh đạo (B), người
viết bài này hi vọng sẽ góp phần vào sự nghiệp dân chủ hóa đất nước.
A. Phân tích hai bản Hiến pháp dân chủ của đất nước
Hiến pháp 1946 thiết lập thể chế nghị viện
Hiến
pháp 1946 đặt tên nước là "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa". Đây là bản Hiến
pháp dân chủ nhất trong 4 bản Hiến pháp của Việt Nam, Hiến pháp 1946 là
văn bản có giá trị, vẫn có thể áp dụng được trong giai đoạn hiện nay.
Bản Hiến pháp xây dựng chế độ nghị viện mất cân bằng, quyền lực thuộc về
Nghị viện vì quyền giải tán Quốc hội không tồn tại, chỉ có quyền bỏ
phiếu bất tín nhiệm. Nhà nghiên cứu Mai Thái Lĩnh cho rằng Hiến pháp
1946 trao quá nhiều quyền cho Chủ tịch nước trong khi Chủ tịch không
phải chịu bất kì trách nhiệm nào. Bản Hiến pháp này chưa bao giờ phát
huy giá trị trong thực tế, đây là thiệt thòi lớn cho đất nước trong sự
nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền và thực thi dân chủ. Sẽ là rất khó
khăn để biết chính xác Hiến pháp tăng cường quyền lực cho Chủ tịch nước
hay củng cố quyền lực cho Nghị viện, vì mọi lí do đưa ra đều dựa trên lí
thuyết. Hơn nữa, vào thời điểm đó, Tòa án Hiến pháp chưa được thành lập
ở Việt Nam để bảo vệ Hiến pháp. Tinh thần của Hiến pháp dựa trên phán
quyết của Tòa án Hiến pháp, chứ không phải dựa theo chính Hiến pháp.
Kiến
nghị 72 của các trí thức Việt Nam đưa ra 7 điểm quan trọng nhằm đổi mới
chính trị và cải cách bộ máy hành chính đang rơi vào khủng hoảng do
cách thức tổ chức không hợp lí từ nhiều năm qua, kèm theo bản kiến nghị
là một bản Hiến pháp có giá trị tham khảo. Văn bản không chính thức này
xác định cơ quan lập pháp gồm Thượng viện và Hạ viện. Tổng thống và các
nghị sĩ được nhân dân trực tiếp bầu ra. Cơ quan tư pháp có vai trò độc
lập, nhiệm vụ bảo hiến được giao cho một tòa án đặc biệt. Nguyên tắc tam
quyền phân lập được đặc biệt nhấn mạnh để tránh lạm quyền.
Bản
Hiến pháp (có giá trị tham khảo) đề cao quyền con người được Tuyên ngôn
nhân quyền năm 1948 và Các hiệp ước quốc tế về quyền dân sự và chính
trị công nhận. Các quyền cơ bản như tự do ngôn luận, tự do lập hội và
hội họp, quyền biểu tình ôn hòa đều được Hiến pháp trân trọng ghi nhận.
Bản Hiến pháp cũng hướng đến hòa giải dân tộc và làm dịu những đau
thương và mất mát của người Việt Nam, khi đưa ra ý tưởng trợ cấp và giúp
đỡ tất cả những thương binh của cả hai bên. Điều này hợp với đạo nghĩa
"lá lành đùm lá rách" của người Việt Nam. Xây dựng chế độ tổng thống ở
Việt Nam có lẽ là sáng kiến hay nhất của những người biên soạn văn bản
này.
Hiến pháp mới được coi là tiến bộ, nếu các
nhà soạn thảo mạnh dạn đưa vào văn bản này một số nguyên tắc cơ bản như
tư pháp độc lập, Tòa án Hiến pháp không trực thuộc Quốc hội, tôn trọng
quyền tự do lập hội và cạnh tranh chính trị... Thể chế chính trị và cơ
chế bầu cử tự do cần được nêu ra cụ thể. Có biện pháp giám sát quyền lực
của những người đại diện cho nhân dân. Xin đưa ra một số gợi ý:
B. Thẩm quyền của các cơ quan được Hiến pháp quy định
Giữa
thể chế nghị viện và thể chế tổng thống, người viết bài này cùng chung
quan điểm với các nhà trí thức khởi xướng kiến nghị 72, chọn chế độ tổng
thống cho Việt Nam. Các nhà luật học mong muốn chọn thể chế nghị viện
cũng sẽ có lí do để giải thích cho lựa chọn của mình, đây chỉ là ý kiến
cá nhân về một chủ đề quan trọng. Để có một bản Hiến pháp dân chủ và một
mô hình chính trị phù hợp cho Việt Nam, rất cần thiết có một Hội nghị
Diên Hồng về Hiến pháp. Hội nghị sẽ là nơi tập hợp của các nhà trí thức
ưu tú của dân tộc Việt Nam.
1. Bàn về tên nước
Quốc
hiệu "Cộng hòa Việt Nam" sẽ thay thế cho cái tên "Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam". Quốc hiệu mới có ý nghĩa tương đương với quốc hiệu cũ
"Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" vì hai khái niệm "dân chủ" và "cộng hòa" đều
có ý nghĩa gần giống nhau, từ "cộng hòa" bao hàm nghĩa của từ "dân
chủ". Từ cộng hòa có nguồn gốc la tinh res publica (cái của chung), hai
nhà triết học Hy lạp là Platon và Aristote đã bàn về nền cộng hòa. Đế
chế La Mã sáng lập ra nền cộng hòa năm 509 đến 44 trước công nguyên. Nền
cộng hòa phủ định chế độ quân chủ. Nền cộng hòa gắn liền với Nhà nước
có các cơ quan quyền lực được nhân dân bầu ra. Nhà nước đảm bảo lợi ích
chung cho mọi người. Các thiết chế trong nền cộng hòa luôn đặt lợi ích
của nhân dân cao hơn các lợi ích khác và không phục vụ một nhóm người cụ
thể.
Khái niệm "dân chủ" có nguồn gốc từ tiếng
hy lạp "dèmos" để chỉ nhân dân sống trong một thành bang Hy Lạp. Nhân
dân tham gia vào các sinh hoạt chính trị ở thành bang, họ chọn ra những
người đại diện để điều hành công việc chung. Khái niệm "dân chủ" cũng
dùng để chỉ một bộ phân dân cư nghèo, đối lập với những người giàu. Ở
một số khu vực, dân chủ gắn liền với những người giàu có, sở hữu nhiều
đất đai hoặc là các thương gia. Cùng với thời gian từ "dân chủ" đại diện
cho nhiều lớp người trong xã hội, hiện nay "dân chủ" thể hiện nhân dân
có các quyền bầu cử và ứng cử, các cơ quan công quyền được dân bầu ra và
phục vụ nhân dân...Quốc hiệu "Cộng hòa Việt Nam" và "Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa" về cơ bản có cùng ý nghĩa.
Có ý kiến
cho rằng nếu trở lại với tên "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", Việt Nam sẽ
khó đòi lại được quần đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm giữ từ năm 1974.
Theo luật quốc tế, tất cả các thỏa thuận kí kết giữa Chính phủ các nước
không ảnh hưởng gì, khi tên nước thay đổi, hoặc một nước này sát nhập
vào nước khác. Chính phủ kế tiếp sẽ có trách nhiệm giải quyết những
tranh chấp qua các nội dung kí kết trước đó. Điều quan trọng, người Việt
Nam cần chỉ ra Công hàm ngày 14 tháng 9 không có giá trị về mặt pháp
lí, vì hoàn toàn trái với Hiến pháp và luật pháp Việt Nam, trái với Hiến
chương của Liên Hiệp Quốc, (Chương VI cấm các nước sử dụng vũ lực để
lấn chiếm đất đai của nước khác). Quá trình đòi lại Hoàng Sa sẽ dễ hơn
khi Trung Quốc trở thành nước dân chủ, và chia ra thành nhiều quốc gia
như trước đây. Chiến dịch thông tin về chủ quyền của Việt Nam tại quần
đảo này cần được quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là thông tin cho người dân
Việt Nam và người dân Trung Quốc về quá trình chiếm đoạt bất hợp pháp
của Trung Quốc tại Hoàng Sa của Việt Nam.
Lựa
chọn quốc hiệu "Cộng hòa Việt Nam" hợp lí hơn cả vì tên này ngắn gọn,
hiện đại, đồng thời thể hiện những đổi thay về chính trị.
2. Thẩm quyền của Tổng thống
Ứng
cử viên của các đảng phái chính trị có quyền tranh cử Tổng thống, các
công dân trên 30 tuổi không vi phạm pháp luật, không có dấu hiệu tâm
thần, nếu tập hợp được 50.000 chữ kí ủng hộ, đều có quyền ra ứng cử Tổng
thống.
Tổng thống được nhân dân bầu trực tiếp.
Nhiệm vụ quan trọng nhất của Tổng thống là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, và
biển đảo, giữ vững chủ quyền quốc gia. Tổng thống phải bảo vệ các nguyên
tắc ghi trong Hiến pháp.
Tổng thống Cộng hòa
Việt Nam là tổng tư lệnh các lực lượng quân đội, nhưng quyền tuyên bố
chiến tranh, quyền gửi quân đội ra nước ngoài thực hiện nhiệm vụ gìn giữ
hòa bình thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Thượng viện. Tổng thống và
Thủ tướng có quyền kí kết các hiệp ước quốc tế, nội dung các hiệp ước
này phải được thảo luận trước đó tại hai viện. Không có sự đồng ý của
Thượng viện và Quốc hội, các hiệp ước quốc tế, công hàm ngoại giao...
đều không có giá trị.
Tổng thống Cộng hòa Việt
Nam có quyền triệu tập Hội nghị Diên Hồng, khi lãnh thổ, vùng kinh tế
đặc quyền, các hòn đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam bị nước ngoài đe
dọa, hay khi Nhà nước muốn hỏi ý kiến nhân dân về các vấn đề quan trọng.
Các đại diện đến từ 63 tỉnh thành trong cả nước, tụ họp tại thủ đô Hà
Nội. Trong trường hợp khẩn cấp, Tổng thống sẽ hỏi ý kiến các thành viên
chính phủ, Chủ tịch Thượng viện và Chủ tịch Quốc hội, Tòa án Hiến pháp.
Tổng thống sẽ có quyết định ngay sau cuộc họp. Thượng viện và Quốc hội
sau đó được triệu tập khẩn cấp để thông qua một đạo luật giải quyết tình
hình đất nước trong tình hình khó khăn.
Tổng
thống có quyền tổ chức trưng cầu dân ý, theo sáng kiến của các thành
viên chính phủ và các nghị sĩ tại hai viện. Trong cùng 1 năm, Nhà nước
không được tổ chức hơn 2 lần trưng cầu dân ý, nội dung trưng cầu dân ý
phải đề cập những vấn đề quan trọng về quốc kế dân sinh.
Tổng
thống không có quyền đưa ra các dự luật, Tổng thống có quyền phủ quyết
các dự luật của Nghị viện hay yêu cầu Nghị viện thảo luận thêm một lần
nữa về dự luật trước khi ban hành, Nghị viện không được khước từ đề nghị
của Tổng thống. Khi dự luật bị phủ quyết, nếu hai viện lại thông qua
với 2/3 số phiếu. Tổng thống buộc phải kí để ban hành dự luật. Nếu Tổng
thống từ chối, dự luật sẽ có hiệu lực 10 ngày sau đó.
Tổng
thống có quyền bổ nhiệm các viên chức cao cấp, khen tặng và ban thưởng
các chức danh cao quý, huân huy chương cho các cá nhân xuất sắc. Tổng
thống đại diện cho Nhà nước trong các hội nghị quốc tế. Tổng thống có
quyền đặc xá. Tổng thống không bị xét xử trong các vụ việc dân sự bình
thường. Tổng thống sẽ bị xét xử như tất cả các công dân khác, sau khi
nhiệm kỳ kết thúc. Khi Tổng thống mắc phải các lỗi nghiêm trọng như tham
nhũng, lạm dụng quyền lực, phản bội, phạm tội hình sự. 50 Đại biểu Quốc
hội, 50 Thượng nghị sĩ được hai viện bầu ra để xét xử Tổng thống. Nếu
Tổng thống bị kết án và bị phế truất. Chủ tịch Quốc hội sẽ tạm thời đảm
nhiệm chức năng của Tổng thống, cho đến khi nhân dân bầu ra Tổng thống
mới.
Chính phủ có thể thông qua một nghị định có
giá trị như một đạo luật. Thượng viện và Quốc hội sẽ bỏ phiếu ủng hộ,
nếu đa số nghị sĩ tán thành, nghị định của Chính phủ sẽ được ban hành và
có giá trị như một đạo luật trong một khoảng thời gian quy định. Nghị
định sẽ hết hiệu lực, nếu một đạo luật có cùng nội dung được ban hành
trong khoảng thời gian này. Khi nghị định đã hết thời hạn được phép lưu
hành, nếu Chính phủ thấy cần gia hạn thêm, hai viện sẽ bỏ phiếu chấp
nhận hoặc không đồng ý. Nếu Chính phủ không có đề nghị gì, nghị định sẽ
không còn giá trị như một đạo luật, và sẽ trở lại là một nghị định thông
thường.
3. Thẩm quyền của Nghị viện
Nghị
viện gồm có Thượng viện và Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội có nhiệm kì 5
năm, được nhân ra bầu chọn trực tiếp, các Thượng nghị sĩ có nhiệm kỳ 6
năm, được các tỉnh và thành phố bầu chọn gián tiếp. Các nghị sĩ được
phép bầu lại. (Luật tổ chức của Quốc hội và Thượng viện quy định thể lệ
bầu cử và tiêu chuẩn của các ứng cử viên, cũng như việc kê khai tài sản
khi trở thành nghị sĩ và khi chấm dứt vai trò này).
Các
dự luật được Chính phủ và các nghị sĩ biên soạn phải được thông qua ở
cả hai viện với đa số phiếu. Nếu dự luật được thông qua ngay lần thảo
luận đầu tiên với đa số phiếu, đạo luật sẽ được ban hành muộn nhất trong
thời gian 2 tuần. Đạo luật sẽ bị treo nếu các cơ quan có thẩm quyền yêu
cầu Tòa án Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của đạo luật. Nếu 1 trong 2
viện không thông qua dự luật, dự luật sẽ được thảo luận và biên soạn
lại. Hai viện sẽ bỏ phiếu lần thứ 2. Nếu 1 trong 2 viện không chấp nhận
hoặc cả 2 viện không thông qua. Một ủy ban hòa giải gồm 20 Thượng nghị
sĩ và 20 đại biểu Quốc hội được chỉ định để bàn bạc thêm về dự luật. Sau
đó dự luật sẽ được trình Thượng viện và Quốc hội lần thứ 3. Dự luật sẽ
được Hai viện thông qua hoặc phản đối. Trong trường hợp này, dự luật sẽ
được ban hành, hoặc sẽ không được đề cập đến nữa. Nghị viện không có
trách nhiệm bàn thêm về dự luật lần thứ 4.
4. Tòa án Hiến pháp
Tòa
án Hiến pháp có 11 thành viên, có nhiệm kì 9 năm và không được bầu lại.
3 thẩm phán được Tổng thống cử ra, 3 thẩm phán khác được Chủ tịch
Thượng viện cử, 3 thành viên được Chủ tịch Quốc hội bầu ra, 2 người còn
lại do Thủ tướng lựa chọn. Thượng viện sẽ có ý kiến về việc lựa chọn các
thẩm phán ở Tòa án Hiến pháp, nếu Thượng viện phản đối, các nhà lãnh
đạo phải chọn người khác. Các thành viên của Tòa án Hiến pháp không được
phép kiêm nhiệm bất kì chức vụ nào khác, họ không thể bị bãi chức trong
thời gian nhiệm kì, trừ khi bị Tòa án đặc biệt của Nghị viện xét xử.
Các quyết định của Tòa án Hiến pháp có giá trị áp đặt đối với tất cả các
cơ quan công quyền, và không thể khiếu nại.
Thẩm
phán ở Tòa án Hiến pháp là các nhà luật học, các nhà nghiên cứu chính
trị, các giáo sư, tiến sĩ luật, các luật sư có ít nhất 15 năm kinh
nghiệm. Tòa án Hiến pháp có nhiệm vụ loại bỏ các đạo luật vi hiến trước
và sau khi ban hành. Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch Thượng viện và Chủ
tịch quốc hội, một nhóm đông đảo các nghị sĩ đối lập, tất cả các cá nhân
này đều có quyền yêu cầu Tòa án Hiến pháp xem xét tính hợp hiến của đạo
luật trước khi ban hành. Đề nghị giám sát luật sau khi ban hành thuộc
về quyền lợi của các công dân, nếu trong một vụ tranh chấp, công dân
nhận thấy một trong những điều khoản được Hiến pháp bảo vệ, bị vi phạm
và điều này ảnh hưởng đến chính họ. Công dân có quyền yêu cầu Tòa án
Hiến pháp can thiệp để bảo vệ quyền lợi của họ được Hiến pháp công nhận.
Đơn đề nghị của công dân phải đề cập những nội dung nghiêm túc, được
Hiến pháp bảo vệ, chủ đề cần giải quyết phải là vấn đề mới, chưa được
Tòa án Hiến pháp đưa ra quyết định, nội dung cần xem xét phải liên quan
trực tiếp đến vụ việc.
Tòa án Hiến pháp có thẩm
quyền công bố kết quả các cuộc bầu cử Nghị viện và bầu cử Tổng thống,
đồng thời giải quyết tranh chấp về kết quả bầu cử, xem xét tính hợp pháp
của các cuộc bầu cử và bãi bỏ kết quả khi có gian lận.
Tòa
án Hiến pháp có trụ sở tại thủ đô Hà Nội. Thẩm phán giữ vai trò độc lập
khi đưa ra quyết định. Tòa án Hiến pháp là cơ quan tư pháp đặc biệt
không chịu sức ép của bất kì cá nhân hay tổ chức nào. Ngân sách của Tòa
án Hiến pháp do Nhà nước chu cấp, các khoản chi tiêu sẽ được công bố
trên các phương tiện thông tin vào dịp cuối năm.
5. Các nguyên tắc không thể thay đổi trong Hiến pháp
Tư
pháp giữ vai trò độc lập, tam quyền phân lập, các đảng phái được tự do
hoạt động là những nguyên tắc không thể sửa đổi trong Hiến pháp.
6. Vai trò của quân đội
Nhiệm
vụ vẻ vang của quân đội nhân dân Việt Nam là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ,
vùng trời, bảo vệ chủ quyền tại quần đảo Trường Sa và đòi lại Hoàng Sa
vào thời điểm thuận lợi. Quân đội đảm bảo các hoạt động đánh bắt và khai
thác của Việt Nam trong vùng kinh tế đặc quyền 200 hải lý. Quân đội có
nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, giúp đỡ nhân dân phòng chống thiên tai bão
lụt. Quân đội tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình dưới sự điều hành của
Liên hiệp quốc. Quân đội Việt Nam hợp tác chặt chẽ với quân đội Mỹ và có
thể tiến đến một Liên minh chiến lược lâu dài.
7. Sửa đổi điều 4 Hiến pháp năm 1992
Các
đảng phái phải tôn trọng luật pháp. Cạnh tranh chính trị lành mạnh góp
phần đảm bảo nền dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Các
đảng phái vi phạm các nguyên tắc được Hiến pháp công nhận, vi phạm luật
pháp sẽ bị cấm hoạt động.
Kết luận
Dự
thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thu hút được mối quan tâm của nhiều
người Việt Nam, nhiều ý kiến chân thành đã được gửi đến các cơ quan Nhà
nước. Kiến nghị 72 là một ví dụ tiêu biểu, bản thân là một luật gia, tôi
thấy cần có trách nhiệm góp ý với Ủy ban dự thảo Hiến pháp năm 1992. Sẽ
có người cho rằng, việc đóng góp cho dự thảo sửa đổi Hiến pháp là điều
không cần thiết, vì tất cả những gì trái với ý Đảng sẽ không được ghi
vào Hiến pháp. Nhưng là công dân Việt Nam có chút ít hiểu biết về luật
pháp, tôi không thể không có ý kiến. Với trách nhiệm của mình, tôi đưa
ra những điều mình hiểu và mong muốn các nhà lãnh đạo Việt Nam nhân cơ
hội này sẽ tiến hành cải tổ chính trị, tạo đà cho đất nước phát triển.
Mọi quyết định của họ sẽ được lịch sự đánh giá và ghi nhận công lao.
Lịch sử cũng sẽ phán xét những việc làm của họ cũng như thái độ của họ
trước tình hình khủng hoảng kinh tế, chính trị và niềm tin hiện nay ở
Việt Nam vì lịch sử vốn công bằng, lịch sử không thay đổi được. Những gì
đã diễn ra là câu chuyện của ngày hôm qua. Nhưng còn hôm nay và ngày
mai, các thế hệ tiếp theo sẽ sống ra sao? tương lai của đất nước sẽ ra
sao? Khi người Việt Nam hôm nay chưa biết xây dựng cho mình một thể chế
dân chủ, để trí tuệ Việt Nam có cơ hội tỏa sáng, để văn hóa Việt Nam có
nhiều thành tựu sánh vai với các nước lớn trên thế giới. Việt Nam là đất
nước dễ tiếp nhận cái mới, con người Việt Nam có sức sống mãnh liệt.
Tiếp thu những tiến bộ của thế giới không phải là điều khó, nhưng cái
khó nhất là quyết tâm đổi mới của những người có trách nhiệm, điều này
không dễ, vì hệ thống chính trị của Việt Nam đã vận hành từ gần 7 thập
kỉ nay như vậy. Phải có lòng yêu nước nông nàn và mạnh dạn đổi mới,
những người có trách nhiệm mới tháo gỡ được khó khăn này.
P.T.Đ.
Tài liệu tham khảo
1.http://www.toupie.org/Dictionnaire/Regime_presidentiel.htm
2.http://www.cours-de-droit.net/cours-de-droit-constitutionnel/le-regime-presidentiel-americain,a3067686.html
4.http://triplette38scpo.forumgratuit.org/t24-regime-parlementaire-regime-d-assemblee-regime-presidentiel
5.http://www.agoravox.fr/actualites/politique/article/regime-presidentiel-a-la-francaise-73999
6.http://www.toupie.org/Dictionnaire/Regime_parlementaire.htm
7.http://www.persee.fr/web/revues/home/prescript/article/ridc_0035-3337_1979_num_31_3_3455
8.http://www.conseil-constitutionnel.fr/conseil-constitutionnel/francais/la-constitution/la-constitution-de-1958-en-20-questions/la-constitution-en-20-questions.17418.html
9.http://www.assemblee-nationale.fr/connaissance/constitution.asp
10. De l'Esprit des lois, Montesquieu,1748
11. Les régimes politiques occidentaux, Jean-Louis Quermonne, Éditions du Seuil
12. Droit constitutionnel, Bernard CHANTEBOUT, 28 e édition, SIREY
13. Droit constitutionnel, Francis Hamon, Michel Troper, 32 e édition, L.G.D.J
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/che-o-nghi-vien-ky-3-ky-cuoi.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001