Nguyễn Huệ Chi – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật trong văn học Cổ cận đại Việt Nam
Đỗ Quý Toàn(*)
Đáng lẽ phải dành ra ít nhất một năm đọc cuốn Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật(**),
nhưng tôi đã cố gắng đọc trong vòng một tháng. Phải nói rằng thời gian
ngắn ngủi đó không đủ để học hỏi suy ngẫm về những công trình kết quả
một quãng đời gần nửa thế kỷ chuyên tâm nghiên cứu văn học của tác giả.
Chắc nhiều nhà nghiên cứu trong cùng ngành xứng đáng hơn tôi để đánh giá
cuốn sách này. Cho nên bài này chỉ là những ý kiến của một độc giả có
tấm lòng thiết tha muốn hiểu thêm văn học Việt Nam.
Đọc
cuốn sách dày 1.200 trang của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, thấy như lại gặp
người viết, gặp lần đầu, để nghe ông nói chuyện. Mỗi bài, mỗi trang sách
mở một cửa sổ mới cho mình nhìn tác giả rõ hơn, vừa đọc vừa làm quen
với người bạn tinh thần. Qua cuộc gặp gỡ, chuyện trò không kể ngày đêm,
mặc dù ngắt quãng nhiều lần để được nghỉ ngơi; đầu óc, tầm mắt mình mở
rộng thêm. Dần dần qua những câu chuyện ông “kể”, càng biết rõ hơn những
kiến thức, những công phu, những dồn nén trầm tư mặc tưởng của tác giả;
cho đến lúc như thấy cách nói năng, cách tỏ thái độ, những tâm sự,
những lo âu; rồi cả tư cách con người và cả tính tình, hoài bão... tất
cả từ từ hiện ra, mỗi trang, mỗi bài bộc lộ một khía cạnh, có lúc đọc mà
ngạc nhiên về bao nhiêu thứ phong phú chứa chất trong một con người.
Tựu trung là hình ảnh một tài năng toàn diện hơn những gì mình biết lúc
sơ giao, một nhà nghiên cứu văn học đáng mến nhưng cũng dễ gây lòng kính
trọng, một nhân cách độc đáo, một con người “tài hoa và uyên bác”, như
đánh giá của Giáo sư Vũ Khiêu trong Lời giới thiệu đầu sách.
Trong Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật có ba phần với đề mục “tiếp cận”: với các hiện tượng văn học, với các tiến trình văn học – và chúng ta được tác giả giúp tiếp cận với rất nhiều dạng văn bản (textes), nhiều “gương mặt văn thi sĩ” – rồi tới các bài thuộc phạm vi lý thuyết văn học.
Nghiên
cứu văn bản là một sở trường của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi. Ông đã chứng
tỏ ưu điểm đó ngay từ lúc biên tập một số quyển trong bộ Thơ Văn Lý – Trần. Trong cuốn sách mới này, khi “giải mã” bài thơ nổi tiếng của Trần Quang Khải (Tụng giá hoàn Kinh sư)
ông đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn con người “anh hùng” viết “Đoạt sáo
Chương Dương độ” bằng cách tìm các mối quan hệ liên hoàn giữa 20 câu thơ
hùng hồn này với thời đại ông sống, hành trạng của ông, và nhất là với
cảm hứng thẩm mỹ biểu lộ trong các bài thơ khác của ông cũng như của
những tác giả sau ông viết về cùng một sự kiện, để nhìn thấy một nhân
vật “nội lực thâm hậu” với nghệ thuật của một “thi nhân” đích thực, buột
miệng thành thơ.
Nhưng ấn tượng mạnh nhất về
công phu nghiên cứu văn bản của Nguyễn Huệ Chi được chứng tỏ khi ông “đi
tìm một văn bản cổ” của cuốn Lĩnh Nam chích quái. Ông viết bài
này vào năm 1974 khi mới 36 tuổi, có lẽ cũng là tuổi sung mãn nhất trong
một cuộc đời để làm những việc đòi hỏi đức kiên trì. Mà quả thật, ông
cho thấy một cuộc truy cứu rất công phu. Trong gần hai chục trang sách,
Nguyễn Huệ Chi đã đóng vai nhà thám tử đi điều tra một vụ án bắt đầu từ
những “lời chứng” của các Giáo sư Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San từ
năm 1960: Ai, những ai, đã góp phần vào việc trước tác và hiệu đính Lĩnh Nam chích quái?
Hai người thường được công nhận đã xây dựng nên tập truyện này là Vũ
Quỳnh và Kiều Phú. Nhưng Trần Thế Pháp đóng vai trò gì? Những nhà nghiên
cứu văn học đời xưa như Vũ Phương Đề, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú đã nói
gì về vấn đề này? Nhà thám tử đã truy tầm đến tất cả tám văn bản khác
nhau. Ông đã so sánh số truyện kể trong mỗi bản, so sánh tên và nội dung
các truyện, có lúc xét chi li từng chữ, từng câu, từ đó bỗng phát hiện
ra ba “tín hiệu ngôn từ” có giá trị “thiết chứng” mà những “thám tử”
trước ông vì sơ ý nên đã không nhìn thấy, để xếp chúng khá đắc địa vào ba loại dị bản với những đặc trưng riêng, nhằm
soi sáng một cách có phương pháp, căn cứ vào cả khung quy chiếu văn
hóa-lịch sử ở thời điểm giả định mỗi loại dị bản ra đời, và dẫn bạn đọc
đến chỗ xác tín được loại dị bản nào có khả năng còn gần với bản gốc, và
loại dị bản nào đã bị/được đời sau hiệu đính, thêm, bớt, làm phai mờ nguyên văn.
Sau cùng thì chúng ta được nghe kết luận của tác giả. Theo lệ thường
khi viết về một cuốn truyện trinh thám, chúng tôi thường không tiết lộ
hồi kết cục ra sao, nhưng ở đây tưởng cũng cần nêu lên thái độ khiêm
cung của tác giả khi ông nói rằng, bản thân việc truy tầm – tử công phu – như
thế kia vẫn... “chỉ mong gợi ý một hướng phân loại... cung cấp... một
đôi điều bổ ích”. Hóa ra ông muốn dành lại, để cho lớp hậu sinh tiếp
bước ông. Thì đây quả là một đề tài còn hứa hẹn nhiều cuộc điều tra tiếp
theo. Nhưng không rõ từ năm 1974 đến nay đã có sinh viên nào làm luận
án Tiến sĩ về đề tài này, khai mở thêm những “gợi ý” lý thú của Nguyễn
Huệ Chi hay chưa?
Nguyễn Huệ Chi lại chứng tỏ
tài “thám tử điều tra” của ông khi tiếp cận với một thi sĩ đời Trần, là
Tuệ Trung Thượng sĩ, không phải trong phạm vi nghiên cứu văn bản mà bước
sang nghiên cứu lịch sử và văn học. Bài này viết năm 1977, sửa lại năm
2010; ông thú nhận từ lâu vẫn theo vết các nhà nghiên cứu trước, khởi
đầu từ Bùi Huy Bích, đinh ninh Tuệ Trung là Trần Quốc Tảng, một người
con của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Nguyễn Huệ Chi đã đối chiếu các
sách sử tìm ra những mâu thuẫn trong giả thuyết Trần Quốc Tảng là tác
giả Thượng Sĩ ngữ lục; sau cùng mới đi đến một kết luận chắc
nịch: nhà thiền học Tuệ Trung tên thật là Trần Tung. Nguyễn Huệ Chi đối
chiếu các chi tiết trong cuộc đời của hai người, Trần Tung và Trần Quốc
Tảng, để xem ai bắt đầu đi vào Thiền đạo vào lúc nào, ai có khả năng thủ
vai một người thầy dạy Thiền cho Trần Nhân Tông như sử sách đã ghi. Ông
cũng tìm ra cặn kẽ vì lý do nào người ta đã gán nhầm tên Trần Quốc Tảng
cho Tuệ Trung Thượng Sĩ; trong cố gắng này ông cũng sử dụng tài nghiên
cứu văn bản sẵn có, với óc phê phán vô cùng tinh sâu. Đọc qua những công
phu của Nguyễn Huệ Chi khi “phanh phui” các nguyên ủy của “vụ án” đã
gây hiểu lầm về tên thật của Tuệ Trung trong lịch sử văn học nước ta kể
từ cuối thế kỷ 18, lại thấy bộ óc “điều tra” mẫn tiệp và lý luận rành
mạch của ông trong bất cứ cuộc truy cứu nào. Ông đã kiểm tra nhiều chi
tiết trong văn bản hay trong các sách sử của Ngô Sĩ Liên và Lê Trắc, để
trả lời câu hỏi “Hưng Ninh vương tên thật là gì?” Viết bài tổng kết
những khám phá của mình, ông không quên nhắc đến những người đã đi một
bước trước như Nguyễn Lang (1973) hoặc đã gợi ý cho mình, như Hà Văn
Tấn, Phạm Thị Tâm (1968); chúng ta thấy tư cách chính trực của một nhà
nghiên cứu nghiêm túc, tự trọng.
Con mắt “tinh đời” của Nguyễn Huệ Chi càng hữu dụng khi ông phân tích những chữ “Nét ngài” và “Mày ngài” dùng trong Truyện Kiều.
Đọc bài này chúng ta hình dung một Nguyễn Huệ Chi đang tủm tỉm cười khi
cân nhắc hai cặp chữ đã được Nguyễn Du dùng nhiều lần, để tả những
khuôn mặt từ Thúy Vân, Từ Hải, đến “mấy ả mày ngài”. Người đọc được dẫn
đi theo con đường tìm kiếm của ông, qua các bản Kim Vân Kiều mà
Kiều Oánh Mậu, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, cho tới
Nguyễn Quảng Tuân, vân vân, đã sử dụng. Chưa đủ, Nguyễn Huệ Chi còn tìm
tới Kinh thi, Ly tao, Thủy hử, qua mấy bộ Từ hải, Từ nguyên, thơ Nguyễn Đình Chiểu, Tự điển Việt-Bồ-La, Đại Nam quấc âm tự vị, cho tới Tướng thư, và cả một tiểu thuyết võ hiệp thấy trên mạng Lan Hương các mới xuất hiện gần đây (2005); tất cả chỉ để soi rõ từ căn
của những chữ “Nét ngài” và “Mày ngài” của Nguyễn Du mà khả năng thấu
thị các biểu cảm thẩm mỹ hay sắc thái tu từ ở mỗi người đọc đến đâu sẽ
cho phép người đó đi từ nhận chân đến ngộ nhận về chúng.
Nghe tác giả bàn luận dí dỏm về một câu chuyện nho nhỏ này thôi, người
đọc cũng thấy được hình ảnh con người “tài hoa và uyên bác” đúng như
Giáo sư Vũ Khiêu nhận xét.
Một điều quan trọng
là khả năng điều tra tinh vi không trở thành một chướng ngại có thể gây
vướng mắc khiến nhà nghiên cứu bị mất tầm mắt nhìn vào toàn thể. Nguyễn
Huệ Chi cho thấy óc tổng hợp sáng tạo của ông trong hầu hết các bài in
trong cuốn sách mới này.
Nguyễn Trãi là một
trường hợp để Nguyễn Huệ Chi dùng con mắt nhìn tổng hợp và toàn diện,
qua mấy bài nghiên cứu trong sách. Qua các tập thơ của Nguyễn Trãi, ông
đã nhận ra Ức Trai “chưa hề có bài thơ nào làm để chơi”, cho nên nhìn
thấy “Niềm thao thức lớn” của Nguyễn Trãi, một con người vừa suy tưởng,
vừa hành động, với những thao thức của một thần dân của nhà Hồ, nhưng
sau nhiều cân nhắc, duyệt qua một lượt các phong trào cứu nước ở khoảng
đầu thế kỷ 15, lại đã có quyết định sáng suốt đột xuất là ra giúp Lê
Thái Tổ dựng cơ nghiệp triều đại mới. Nguyễn Huệ Chi cũng thấy con người
tầm vóc tư tưởng bứt lên rất xa đó lại cũng là một con người biết giá
trị của thú vui ẩn dật, còn hơn thế, không kém sành điệu trong việc dùng
ngôn từ ẩn dật một cách đầy mỹ cảm – thiên nhiên, chim muông, cây cỏ...
– để tỏ lộ cái “tôi”. Thế nhưng kinh qua mọi giằng mắc rất nung nấu bên
trong, rốt cuộc người đó vẫn nóng lòng với hoài bão “Tráng hoài hô khởi bán phàm phong”. Ông kết luận “vị trí của nhà thơ nhất định phải là giữa cuộc đời” và trớ trêu thay, bi kịch của nhà thơ cũng là ở đó.
Cũng vậy, khi bàn đến Quân trung từ mệnh tập
của Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ Chi đã nhìn thấy “tính chất hệ thống” của
những bức thư gửi cho các tướng sĩ quân Minh trong thời gian còn đang
kháng chiến. Theo thứ tự thời gian, ông xem xét các bức thư theo một
“kết cấu chặt chẽ” của các ý kiến, tư tưởng nằm sâu bên trong đủ mọi
kiểu thức phát ngôn, cho tới tài lý luận của Nguyễn Trãi, thông qua
nhiều vấn đề mà Ức Trai đặt ra trong mấy chục lá thư, khi bày tỏ lẽ
thiệt hơn để thuyết phục, dụ hàng đối thủ. Tư tưởng và lý luận trong
những bức thư này quan hệ mật thiết nội tại với nhau; nội dung sử dụng
chính là các quy tắc Nho giáo để vạch ra con đường chính, tà, phân minh
và đanh thép. Nguyễn Trãi đã nhân danh các đạo nghĩa và tư tưởng được
nền văn minh Hán tộc đề cao nhằm thuyết phục chính những viên tướng
người Hán (nhà Minh): Nhân, Nghĩa, Thành, Tín, biến Dịch, tùy Thời, vân
vân. Đồng thời, cụ cũng vận dụng những lý lẽ thực tế để chinh phục các
loại đối tượng, có lúc trình bày thế mạnh của nhân dân Việt Nam, có lúc
dùng hẳn những sự tích trong sử sách Trung Hoa và tình hình rối ren bên
Trung Quốc xảy ra đúng vào lúc đó. Mỗi bức thư Nguyễn Trãi viết phù hợp
khít khao với hoàn cảnh của từng viên tướng nhà Minh đang ở vào thế mạnh
hay yếu; ngay cả lời văn cũng thay đổi theo tánh khí người nhận và
khuynh hướng hiếu thắng hoặc ôn hòa của mỗi người; cho nên đã có sức
thuyết phục áp đảo. Tư duy phân loại sắc bén của Nguyễn Huệ Chi áp dụng
có hiệu quả trong việc phân tích tập văn luận chiến không chỉ ở chỗ ông
phân chia đích đáng từng loại đối tượng thuyết phục của Nguyễn Trãi dựa
trên biến thái bút pháp trong văn bản (tức là không mất tỉnh táo
để đi ra ngoài đối tượng nghiên cứu của mình), mà còn ở chỗ ông biết so
sánh luận lý học loại suy (logique de l’analogie) của Nguyễn Trãi với
luận lý học mà ông gọi là “không theo loại” (non analogie) của Khổng
Mạnh, giúp người đọc thấy được chỗ Nguyễn Trãi tiếp thu Khổng Mạnh, hoặc
lợi dụng Khổng Mạnh, và chỗ Nguyễn Trãi đã vượt lên Khổng Mạnh. Nguyễn
Huệ Chi rõ ràng mở ra những cánh cửa giúp độc giả “tiếp cận” đến chỗ độc
đáo thâm sâu của tác phẩm và tác giả. Tuy nhiên, ông vẫn thấy một “tư
tưởng nền” trong Quân trung từ mệnh tập là tấm lòng yêu nước, thương dân nồng nàn của Ức Trai.
Cách
nhìn toàn diện khi tiếp cận với các nhà thơ, nhà văn đời trước còn thấy
khi Nguyễn Huệ Chi tìm hiểu Chu An, Trương Hán Siêu, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
vân vân. Đọc những nhận xét của ông về thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, người đọc phải thấy thèm thuồng, ước ao sẽ có thêm những công
trình dịch thuật, chú giải về kho tàng hàng ngàn bài thơ chưa được
nghiên cứu đúng tầm mức giá trị này. Trong khi đó, qua mười hai bài thơ
Chu An còn để lại sau khi quân Minh đã tiêu hủy các tác phẩm do người
Việt trước tác, Nguyễn Huệ Chi trình bày đủ rõ khả năng “hỗn dung được
cái đẹp của Nho – Phật – Lão”, và nhìn thấy tính chất “dự báo” trong thơ
Chu An – bậc thầy – cho các thi gia đời sau. Trong khi nghiên cứu về
Trương Hán Siêu, Nguyễn Huệ Chi lại tìm thấy dấu vết một đặc trưng của
văn hóa nước ta là khả năng dung hợp các luồng tư tưởng, tín ngưỡng từ
xa tới. Ông cũng rất chú ý đến tư liệu gốc, thuật lại hai lần đi khảo
sát thực địa, như khi tìm lại được bản thần tích của đền thờ Trương Hán
Siêu, đã bị phá trong thời tao loạn, hay khi thực hiện một chuyến đi
điền dã tại núi Non Nước để nhìn thấy tận mắt tấm bia khắc bài ký của
ông về Tháp Linh Tế.
Đọc bài phú sông Bạch Đằng
của Trương Hán Siêu qua cách phân tích tham chiếu kết cấu từ ngữ, âm
vận, nhịp điệu và nắm bắt “nhãn tự” của Nguyễn Huệ Chi, nhìn trong những
“nghịch lý của thời gian và không gian nghệ thuật”, chúng ta cảm động
khiến tấm lòng yêu nước sôi lên. Đọc bài ký trên tháp Linh Tế ở đoạn mà
Nguyễn Huệ Chi nhấn mạnh, lòng chúng ta lại chùng xuống để suy ngẫm
những vấn đề sâu xa muôn thủa của kiếp người. Nhà nghiên cứu đã điểm
thêm một dòng trữ tình ngoại đề như một thoáng hồi cố bất chợt. Ông ngậm
ngùi nhắc tới “60 năm qua chúng ta đập phá đi biết bao di tích của ông
cha để lại” trong lúc tính làm cuộc “cách mạng long trời lở đất”; phản
ảnh “một tầm nhìn thiển cận”. Nghiên cứu văn học theo Nguyễn Huệ Chi là
một cố gắng hoàn nguyên lại những nhân cách như Trương Hán Siêu, con
người “viễn kiến cao nhân”.
Nói về Trương Hán
Siêu xong rồi, không thể không nhắc tới một bài nghiên cứu dài của
Nguyễn Huệ Chi về “trường thơ Bích Động” xuất phát từ một “trung tâm
Phật giáo” ở chùa Quỳnh Lâm. Bởi vì Trương Hán Siêu đã từng được bổ làm
“Giám tự” (Giám đốc) cho ngôi tự viện quan trọng nhất nhì trong thời Lý –
Trần này. Điều này đáng kinh ngạc, vì Trương Hán Siêu cũng được tiếng
là một nhà nho từng đả kích mạnh mẽ hành vi của một số đông tăng sĩ
đương thời. Những lời phê phán của ông còn ghi trên tấm bia chùa Khai
Nghiêm, nói đến “những kẻ giảo hoạt trong đám sư sãi... chỉ chăm lo
chiếm những nơi đất tốt, cảnh đẹp... ”. Nhưng rất tinh tế, Nguyễn Huệ
Chi lưu ý: các lời chỉ trích này lại được khắc trong bia của một ngôi
chùa. Điều đó cho thấy bản chất bài ký của Trương không chống đạo Phật;
ngược lại, có thể nhằm mục đích khôi phục lại tinh thần đích thực của
Phật giáo. Và đó mới là chỗ đáng lưu ý đối với một nho gia như Trương
Hán Siêu, ở trong một thời đại cởi mở về ý hệ như thời đại Trần.
Nguyễn Huệ Chi nhận xét, khi triều đình nhà Trần chọn Trương Hán Siêu
làm Giám tự cho chùa Quỳnh Lâm, việc đó có thể đưa tới tác dụng hai
chiều: Nhà nho đã hiển đạt sẽ có cơ hội thấu hiểu “lẽ sắc không” nhiều
hơn, và chính ngôi chùa sẽ được bảo vệ, gìn giữ tính chất tôn nghiêm
chặt chẽ hơn.
Phần đóng góp cũng đáng kể của
Nguyễn Huệ Chi trong bài đang đề cập là tìm hiểu về thi xã mang tên của
am Bích Động, một trong ba phần của tự viện Quỳnh Lâm. Ông chú ý đặc
biệt đến nhà thơ Trần Quang Triều, nhân vật chính trong trường thơ này,
một người “ngoảnh mặt với công danh” trong lúc nhà Trần đang hưng thịnh.
Tuy nhiên, những thi nhân trong nhóm vẫn giữ bản chất của nhà nho, tuy
rút ra ngoài vòng danh lợi nhưng không bi quan yếm thế. Dòng thơ Bích
Động, theo Nguyễn Huệ Chi, cho thấy kết quả một “hiện tượng hội nhập”
giữa các luồng tư tưởng Phật, Đạo, và Nho trong thời Lý – Trần; mà đó
cũng là hiện tượng đặc biệt khi tác giả khảo sát trong một số bài khác
(chẳng hạn bài: Các yếu tố Phật, Nho, Đạo được tiếp thu và chuyển hóa như thế nào trong đời sống tư tưởng và văn học thời đại Lý – Trần).
Tuy nhiên Nguyễn Huệ Chi không dừng lại ở việc quan sát hiện tượng hội
nhập văn hóa, tư tưởng. Ông còn nhìn xa và rộng hơn để nhận ra một “diện
mạo khoáng đạt” của con người sống trong thời đại đó. Tính khoáng đạt
tự do này là hệ quả của một bầu không khí “tự do dễ thở của một xã hội
có sự bình đẳng... giữa các vương hầu... cũng như giữa các tầng lớp dân
chúng... ”.
Một người bụng đói chắc nhạy cảm với
mùi cơm, mùi bếp núc từ rất xa, trước những người no bụng. Một người
phải sống trong bầu không khí cần một nhu cầu tự do hẳn dễ dàng cảm thấy
“mùi tự do” ngay khi vừa thoáng gặp. Nguyễn Huệ Chi chính là một nhà
nghiên cứu đã nhạy bén khám phá ra “những chuyển động mới trong dòng
chảy văn học” dưới thời Nhà Mạc. Đây là một giai đoạn thường bị bỏ quên
trong văn học sử, vì người ta hay ghép vào các giai đoạn trước và sau
đó. Nguyễn Huệ Chi đã vạch ra trong 60 năm làm vua, nhà Mạc đã tổ chức
thi cử, góp phần đào tạo giới trí thức nước ta; mà nếu đếm số kỳ thi và
số sĩ tử hiển đạt thì không thua kém gì thành quả trong thời Lê Thánh
Tông. Về văn học, thời Nhà Mạc có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, hai đỉnh
cao của thơ và văn làm mốc cho đời sau trông vào. Văn học thời này cũng
làm chứng cho một “bước rẽ ngoặt” khi các tác giả bắt đầu đi xa hơn lối
mòn Nho giáo và lối viết ước lệ, nhiều công thức, trừu tượng; để tìm
tòi những đề tài trong cuộc sống hàng ngày, trong dân gian, nhìn thấy
đầy đủ tính phức tạp trong con người. Đặc biệt, các tác giả thời
Mạc biết tìm đề tài trong đám những người dân nghèo hèn, đứng vào bậc
thấp nhất trong xã hội; có thể coi là bắt đầu tính chất bình dân và hiện
thực trong dòng văn học nước ta. Với sự chuyển hướng đó, văn học thời
này đã phát triển đa dạng, “đa thanh” hơn so với thời trước. Đi tới
chặng đường này, Nguyễn Huệ Chi lại khám phá ra một “sức nặng” của giai
đoạn văn học Nhà Mạc: “thời đại này đã bước đầu xây dựng nên hình tượng
con người tự do”. Thời Lê sơ, Nho giáo độc tôn gò bó khiến tinh thần tự
do không phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, vân vân bắt đầu một
xu hướng suy nghĩ mới, mà Nguyễn Huệ Chi gọi là “Dòng mạch tư duy tự do
tự tại”. Trong xu hướng này, “con người không bị lệ thuộc trăm phần trăm
vào quyền lực nữa... ”, có thể gọi là đã giải thoát.
Cách nhìn xuyên sâu vào mặt chìm của hiện tượng văn học khiến Nguyễn Huệ Chi cũng nhìn thấy trong Tự Lực Văn đoàn một “khát vọng dân chủ
trong đời sống văn học” (tác giả in nghiêng); ngoài những đặc tính của
nhóm này mà hầu hết mọi người đã công nhận. Tinh thần dân chủ được thể
hiện qua việc thực hiện đúng các tôn chỉ mà họ đã nêu ra từ đầu; trong
lối làm việc tập thể để mọi ý kiến đều được đưa ra thảo luận; nhất là
nhờ tư cách của Nhất Linh, “ông không bao giờ lạm dụng uy thế” của mình,
như khi nhận một số lương bằng các anh em khác, gánh vác tất cả mọi
việc không khác gì anh em. Trong Tự Lực Văn Đoàn người ta thấy “một sự
thăng hoa tập thể”, không tùy thuộc một cá nhân nổi bật nào, như các
nhóm văn chương và báo chí trước đó. Nhờ thế bảy người trong văn đoàn ai
cũng nổi trội hơn người trong phạm vi sáng tác của mình. Nguyễn Huệ Chi
nhận xét, “tinh thần dân chủ đã như một chất men kỳ lạ kích thích niềm
phấn hứng sáng tạo... ” để kết luận: “Tác động liên hoàn giữa khát vọng
dân chủ (dẫn) đến bùng nổ sáng tạo chính là như vậy”.
Qua
những nhận định của Nguyễn Huệ Chi về thi phái Quỳnh Lâm, về văn học
thời Nhà Mạc, cho tới Tự Lực Văn đoàn, chúng ta cũng nhìn thấy một khát
vọng dân chủ nằm trong đáy lòng của chính người viết. Nỗi khát khao này
hiển lộ rõ trong bài tác giả bàn về việc Đổi mới Phương pháp nghiên cứu văn học cổ
(1990). Ông nhận thấy có những hiện tượng trì trệ trong công việc
nghiên cứu, mà theo ông, “những lý do của sự trì trệ chính là cái quan
niệm sai lầm thống trị quá lâu: muốn đồng nhất các chuyên ngành khoa học
xã hội với chính trị”. Hậu quả nhãn tiền là ngay việc đào tạo đội ngũ
chuyên gia ngày càng bị sút giảm, nói chính trị lấy được mà chuyên sâu
về văn hóa, khoa học thì rất “loạng choạng”. Và cũng vì thế có chuyên
ngành như sử học, từ lâu đã vấp phải không ít “trọng bệnh” trong phương
pháp nghiên cứu: nào huyền thoại hóa, hiện đại hóa, cắt xén lịch sử...;
đang tìm hiểu người và việc ở một thời điểm cách chúng ta hàng mấy trăm
năm vậy mà lại cứ ra sức tô điểm cho giống với mặt mũi, hành động, suy
nghĩ của con người và sự việc hôm nay (vì mục tiêu... “công lợi”, hay
nói thẳng ra là mục tiêu chính trị chứ chẳng phải kiếm tìm khoa học).
Khốn nỗi, mỗi thời có dặc thù của nó, con người và sự việc hôm nay chắc
đâu đã là mẫu mực giá trị cho con người và sự việc thuở xa xưa. “Cũng có
thể thông cảm, nhiều khi ngòi bút người bình luận lịch sử vô tình bị
chính trị hóa bởi áp lực của thói quen: hàng loạt khái niệm “lợi ích
quần chúng”, “nhiệm vụ cách mạng”, “chiến tranh nhân dân”... đã ghim sâu
vào trí nhớ trong các bài giảng chính trị suốt bao nhiêu năm nên ta
không thể rứt khỏi chúng khi buộc phải nhập thân vào một quá khứ khác xa
thời đại mình đang sống, phải phục dựng diện mạo và khí hậu thực của
những thời kỳ vốn chưa hề biết đến các “khái niệm tân tiến” loại này.
Song cũng vì thế, hơn lúc nào hết, yêu cầu tỉnh táo đối với một sử gia
có trách nhiệm trước bạn đọc càng phải đặt ra một cách nghiêm túc” (bài Đổi mới nhận thức lịch sử trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng, 1990). Có thể thấy được tinh thần bác bỏ xã hội học dung tục chi phối quan điểm nghiên cứu trong bộ sách của Nguyễn Huệ Chi.
Mối
quan tâm của Nguyễn Huệ Chi đối với những vấn đề có tính quy luật cho
cả ngành nghiên cứu văn học còn bộc lộ trong nhiều bài khác ở phần cuối
cuốn sách Văn học Cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật: vấn đề tiến trình vận động của các thể loại văn học (bài rất đáng chú ý: Từ nghĩa rộng và hẹp của hai chữ “văn học” trong quá khứ đến việc phân loại các loại hình văn học Lý – Trần); vấn đề tiếp thu và sáng tạo trong mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học thế giới – với văn học Trung Quốc trong hàng ngàn năm, với văn học Pháp trong ngót 100 năm... (bài Trở lại câu chuyện so sánh Kim Vân Kiều truyện với Truyện Kiều của ông Đổng Văn Thành và bài Trường Viễn đông bác cổ Pháp và bước tiến của ngành nghiên cứu văn học Việt Nam Cổ trung đại); vấn đề đột phá và sức ỳ trong phương pháp tư duy khoa học (bài Tư duy phương Đông nhìn dưới ánh sáng học thuyết Einstein); vấn đề các bước chuyển nội tại của chính văn học hay là quan điểm phân kỳ lịch sử văn học Việt Nam (bài Một vài vấn đề phân kỳ lịch sử văn học nhìn từ điểm đầu của thế kỷ XXI),
vân vân. Đây là một tác phẩm đồ sộ, gom lại những bài tiêu biểu trong
cuộc đời nghề nghiệp của tác giả, mà một vài nhận xét ngắn ngủi như thế
này không thể nêu lên đầy đủ giá trị xứng đáng với hơn ngàn trang giấy
và nửa thế kỷ làm việc của người viết. Trong bài này, chúng tôi chỉ
trình bày một số điều đặc biệt nhìn ra trong con người khoa học gia Nguyễn Huệ Chi, một tác giả mà tôi đã làm quen qua bộ Thơ Văn Lý – Trần
nhiều tập, trước đây một phần tư thế kỷ. Cuốn sách này là công trình
thứ hai tôi đọc của Nguyễn Huệ Chi. Khi đọc một lượt hết các bài viết
chúng tôi cảm thấy như được gặp một người bạn mới, được nghe trò chuyện
mỗi ngày một vài giờ, dần dần khám phá ra nhân cách của một học giả, một
người “lao động thứ thiệt” trong nghiên cứu khoa học, và một tâm hồn
thiết tha với đất nước và văn học của đất nước. Trong bài này chúng tôi
không bàn về toàn thể tác phẩm – đặc biệt là phần đề xuất lý luận-lý
thuyết xứng đáng có những bài viết riêng – mà chỉ cố nhìn thấy tác giả
rõ hơn, qua tác phẩm. Cho nên không có dịp đưa ra những nhận định khác
để phụ họa với Giáo sư Vũ Khiêu và Tiến sĩ Đặng Thị Hảo trong hai bài
giới thiệu công phu, tinh xác của họ. Chẳng hạn, chỉ các đồng nghiệp của
Nguyễn Huệ Chi mới nhận định đúng về vai trò lãnh đạo của ông trong
công tác nghiên cứu tập thể ở Viện Văn học (bảng index cuối sách
cũng đủ cho thấy thao tác này đã theo đúng chuẩn mực quốc tế mà nhóm học
giả tập thể ở Viện làm rất thành thạo). Tiến sĩ Đặng Thị Hảo còn nhìn
thấy Nguyễn Huệ Chi như một “cây bút dịch thuật tinh tế”. Chúng tôi muốn
nói hơn nữa: Trong việc dịch thuật, Nguyễn Huệ Chi chứng tỏ là người có
hồn thơ và thấu hiểu được nội lực của ngôn từ – tiếng nói của
cha ông lưu lại. Đọc các bài thơ do chính ông dịch, chúng ta thấy nhiều
bài có thể coi cũng giá trị như những bài thơ sáng tác trọn vẹn, không
kém gì nguyên tác. Tâm hồn thi sĩ đã khiến Nguyễn Huệ Chi rất khó tính
khi lựa chọn chữ nghĩa để dịch các bài thơ cổ, biết đặt mỗi từ vào những
vị trí khá đắt. Cho nên, với một bài thơ hai đoạn Mộng đắc thái liên
của Nguyễn Du, ông đã chọn bản dịch mỗi đoạn từ hai người dịch khác
nhau, khổ đầu chọn Đào Duy Anh, khổ sau do Phạm Khắc Khoan và Lê Thước
dịch. Đến bài Trấn doanh kỳ vũ của Lê Quý Đôn, ba đoạn do Nguyễn
Huệ Chi dịch cả, nhưng riêng hai đoạn đầu và cuối thì lại có công thôi
xao do Đào Phương Bình góp phần. Sự cẩn trọng của tác giả cũng là một
đặc tính của các nhà thơ, những “người yêu chữ nghĩa”.
Chúng
tôi không thể nói hết những gì mình khám phá ra trong con người Nguyễn
Huệ Chi qua cuốn sách mới xuất bản. Chỉ xin mạo muội nêu lên mấy khía
cạnh nhìn ra sau chỉ mới một lần đọc, về nhân cách một nhà nghiên cứu
văn học. Ông làm việc kỹ, cẩn trọng, tinh vi, sử dụng đến cùng tài uyên
bác và học vấn của mình, không chấp nhận lối “nấu cơm chưa chín”. Ông có
tầm mắt nhìn sâu và rộng, với óc tổng hợp để thấy cái toàn diện vượt
trên các chi tiết, sử dụng cùng với óc phân tích rạch ròi để tìm thấy
những sợi dây nhất quán trong từng kiểu người (tác giả và nhân vật), từng dạng thức văn bản (tác phẩm thơ và văn), cũng như từng thời kỳ văn học.
Với những đức tính quý báu đó, ông còn cảm nhận được trong các tiến
trình văn học những khát vọng tự do và dân chủ – dầu đôi khi chỉ mới là
mầm mống – nhằm giải phóng con người.
*
* *
Tôi
đã hết duyên nợ với văn học Việt Nam từ hơn ba thập kỷ nay, sau khi đã
học Ban Việt Hán tại Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Sau đó, quay sang
học hỏi những ngành khác, dạy học và nghiên cứu về lý thuyết kinh tế tài
chánh; tôi không còn chú tâm theo dõi văn học nữa, ngoài việc đọc từng
tác phẩm lẻ, hoàn toàn vì tò mò chứ không vì nhu cầu nghiên cứu. Tôi
viết bài này chỉ xin đóng góp những nhận xét nông cạn về một phần công
trình của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi, của một độc giả không chuyên tâm
nghiên cứu. Hy vọng có thể chứng tỏ rằng cuốn sách mới này không phải
chỉ có giá trị và ích lợi cho các nhà nghiên cứu chuyên sâu mà còn rất
lý thú cho các độc giả bình dân như tôi có thể đọc, để hiểu thêm về cái đẹp sâu thẳm của tiếng nói dân tộc, của đất nước và tổ tiên chúng ta.
Đ.Q.T.
(*)
Đỗ Quý Toàn tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sài Gòn, dạy môn quốc văn tại
các trường trung học từ 1962. Từ năm 1975 sống ở Canada, đổi sang học
ngành quản trị xí nghiệp; chuyên về lý thuyết tài chánh; sau đó dạy và
nghiên cứu về môn này; cũng dạy về tài chánh áp dụng, thị trường chứng
khoán, tại các đại học ở thành phố Montréa, Canada, trong đó có Đại học
McGill, Université du Québéc à Montréal; và Trường Võ bị Hoàng gia ở St
Jean. Nghỉ hưu từ năm 1995, qua sống tại tiểu bang California, nước Mỹ,
để theo đuổi nghề viết. Tác phẩm nghiên cứu văn chương có Tìm thơ trong tiếng nói, NXB Thanh văn, Hoa Kỳ, 1992.
(**) NXB Giáo dục, 2013.
Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ An, số 251, 25-8-2013. Đầu đề do NHNA đặt.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 08:04
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/nguyen-hue-chi-tu-goc-nhin-van-hoa-en.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001