Nguyễn Hiến
Lê, một tác giả của hơn một trăm cuốn sách, một nhà biên khảo có nhiều công
trình to lớn, một dịch giả chuyển ngữ được những tinh túy văn chương ra Việt
ngữ, một học giả được nhiều nể trọng của văn giới, và cũng là một người đã
trung thực khi viết hồi ký. Đọc những tác phẩm về văn học, về triết học, về xã
hội học, về sử học, về ngôn ngữ học, hay các sách học làm người, chúng ta mới
thấy được sự sâu sắc phong phú nhưng lại được diễn tả bằng một văn phong rõ
ràng chính xác nhưng đơn giản nên nhiều vấn đề khúc mắc phức tạp trở thành dễ
hiểu. Thế mà, ông lại khiêm tốn nói rằng ông cầm bút viết để tự học hỏi. Không
biết có phải đó là một điển hình kẻ sĩ để mấy vị hay cao ngạo khoe khoang phải
suy nghĩ?
Đọc hồi ký
“Đời Viết Văn của Tôi”, chúng ta thấy được gì? Có phải qua những tác phẩm, ông
muốn bày tỏ tấm lòng của mình với văn chương chữ nghĩa. Nhìn và quan sát người
khác dễ hơn là quan sát nhận định về chính mình. Ông cũng hiểu rất rõ điều ấy và
trong phần mở đầu cuốn hồi ký ông đã rất khiêm nhượng :
“… Chép hồi ký
về đời mình, lại càng dễ bị nhiều người chê là chỉ nêu lên những cái hay của
mình mà giấu những cái xấu; ngay khi tự vạch những cái xấu của mình ra thì nếu
không phải do lòng tự cao cũng là để tự biện hộ. Dù là tập Confessions của JJ
Rousseau hay tập Autobiography của Bertrand Russel thì cũng chỉ đáng tin một
phần nào mà thôi.
Tôi lại nhận
thấy bây giờ chép lại tuổi thơ và thiếu niên, tôi bỏ đi gần hết những điều tôi
đã chép năm 1935; mà tập tôi mới viết xong đây nếu chép lại từ 1974, đầu năm
1975, thì nội dung tất khác bây giờ nhiều, nếu trái lại tôi được sống đến năm
1985-1990 và lúc đó mới chép thì nội dung cũng lại khác, có thể khác xa
nữa.
Tôi đã ghi
tình cảm suy tư của tôi lúc này về một số ciệc đã xảy ra trong đời tôi mà tôi đã
được nghe và thấy. Có nhiều chỗ tôi đã vô tình chép sai sự thực, hoặc bỏ sót,
điều đó không sao tránh được. Lỗi ở lý tính con người, nó bị tình cảm sai khiến,
lại thêm ở tuổi bảy mươi như tôi, nó suy giảm nhiều rồi..”
Ở trong nước
vừa in Tuyển Tập Nguyễn Hiến Lê, gồm bốn cuốn bìa cứng toàn bộ gần bốn ngàn
trang với Tập 1 : Triết học, Tập 2 : Sử học, Tập 3 : Ngữ học và Tập 4 : Văn
học. Thật ra, như vậy vẫn chưa đầy đủ lắm với văn nghiệp của ông. Vẫn còn nhiều
thiếu sót, dù bộ sách đã có bề dầy. Những công trình của ông, là những tài liệu
khả tín cho những người lớp sau để có thể phác họa ra được một thực tế văn học
của một thời đại nhiều đặc biệt.
Nguyễn Hiến Lê
sinh năm 1912 và trong suốt cuộc đời đã trải qua rất nhiều biến cố của đất nước
và dân tộc Việt Nam. Ông lớn lên khi lối học cổ điển “chi hồ dã dã“ bị suy vi
và trường học đã dạy bằng chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Ông cũng có một thời học
chữ Nho và sau đó vào trường học. Người cha mất sớm nên trong gia đình mẹ góa
con côi có lúc ông đã lêu lổng trốn học nhưng sau đó lại tu tỉnh và học hành
tiến bộ hơn. Có lẽ, ông chịu ảnh hưởng của hai nền giáo dục và đó cũng là một
điểm đặc biệt của ông.
Nguyễn Ngu Ý
trong ‘Sống và Viết“ đã có nhận định về Nguyễn Hiến Lê:
“Trong làng
văn nước nhà, có lẽ không ai dự bị vào nghề lâu như anh : trên mười năm trời và
thời hậu chiến chưa có tác giả nào viết, dịch đều và có sách xuất bản nhiều như
anh; bốn mươi bốn quyển đã in và có độ một chục cuốn đang in hoặc sẽ in. Anh
cũng lại là nhà văn mà nhiều người thắc mắc. Đã có hơn một người hỏi tôi
:
- Anh Lê thuộc
về lớp cổ hay lớp mới?
Quen anh trên
mười năm mà tôi chưa từng tự hỏi như vậy bao giờ và tôi đã lúng túng không trả
lời được.
Cứ xét lối làm
việc thì anh là người mới : có tổ chức, có phương pháp như một nhà khoa học;
nhưng xét lối sống, lối cư xử thì lại như một người cổ : thanh bạch, giản dị,
chỉ ưa sách và hoa, ghét sự ồn ào, nhất là sự ồn ào của danh vọng ; tính tình có
vẻ như hơi nghiêm ; đối với bạn bè thì chân thành nhưng cũng có cái vẻ đạm bạc
của nhà Nho. Sách anh viết và dịch thì có những cuốn về tân kiến thức như thuật
về Tổ Chức, về Tân Giáo Dục, về ngữ pháp, về kinh tế (học thuyết Fourastié); về
Chính Trị (cuốn Xung Đột trong Đời Sống Quốc Tế) ; mà lại có những cuốn về cổ
học như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc hay Đại Cương Triết Học Trung Quốc.
Anh rất trọng cái thực học mà có lúc đề cao đạo học; trọng lối tổ chức làm việc
của Âu-Mỹ mà lại ghét lối sống Âu-Mỹ thích cái tinh thần tri túc, thanh đạm
của phương Đông. Trong cuốn Một Niềm Tin anh khuyên thanh niên phải xằn tay
áo và thắt bụng lại, sản xuất gấp đôi mà tiêu pha bớt đi để nước nhà mới có cơ
thịnh vượng được ; nhưng riêng anh có nhiều cơ hội làm giàu một cách lương
thiện thì anh lại gạt đi. Anh viết cuốn ”Tổ Chức Công Việc theo Khoa Học” rồi
lại dịch cuốn “The Importance of Living” (Một quan niệm sống đep) của Lâm Ngữ
Đường. Anh rất thích ít bài cổ văn Trung Quốc như A phòng Cung phú, Đằng Vương
Các Tự, Bắc Sơn Di Văn mà lại cũng rất thích các tác giả mới như Marcel
Proust. Anh theo dõi những trào lưu tư tưởng mới cuả thế giới mà cũng vẫn đọc
những tác phẩm của cổ nhân, đọc cả sách về Đông Y, về Tử Vi, Tử Bình, bói Dã
Hạc, về Địa lý (môn phong thủy hồi xưa, mà đọc trong bản chữ Hán, đọc để biết.
Văn anh viết có bài nửa biền nửa tản như bài Hương Sắc Trong Vườn Văn, có đoạn
lại làm gợi nhớ tới lối hành văn của Michel Butor như đoạn cuối bài Đuổi Bắt Ảo
Ảnh, nhưng xét chung thì anh rất ưa sự bình dị.
Cho nên bảo
anh là cổ thì không đúng, mà bảo anh là mới thì anh cũng không mới hẳn. Anh có
mâu thuẫn với anh chăng? Trong con người anh có hai phần chăng? Một phần chịu
ảnh hưởng của gia đình, một phần chịu ảnh hưởng của học đường chăng? Nhưng bảo
là mâu thuẫn thì có đúng không? Thế nào là mâu thuẫn? Thế nào là dung hòa? Tôi
không biết được mà có lần đem ra hỏi lại anh, thì anh cũng không trả lời được,
cho rằng đó là tùy theo nhận xét của mỗi người.,,”
Với tôi, tôi
ngưỡng phục tác phẩm của ông. Với cách trình bày trong sáng, đơn giản nhưng
không qua loa, người đọc dễ lãnh hội được những điều mà tác gỉa gửi gấm trong
chữ viết. Và bàng bạc, trong chữ nghĩa, trong ý tưởng là cái tâm thẳng thắn và
ý hướng giúp những người muốn học hỏi có dịp để đạt cho bằng được những kiến
thức cần thiết cho đời sống.
Nhưng, tôi
không thích ông ở ý hướng chính trị. Sống ở miền Nam nhưng lòng ông lại hướng
về miền Bắc. Trong hồi ký ông viết :
“Cho tới năm
1974 tôi đã được biết ba xã hội : xã hội nông nghiệp của ông cha chúng ta, xã
hội tư bản của Tây phương do ảnh hưởng của Pháp và vài nét xã hội tiêu thụ
(societé de consommation) ở htời hậu kỹ nghệ (post-industriel) của Mỹ; ba xã hội
đó tôi đã phác qua trong các phần trên. Từ năm 1975 tôi lại được biết thêm một
xã hội nữa mà người ta gọi là xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tôi vốn có cảm
tình với Việt Minh, với Cộng Sản, ghét thực dân Pháp, Mỹ, nhất là từ 1965 khi Mỹ
đổ quân ào ạt vào miền Nam, tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mỹ. Tôi
phục tinh thần hy sinh có kỷ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có htể
giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp..”
Ông Nguyễn
Hiến Lê đã viết thẳng thắn ra như vậy. Ông vẫn còn bị chiêu bài kháng chiến
chống thực dân lôi cuốn mà không nhìn ra cái nguyên do của cuộc chiến ủy nhiệm
của các thế lực cường quốc trên thế giới gây ra cuộc nội chiến tương tàn nối da
xáo thịt. Cái tâm lý ấy khá thông thường với người miền Nam chưa bị nếm mùi cải
cách ruộng đất, chưa bị đảng trị một cách lộ liễu như ở miền Bắc.
Một hành động
chống đối bất hợp tác với chính quyền VNCH là ông đã từ chối Giải Tuyên Dương Sự
Nghiệp Văn học Nghệ Thuật năm1973 của Phủ QuốcVụ Khanh Văn Hóa. Cũng như trước
đó ông đã từ chối Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1967 khi ông được giải
cùng với ông Giản Chi Nguyễn Hữu Văn. Ông từ chối với lý do là dùng hiện kim ấy
để giúp đỡ nạn nhân chiến cuộc và bản thân ông không tham dự giải...
Nhưng, sau khi
đã sống với chế độ Cộng sản từ sau năm 1975. Ông nhận ra được sự thực và trong
cuốn hồi ký đã giành ra một phần khá quan trọng nhận xét về thực trạng xã hội
Việt Nam. Phần viết trong hồi ký ấy chỉ có bản in ở hải ngoại do nhà xuất bản
Văn Nghệ của ông Từ Mẫn Võ Thắng Tiết là có, còn bản in ở trong nước của nhà
xuất bản Hội Nhà Văn thì bị cắt xén và “biên tập” tơi bời…
Trong Tự Điển
Văn học (bộ mơi) xuất bnả ở Sai Gòn năm 1992, Nguyễn Q. Thắng đã tóm gọn sự
nghiệp văn học của ông Nguyễn Hiến Lê như sau :
“Ngòi bút
Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa
học, am tường cặn kẽ về cácd đối tượng, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và
không thiếu tính nghệ thuật.
Tác phẩm của
ông bao gồm nhiều chủ đề như :
1- Văn học
: Gồm một số
tác phẩm đặc sắc và công phu như Hương Sắc Trong Vườn Văn ( 2 cuốn, 1962) Luyện
Văn (3 cuốn, 1953), Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc (3 cuốn, 1954-1966), Tô Đông
Pha (1970).. giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc cũng như nghệ
thuật văn chương Việt Nam.
2- Ngôn ngữ
học : Để Hiểu Văn
Phạm (1952), Khảo Luận về ngữ pháp Việt Nam (1963) Chúng Tôi Tập Viết Tiếng
Việt.. có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam đồng thời vận dụng được
những tiến bộ mới nhất của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng việt.
3- Triết Học
: Đại Cương
Triết Học Sử Trung Quốc (2 cuốin 1966) Nho Giáo Một Triết Lý Chính Trị (1958),
Liệt Tử và Dương Tử (1972) một Lương Tâm Nổi Loạn (1970), Bertrand Russel
(1971).. trình bày được một hệ thống triết học cổ điển Trung Hoa cũng như những
tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây Phương hiện đại.
4- Sử Học
: Gồm một số
tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như : Lịch Sử Thế Giới (4 cuốn,
1955), Bài Học Isarael (1968), Bán Đảo Ả Rập (1969), Bí Mật Dầu Lửa (1969) Bài
Học Của Lịch Sử (19720, Nguồn Gốc Văn Minh (1974), Văn Minh Ả Rập (1969) Sử ký
Tư Mã Thiên (1970), Chiến Quốc Sách (1968), Đông Kinh Nghĩa Thục (1954), Sử
Trung Quốc (3 cuốn, 1982).. là những cái nhìn xuyên suốt về lịch sử văn minh sử
thế giới và lịch sử cận đại Việt Nam.
5- Gương Danh
nhân : gồm có một số
tác phẩm viết về Gương hy Sinh (1962), Gương Kiên Nhẫn (1964) Gương Chiến Đấu
(1966) Ý Chí Sắt Đá (1971), Những Cuộc Đời Ngoại Hạng (1970), Einstein (1971)..
là những bài học thiết thực cho nhiều lớp người nhất là thành phần thanh thiếu
niên đang ở ngưỡng cửa của cuộc đời.
6- Giáo Dục
: trình bày
những quan điểm về giáo dục về các lớp tuổi trong đời sống gia đình Việt Nam.
Loại này gồm : Thế Hệ Ngày Mai (1953), Tìm Hiểu Con Chúng Ta (1966) Tự Học Để
Thành Công (1954) Tự Học Một Nhu Cầu Của Thời Đại (1964), Làm Con Nên Nhớ
(1968), Sống 24 Giờ (1956)
7- Tự luyện
đức trí : Tác giả vừa
dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục có tính cách xã hội như Tương lai
Trong Tay Ta (1962), Luyện Lý Trí (1965), Rèn Nghị Lực (1956), Ý Cao Tình Đẹp
(1967) Loại này có trên hơn 20 cuốn có giá trị. Trước năm 1975 số ấn bản lên
đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản trong toàn quốc đang tiếp tục tái
bản.
8- Cảo luận
: là một số
chuyên đề về văn chương, văn hóa, văn nghệ như Nghề Viết Văn (1956), Vấn Đề Xây
Dựng Văn Hóa (1967), Mười Câu Chuyện Văn Chương (1975), Con Đường Hòa Bình
(1971) là những đóng góp sáng giá của ông vào văn chương đạo đức và cảm thụ học
thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.
9- Dịch thuật
: Nguyễn hiến
Lê có một khả năng dịch thuật rất sung mãn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến khi
cuối đời ông có hằng chục công trình dịch thuật sáng giá nhất là các bộ tiểu
thuyết lớn phương Tây như Chiến Tranh và Hòa Bình (4 cuốn, 1968), cầu trên Sông
Drina (1972),Câu Chuyện Thương Tâm (1956) Kiếp Người (1962), Một Mùa Hè Vắng
Bóng Chim (1990), Cổ Văn Trung Quốc.. và một số lượng tác phẩm biên khảo viết
bằng chữ Pháp, chữ Hán cổ cận thế giới.
10- Du Ký
: gồm một số
quyển ghi chép lại các lần đi thực địa ở các địa phương. Loại này không phải
là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực cho khoa
học tự nhiên, xã hội, văn học nữa như Bảy Ngày trong Đồng Tháp Mười (1954), Đế
Thiên Đế Thích.. cùng một số sách về Quản Trị công nghiệp, kinh tế, gióa khoa
toán, Bên cạnh ông còn viết hơn 300 chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành
(trong các tạp chí ở Sài Gòn trước 1975)..”
Thật là một
công trình văn học nghệ thuật đồ sộ. Ông là một học giả có nhiều uy tín trong
giới trí thức và sau năm 1975, chế độ Cộng sản cũng có nhiều cư xử đặc biệt với
ông. Những người như ông, như Bình Nguyên Lộc được níu kéo để tham gia vào
sinh hoạt văn học nhưng đều bị cự tuyệt một cách khéo léo.
Năm 1981, ông
Nguyễn Hiến Lê viết xong bộ hồi ký. Ở trong nước, nhà xuất bản Văn học in năm
1993. Ở hải ngoại, nhà xuất bản Văn nghệ của ông từ mẫn Võ Thắng Tiết in ra làm
ba tập. Tập 1 xuất bản năm 1990, tập 2 xuất bản năm 1990, và tập 3 xuất bản năm
1988. So sánh hai bảm in ở trong nước và ở hải ngoại, thấy sự khác biệt rất
lớn. Bản in ở hải ngoại thì tôn trọng bản thảo không sửa chữ nào quan trọng
trong khi bản in ở trong nước thì bị cắt xén và “biên tập “ tơi bời, nhất là
những nhận định trung thực của tác giả Nguyễn Hiến Lê về tình trạng văn hóa, xã
hôi, chính trị, kinh tế ở trong nước. Ông phê phán chính xác, nói có sách mách
có chứng và bằng chứng là chính thực tế của cuộc sống. Do đó, bản ở trong
nước không có những phần ấy là một điều cố nhiên của nền văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa.
Trước
1975, ông đã đọc những bài tố Cộng cũng như đã nghe những người từ Bắc di cư
vào Nam kể lại thời cải cách ruộng đất. Hay đã đọc những cuốn sách viết về đời
sống ở Nga, với sự kềm kẹp của mật vụ và những vụ khủng bố trắng thời Stalin.
Hoặc biến cố tết Mậu Thân năm 1968 với vụ thảm sát ở Huế. Cũng như ông đã đọc
những lời chỉ trích chế độ Cộng sản của nhà văn Soljenitsyne và nhà bác học
Sakharov cha đẻ ra bom nguyên tử của nga. Rồi những André Gide, Bertrand
Russel, mới đầu thiên Cộng nhưng sau lại chỉ trích nặng nề, hay những Koestler,
Georghiu, Djilas,.. mới đầu là đảng viên trung kiên nhưng sau phản tỉnh chống
đối gay gắt.
Dù vậy nhưng
Nguyễn Hiến Lê vẫn thiên về miền Bắc và hy vọng rằng sau hiệp ước Paris sẽ có
hòa bình và sẽ có chính phủ ba thành phần.
Nhưng, khi đã
sống với Cộng sản, ông đã nhìn ra tất cả những khuyết điểm của một chế độ vô sản
chuyên chính. Ông có những nhận xét rất xác thực, về đời sống người dân trong
thời kỳ đó. Ông phân tích rõ ràng từ hệ thống hành chánh phường khóm, từ tinh
thần làm việc bê trễ đến hệ thống giấy tờ phiền nhiễu phức tạp, cũng như nạn
nhũng lạm, ức hiếp dân chúng. Ông kể chuyện những ngày đổi tiền, biết bao nhiêu
người trở thành tay trắng vì thủ đoạn ăn cướp tài sản người dân một cách công
khai. Rồi ông nhận xét về kinh tế, về công nghiệp, nông nghiệp, … mặt nào cũng
đều thất bại thê thảm. Những công ty quốc doanh không tạo được sản phẩm, lại lối
quản trị, làm việc lề mề, nên trở thành gánh nặng cho quốc gia. Những nông
trường khai hoang, hoặc vùng kinh tế mới, làm theo chỉ thị và lấy có nên không
có kết quả, và có thể là nơi lưu đày của những người sống ở thành phố. Về phân
phối hàng hóa, thì ngăn sông chắn chợ, gây phiền hà cho dân. Rồi chiến dịch đánh
tư sản, kiểm kê tài sản, những cuộc vơ vét, tịch thu của cải. Tóm lại, là cả một
xã hội xuống cấp trầm trọng, tự do hạn chế, dân chúng nghèo khổ,..
Đọc Hồi ký Tập
3 của Nguyễn Hiến Lê, tôi có cảm giác như đang đọc một bản cáo trạng buộc tội
chế độ Cộng sản một cách rất nặng nề. Trong hơn 200 trang giấy, ông viết thật
chân thành, nêu lên những sự thực và gửi theo những nỗi niềm đau lòng của một
người đã thức tỉnh dù hơi muộn màng. Dù được kể vào hàng nhà văn tiến bộ, và
được chế độ mới dành cho nhiều ưu đãi cũng như mời mọc để tham dự các buổi lễ
cũng như các sinh hoạt văn hóa nhưng ông tránh né và luôn luôn làm người đứng
ngoài.
Đọc những đoạn
văn, viết thẳng thắn, không sợ sệt, không né tránh sự thực, tôi mới thấy cái tư
cách kẻ sĩ vòi vọi của ông. Có những người, hồi trước thiên Cộng, nay muốn thay
đổi suy tư mà vẫn chưa dám mạnh dạn, vẫn còn nói quanh nói co, không dám chấp
nhận cái sai sót của mình. Còn với ông Nguyễn Hiến Lê, nghĩ gì viết nấy, không
có áp lực nào làm ông thay đổi được thái độ.
Hãy đọc đoạn
ông viết về phong trào vượt biên :
“Từ năm 1977,
người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một
bà già nông dân miền Tây phải nói ”Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi” Dù phải
gian lao khổ cực tới mức nào hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá
mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy..”
(trang 109)
Hay : ”Người
ta nhận định sai về tình trạng miền Nam.Trước ngày 30 - 4 -1975, miền Nma rất
chia rẽ, nhiều giáo phái đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống,
kỹ thuật, nghệ thuật, văn hóa nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc
sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với
người ngoại quốc.., cả về đạo đức nữa, vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ,
ít gian tham ( tôi nói số đông) ít chịu làm cái công việc bỉ ổi là tố cáo người
hàng xóm chứ đừng nói tới người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp
như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi
là ngụy hết nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau : cùng là ngụy với nhau
mà!..” (trang 115)
Hoặc : ”làm
cho người dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi
5-6 năm, có thể là 10 năm, bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự
thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền. Lệnh
trung ương ban hành, địa phương không theo, làm ngược hẳn lại, lương hưu trí
không phát, tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không cho rút ra mà không thẳng thắn
cho họ biết lý do, cứ làm thinh để dân chờ hết ngày này qua năm khác, chờ chán
thì tuyệt vọng thôi không đòi hỏi nữa; cho người ta vượt biên bán chính thức,
thu của mỗi người bao nhiêu lượng vàng rồi bỗng nhiên ngưng lại hết mà không trả
đủ vàng lại cho người ta; thâu thuế của người ta và cho phép bán ở chợ trời rồi
đột nhiên bao vây cả một khu, tịch thu hết hàng hóa; khi chưa nắm chính quyền
thì hứa sẽ bỏ hết các thuế chợ, chia đất cho dân cày,, nắm chính quyền được ít
lâu thì thuế chợ còn nặng hơn trước, mới chia đất cho dân thì đã bắt đầu vào hợp
tác xã nông nghiệp, bỏ quyền làm chủ miếng đất của họ mà làm chủ tập thể ; tuyên
bố với quốc dân và thế giới rằng miền Nam theo chế độ dân chủ, trung lập, rồi
một năm sau đã thống nhất quốc gia, hủy bỏ chế độ đó, bắt miền Nam theo chế độ
xã hội chủ nghĩa như miền Bắc; báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một
chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính các cán bộ ở bưng về cũng phàn
nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao dân tin chính quyền được..”
(trang 119-120)
Và rất nhiều
những đoạn tương tự như thế trong tập hồi ký. Viết hồi ký có phải là ghi lại
trung thực những sự kiện. Tôi nghĩ như thế. Và xa xôi hơn, trong hoàn cảnh lúc
đó, trong sự theo dõi nghặt nghèo như vậy, ông Nguyễn Hiến Lê đã viết được những
trang sách để đời. Những người lớp sau, đọc những trang sách ấy, không còn bị
che dấu bởi những lối viết mập mờ của những người viết không dám nói lên sự
thực. Ngay như một người đi theo Cộng sản đến cuối đời như Thiếu Sơn Lê Sĩ Quí
mà còn nói : “Thời trước mình viết, ngụy nó bỏ tù mình cũng không sao, bây giờ
mà viết để cho cách mạng bắt giam mình thì kỳ quá mà lại kẹt cho họ nữa”
Tôi là một
người đọc rất nhiều sách của tác gỉa Nguyễn Hiến Lê, hầu như trên lãnh vực nào
tôi cũng học hỏi được rất nhiều. Với tôi, ông là một ông thầy lớn, một học giả
uyên bác, một người khảo cứu sâu sắc và cẩn trọng. Nhưng, còn một điều quan
trọng hơn nữa là tôi kính phục cái tư cách kẻ sĩ của ông. Qua bộ hồi ký, ông tỏ
lộ được cá tính của mình, của một người trí thức không bẻ cong sự thực. Và, ông
đã can đảm nói lên cái nhầm lẫn của mình khi chưa sống với Cộng Sản. Ông là một
trí thức đúng nghĩa trí thức …
( thanh huynh hthanhtha2000@yahoo.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001