Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

Tìm hiểu về Vũ khí tối hậu: Chương trình HAARP




Vũ khí thời tiết có thể gây thiên tai tương đương thảm họa sóng thần ở Nhật Bản năm 2011.
Được biết nhiều cường quốc đang ráo riết nghiên cứu vũ khí tối hậu này 

WikiLeak tiết lộ thông tin diễn biến của 2012 mà NASA không công bố cho công chúng
WikiLeak tiết lộ: Obama đã gửi " 2012 ALICE Bunker ” từ Spiral Na Uy
Từ thông tin bị rò rỉ của Obama về đề án "2012 ALICE Bunker" thuộc Chính Phủ Mỹ.

Một hiện tượng kỳ lạ , ánh sáng xoắn ốc trên bầu trời được nhìn thấy ở Skjervoy, Na Uy.

Theo whatdoesitmean.com
The Spiral Na Uy, tin tức này đã bị rò rỉ trước đây, và đã được báo cáo vào tháng 12- 2009. Trong đó họ ghi nhận sự kiện bí ẩn này có liên hệ với cả hai chương hoạt động của American, nghiên cứu cực quang ( HAARP ) và Large Hadron Collider ( LHC) của CERN , cả hai đã được tiến hành điều tra vào thời điểm đó.

Trong tháng 6, 2010 họ cũng báo cáo về các sự kiện thời tiết thảm khốc xảy ra, cho biết có liên quan đến Spiral Na Uy trên toàn bộ Bắc bán cầu. Gần như chính xác là một năm sau đó, là những thảm họa thiên nhiên xảy ra dưới sự ảnh hưởng to lớn do hệ Bắc Cực giảm mạnh về phía nam, về phía xích đạo, làm hàng chục triệu người ở Mỹ, Anh, châu Âu và châu Á đóng băng trong tuyết rơi giá lạnh chưa từng có.

Theo báo cáo này, Đại sứ quán Mỹ ở Oslo, Na Uy, đã gửi một "Tối Mật" "USNORTHCOM" nêu rõ sau đây:

1. (S) RNoAF phản ứng bất thường hình xoắn ốc HAARP / CERN đã được giới hạn tới 175 km. với các thông số thử nghiệm đã gặp trong 3degrees truy cập hồ quang.

2. (S) Post đề nghị kích hoạt chương trình 2012 dự án ALICE Bunker cho POTUS / SECDEF "

Báo cáo này GRU tiếp tục giải thích rất nhiều các điều khoản được sử dụng, bao gồm:

1) Nhận dạng đối tượng NORWAY: CI / KR TRẢ LỜI CHO USNORTHCOM có nghĩa là một cơ sở hạ tầng quan trọng và tài nguyên quan trọng (CI / KR) báo cáo từ Đại sứ quán Mỹ ở Oslo gởi về miền Bắc Hoa Kỳ (USNORTHCOM).

2) Việc phân loại TOP SECRET mô tả một thuật ngữ có thẩm quyền được sử dụng bởi lệnh của Tổng thống Obama 13.526 rằng thông tin mà "tiết lộ trái phép dự kiến sẽ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia . "

3) NODIS USNORTHCOM Thiếu tướng Thompson đề cập đến các phương thức truyền dẫn được sử dụng để gửi thông tin này, trong trường hợp này NASA Chỉ thị Hệ thống thông tin (NODIS) và người nhận USNORTHCOM.

4) NSPD 51/HSPD-20: DECL: 2019/03/20 TAG EXDIS, ROGER, DOCKLAMP đề cập đến thẩm quyền thông tin này được gửi, trong trường hợp này là An ninh Quốc gia Mỹ, Tổng thống Chỉ thị ( NSPD 51 ) và An ninh Nội địa ,Tổng thống Chỉ thị ( HSPD-20 ). EXDIS, ROGER, DOCKLAMP cấp tham khảo khác có thẩm quyền với thông tin này, có thể được gửi thông qua.

5) Các tài liệu tham khảo ghi RNoAF là Lực lượng Không quân Hoàng gia Na Uy.

Hiện tượng Bí ẩn dị thường này" kết hợp "với cả hai HAARP và CERN là điều đáng quan tâm.

Những gì có thể được suy ra, mặc dù là bất cứ điều gì xảy ra với Na Uy vào ngày 08 tháng 12, gây ra một trạng thái báo động trong quân đội Mỹ, họ tư vấn cho Tổng thống và Bộ trưởng Quốc phòng về nơi trú ẩn trong một hầm chưa được xác định . Sau khi "sự kiện" này xảy ra, Nhà Trắng Mỹ đã bắt đầu xây dựng dự án, những gì được mô tả là lớn, và bí mật.

Điều đáng ngại nhất của các thông tin này là nói đến năm 2012, đặc biệt thông tin về một đường hầm được xây dựng và sử dụng bởi các quan chức chính trị và quân sự hàng đầu của Mỹ. Làm cho mọi người bối rối trước những lời tiên tri cổ xưa, vốn có nhiều liên kết với các thông tin trên.

Trên hết, từ những thông tin này rõ ràng cho thấy, và chắc chắn là sự quan tâm của mọi người. Vì sao lớp lãnh đạo của Mỹ không thông báo đại chúng cho công dân của họ về những diễn biến của thế giới đang sống, sự thật là như thế nào, và ngày càng tăng các mối nguy hiểm mà con người sẽ sớm phải đối mặt.

Thông tin về HAARP từ AUSTRALIA:




Thông tin Úc đã cảnh báo " thời tiết rất kỳ lạ đang diễn ra ở phía tây nam của Úc ".



Các hình ảnh trên là những thông tin đã được gửi bởi vệ tinh thời tiết của Australia, trong đó cho thấy có một vòng băng rộng bao gồm hàng trăm dặm về phía tây nam của Úc với một dấu chấm nhỏ (có lẽ là điện toán đám mây) được hiển thị đúng ngay trung tâm.

Các hình ảnh vệ tinh được thực hiện lúc 16:30 UTC. Nó xuất hiện rất lớn ở phía tây Australia, nơi vòng bí ẩn lớn xuất hiện hình thành ngoài khơi bờ biển và từ trung tâm vòng bí ẩn lớn xuất hiện ba cánh tay xoắn ốc nhỏ, được nhìn thấy đang di chuyển ra khỏi khu vực, về phía đông bắc. Đây là một trong những hiệu ứng thời tiết hoặc các hiện tượng đang được điều tra bởi HAARP và đang được quan sát. Nó hy vọng sẽ nhận được một lời giải thích từ Văn phòng Thời tiết Chính phủ Úc cho các hàng loạt các hiệu ứng lạ.





Phần còn lại của hình tròn khổng lồ di chuyển ra phía đông bắc như một số cánh tay xoắn ốc nhỏ. Hình ảnh vệ tinh của Chính phủ Úc.
Một báo cáo gởi cho Thủ tướng Putin bởi Giám đốc tình báo quân đội nước ngoài ( GRU ) trên hàng ngàn tài liệu mật của Mỹ bị rò rỉ bởi các trang web châu Âu. WikiLeaks nói rằng Tổng thống Obama và Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã đưa ra phương án mà chính phủ Mỹ gọi là "2012 ALICE Bunker” vào cuối tháng mười hai (2009) sau khi có sự xuất hiện của hiện tượng bí ẩn kỳ lạ được biết đến với tên gọi " Spiral Na Uy "

Theo: Vn-zoom

TinParis. Chương trình nghiên cứu HAARP của Bộ Quốc Phòng Mỹ  đã khởi sự  từ thập niên 80 và tiếp tục  đến bây giờ. Tài liệu dưới đây  do thân hữu Lê Việt  Thường chuyển ngữ cho chúng ta thấy sự " khốc hại " của chương trình với hệ quả khôn lường được nếu  áp dụng vào việc chế tạo  các loại " vũ khí tối hậu ".


VŨ KHÍ TỐI HẬU ! THIÊN THẦN KHÔNG ĐÁNH LOẠI ĐÀN “HAARP” NÀY !



Là kế thừa trên mặt đất của chương trình “Star Wars” (chiến tranh “ngôi sao”), dự án HAARP với những năng lực phi thường và tính đa năng của “nó” là “Vũ Khí Tối Hậu” của Hoa Kỳ.

Phải chăng người Mỹ đang hoàn chỉnh một hệ thống vũ khí rộng lớn có khả năng:

  • “rà hình” lòng  Trái Đất đề tìm kiếm các căn cứ bí mật,
  • ngăn chận mọi hình thức truyền thanh bằng làn sóng điện từ,
  • gây ảnh hưởng trên hành vi của con người,
  • làm thay đổi thời tiết,
  • “nướng” các phi cơ đang bay trên trời tương tự cách thức làm của một cái “micro-wave” thông thường đối với tô “súp” của bạn,
  • gây nên những trận động đất
  • hay những tiếng nổ lớn cỡ một quả bom nguyên tử. 
Với chương trình “Haarp” này, quân đội HK đang tái bản , dưới một hình thức tiết kiệm và còn nguy hiểm hơn nữa, dự án “Star Wars” (hay chiến tranh “ngôi sao”). Có một chút khác biệt: vấn đề lần này liên quan đến một cơ sở được đặt trên mặt đất.

Nhiều nhà khoa học, chuyên viên vũ khí và các dân biểu của Quốc Hội Âu Châu tỏ ra quan ngại, [đó là một uyển ngữ (tức một lối nói trại cho nhẹ đi đối với một thực tế mà ta “cảm thấy không thích thú chút nào”!)] bởi sự phát triển của dự án này. Vậy nên, một chuyên viên năng lượng, Gratan Healy, cố vấn cạnh các dân biểu của Quốc Hội Âu Châu, hiện đang sưu tập các bằng chứng nhằm tố cáo dự án có nguy cơ  đưa tới “tận thế” này.      

Magda Haalvoet, một dân biểu Âu Châu gốc Bỉ, trưởng nhóm Môi Sinh tại Quốc Hội Âu Châu, đang nắm trong tay hồ sơ liên hệ. Bà này theo dõi một cách chính thức các lời yêu cầu “làm sáng tỏ” của các thành viên của nhóm bà và sẽ vận động để Quốc Hội Âu Châu làm áp lực, qua trung gian của tổ chức Bắc Đại Tây Dương, hầu Hoa Kỳ trả lời tất cả các câu hỏi hữu ích liên quan đến tập hồ sơ này; bà Magda Haalvoet đang lo lắng. Bà còn khẳng định rằng loại vũ khí gọi là “không gây chết người” này (“non lethal weaponery”) ngoài những tai họa mà “nó” gây ra về mặt môi sinh, “có thể làm nguy hại đến chính nền tảng Dân Chủ và các Tự Do cá nhân”. (Giá phải trả) không ít hơn đâu. 30 triệu đô-la.         

Các chữ viết tắt có nghĩa bằng Anh ngữ “"High-frequency Active Auroral Research Project" (Dự án nghiên cứu trong lãnh vực các tần số cao tốc áp dụng vào các buổi rạng đông của vùng Bắc Cực). Trước tiên, đàng sau các chữ viết tắt hơi có tính bí truyền này, ẩn dấu một dự án với kinh phí 30 triệu đô la mỗi năm mà quân đội HK trình bày như những nghiên cứu vô hại về tầng điện ly (ionosphere). Những người đề xướng dự án này không tiếc công của qua những chiến dịch quảng cáo và trấn an dư luận quần chúng HK của họ . Tuy nhiên, quả là điều khó tin nếu bảo dự án này không nhắm vào các mục tiêu quân sự khi mà những cơ quan đỡ đầu cho “nó” là Hải Quân, Không Quân và bộ Quốc Phòng HK.

Chương trình “Haarp” có “hình dáng” như thế nào trên thực tế ? Đó là một cơ sở rộng lớn mà diện tích chiếm nhiều mẫu tây tại Gakona, một địa phương nhỏ ở phía Đông Bắc của thành phố Anchorage thuộc tiểu bang Alaska. Địa điểm cũng không quá hoang vắng vì cơ sở này nối liền với nhau những dự trữ thiên nhiên mênh mông về dầu khí thuộc công ty Arco, còn là sở hữu chủ các bằng sáng chế kỹ thuật và đang làm “bình phong tài chánh” cho các thiết bị của chương trình “Haarp”.     

Ngoài ra, “Haarp” được nối với một trong những máy điện toán mạnh nhất hoàn vũ đặt tại Đại Học Alaska trong tòa nhà Butrovich ( http://www.haarp.alaska.edu/ ). Tóm tắt, về “ngoại hình”, đó là một chu vi rộng lớn bằng phẳng với cây cối bị chặt sạch, với 48  “ăn-ten” chiều cao là 20 mét được cắm tại đây, mỗi “ăn-ten” được nối liền với một máy phát sóng với năng suất dưới 1 triệu watts một chút. Khi hoàn tất, số lượng “ăn-ten” và năng suất của máy phát sóng sẽ gia tăng để đạt đến mức độ mà tự thân là một “hiện tượng” với 1 tỷ watts được phát ra bởi một hệ thống gồm 360 “ăn-ten”. Các máy phát sóng sẽ được cung cấp nhiên liệu bởi 6 cái “turbine” lên tới 3600 mã lực đốt khoảng 95 tấn dầu cặn mỗi ngày.




  • DÙNG ĐỂ LÀM GÌ ?
Trên mặt chính thức, các nhà khoa học làm việc trên máy phát thanh có tính cách « hoang tưởng tự đại » này, muốn nghiên cứu tầng điện ly (ionosphère). Nhưng một cách phi chính thức, Haarp lợi dụng tầng điện ly để biến « nó » thành một vũ khí năng lượng. Tầng điện ly là tầng khí quyển nằm trên tầng bình lưu (stratosphère), được cấu tạo bởi các hạt  bị « ion » hóa mang một khối lớn năng lượng, bắt đầu ở độ cao trung bình là 48 km để chấm dứt ở độ cao là 600 km tính từ mặt đất. Tầng khí quyển với mật độ năng lượng cao này có tính cách « sống còn » đối với hành tinh của chúng ta  vì nó đóng một vai trò nền tảng như là cái « chắn » tương tự tầng « ozone » vậy. « Nó  che chở » chúng ta chống lại những chất độc hại do mặt trời thải ra. Tầng điện ly « nắm bắt » nhiều thứ trong đó có các hạt điện từ phát sinh từ những trận gió bão do mặt trời hay các thiên hà gây ra. Người ta còn biết qua các công trình nguyên cứu được hướng dẫn từ một thế kỷ nay bởi một loạt các nhà khoa học, cho thấy rằng « tấm áo choàng năng lượng » này đang « che chở » trái đất, nếu đi kèm với một kỹ thuật thích hợp, có thể trở thành một vũ khí chiến lược hàng đầu.   

Dự án « Haarp » dựa trên các nghiên cứu của Bernard Eastlund được gợi hứng từ các công trình của Nikola Tesla, một khoa học gia gốc « Croate », nhà phát minh thiên tài của đầu thế kỷ 20 với dòng điện xoay chiều ( bị Edison công kích vì ông này chủ trương dòng điện liên tục) và dòng điện « ba tầng điện áp hàm sin » (triphasé).....Tesla đặc biệt hoàn chỉnh một thủ tục nhằm chuyển đi những số lượng điện năng lớn trên một khoảng cách 42 cây số mà không cần đến hệ thống « dây cáp ». Và Tesla đã dành một phần quan trọng công trình nghiên cứu của mình cho « năng lượng của tầng điện ly » và các hiện tượng điện từ. Công trình của Tesla được tài trợ, khai thông, rồi bị kiểm duyệt cắt bỏ vì lý do tài chánh bởi « ông chủ » ngân hàng JP Morgan và công ty Westinghouse (xem Thiên Tài xuất chúng Nikola Tesla và cách thức chỉ đạo một cuộc chiến tranh vi trùng và tâm lý).

Gần một thế kỷ sau, Bernard Eastlund chỉ lấy lại công trình nghiên cứu đầu tiên của Tesla để thích nghi vào lãnh vực năng lượng điện từ. Và bằng cách đó, B. Eastlund đã đăng ký mười hai bằng sáng chế trong khoảng thời gian giữa năm 1987 và 1994, làm nên cái sườn của dự án « Haarp » và các kỹ thuật kèm theo trong lãnh vực vũ khí. Sở hữu chủ và thực thể khai thác thực sự các bằng sáng chế nêu trên không còn là Eastlung (cuối cùng bị « hất cẳng » ra khỏi dự án với những lý do mù mờ) mà là công ty Apti-Arco, một tổ hợp dầu hỏa mà đàng sau thấp thoáng « bóng dáng » của Hải Quân, Không Quân và bộ Quốc Phòng H.K. Từ khi các bằng sáng chế của Eastlund được đăng ký, tất cả công trình nghiên cứu khác trong lãnh vực năng lượng điện từ, cho các mục tiêu Y Học chẳng hạn, bị  ngăn chận. Vậy nên, một lãnh vực rộng lớn đầy hứa hẹn của Khoa Học và Y Học đã bị độc quyền hóa bởi các thế lực tài chánh gắn liền với Quân Đội HK.


  • HOẠT ĐỘNG LÀM SAO ?
Đại khái thì tất cả kỹ thuật mà dự án « Harrp » chứa đựng là nhằm chỉa vào tầng điện ly (ionosphere) một « chùm sóng » (tương tự hoạt động của một máy phát thanh) với tần số cao tốc để xem điều gì sẽ xảy ra ở đây. Việc « nả pháo » vào một vùng nào đó của tầng điện ly đưa tới kết quả  là tạo nên một tấm kiếng « ảo » khổng lồ hoạt động như một « ăn-ten ». Cái « ăn-ten » ảo này phát ngược lại phía trái đất, những tần số hết sức thấp (ELF : extremely low frequency). Và để dùng một hình ảnh, ngoài tác dụng của một cái « ăn-ten » ảo được giương ra trên trời, người ta còn tạo ra một loại « micro- wave » trong khu vực liên hệ của tầng điện ly. Sẽ là điều « bất hạnh » cho những máy bay và hỏa tiển nào bay ngang qua vào lúc đó. Tùy năng lực của máy phát sóng, người ta có thể làm xáo trộn các hệ thống điều khiển điện tử, « radar » và các máy phát thanh của các hỏa tiển và máy bay liên hệ, hoặc ngay cả « nướng » chúng.      



Ngoài ra, nhờ « ăn-ten » ảo được tạo thành bởi các làn sóng với tần số hết sức thấp, người ra thực sự có thể « rà hình » vỏ trái đất ở những tầng đất hết sức sâu mà kết quả đạt được tương tự một hình chụp quang tuyến X vỏ trái đất vậy. Cho nên, giới quân sự HK tỏ ra hãnh diện khi khẳng định rằng nhờ « Haarp » mà sẽ không có nước nào có thể che dấu họ được nữa khi xây cất các cơ sở bí mật trong lòng đất nhằm ẩn dấu các vũ khí hạt nhân.....Theo các cuộc nghiên cứu của các chuyên viên vũ khí HK, người ta cũng có thể liên lạc với các tiềm thủy đỉnh lặn sâu dưới đáy biển ở tận những vùng hẻo lánh nhất dưới các đại dương, phát hiện rồi phá hủy mọi hỏa tiển hay máy bay xâm phạm không phận HK, dẫu cách lén lút.

Mục tiêu tối hậu là khai sinh ra một cái « chắn » với tỷ xích toàn cầu có khả năng sàng lọc ra được các mục tiêu thù nghịch, hạt nhân hay quy ước, và đáp trả lại một cách tương xứng. Cuối cùng,mục tiêu trên hết của « Harrp » là ngăn chận mọi liên lạc « thù nghịch » bằng phát thanh  và vệ tinh trong một vùng nhất định. Ngoài ra, với sự hoàn tất của dự án này, hệ thống truyền thông của HK sẽ trở thành hầu như không thể bị xâm phạm được. Đó là lối giải thích chính thức. 

  • MỤC TIÊU « KHUẤT TẤT »
Dựa trên các công trình và bằng sáng chế của Easdlund, các khoa học gia, nhà nghiên cứu, nhà báo và nhà hoạt động môi sinh đã dấn thân thực sự vào vai trò « thám tử » của họ trong « cuộc chơi » với quân đội Mỹ nhằm xác định những khía cạnh khác của dự án « Haarp » mà Không Quân và Hải Quân HK không muốn tiết lộ ra với dư luận.

 Trong nhóm người kể trên, có Ts Rosalie Bertell một nữ khoa học gia cao cấp, trước đây không lâu, đã được chính quyền Reagan chỉ định như là chuyên viên nghiên cứu các hậu quả của dự án vũ khí « Star Wars ». Hiện nay, bà giữ vai trò cố vấn cạnh Quốc Hội Âu Châu liên quan đến dự án « Haarp ». Hoặc còn có Ts Nick Begich, một nhà môi sinh với lòng tin tràn đầy vào lý tưởng của mình và Jeanne Manning, một ký giả độc lập chuyên nghiên cứu vấn đề năng lượng có tên là « phi quy ước », cả hai người đồng tác giả một cuốn sách có nội dung chống lại dự án « Haarp » với tựa đề gợi hình là « Angels don’t play this Haarp », đã nổi tiếng ở bên kia bờ Đại Tây Dương và dựa trên những dữ kiện đứng đắn, đã tiết lộ các loại áp dụng có tính cách « khuất tất » của dự án này. Kết quả của cuộc điều tra của họ đã được xác nhận bởi các bằng chứng đến từ các nhà khoa học khác như Gs Zielinski, một nhà vật lý gốc Đức chuyên về ngành động lực điện lượng tử hoặc nhà hóa học gốc Mỹ Richard Williams. Danh sách những nhà khoa học chỉ trích dự án « Haarp » không đếm xuể.


  • KIỂM SOÁT TƯ TƯỞNG
Theo ý kiến của các nhà khoa học này, giới quân sự HK mới ở giai đoạn thử nghiệm các công trình của họ, nhưng những kết quả được ghi nhận rất đầy hứa hẹn. Vậy nên, bằng cách « phun » những khối năng lượng lớn vào tầng điện ly (inosphere), người ta có thể ảnh hưởng trên thời tiết để gây nên những hậu quả tốt đẹp trên một vùng này.....hoặc kinh hoàng trên một vùng khác    

Bằng cách nào ? Rất giản dị bằng cách thay đổi cách « giao lưu » của gió ở phần trên tầng khí quyển, nơi bắt đầu có tác động qua lại giữa gió và tầng điện ly. Người ta cũng có thể gây nên sự « giải phóng » đột ngột một khối năng lượng khổng lồ bằng cách bắt chước chẳng hạn, hiện tượng loé sáng gây ra bởi một vụ nổ bom nguyên tử trên không trung. Một loại hoạt động quân sự không thuộc lãnh vực khoa học giả tưởng chút nào , vì « nó » đã được sử dụng trên trận địa vào năm 1991 khi có chiến tranh  vùng Vịnh với cuộc hành quân « Desert Storm ». Theo tạp chí quân sự chính thức xuất bản định kỳ « Defence News » ( số 19 ngày 13/04/1992), Hoa Kỳ đã dàn trên trận địa một vũ khí với « xung động do điện từ » (EMP Weapon) nhằm đạt hai mục tiêu : « nó » cho phép giống như một vụ nổ hạt nhân, ngăn chận mọi hình thức truyền thanh bên phía địch và gây nên một hậu quả đáng sợ trong lãnh vực chiến tranh tâm lý. Người ta hiểu hơn trong trường hợp này tại sao hàng chục ngàn binh lính Irak đã không chiến đấu mà đầu hàng. Một áp dụng khác của kỹ thuật « Haarp » : chuyển một khối năng lượng lớn từ điểm này qua điểm khác mà không cần đến hệ thống « dây cáp ». Hữu ích chẳng hạn để tiếp tế điện lực từ xa cho bộ « ác quy » của một tiềm thủy đỉnh.    

Nhưng có một lãnh vực áp dụng còn kinh khiếp hơn nữa, mà giới quân sự HK có thể lợi dụng qua dự án « Haarp ». Nếu căn cứ trên khía cạnh tiêu cực của  Không Quân HK và nhất là cơ quan CIA được thấy qua các thử nghiệm hoá học và vi trùng trong quá khứ, thì ta có thế suy đoán được rằng giới quân sự HK không thể thoát khỏi sự « cám dỗ » sử dụng « Haarp » như là một vũ khí đa năng. Thật vậy, người ta còn nhớ những thử nghiệm khủng khiếp đã được họ bí mật thực hiện trên những người bị cưỡng bách tòng quân đáng thương dạo nào, đã bị họ tiêm những số lượng ma túy lớn nhằm thay đổi hành vi của những ngưới này. Hoặc những thử nghiệm bằng làn sóng nhằm ảnh hưởng trên các hoạt động của não bộ : từ năm 1952, Ts Jose Delgano, Gs tại Đại Học Yale, đã khám phá ra rằng thái độ hành vi về phương diện cảm tính  và lề lối suy tư của một cá nhân có thể bị ảnh hưởng bởi sự sử dụng một vài loại tần số và làn sóng.

Ts Nick Begich, đồng tác giả cuốn sách « Angels don’t play this Haarp » nay đã được dịch ra Pháp ngữ với tựa đề : « Les anges ne jouent pas de cette Haarp » (= Thiên Thần không đánh loại đàn « Haarp » này) với nhà xuất bản Louise Courteau, không chút do dự khi khẳng định rằng một trong những mục tiêu của dự án Haarp là cho thành hình một loại vũ khí như vậy : « Quả là điều đáng nghi ngờ nếu các người trong ban tổ chức dự án Haarp không bao giờ bàn cãi về loại nghiên cứu này. Theo các nguồn tin riêng của tôi, tất cả những người liên hệ đến dự án này trên thực tế đang ở giai đoạn đầu tiên của việc phát triển loại ứng dụng này. Các nhà khoa học như Delgano hay cả Ts Robert Becker đã thành công trong việc chứng minh rằng các làn sóng loại ELF giống đúc loại được Haarp sử dụng kèm với luồng điện xoay chiều, làm phát sinh những tần số «  mà đa số các chức năng thâm sâu của não bộ con người có thể bị chi phối từ bên ngoài với những kết quả rất xác thực ». Thật vậy, một vài làn sóng có thể làm xuất hiện trong não các chất hóa học hữu cơ làm phát sinh, theo Ts Begich, « một kho những đối đáp và hành xử có tính trí thức hay cảm tính như các tình cảm sợ hãi, trầm uất, ham muốn, yêu đương.....vv.....         

Loại kỹ thuật này không bị các chiến lược gia của Ngũ Giác Đài tuyệt đối từ khước, trái lại là đàng khác. Bằng chứng là người ta có thể đọc trong một nội san (Cách mạng trong các vấn đề quân sự - Viện Nghiên Cứu Chiến Lược – Trường Chiến Tranh Quân Sự) không giả thiết rơi vào tay của giới dân sự quan niệm sau đây : « Các giá trị của chúng ta thay đổi và kỹ thuật mở ra những chân trời mới. Không lâu trước đây, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, các hoạt động và vũ khí tâm lý còn ở trạng thái thô sơ. 
Trong khi đi thẳng vào kỷ nguyên điện tử và sinh điện tử, chúng ta có nhu cầu phải tái thẩm định các hàng rào luân lý đạo đức mà chúng ta đã đặt ra bằng cách ngăn cấm (mọi kỹ thuật) có thể tác động trên tâm thần của kẻ thù chúng ta cả trong nước lẫn ở bình diện quốc tế.....Khi nào có thể được, chúng ta sẽ khuyến khích ngay các công ty tư nhân hoặc bán tư nhân phát triển một loại kỹ thuật thích hợp.....Chúng ta cũng sẽ hành xử tương tự với các loại vũ khí mới như vũ khí vi trùng « làm mất hết khả năng » và các vũ khí tâm-kỹ (tâm lý-kỹ thuật) tân tiến.....
                       

  • CÁI « CHẮN » TOÀN CẦU
Sử dụng các làn sóng và các tính chất điện từ của « chúng » là một vũ khí  hữu hiệu « kinh khủng ». Ts Rosalye Bertell khẳng định rằng người Mỹ đã thí nghiệm mà không cho ai hay và nhất là bất chấp các công ước quốc tế, loại vũ khí này từ hơn bốn mươi năm qua. Một loạt dự án tiếp nối nhau : « Argus » (1958), « Starfish » (1962), « Solar Power Satellite » (1968 và 1978), « Space Shuttle Experiments » (1985), « Mighty Oaks » (1986) hay « Desert Storm » (1991), mà mục tiêu chung là vận dụng tầng điện ly (ionosphere) và một vài làn sóng với những lý do khác nhau : làm gián đoạn truyền thông của địch, các loại vũ khí « phi vật chất ».....vvv.....  

Vậy nên, tính đến thời điểm này, « Haarp » là « chương » cuối của loạt dự án kể trên. Người Mỹ còn dự định phát triển thực sự một mạng lưới các đài phát sóng tương tự khắp toàn cầu nhằm tạo nên một cái « chắn » có khả năng điều chỉnh toàn bộ. Do đó hiện hữu những trung tâm nghiên cứu phức hợp khác về tầng điện ly như ở Puerto Rico, ở Na Uy tại Tromsoe, ở Pérou tại Jicamarca, ở Nga Sô (gần Moscou) hay còn tại Nizhny Novogorod, ở Ukraine hoặc tại Tadjikistan.....

Những căn cứ nghiên cứu về Ionosphère của Mỹ rải rác trên toàn cầu  nhhu trong hình dưới đây



Nguồn : « Telemoustique tháng 11/1997. Alain Gossens »/ 


HAARP – Vũ khí địa-vật lý của Mỹ

Theo đánh giá của các chuyên gia, tầm quan trọng của bước nhảy vọt về chất lượng trong hệ thống các loại vũ khí dựa trên những nguyên lý vật lý mới có thể sánh với việc chuyển từ vũ khí lạnh sang hỏa khí hay từ vũ khí thông thường sang vũ khí hạt nhân.
Những nguyên lý vật lý mới thường được biết đến và được mô tả trong các cuốn sách giáo khoa, song bản thân “sự mới mẻ” này được quy định bởi tính chất đầu tiên của việc ứng dụng các “hiệu ứng”, “đặc tính” hay “quy luật” vào các loại kỹ thuật hay vật liệu ứng dụng quân sự mới (sinh học, hóa học, điều khiển tâm lý, thông tin, địa-vật lý…).

Những người đặt nền móng cho việc chế tạo vũ khí địa-vật lý hiện đại là các nhà vật lý vô tuyến điện. Hệ thống HAARP (High Frequency Active Auroral Research Program) của Mỹ là một hệ thống như vậy. Điểm khác biệt của vũ khí địa-vật lý mới là sử dụng môi trường gần trái đất làm thành phần cấu thành và đối tượng tác động hủy diệt đối với đối phương.
Những thử nghiệm đầu tiên của vũ khí vật lý vô tuyến điện và địa-vật lý mới của Mỹ theo chương trình HAARP cho thấy khả năng to lớn của nó. Bằng cách gia tăng công suất, hệ thống cho phép phong tỏa liên lạc vô tuyến điện, loại khỏi vòng chiến thiết bị điện tử trên khoang của tên lửa, máy bay và vệ tinh trên vũ trụ, gây ra những sự cố quy mô lớn trong các lưới điện và trên các tuyến đường ống dẫn dầu, dẫn khí đốt, tác động xấu tới trạng thái tâm lý và tình trạng thể chất của con người…



Name:  haarp-howItworks.jpg
Views: 785
Size:  36.0 KB


Sơ đồ nguyên lý hoạt động của HAARP


Nhược điểm chính ở đây là vũ khí này không thể coi là vũ khí chính xác cao. Đồng thời, việc giới quân sự và các cơ quan đặc vụ sử dụng các đặc điểm hành tinh phức tạp của cấu tạo trái đất và các trường điện từ của trái đất cho phép tạo ra loại vũ khí hủy diệt lớn.
Điều thú vị là những thiết bị vật lý vô tuyến điện công suất lớn đầu tiên của Mỹ dùng để tác động tới các tầng trên của khí quyển, nung nóng nó và điều tiêu “tia chết” vào những khu vực địa lý nhất định đang được xây dựng sao cho 3 cỗ máy đầu tiên sẽ tạo ra một vòng tròn khép kín bao trùm chính nước Nga. Một trạm được đặt tại Alaska, hai trạm khác bố trí ở Greenland và Nauy.

Nguyên lý hoạt động và sự phát triển

Các nguyên lý vật lý của vũ khí vật lý vô tuyến điện được luận cứ từ đầu thế kỷ XX bởi nhà vật lý thiên tài Nikola Tesla. Nhà bác học này đã xây dựng các phương pháp truyền điện năng qua môi trường tự nhiên đi qua bất kỳ khoảng cách nào. Tiếp đó là việc hoàn thiện lý luận và tiến hành các thí nghiệm đã xác nhận khả năng tạo ra “các tia chết” tự lan truyền qua khí quyển hay mặt đất và điều tiêu nó vào khu vực cần thiết trên địa cầu.
Dự án đó của Mỹ trong thập niên 1960 có tên gọi HAARP (High Frequency Active Auroral Research Program). Các công trình nghiên cứu cơ bản của N. Tesla được Mỹ che giấu trong nhiều năm với thế giới khoa học và công luận nhằm che giấu nguồn gốc các dự án nghiên cứu mật có tên gọi “Chiến tranh giữa các vì sao”, “Sáng kiến phòng thủ chiến lược” (SDI)…

Xin trích dẫn từ một bài báo trên tờ New York Times ngày 22.9.1940: “Nikola Tesla, một trong những nhà phát minh thực sự vĩ đại, ngày 10.7 đã kỷ niệm sinh nhật thứ 84 của mình, đã kể với tác giả rằng, ông sẵn sàng thông tin cho chính phủ Hoa Kỳ bí mật “tác động qua khoảng cách” mà nhờ đó, như ông nói, có thể làm nóng chảy các máy bay và ô tô ở khoảng cách 400 km, và bằng cách đó xây nên một vạn lý trường thành phòng vệ vô hình xung quanh đất nước”.

Đầu thập kỷ 1960, những nguyên lý mới sử dụng điện khí quyển của nhà vật lý W. Richmond theo sáng kiến của các chuyên gia quân sự chính phủ Mỹ đã được đóng dấu mật.
Ngay những thử nghiệm đầu tiên đã cho thấy khá năng kích thích nhiều loại thiên tai trên trái đất. Năm 1998, thiết bị đầu tiên của Mỹ Arfa đã được đưa vào hoạt động tại Alaska (gần thành phố Anchorage).
Theo các chuyên gia, công suất của vũ khí này cao hơn nhiều lần công suất của một trái bom nguyên tử.

Về mặt triết học nói chung, tiến trình lịch sử văn minh đang đi tới một trật tự thế giới mới dưới sự lãnh đạo của một chính phủ thế giới. Những thành tựu tiến bộ KHKT mới nhất (kỹ thuật, vật lý vô tuyến điện, kỹ thuật gene…), một bộ phận trong đó được bảo mật gắt gao, hoàn toàn cho phép bằng con đường ép buộc với sự tham gia của giới quân sự và các cơ quan đặc vụ đạt được các mục tiêu toàn cầu hóa chính trị và kinh tế.
Đang dẫn đầu trong quá trình địa-chính trị này là nước Mỹ, nơi mà Nikola Tesla đã làm việc nhiều năm và sáng tạo của ông có định hướng quân sự và được kịp thời giữ bí mật.

Các Mốc thời gian phát triển của HAARP

-Ngay vào năm 1900, Tesla đã nộp đơn đăng ký sáng chế (patent) thiết bị “truyền điện năng trong môi trường tự nhiên” (Patent do Mỹ cấp năm 1905 số №787.412).
-Năm 1940, Tesla công bố về việc tạo ra “tia chết”.
-Năm 1958, đã khám phá ra các đới bức xạ của trái đất chứa đầy những hạt mang điện bị từ trường của trái đất đang tự quay bắt giữ được.
-Năm 1961, xuất hiện ý tưởng tạo ra các đám mây ion nhân tạo và sau đó dẫn hướng bằng các tia cộng hưởng điện từ anten trong plasma vũ trụ.
-Năm 1966, Gordon J. MacDonald công bố khái niệm ứng dụng quân sự của công nghệ thời tiết.
-Năm 1974, các thí nghiệm có mục đích được tiến hành với việc truyền điện từ trong khuôn khổ chương trình mới HAARP của Mỹ ở Paletteville (Colorado), Arecibo (Puerto Rico) và Armidale (New South Wales, Australia).
-Năm 1975, việc nghiên cứu kỹ thuật siêu cao tần và chế tạo vũ khí điều khiển tâm lý được đẩy mạnh.
-Năm 1980, Bernard J. Eastlund, chuyên gia phát triển HAARP, nhận được bằng sáng chế “Phương pháp và thiết bị để làm thay đổi các tầng khí quyển trái đất, tầng điện ly (tầng ion) và/hoặc từ quyển” và sau đó đăng ký patent một loạt phát minh và sáng chế khác.
-Năm 1980, Bộ Quốc phòng Mỹ bắt đầu xây dựng mạng lưới GWEN (mạng lưới tạo sóng trên bề mặt trái đất trong các tình huống khẩn cấp) có khả năng chuyển phát các sóng tần số cực thấp có mục đích quốc phòng.
-Năm 1985, nhà vật lý lỗi lạc Mỹ Bernard J. Eastlund đăng ký sáng chế “Phương pháp và kỹ thuật tác động đến một khu vực khí quyển trái đất, tầng điện lý và từ quyển” (patent đầu tiên trong 3 patent cơ bản của tác giả).
-Năm 1994, nhà thầu quân sự lớn E-Systems mua lại quyền sử dụng các patent của Eastlund và bắt đầu thực hiện hợp đồng quân sự xây dựng giá thử nung nóng tầng điện ly Arfa lớn nhất thế giới tại Alaska. Năm 1995, hợp đồng chuyển sang tay tập đoàn quân sự lớn nhất của Mỹ Raytheon.
-Năm 1995, Quốc hội Mỹ thông qua ngân sách để bắt đầu khai thác HAARP. Bắt đầu các thử nghiệm HAARP quy mô về dẫn các chùm năng lượng tập trung vào các khu vực khác nhau của địa cầu.
-Năm 1998, đưa HAARP vào sử dụng (thông tin về hoạt động của nó là thông tin mật).
Bản chất của công nghệ quân sự do người Mỹ phát triển là như sau. Phía trên tầng ozon có một tầng điện ly mỏng manh – là một tầng khí chứa nhiều hạt mang điện, gọi là các ion. Tầng điện ly có thể nung nóng bằng các anten của HAARP.

Tiếp đó có thể tạo ra các đám mây ion nhân tạo có hình thức giống như các thấu kính quang học. Các thấu kính này có thể sử dụng để phản xạ các sóng tần số thấp và để tạo ra “tia chết” mang năng lượng được điều tiêu vào những khu vực địa lý đã định.
Theo khẳng định của nhiều nguồn tin, việc nghiên cứu các hậu quả về quân sự, y học, sinh thái và các hậu quả tác động khác của HAARP đang được Không quân và Hải quân Mỹ tiến hành mà không có sự tham gia của Cơ quan Bảo vệ môi trường xung quanh (ERA) của Mỹ. Tuy nhiên, đây là thông tin đáng ngờ, bởi lẽ tất cả các bộ, ngành liên bang đều tham gia vào các hoạt động liên quan đến quốc phòng và bảo vệ an ninh quốc gia Mỹ dưới sự che chắn của luật về bí mật nhà nước.

Tính bí mật của thông tin nhận được có mục đích làm giảm sự chống đối của dư luận thế giới và các phong trào bảo vệ sinh thái.
Chúng ta đã biết đến sự việc khi mà trong một thí nghiệm người ta đã thả 350.000 mũi tên đồng dài 1-2 cm vào tầng điện ly vào năm 1961, thì tại Alaska đã xảy ra động đất 8,5 độ Richter. Đồng thời, một phần lớn bờ biển Chile bị trôi ra đại dương.
Vào cuối thập kỷ 1980, ở Bắc Alaska người ta ráo riết xây dựng 360 ngọn tháp cao 24 m cho giới quân sự Mỹ sử dụng để phát xạ các chùm năng lượng mạnh có tần số khác nhau vào tầng điện ly. Người ta cũng dự định thiết lập một mạng lưới các trung tâm khu vực của HAARP.
Tất cả những điều đó sẽ cho phép tạo ra plasmoid quân sự (các vùng khí ion hóa cao). Cấu trúc giống như sét hòn này có thể điều khiển bằng cách dịch chuyển tiêu điểm của các anten nhờ tia laser kết hợp.

Có thể dẫn ra hàng loạt patent về dự án này:
- 5.068.669 “Hệ thống truyền năng lượng nhờ bức xạ”;
- 5.041.834 “Màn chắn tầng điện ly nhân tạo được tạo ra bởi lớp plasma”;
- 4.999.637 “Tạo các vùng ion hóa nhân tạo bên trên bề mặt trái đất”;
- 4.973.928 “Các vụ nổ cấp độ vụ nổ nguyên tử không kèm theo phát thải các vật liệu phóng xạ”.

Trong quá trình các thí nghiệm ở Mỹ, đã phát hiện ra rằng, tham gia vào quá trình tạo các plasmoid có năng lượng tự do hoặc năng lượng chân không vật lý. Những cấu trúc nhân tạo này có thể sử dụng để phản xạ các sóng tần số thấp và để tạo ra “tia chết” mang năng lượng được điều tiêu vào các điểm địa lý đã định. Như vậy, chương trình vật lý vô tuyến điện HAARP chính là một vũ khí địa-vật lý khủng khiếp mới.

Phân loại Vũ khí dựa trên HAARP

Vũ khí địa-vật lý khí quyển được chia thành 3 loại chính: vũ khí khí tượng (mưa, bão, tố…), vũ khí ozon (tác động sát thương trực tiếp các cơ thể sống bằng bức xạ cực tím của mặt trời) và vũ khí khí hậu (giảm năng suất nông nghiệp của kẻ địch quân sự hay địa-chính trị).

Việc bắt đầu các thí nghiệm khoa học với mục đích quân sự đang được thảo luận trong giới khoa học thế giới, nhất là các nhà địa-vật lý và sinh học. Điều đặc biệt là việc các nhà khoa học châu Âu đã ghi nhận khả năng thực hiện các cuộc đánh phá bí mật vật lý vô tuyến điện (hạn hán, mưa rào, bão tố) chống các nước EU.
Ủy ban của EU về các vấn đề an ninh và giải trừ quân bị ngày 5.2.1998 đã tiến hành các cuộc tọa đàm đặc biệt về dự án Arfa, có sự tham gia của nhiều đại biểu Duma Quốc gia Nga, cũng như một trong những đối thủ chính của dự án này ở Mỹ là nhà khoa học kiêm chính trị gia bang Alaska Nick Begich.
Cuốn sách của ông này và đồng tác giả là nữ nhà báo Canada J. Manning đã được dịch và xuất bản ở Nga (Begich N, Manning J. Chương trình HAARP. Vũ khí của ngày tận thế (dịch từ tiếng Anh).-М.: Yauza, Eksmo, 2007, 384tr.).
Quãng cách thời gian giữa 2 ấn bản tiếng Anh và tiếng Nga này là 5 năm. Tuy nhiên, những số liệu được các tác giả nêu ra cho phép đánh giá rất đầy đủ và khoa học về triển vọng của hệ thống vũ khí quân sự địa-vật lý và điều khiển tâm lý của Mỹ.

Hiện nay lại bùng lên sự quan tâm mới đối với thông tin bí mật về chủ đề sinh học và bảo vệ thiên nhiên của toàn thế giới và Nga là hoàn toàn có cơ sở. Cũng có những phương án khác nhau để đưa ra các biện pháp “bảo vệ” hay “tiến công”.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, ta nên đọc cuốn sách mới của Begich và Manning “Chương trình HAARP. Vũ khí ngày tận thế”.
Các tác giả nhấn mạnh những khó khăn lớn trong quá trình chế tạo một hệ thống như vậy và lên án sự tiến bộ của vũ khí và kỹ thuật quân sự. 3 cỗ máy đầu tiên với công suất bức xạ sóng vô tuyến định hướng gần 1 tỷ W đã được xây dựng ở Alaska, Greenland và Nauy. Chúng tạo ra vòng tròn khép kín để tác động quy mô lớn đến môi trường gần trái đất среду, trước hết nhằm vào Nga, cũng như Trung Quốc và EU.

Việc sử dụng thê đội đầu tiên của hệ thống quân sự “3 điểm” sẽ cho phép: phá vỡ việc dẫn đường hàng hải và hàng không của máy bay và tên lửa; làm gián đoạn liên lạc vô tuyến và radar; làm hư hỏng thiết bị điện tử trên khoang của các vệ tinh trên vũ trụ; kích thích xuất hiện các sự cố quy mô lớn trong các lưới điện; gây ra các bão, giông tố, hạn hán, vòi rồng và lũ lụt và cuối cùng là tác động có định hướng nhằm vào tâm thần con người. Tiếp đó, bằng các cỗ máy đó, Lầu Năm góc sẽ bao quát một phần lớn trái đất, điều thể hiện sức mạnh tư duy quân sự Mỹ.
Một độc giả quân sự Nga giàu kinh nghiệm dĩ nhiên không thể chấp nhận hoàn toàn tất cả các lập luận của các nhà hòa bình Mỹ.
Tuy vậy, chính giới quân sự Mỹ nói ra chức năng “lưỡng dụng” của hệ thống. Ví dụ, việc hoàn thiện hệ thống tác động địa-vật lý đối với các tầng cao của khí quyển (đến 50 km) có thể dẫn tới việc loại bỏ khái niệm “hạn hán nhiều tháng ”. Kết quả là có thể gây ra những cơn mưa thường xuyên trên sa mạc Sahara ở Bắc Phi.

Có thể thừa nhận sự nguy hiểm hiển nhiên của các thí nghiệm khoa học bí mật mà người Mỹ bắt đầu. Về mặt này, EU, Nga, Trung Quốc có quyền yêu cầu tiến hành các cuộc đàm phán quốc tế nhằm hạn chế công suất các bức xạ vô tuyến “khoa học”.
Bản thân các nhà thiết kế hệ thống HAARP thừa nhận rằng, ngoài các tác động nhiệt và điện tử lên khí quyển trái đất và tầng điện lý của nó nhằm điều khiển thời tiết hay kích thích những thảm họa thiên nhiên tàn phá, còn có thể tác động đến não và hệ thống thần kinh của con người và làm thay đổi tâm lý và hành vi của họ.

Sự tác động định hướng tâm lý thể chất có thể gây ra ở người kìm hãm các phản ứng, mất tin tưởng, sự sợ hãi, sự giận dữ, mất cảm giác tự vệ, mất khả năng kiểm soát hành vi của mình, đánh giá và phân tích các tình huống phức tạp trong cuộc sống, định hướng về thời gian và không gian… Tất cả những điều đó đều có thể sử dụng để tác động cục bộ hay quy mô hàng loạt.

Vũ khí điều khiển tâm lý được liệt vào loại vũ khí “không gây tử vong” (“phi sát thương”) đang ngày càng quan trọng trong tiến hành các chiến dịch quân sự, cũng như các chiến dịch đặc biệt nhằm tác động đến hành vi của các nhóm dân chúng lớn nhỏ.

Một câu châm ngôn hay nói rằng: “Một thiên tài quân sự và những sự độc ác không chỉ tương hợp mà còn không thể tồn tại thiếu nhau”. Các nhà khoa học của ngành công nghiệp nguyên tử Nga rất lo lắng trước nguy cơ đang gia tăng của vũ khí điều khiển tâm lý.
Trong một cuốn sách được chuẩn bị có sự tham gia của Tổng biên tập “Báo Khoa học nước Nga” xuất bản А. Emelyanenkov và xuất bản dưới dạng phụ trương của tờ “Báo Nước Nga” viết về nhà vật lý Nga lỗi lạc Lev Feoktistov (14.2.1928-14.2.2002) “Những người sáng tạo ra kỷ nguyên hạt nhân. Lev và nguyên tử.-М.: Voskresenie, 2003, 440tr., có minh họa) có một đoạn thú vị về loại vũ khí hậu hạt nhân mới.

Giám đốc Trung tâm các vấn đề an ninh năng lượng hạt nhân (Trung tâm Hạt nhân Liên bang-Viện nghiên cứu vật lý kỹ thuật toàn Nga, RFYaTs-VNIITF) Aleksandr Shcherbina trong tiểu luận “Vũ khí dành cho nó đã chật chội” trả lời các câu hỏi của một nhà biên soạn cuốn sách này:
- Vũ khí thế kỷ XXI có thể dựa trên những nguyên lý nào? Hay là nó hoàn toàn có thể không phải là vũ khí?
- Tôi nghĩ rằng, đó là tác động đến tâm thần. Hay là những tác động gượng nhẹ nào đó.
- Nghĩa là tác động phi sát thương?
- Nhìn chung thì đúng vậy. Ít ra là để có thời gian chụp còng tay vào cổ tay. Đồng thời thể hiện cho những người khác để họ không còn săn tìm cách để khủng bố mọi người” (trang 137).
Nhà vật lý của Viện nghiên cứu vật lý kỹ thuật toàn Nga (thành phố Chelyabinsk-70) đánh đúng vào điểm “vật lý vô tuyến điện”. Chương trình quân sự Mỹ có tên HAARP đang thâu tóm sức mạnh công nghệ mới.


Nếu không nói về bản thân HAARP mà nói về cuốn sách súc tích và hấp dẫn của các tác giả Mỹ thì cần phải nói rằng, đó quả thực là một tác phẩm hay gần gũi với các báo cáo phân tích của các chuyên gia tình báo KHKT, trong đó chiếm vị trí quan trọng là sự phân tích tỷ mỉ những sưu rò rỉ thông tin mật, cũng như các ấn phẩm KHKT định kỳ công khai.
Lịch sử khoa học cho thấy rằng, nhiều công trình nghiên cứu và dự án phát triển mật (trong đó có ở Mỹ), một mặt, rất nguy hiểm đối với môi trường thiên nhiên trái đất, nhưng mặt khác đó là phương tiện quân sự hay đặc biệt căn bản để giải quyết những vấn đề xã hội văn minh quan trọng của quá trình quá độ sang “sự phát triển bền vững” của nhân loại.


Sự tiến bộ của khoa học và kỹ thuật không thể dừng được, nhưng ở các phương diện toàn cầu, nó đòi hỏi sự kiểm soát của quốc tế, nghị viện và xã hội.
Nguồn: http://vietnamdefence.com/Home/ktqs/vukhicongnghemoi/vk-nlm/HAARP–Vu-khi-diavat-ly-cua-My/20109/49631.aspx

Theo: Bian 


Vũ khí bí mật và sự hủy diệt khôn lường 
23/10/2012
Tháng trước, tờ Sunday Times (Anh) dẫn lời các chuyên gia quốc phòng Israel nói rằng nước này có thể đưa Iran về thời đại đồ đá bằng cách phá hỏng mạng lưới điện của Iran bằng xung điện từ (EMP). Cuộc chiến mà Israel hăm dọa không tổn hao nguồn nhân lực. Đó cũng là xu hướng của những cuộc chiến tương lai với những món vũ khí chưa ai biết đến: đầu tư công nghệ cao, điều khiển từ xa và hủy diệt hàng loạt.

Vũ khí thời tiết có thể gây thiên tai tương đương thảm họa sóng thần ở Nhật Bản năm 2011.


Vũ khí mới nhất - xung điện từ
Hiện nay, nổi bật và được nhắc đến nhiều về tính khả thi là vũ khí xung điện từ, vũ khí phi sát thương được biết đến từ nhiều thập niên trước. Hiện tượng xung điện từ là sự xuất hiện đột ngột nguồn năng lượng gamma cực lớn nhằm tạo ra phản ứng với từ trường trái đất để sinh ra dòng điện mạnh. Nó sẽ tạo ra sóng xung kích có khả năng làm tắt ngúm các thiết bị điện và mạch điện. Từ đó, hệ thống giao thông, dịch vụ tài chính cũng như các hệ thống ứng phó khẩn cấp tự động cũng sẽ bị gián đoạn.
Xung điện từ là một trong những công nghệ có thể gây ra thiệt hại lớn cho đối phương. EMP lần đầu tiên được lưu ý như là một hiệu ứng của các vụ thử hạt nhân trên cao từ thập niên 1950 và 1960. Theo trang www.futurescience.com, năm 1951, nhà khoa học quân sự của Nga là Andrei Sakharov (đã qua đời) đưa ra được bản thiết kế về bom xung điện từ với nguồn gốc phi hạt nhân. Trong đó, quả bom phát nổ để tạo ra sức nén khổng lồ lên một nam châm nhân tạo bên trong ruột, từ đó một xung điện từ cực mạnh sẽ phóng ra và phá hủy các thiết bị điện tử của kẻ thù. Trong chiến tranh vùng Vịnh 1991 và cuộc chiến Iraq năm 2003, không quân Mỹ đã sử dụng bom xung điện từ để vô hiệu hóa đài truyền hình và các trung tâm liên lạc khác của đối phương. Ngoài Mỹ, Nga đã xây dựng thành công và đưa vào thử nghiệm một số máy phát xung điện từ nén. Từ đó có thể tiến tới chế tạo những khẩu súng bắn xung điện từ với tầm sát thương vài trăm mét. Bên cạnh đó, nhiều nước khác cũng đã bắt đầu thiết kế và xây dựng các loại vũ khí xung điện từ.
Trong khi đó, hệ thống vũ khí laser là những chùm tia năng lượng mạnh phản chiếu từ những tấm gương lớn tạo sức nóng khủng khiếp có thể đốt cháy một chiếc máy bay trên bầu trời. Giữa thập niên 1930, các nhà khoa học Anh đã dùng sóng vô tuyến phá hủy máy bay đối phương. Theo Tạp chí Livescience, năm 2011, Mỹ đã thử nghiệm thiết bị phóng laser để thiêu rụi 4 máy bay không người lái trên Thái Bình Dương. Với các tính năng vượt trội của vũ khí laser, nên một loạt nước như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Israel… cũng không thể làm ngơ.
Vũ khí thời tiết
Trong cuộc chạy đua vũ trang thời nay, vũ khí hóa học hay sinh học đã bị LHQ cấm sử dụng. Vì vậy Mỹ đã nghiên cứu phát triển loại vũ khí thời tiết và thiên tai. Ngay sau Chiến tranh thế giới lần II, Bộ Quốc phòng Mỹ đã nghiên cứu các tia sét, động đất và bão trong các dự án có tên Skyfire, Argus và Stormfury. Thông tin về kết quả của các dự án này không được công bố rộng rãi. Trong khi đó, một số thông tin rò rỉ cho biết, Mỹ đã thực hiện một thí nghiệm kinh điển vào năm 1961. Họ phóng hơn 350.000 cây kim bằng đồng với độ dài khoảng 2cm được làm từ kim loại vào khí quyển. Ngay sau đó xảy ra vụ động đất mạnh 8,5 độ richter ở Alaska và sự sạt lở một phần bờ biển Chile xuống Thái Bình Dương. Các nhà khoa học tin rằng vụ phóng kim là nguyên nhân gây ra 2 hiện tượng bất thường trên.
Một báo cáo đăng trên tờ Guardian năm 2001 đã chỉ ra, trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Mỹ cũng đã từng thử nghiệm công nghệ làm mưa nhân tạo bằng cách rải các phân tử bạc iotua vào các đám mây. Hậu quả là gây ngập lụt cục bộ và cản trở di chuyển của quân đội Việt Nam, đặc biệt là các thiết bị quân sự có khối lượng lớn. Chiến dịch trên có tên là Popeye. Mỹ cũng từng nghiên cứu đến vũ khí ozon. Đây là loại tên lửa mang theo freon (chất hóa học có khả năng phá hủy tầng ozon), tạo ra lỗ hổng ozon để tia cực tím có thể xuyên thẳng vào đối phương, gây ra thiệt hại lâu dài về con người, phá hủy sự cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cũng như nền nông nghiệp của khu vực bị tấn công.
Giới tình báo quốc tế từ lâu đã lưu ý đến chương trình nghiên cứu HAARP của Mỹ vốn có mục tiêu từ đầu là điều khiển khí hậu thế giới. Với chương trình này, khả năng gây ra lũ lụt, bão và động đất là hoàn toàn có thể. Chương trình HAARP bao gồm một hệ thống ăngten mạnh có khả năng tạo ra những thay đổi có thể kiểm soát được trong tầng điện ly, phát sóng radio siêu mạnh, có thể tập trung các tia sóng và làm thủng, rách tầng điện ly. Mặt khác, sóng điện từ tần số thấp khi dội về trái đất ở cường độ cao cũng có thể tác động đến não bộ con người, đến trường điện từ của trái đất. Dù chưa có bằng chứng nào về việc các kỹ thuật trên từng được sử dụng, nhưng LHQ từng cảnh báo rằng HAARP là một thứ vũ khí hết sức nguy hiểm, có thể làm xáo trộn các hệ thống sinh thái, nông nghiệp của những khu vực rộng lớn.


Nga cũng công bố vừa chế tạo thành công loại vũ khí bí mật mới tác động lên hệ thần kinh, sử dụng sóng năng lượng hay vũ khí gây đột biến gene làm thay đổi di truyền của một loài. Đây được cho là một phần trong chương trình phát triển vũ khí của Nga đến năm 2020. Tuy chi tiết về những vũ khí trên không được công bố nhưng theo nhiều nhà khoa học, hiện tượng hạ âm (âm thanh có tần số thấp hơn những gì tai người nghe được) và siêu âm (âm thanh có tần số cao hơn nhiều ngưỡng nghe của tai người) có thể gây chấn động mạnh hệ thần kinh của đối phương, nặng hơn là gây tổn thương não bộ.


Như Quỳnh (Tổng hợp)/ Sggp

 

Lốc xoáy - Vũ khí chiến tranh tương lai

Nhiều nhà khoa học quân sự và dân sự ở Mỹ cho rằng, trong tương lai không xa, những cơn lốc xoáy có cường độ mạnh gấp hàng ngàn lần do chính con người tạo ra sẽ là một thứ vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp hơn cả bom nguyên tử.
Ngày 4 tháng 5 năm 2007, một cơn lốc xoáy có cường độ trung bình đổ bộ vào bờ biển nước Mỹ, cuốn trôi cả một thị trấn trong nháy mắt. Trước đó, năm 2004, cơn bão “Katrina” và “Rita” đã từng tàn phá dữ dội nước Mỹ.

Nhân sự kiện này, nhiều nhà khoa học quân sự và dân sự ở Mỹ cho rằng, trong tương lai không xa, những cơn lốc xoáy tương tự nhưng có cường độ mạnh gấp hàng ngàn lần do chính con người tạo ra hướng vào lãnh thổ đối phương sẽ là một thứ vũ khí có sức tàn phá khủng khiếp hơn cả bom nguyên tử.

Vũ khí thời tiết dựa trên nguyên lý sử dụng các phương tiện kỹ thuật tác động vào các quá trình diễn ra trong khí quyển của Trái Đất nhằm mục đích quân sự. Trong trường hợp này, môi trường khí quyển ở độ cao từ 10-60 km có giá trị quân sự đặc biệt.
Cơn lốc xoáy điển hình bên bờ biển nước Mỹ (Ảnh: TP)
Năm 1961, Mỹ đã tiến hành thí nghiệm tung 350.000 mảnh kim loại vào tầng trên của khí quyển để thay đổi sự cân bằng nhiệt và đã gây ra động đất ở một số vùng thuộc lãnh thổ châu Mỹ. Về sau, các chuyên gia quân sự Mỹ đã từng sử dụng vũ khí này trong chiến tranh Việt Nam, gây nên lũ lụt và mưa lớn.

Hiện nay, ở Bắc Mỹ có hẳn cả một “khu rừng” ăngten có đường kính tới 24 mét để phóng bức xạ cao tần tác động vào khí quyển trong khuôn khổ một chương trình nghiên cứu mang tên HAARP (High Freguency Active Auroral Resarch Program) dưới sự chỉ huy và tài trợ của Bộ Quốc phòng Mỹ.

Với “rừng ăngten” này, các chuyên gia kỹ thuật Mỹ dùng sóng vô tuyến tần số cao quét lên khí quyển, tạo ra môi trường plazma và gây nên sóng thần cường độ cao.

Có thể dùng HAARP tác động vào thời tiết, nhưng chưa thể đạt được kết quả trên quy mô lớn như cơn bão “Katrina” hoặc “Rita”. Còn các nhà khoa học Nga có hệ thống nghiên cứu thời tiết mang tên Sura, có tính lưỡng dụng, vừa để điều khiển thời tiết phục vụ mục đích kinh tế, vừa nhằm mục đích làm vũ khí.

Công suất phát sóng của hệ thống HAARP lớn gấp hàng trăm lần so với hệ thống Sura của Nga. HAARP có khả năng chiếu xuyên qua các hầm ngầm sâu dưới lòng đất để phá hoại các thiết bị điện tử. Đã từng xảy ra vụ xìcăngđan giữa Mỹ và các nước châu Âu năm 2002.

Năm đó, ở châu Âu đã xảy ra các trận mưa lụt rất lớn. Các nước châu Âu cho rằng người Mỹ đã dùng “vũ khí điều khiển khí hậu” để tàn phá kinh tế của họ. Các chuyên gia quân sự Mỹ còn dùng các phương tiện nhân tạo để phá hoại tầng ozon trên lãnh thổ đối phương, tạo điều kiện để bức xạ cực tím của Mặt Trời chiếu xuống bề mặt Trái Đất, hủy diệt tế bào sống và gen di truyền, tăng đột biến bệnh ung thư, làm giảm nhiệt độ trung bình của khí quyển và tăng độ ẩm, gây nên hậu quả đặc biệt nguy hiểm đối với những vùng trồng cây nông nghiệp.

Năm 2002, Ủy ban quốc phòng Nga đã đề nghị nghiên cứu tác động của hệ thống HAARP của Mỹ lên thời tiết của Trái Đất. Còn Tổng thống Nga V. Putin đề nghị Liên Hợp Quốc thành lập Ủy ban quốc tế nghiên cứu tác động của các thí nghiệm do Mỹ tiến hành ở Alaska.

Theo nhận xét của một số nhà khoa học Nga, cả Sura và HAARP tạm thời chỉ là “vũ khí thí nghiệm”, chưa thể là “vũ khí điều khiển khí hậu” có thể gây ra chiến tranh lớn trên quy mô toàn cầu, nhưng ai dám chắc điều đó sẽ không xảy ra trong tương lai?

Lê Minh Quang Tổng hợp
Theo Tiền phong


Có hay không vũ khí thời tiết của Mỹ và Nga?  
 
Các nhà khoa học hoàn toàn có lý do để đưa ra giải thuyết này sau hàng loạt các cơn bão có sức tàn phá khủng khiếp nhằm vào nhiều nơi trên thế giới. Vậy, chúng ta nên hiểu chuyện đó thế nào?
Cuộc đua của hai ông trùm

Nhiều thập niên trước đây, ở Liên Xô, Mỹ và một số nước khác đã thực hiện các đề án nghiên cứu đầy tham vọng nhằm điều khiển thời tiết phục vụ các mục đích quân sự. Ở Mỹ, có chương trình nghiên cứu đầy tham vọng và được giữ bí mật mang tên HAARP (viết tắt từ các chữ cái đầu tiên của các từ High Frequency Active Auroral Research Program, có nghĩa là “Chương trình nghiên cứu sử dụng bức xạ vô tuyến tần số cao tác động vào khí quyển địa cực”), đã từng được tiến hành trên bán đảo Alaska. Ở Nauy có đề án điều khiển thời tiết ở Tromsie.
Còn ở Nga có đề án Sura ở Siberia. Còn theo tiết lộ của báo chí Mỹ, trong những năm 1960 và 1970, các nhà khoa học Liên Xô đã từng tự hào với thành công sáng tạo ra công nghệ điều khiển thời tiết và bắt đầu áp dụng chống lại Mỹ từ năm 1976. Sau cơn bão Katrina ở Mỹ, các tin tương tự được các phương tiện thông tin đại chúng ở Mỹ đăng tải và phổ biến rộng khắp.
Ở Mỹ, trong vòng nhiều năm, các nhà khoa học đã nghiên cứu sử dụng hệ thống HAARP để gây bão nhân tạo và họ đã đề ra 11 phương pháp ứng dụng trong quân sự. Theo Tiến sĩ Khoa học toán - lý Nga Tocarev, các nhà khoa học Mỹ đã thu được kết quả nghiên cứu tác động của hệ thống HAARP vào môi trường bao quanh Trái đất. Có thể dùng HAARP tác động lên thời tiết, nhưng chưa thể đạt được kết quả trên quy mô lớn như cơn bão Katrina hoặc Rita. 
Hệ thống Sura của Nga.


Động đất, sóng thần, bão... nhân tạo?
Công suất phát sóng của hệ thống HAARP lớn gấp hàng trăm lần so với hệ thống Sura của Nga. Hệ thống HAARP của Mỹ bố trí tại một căn cứ quân sự ở Gakhon, được cấu tạo từ các dàn ăng ten đường kính 25 mét. Đây là căn cứ tuyệt mật, được bao bọc bằng nhiều tầng rào dây thép gai, do một đơn vị lính thuỷ đánh bộ tinh nhuệ của Mỹ canh phòng cẩn mật. Không phận quanh khu vực đó cấm bay đối với tất cả các loại máy bay quân sự và dân sự.
Sau sự kiện 11/9/2001, HAARP được hệ thống tên lửa phòng không siêu hiện đại Patriot bảo vệ. Các tạp chí khoa học ở Mỹ đăng tải các bài viết nhận xét rằng, HAARP có thể gây hiệu ứng phát sáng vùng trời Bắc cực, gây nhiễu các trạm ra đa báo động sớm về các cuộc phóng tên lửa đường đạn vượt đại châu của các đối thủ từ bên ngoài nước Mỹ. HAARP còn có khả năng chiếu xuyên qua các hầm ngầm sâu dưới lòng đất để phá hoại các thiết bị điện tử. Có thể sử dụng HAARP để gây ra các thảm hoạ thiên nhiên như động đất, bão, sóng thần, tương tự như cơn bão Katrina hoặc Rita.
Vì thế mà đã từng xảy ra vụ xì-căng-đan giữa Mỹ và các nước châu Âu năm 2002. Năm đó, ở châu Âu đã xảy ra các trận mưa lụt rất lớn. Các nước châu Âu cho rằng người Mỹ đã dùng “vũ khí điều khiển khí hậu” để tàn phá kinh tế của họ. Năm 2002, Uỷ ban Quốc phòng Nga đã đề nghị nghiên cứu tác động của hệ thống HAARP của Mỹ lên thời tiết của Trái đất. Còn Tổng thống Nga V. Putin đề nghị Liên Hợp Quốc thành lập Uỷ ban Quốc tế nghiên cứu tác động của các thí nghiệm do Mỹ tiến hành ở Alaska.
Đã đạt tầm “vũ khí điều khiển khí hậu”?
Theo mô tả trong các ấn phẩm khoa học công khai ở Nga, cỗ máy điều khiển thời tiết thí nghiệm Sura của Liên Xô trước đây do Viện Nghiên cứu vật lý vô tuyến xây dựng có công suất tương đương thiết bị  HAARP của Mỹ. Toàn bộ hệ thống Sura được bố trí trải rộng trên một diện tích rộng tới 9 hecta, với nhiều dàn ăng ten đường kính gần vài chục mét. Tâm điểm của hệ thống ăng ten này là một thiết bị phát sóng vô tuyến có kích thước khoảng 20 mét để phát sóng điện từ vào khí quyển.
Sura được xây dựng vào cuối những năm 1970 và được đưa vào sử dụng năm 1981, đem lại cho các nhà khoa học Liên Xô những kết quả nghiên cứu rất thú vị về những biến đổi của tầng khi quyển ion. Ban đầu, công trình nghiên cứu Sura được Bộ quốc phòng Liên Xô cấp kinh phí. Sau khi Liên Xô tan rã, các đề tài khoa học tương tự bị dừng lại do thiếu kinh phí.
Hiện nay, các nhà khoa học Nga đang phục hồi lại công trình nghiên cứu này nhằm phục vụ lợi ích của Nga và cộng đồng quốc tế. Hệ thống Sura của Nga vẫn hoạt động khoảng 100 giờ/năm với kinh phí 40 ngàn USD, trong khi đó hệ thống HAARP của Mỹ hoạt động tới 2.000 giờ/năm với mức đầu tư 300 triệu USD.
Sự khác nhau căn bản giữa hệ thống Sura của Nga và HAARP của Mỹ là hệ thống của Nga nhằm vào khu vực khí quyển ở các vĩ độ trung tâm Trái đất, còn hệ thống của Mỹ nhằm vào các khu vực địa cực. Hệ thống của Mỹ có thể tác động vào từ trường Trái đất, gây nên hiện tượng phát sáng ở địa cực bắc, gây rối hoạt động của các vệ tinh và các hệ thống truyền thông trên bề mặt Trái đất.
Theo nhận xét của một số nhà khoa  học Nga, cả Sura và HAARP mới chỉ là thiết bị thí nghiệm, chưa thể là “vũ khí điều khiển khí hậu” như một số người quan niệm. Nhưng những gì mà các nhà khoa học Nga và Mỹ nghiên cứu rất có thể sẽ được ứng dụng trong quân sự tương lai. Hiện tại, theo khẳng định của các nhà khoa học Nga, hệ thống Sura  không có khả năng gây ra các trận bão lớn...         
Lê Minh Quang/ Giadinh.net


nguồn:http://tranhung09.blogspot.com/2013/01/tim-hieu-ve-vu-khi-toi-hau-chuong-trinh.html#more
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001