Lần theo kế hoạch lâu dài của Trung Quốc
Jacqueline Newmyer Deal (National Interest, tháng 9-10 năm 2013)
Phạm Nguyên Trường dịch
Giới thiệu tác phẩm Của cải và sức mạnh: Cuộc trường chinh của Trung Quốc vào thế kỉ XXI (Wealth and Power: China’s Long March to the Twenty-First Century), (New York: Random House, 2013), 496 tr., của Orville Schell và John Delury.
Từ
những năm 1990 chính sách của Mĩ đối với Trung Quốc được hình thành
trên giả định rằng Trung Quốc càng giàu có và địa vị quốc tế của nước
này càng gia tăng thì sẽ dẫn tới quá trình tự do hóa ở trong nước. Đầu
thập kỷ trước, chính quyền của Tổng thống Bush cũng đã từng hy vọng rằng
Trung Quốc sẽ trở thành một "thành viên có trách nhiệm" trong cộng đồng
quốc tế. Trong những năm qua, sức mạnh kinh tế và ngoại giao của Trung
Quốc đã gia tăng đáng kể, nước này đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai
trên thế giới. Các nhà lãnh đạo của nước này tự gọi là "cường quốc", bên
cạnh Hoa Kỳ. Nhưng Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) vẫn giữ độc quyền
về chính trị, và kể từ thời gian chuẩn bị cho Thế vận hội Bắc Kinh năm
2008, nhà nước đảng trị này đã tăng cường đàn áp những nhà hoạt động
nhân quyền, các luật sư và người ủng hộ cải cách tự do ở trong nước. Còn
ở nước ngoài, Trung Quốc gia tăng các nỗ lực quân sự nhằm khẳng định
chủ quyền trên những vùng lãnh thổ đang tranh chấp, và còn sử dụng những
công cụ kinh tế, trong đó có đe dọa ngưng hoặc ngăn chặn việc buôn bán
một số loại hàng hóa nhất định. Nếu trước đây, giới tinh hoa chính trị
Trung Quốc còn nói tới những giá trị của chế độ dân chủ và các chuẩn mực
quốc tế thì bây giờ họ chủ động chào bán mô hình của họ, như là món
hàng thay thế cho cái gọi là hệ thống của phương Tây. Làm sao mà nhiều
thế hệ các nhà hoạch định chính sách của Mỹ lại hiểu làm Trung Quốc đến
như thế?
Thứ nhất, họ bỏ qua
những tín hiệu từ lịch sử Trung Quốc hiện đại và hồ sơ của ĐCSTQ, tức
là những thứ có thể tạo ra nghi ngờ về khái niệm tự do hóa không thể
tránh khỏi của Trung Quốc và tiếp thu các thiết chế quốc tế của nước
này. Nhưng muộn còn hơn không, Orville Schell và John Delury đã tiến
hành thăm dò những tín hiệu đó trong cuốn sách tuyệt vời và rất uyên
thâm, với nhan đề: Wealth and Power: China’s Long March to the Twenty-First Century
(Của cải và sức mạnh: Cuộc trường chinh của Trung Quốc vào thế kỷ XXI).
Ông Schell, vốn là Trưởng khoa Báo chí của trường Đại học California ở
Berkeley (University of California, Berkeley’s Graduate School of
Journalism) và hiện là Giám đốc Trung tâm Hiệp hội châu Á về quan hệ
Trung – Mỹ (Asia Society’s Center on U.S.-China Relations), còn Delury
là một nhà sử học tốt nghiệp đại học Yale, hiện giảng dạy tại trường đại
học Yonsei ở Seoul. Trong tác phẩm này họ kết hợp tính hàn lâm với văn
phong báo chí đầy màu sắc và chi tiết đáng được đánh giá cao. Họ thổi
đời sống vào câu chuyện của mình bằng những bản phác thảo tiểu sử những
cây đa cây đề của nền học thuật và chính trị Trung Quốc từ thế kỷ XIX
đến thế kỷ XX, và khẳng định rằng việc hồi sinh của quốc gia được xác
định bằng thuật ngữ “phú cường” (sự giàu có và sức mạnh) – đã là mục
tiêu ngay từ đầu của những người này. Suốt hơn hai thế kỷ qua, giới tinh
hoa Trung Quốc đã tìm cách biến sự xấu hổ và nhục nhã hồi thế kỷ XIX –
khi các cường quốc bên ngoài liên tục khai thác sự kém cỏi về quân sự
của Trung Quốc – thành năng lượng để giúp Trung Quốc đi lên và thanh
toán cái quá khứ đau khổ của nó. Nếu một số người trong giới tinh hoa
đôi khi cổ động cho các giá trị chính trị của phương Tây, thì đấy cũng
chỉ là những câu chuyện đầu môi chót lưỡi và vào những lúc khi mà họ tin
rằng chế độ dân chủ tự do có thể làm cho đất nước này giàu mạnh mà
thôi. Lời giới thiệu của Schell và Delury xác định chủ đề chung sau đây:
Khác với những cuộc cải cách chính trị dân
chủ ở phương Tây, tức là những cuộc cải cách xuất phát từ niềm tin vào
một số giá trị phổ quát và quyền con người, bắt nguồn từ "tự nhiên", hay
được tạo hóa ban cho và do đó, đã được mọi người tán thành bất kể hiệu
quả của chúng, truyền thống của những cuộc cải cách giữ thế thượng phong
ở Trung Quốc lại xuất phát từ quan điểm lợi ích. Mục tiêu của cải cách
là đem về cho Trung Quốc sức mạnh, vì vậy mà mọi phương tiện, miễn là
đạt được mục tiêu này, đều cần phải xem xét… Trong những giai đoạn khác
nhau trên con đường quanh co của Trung Quốc, các nhà cải cách từng quan
tâm tới nền quản trị dân chủ, không phải là vì nó hàm chứa những quyền
tự do chính trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm mà bởi vì nó có thể làm
cho đất nước của họ năng động hơn và do đó, trở thành mạnh mẽ hơn.
Trong
giới tinh hoa Trung Quốc, mối bận tâm về quyền lực, được hiểu như là
một chức năng của sức mạnh kinh tế và quân sự, cao hơn hẳn so với những
quan tâm về nhân quyền hoặc chế độ pháp quyền, ở trong nước hay nước
ngoài thì cũng thế. Họ nhìn thế giới qua lăng kính thèm khát quyền lực.
Đây là cuộc cạnh tranh một mất một còn, và các đơn vị tính toán là nhà
nước chứ không phải là cá nhân con người hay người công dân. Mặc dù quan
điểm này hoàn toàn trái ngược với các chuẩn mực phương Tây hiện đại,
nhưng lại là quan điểm gần gũi của các chính khách thế kỷ XIX ở châu Âu,
thí dụ như Otto von Bismarck. Quan điểm đó cản trở những nỗ lực nhằm tự
do hóa chính trị thực sự, mà kết quả sẽ là quyền lực của quần chúng
nhân dân. Không những thế, các nhà tư tưởng hàng đầu và các chính khách
của Trung Quốc có xu hướng tự coi mình là thành tố thiết yếu trong những
nỗ lực của quốc gia nhằm vượt lên hàng đầu của cuộc ganh đua giữa các
nước – và, vì vậy mà có quyền tích lũy của cải và quyền lực cá nhân.
Đấy
là cách Schell và Delury lí giải vì sao Trung Quốc không tiến hành dân
chủ hóa, và đây là thành quả đáng kể của công trình nghiên cứu của họ.
Nhưng họ cũng cho thấy nguồn gốc nội tại của chính sách an ninh và đối
ngoại của Trung Quốc. Trong khi các tác giả tập trung chủ yếu vào sự
phát triển ở trong nước Trung Quốc thì việc phân tích của họ cung cấp
bối cảnh tối quan trọng cho việc tìm hiểu chiến lược của nước Trung Hoa
hiện đại và nguồn gốc của nó trong việc làm và suy nghĩ của các nhân vật
chủ chốt của Trung Quốc trong một thế kỷ rưỡi, từ sau Chiến tranh Nha
phiến. Ví dụ, các tác giả mô tả một nhà cải cách thế kỷ XIX, người đã
đưa kế hoạch chi tiết cho việc hiện đại hóa hải quân và một “cuộc tấn
công nhằm thu phục nhân tâm” khu vực Đông Nam Á và nước Nga mà dường như
vẫn là kim chi nam cho chính sách của Bắc Kinh cho đến tận hôm nay. Và
từ cách miêu tả ông Chu Dung Cơ – đạo sư kinh tế của Đặng Tiểu Bình –
người đọc có thể phát hiện tại sao và bằng cách nào mà Chu [Dung Cơ] có
thể làm cho những người đồng cấp phương Tây bị lừa khi cho rằng ông ta
là một người ủng hộ thị trường tự do thực sự, trong khi trên thực tế,
ông ta không có ý định từ bỏ chủ nghĩa tư bản do nhà nước tài trợ. Kể từ
khi xuất hiện của nhà nước hiện đại vào giai đoạn cáo chung của triều
đại cuối cùng, các nhà tư tưởng hàng đầu và các chính khách của Trung
Quốc đã có ý định tái lập lại Trung Nguyên, làm cho nước này trở thành
sức mạnh vượt trội. Họ cho rằng mục tiêu này có thể biện hộ cho mọi
phương tiện, vì vậy mà họ phải ăn cắp, lừa dối và sử dụng vũ lực nhằm
chống lại các đối thủ, cả các đối thủ thực sự lẫn đối thủ tiềm tàng,
cũng như các đồng minh của họ nữa.
Cuốn sách
liệt kê một loạt những người đi đầu trong sự phục hồi của Trung Quốc
giai đoạn cuối nhà Thanh, khi các nước phương Tây và Nhật Bản nhiều lần
gây chiến với triều đại đã mất hết tinh thần và đang tan rã này. Như
được phản ánh trong chương trình giảng dạy lịch sử bắt buộc cho tất cả
học sinh Trung Quốc hiện nay, những nỗi kinh hoàng mà nước này đã trải
qua gồm có các cuộc chiến tranh nha phiến giai đoạn 1839-1842 và giai
đoạn 1856-1860, Chiến tranh Trung- Nhật lần thứ nhất 1894-1895, Khởi
nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn năm 1900 và Hội nghị hòa bình Paris sau Thế chiến I
năm 1919, tức là hội nghị đã chuyển những cơ sở của Đức trên hai bán
đảo Liêu Đông và Sơn Đông cho Nhật Bản thuê. (Chương trình giảng dạy của
Trung Quốc bỏ qua vụ nổi loạn Thái Bình Thiên Quốc, tức là cuộc nội
chiến tàn phá đất nước suốt từ năm 1850 đến năm 1864, vốn là một đòn
choáng váng đối với nhà Thanh.) Trong số những nhân vật được mô tả trong
thời kỳ này là các nhà trí thức có tinh thần cải cách cuối thế kỷ XIX
như Wei Yuan (Ngụy Nguyên, 1794-1857) và Feng Guifen (Phùng Quế Phân,
1809-1874); Từ Hi Thái hậu (1835-1908), nhà cầm quyền hiệu quả cuối cùng
của vương triều này; Lương Khải Siêu (1873-1929), một nhà tư tưởng
trong lúc giao thời giữa hai thế kỉ, người gọi đất nước mình là “con
bệnh của Châu Á”; Tôn Trung Sơn (1866-1925), người sáng lập Quốc Dân
Đảng; Trần Độc Tú (1879-1942), cha đẻ của phong trào Ngũ Tứ năm 1919; và
Tưởng Giới Thạch (1887-1975), lãnh đạo Quốc Dân Đảng sau khi Tôn Trung
Sơn chết, rồi thua cuộc nội chiến và phải bỏ chạy ra Đài Loan. Khi vua
nhàThanh cuối cùng thoái vị vào năm 1911, Trung Quốc vẫn còn bị chia cắt
và rất yếu trong suốt giai đoạn xâm lược của Nhật Bản và cuộc nội chiến
ngay sau khi Thế chiến II kết thúc.
Sau đó là
những ông trùm của Đảng Cộng sản Trung Quốc như Mao Trạch Đông
(1893-1976) và Đặng Tiểu Bình (1904-1997), cũng như Chu Dung Cơ, người
được cho là đã thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc trong
những năm 1990. Cuối cùng là ông Lưu Hiểu Ba, giải Nobel hòa bình năm
2010 nhưng đã bị bỏ tù từ năm 2008. Lưu [Hiểu Ba] khác với những nhân
vật trước đó ở chỗ ông là một nhà dân chủ chân chính. “Mặc dù những
người bất đồng chính kiến theo đường lối tự do thông minh và dũng cảm
thỉnh thoảng lại xuất hiện nhưng lời kêu gọi của họ về một nền dân chủ
đã không trở thành động lực chính của lịch sử Trung Quốc đương đại, ít
nhất là cho đến nay,” Schell và Delury viết như thế. Hai tác giả này còn
nói thêm rằng lời kêu gọi khôi phục của cải và sức mạnh của Trung Quốc
trong quá khứ dường như lại là động lực mạnh hơn. Nhưng họ kết thúc cuốn
sách với nhận xét lạc quan, đặc trưng cho phương Tây:
Nhưng
khi những mục tiêu này đang trở thành hiện thực, không phải là ngày
càng có nhiều người Trung Quốc đòi hưởng sự giàu có vừa tìm được trong
một xã hội cởi mở hơn và tuân thủ pháp luật hơn, nơi họ sẽ có vai trò
lớn hơn trong việc quyết định ai sẽ cai trị họ và cai trị như thế nào ư?
Có xảy ra khả năng là lòng khát khao được quốc tế tôn trọng của các nhà
lãnh đạo Trung Quốc sẽ trở thành một thỏi nam châm mạnh mẽ lôi kéo họ
đến với hình thức cai trị mang tính thỏa hiệp, thậm chí là dân chủ hơn
hay sao?
Mặc dù có những câu hỏi như
thế, nhưng Schell và Delury sẽ làm độc giả thận trọng phải cảnh giác.
Phần trình bày của họ về sự phát triển nội tại của Trung Quốc giải thích
vì sao chủ nghĩa độc đoán dai dẳng của nước này không phải là một sự
ngẫu nhiên mà nó phản ánh niềm tin sâu sắc của những người thuộc tầng
lớp tinh hoa trong suốt một thế kỷ rưỡi vừa qua. Tác phẩm còn cho thấy
những niềm tin như thế có khả năng ngăn chặn, không cho Trung Quốc trở
thành cái mà người phương Tây gọi là một tay chơi có trách nhiệm. Chỉ có
một ngoại lệ là ông Lưu Hiểu Ba, các nhân vật trung tâm còn lại của tác
phẩm đều có xu hướng xem của cải và sức mạnh là những thứ gắn bó chặt
chẽ với nhau và là kim chỉ nam trong các mối quan hệ quốc tế. Trong tâm
trí của họ, thành công trong thương mại quốc tế nhất định sẽ tạo ra sự
thống trị trong lĩnh vực địa chính trị, sẽ tạo ra những nguồn lực cho
sức mạnh quân sự và tạo điều kiện gây ảnh hưởng trên toàn thế giới. Hơn
nữa, họ đã tin rằng để tái khẳng định địa vị hàng đầu của Trung Quốc
trong cái thế giới bị chi phối bởi của cải và sức mạnh thì Trung Quốc
phải tự cường bằng tất cả những biện pháp có thể và thi hành chính sách
thực dụng, có nghĩa là, phải học hỏi cả kẻ thù và áp dụng những biện
pháp đã mang tới chiến thắng của họ. Những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu
rằng trong nhiều thập kỷ tới, tức là trong thời kỳ học hỏi và xây dựng
lực lượng, Trung Quốc phải tôn trọng những nước mạnh hơn. Nhưng, theo
logic của chính sách thực dụng, Bắc Kinh cũng sẽ cố gắng chia rẽ các
liên minh thù địch và bóc lột những nước yếu hơn. Cuối cùng, các nhà cải
cách Trung Quốc hồi cuối thế kỷ XIX đã làm sống lại hai nguyên tắc của
Khổng giáo cổ điển, tức là những nguyên tắc liên quan đến sự hài hòa và
liêm sỉ vẫn tồn tại cho đến tận ngày hôm nay, coi đó như một lời nhắc
nhở về tính chất phi tự do và phản dân chủ của nền chính trị Trung Quốc.
Như vậy là, Schell và Delury đã chỉ rõ rằng các nhà lãnh đạo Đảng Cộng
sản Trung Quốc đang lèo lái đất nước theo con đường đã được vạch ra cách
đây hơn một trăm năm mươi năm, khi Trung Quốc vẫn còn là một đế chế và
quan hệ quốc tế trên thực tế có thể được mô tả như là vụ đụng độ của
những kẻ chiếm đoạt thuộc địa khổng lồ. Trung Quốc hình thành cách tiếp
cận hiện nay với nền chính trị trong nước cũng như quan hệ đối ngoại
trong bối cảnh của thế kỷ XIX.
Giữa thế kỉ XIX
chính Ngụy Nguyên là người đã định hình nhiều đề tài nhằm xác định công
việc của những nhà cải cách trong thế kỷ XX của Trung Quốc. Khi chiến
tranh nha phiến đầu tiên nổ ra, Ngụy [Nguyên] đang ở vị trí rất thuận
lợi cho việc quan sát những sự kiện đang diễn ra. Sau nhiều lần thất bại
ở các cuộc thi đình, mặc dù có sự nghiệp học tập ban đầu đầy hứa hẹn,
ông làm tư vấn cho quan chức ở tỉnh và tích lũy một gia tài nho nhỏ
trong việc buôn bán muối ở thành phố Dương Châu trên bờ sông Dương Tử.
Năm 1842, ông đã thấy tàu chiến Anh chạy bằng hơi nước, sau khi tấn
công Thượng Hải đi qua đây. Ngụy [Nguyên] đưa ra những luận điểm kết hợp
được triết học Trung Quốc cổ đại với những kiến thức từ quan sát của
chính ông về quản lí nhà nước hiện đại và chiến tranh, đấy là phản ứng
của ông trước thất bại của Trung Quốc khi đối mặt với lực lượng của Anh
chỉ có một vài ngàn người. Ngụy [Nguyên] không sử dụng Khổng giáo, tức
là tư tưởng truyền thống của Trung Quốc, mà áp dụng trường phái cạnh
tranh với nó, gọi là “Pháp gia.” Trong khi Nho giáo coi “nhân, lễ và hài
hòa xã hội” là “cơ sở hợp pháp duy nhất và hiệu quả cho việc quản lí xã
hội,” thì Pháp gia lại nhấn mạnh nhu cầu “quốc phú, binh cường” và từ
đó mà có từ “phú cường”. Trong khi các nho sĩ cai trị bằng đức hạnh thì
Pháp gia khẳng định phải cai trị bằng luật pháp, mà pháp luật lại được
định nghĩa là một hệ thống những biện pháp khuyến khích do nhà cầm quyền
đưa ra nhằm đảm bảo sự trung thành của các thần dân. Schell và Delury
viết: “Những người ủng hộ đường lối chính trị thực tiễn ở nước Trung
Quốc cổ đại không có thái độ kiên nhẫn trước những thứ mà họ coi là ba
láp về mặt đạo đức của Nho gia. Vì họ chẳng mấy tin tưởng vào những ý
định tốt của con người, cho nên họ coi của cải và sức mạnh là thước đo
cao nhất của thành công hay thất bại của đường lối chính trị.”
Trong
bối cảnh đó, đường lối chính trị thực tiễn là cách tiếp cận hoàn toàn
thực dụng, nhắm vào kết quả không chỉ đối với việc cai trị ở trong nước
mà còn nhắm đến quan hệ đối ngoại nữa. Như Schell và Delury nhận xét,
Ngụy [Nguyên] tin rằng các nước phương Tây, thí dụ như nước Anh, “thúc
đẩy thương mại bằng cách đưa quân ra nước ngoài,” cho nên “binh lính và
thương mại phụ thuộc vào nhau.” Ý tưởng này đã ăn sâu vào tâm trí của
giới tinh hoa Trung Quốc, trong đó có cả Tôn Trung Sơn. Ông này đã viết
vào năm 1894 như sau:
Ở phương Tây, quyền lợi
của nhà nước và quyền lợi của thương mại cùng thăng tiến với nhau...
Không có tiền thì quốc phòng không thể hoạt động được, không có thương
mại thì cũng không tích lũy được tiền cho quân đội. Đấy là lý do vì sao
người phương Tây sẵn sàng lao vào phần còn lại của thế giới chẳng khác
gì hổ báo và họ bắt nạt Trung Quốc cũng là vì thương mại mà ra.
Việc
Ngụy [Nguyên] nhấn mạnh của cải và sức mạnh và việc ông quan tâm tới
phái Pháp gia hay chí ít là thái độ hoài nghi của mình với đòi hỏi của
Nho gia về sự độc quyền trong việc nắm giữ những phương pháp cai trị
tiên tiến – có thể đã giúp ông chống lại những xung lực truyền thống của
Trung Quốc, tức là những xung lực muốn chối bỏ tất cả những gì ngoại
lai, coi đấy là thấp kém hơn so với Trung Hoa. Trong một chuyên luận
viết về cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất, Ngụy [Nguyên] khẳng
định rằng Trung Quốc cần phải tích lũy của cải và sức mạnh nhằm phục hồi
sự vĩ đại của đế quốc. Nói cách khác, nước này cần phải "tự lực tự
cường" (Zixiu Ziqiang), mà chỉ có thể làm được bằng cách “vay”, nghĩa
là, mua lại và sao chép công nghệ của nước ngoài và thực hiện các cuộc
cải cách chính phủ ở trong nước. Ước muốn chiếm đoạt một số phương tiện
của phương Tây rồi sử dụng chúng cho mục tiêu tăng cường sức mạnh của
Trung Quốc nhằm chống lại phương Tây cùng với tinh thần thực dụng của
phái Pháp gia sẽ trở thành đề tài quan trọng của những nhà cải cách ở
Trung Quốc. Cho rằng số phận của các quốc gia yếu ớt là trở thành con
mồi cho các nước mạnh hơn, Trung Quốc phải làm việc để có nhiều của cải
và sức mạnh; trong khi cần tôn trọng các nước mạnh hơn, lại phải cố gắng
học hỏi họ và làm cho họ suy yếu đi. Schell và Delury chỉ ra rằng Ngụy
[Nguyên] tán thành ý tưởng làm suy yếu các đối thủ phương Tây bằng cách
làm cho họ mâu thuẫn với nhau, "yiyi zhiyi" (dĩ di trị di – lấy man di
trị man di) vốn là mưu kế cổ xưa của Trung Quốc. Cuối cùng, tự cường đòi
hỏi thông tin tình báo về các quốc gia khác để xác định những vị trí dễ
bị tổn thương của họ, và có những biện pháp ngoại giao khéo léo nhằm
phân hóa hàng ngũ của kẻ thù. Schell và Delury nói rằng Ngụy [Nguyên]
lấy làm tiếc là sau cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất nhà Thanh
biết quá ít về quan hệ đối ngoại trên thế giới để có thể khai thác những
mối căng thẳng giữa một bên là Anh và bên kia Pháp và Mỹ – mặc dù trên
thực tế cả Pháp lẫn Mỹ đều đã nhiều lần đề nghị trợ giúp vương triều.
Feng
Guifen (Phùng Quế Phân), người kế tục di sản tinh thần của Ngụy
[Nguyên], dựa vào ý tưởng của Ngụy [Nguyên] về tự cường và sao chép “các
kỹ thuật và phương pháp” của các cường quốc bên ngoài. Tương tự như
Ngụy [Nguyên], Phùng [Quế Phân] đã đi hết con đường nhắm đến kì thi để
được bổ nhiệm làm quan văn, nhưng đã bị trượt. Ông sống vào thời điểm có
những biến động lớn, đấy là cuộc Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai và
khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc. Schell và Delury chỉ rõ câu hỏi mà
Phùng [Quế Phân] đặt ra sau khi Trung Quốc thua liên quân Pháp-Anh và
cuộc nội chiến làm chết hai mươi triệu người và đấy cũng là hồi chuông
báo tử cho triều đại nhà Thanh: “Chúng ta có lãnh thổ gấp tám lần nước
Nga, gấp mười lần nước Mỹ, gấp một trăm lần nước Pháp, và hai trăm lần
nước Anh. Tại sao nước họ nhỏ mà lại mạnh, trong khi chúng ta lớn mà lại
yếu?" Phùng [Quế Phân] trả lời trong một bản tuyên ngôn năm 1860 có tên
là “Bất đồng chính kiến nhìn từ một túp lều ở gần khu Bin”, làm người
ta nhớ tới Ngụy [Nguyên]: “Nếu chúng ta lấy đạo đức và học thuyết của
Trung Quốc làm nền tảng, nhưng bổ sung thêm những kỹ thuật của nước
ngoài để có của cải và sức mạnh, thì không phải là lý tưởng hay sao?”
Đối với những người vẫn còn hoài nghi, Phùng [Quế Phân] lập luận: “Nếu
một hệ thống không tốt, thì dù có là từ thời cổ đại, chúng ta cũng nên
từ bỏ nó; nếu hệ thống tốt thì chúng ta nên theo, ngay cả khi nó có xuất
xứ từ những dân tộc kém văn minh.”
Nhất quán
với những khuyến nghị của Ngụy [Nguyên], cho rằng Trung Quốc phải cải
thiện hiểu biết của mình về các cường quốc bên ngoài (ví dụ, làm cho họ
mâu thuẫn với nhau), Phùng [Quế Phân] đề nghị nhà vua tài trợ cho người
Trung Quốc đi du học. Schell và Delury nhận xét rằng yêu cầu của ông
được ủng hộ bất chấp sự phản đối của những nhà Nho, tức là những người
muốn bảo vệ nền học vấn truyền thống của Trung Quốc. Hiện nay, Trung
Quốc là nước có nhiều du học sinh hơn bất kỳ nước nào khác, và Trung
Quốc cũng là nước không nói tiếng Anh có nhiều người học tiếng Anh nhất
thế giới. Trong khi một số trong những nỗ lực này là để phục vụ cho lĩnh
vực ngoại giao và thương mại, thì phần nhiều là để tự cường – nâng cao
sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Báo cáo mới đây của một tổ chức phi lợi
nhuận có tên là Project 2049 Institute cho biết rằng đơn vị quân đội
Trung Quốc, nơi quản lí các nhóm điều khiển học, là nơi thu hút nhiều
nhất các nhà ngôn ngữ học được đào tạo kĩ lưỡng.
Thông
điệp về tự cường của Phùng [Quế Phân] đã dẫn đến một phong trào cải
cách cùng tên ở Bắc Kinh, và năm 1896 một quan chức cấp tỉnh Zhang
Zhidong (Trương Chi Động) đã kiến nghị và được Từ Hi Thái Hậu cho phép
thành lập “đội quân đội tự cường.” Trong khi đó, việc Phùng [Quế Phân]
ủng hộ tư tưởng của Ngụy [Nguyên] về bắt chước phương Tây đã giúp đưa
khái niệm này vào thực tiễn. Như Schell và Delury nhận xét, Trương [Chi
Động] đã tạo ra phương châm nổi tiếng cho các nhà cải cách: “Lấy cái học
của Trung Quốc làm cơ sở, lấy tri thức phương Tây áp dụng vào thực
tiễn.” Đầu thế kỷ XX, Tôn Trung Sơn đã sử dụng ngôn ngữ tự cường để biện
hộ cho việc áp dụng không chỉ kĩ nghệ phương Tây mà còn áp dụng cả hình
thức chính phủ mới nhất tức là chế độ cộng hoà và kêu gọi lật đổ nhà
Thanh: “Tương lai của Trung Quốc cũng giống như xây dựng một con đường
sắt. Vì vậy, nếu bây giờ chúng ta xây dựng một con đường sắt chúng ta sẽ
sử dụng đầu máy hơi nước được phát minh ngay từ ngày đầu tiên [tức là,
luật lệ phong kiến] hay sử dụng mô hình đã được cải tiến và hiệu quả
nhất của ngày hôm nay?” Nhưng, Tôn [Trung Sơn] cũng chỉ quan tâm tới chế
độ cộng hoà về mặt thực dụng mà thôi. Trong tuyên bố nổi tiếng năm 1924
về "Chủ nghĩa tam dân" của mình, bên cạnh việc ủng hộ các quyền lợi và
quyền tự do, ông còn quan tâm tới sự thống nhất và tinh thần tập thể
nữa: “Các cá nhân không nên có quá nhiều tự do, nhưng quốc gia phải được
hoàn toàn tự do. Chỉ khi các quốc gia có thể hành động một cách tự do
thì Trung Quốc mới có thể được gọi là mạnh mẽ.” Sau này, Tôn [Trung Sơn]
đã ngưỡng mộ mô hình chính trị nước ngoài khác, đấy là chủ nghĩa Lenin,
vì nó thể tạo được kỷ luật trong đảng. Điều đó chứng tỏ rằng ông chỉ
coi chế độ cộng hòa là một công cụ, là biện pháp chính trị mới, nhiều
hứa hẹn nhất, có thể áp dụng nhằm phục vụ cho bản chất của Trung Quốc.
Tư
tưởng cuối thời nhà Thanh và thời kỳ Cộng hòa có ảnh hưởng đối với các
chính trị gia của Trung Quốc, kể từ Mao [Trạch Đông] và người kế tục sự
nghiệp của ông ta là Đặng Tiểu Bình và các thế hệ quan chức hiện nay của
ĐCSTQ. Tất cả những người đó đều đã nói đến khai thác xiyong (chức năng phương Tây) trong khi vẫn giữ zhongti
(bản chất Trung Quốc). Mao [Trạch Đông] thường nói về áp dụng chủ nghĩa
Mác vào hoàn cảnh của Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình chủ trương nhập khẩu
bí quyết kinh tế thị trường của phương Tây để xây dựng chủ nghĩa xã hội
“mang màu sắc Trung Quốc”, còn thế hệ những người ủng hộ cách tiếp cận
này hiện nay lại nhấn mạnh việc “vay mượn” công nghệ và kĩ thuật quân sự
của phương Tây. Bằng chứng là những nỗ lực to lớn của Trung Quốc nhằm
chiếm đoạt sở hữu trí tuệ của Mỹ bằng gián điệp mạng và những hình thức
do thám truyền thống khác. Người ta nói rằng bắt chước là cách nịnh hót
chân thành nhất; nhưng trong trường hợp này, bắt chước phải được coi là
bằng chứng của một tham vọng nhất quán và lâu dài của nhiều người trong
giới tinh hoa của Trung Quốc. Một lần nữa, mục tiêu không phải là trở
thành như Hoa Kỳ, tức là chế độ dân chủ và là người ủng hộ hệ thống quốc
tế thời hậu chiến (Chiến tranh Thế giới II). Mà là bảo vệ quyền lực của
ĐCSTQ và làm cho Trung Quốc trở thành mạnh mẽ để Bắc Kinh có thể thiết
lập trật tự toàn cầu mới theo cách của họ.
Trật
tự thế giới do Trung Quốc áp đặt sẽ như thế nào? Chi tiết còn khá mù mờ,
nhưng vẫn có thể xác định được những khác biệt với trật tự hiện hành.
Không những không bắt đầu bằng nhân phẩm của cá nhân và bảo đảm cho tất
cả mọi người một số quyền cơ bản, được pháp luật bảo vệ, trật tự do
Trung Quốc áp đặt sẽ dựa trên tiền đề là sự tồn tại của tập thể và ưu
tiên cho sự ổn định của nó. Nếu Washington thúc đẩy tự do thì Bắc Kinh
sẽ thay thế bằng mục tiêu Đại Đồng (Đại Hài hòa hoặc Đại Đoàn kết). Tính
chất phi chính thống của cách tiếp cận của Ngụy Nguyên đối với Khổng
giáo một phần là do ông tin rằng lịch sử không diễn biến theo chu kỳ,
với những thăng trầm của các triều đại, mà lịch sử đi theo đường thằng,
hướng tới một kỷ nguyên không tưởng “Đại Hài hòa.” Schell và Delury giải
thích rằng Ngụy [Nguyên] thuộc về trường phái các nhà tư tưởng cho rằng
thậm chí chính Khổng Tử cũng hiểu lịch sử như thế và đã bí mật cho phép
sử dụng phương pháp chính trị thực dụng nhằm “giữ cho thế giới có trật
tự” cho đến khi có được Đại Đồng. Cùng với quan niệm về tự cường và
những đòi hỏi của nó, quan điểm của Ngụy [Nguyên] về chính sách thực
dụng như là phương tiện và Đại Đồng là mục tiêu tiếp tục tồn tại sau khi
Ngụy [Nguyên] qua đời.
Vào cuối thế kỷ XIX,
Trung Quốc gặp thất bại nặng nề nhất từ trước tới lúc đó, họ đã thua
Nhật Bản trong Chiến tranh Trung - Nhật lần thứ nhất. Tại đỉnh điểm của
vụ chấn thương này, một học giả và cũng là nhà cải cách, ông Lương Khải
Siêu, người kế tục Ngụy Nguyên và Phùng Quế Phân, đã chấp bút lời nói
đầu cho lần xuất bản mới tác phẩm về phái Pháp gia và nghệ thuật trị
nước của Ngụy [Nguyên]. Ông viết: “Những người tiếp thu cái mới sẽ thịnh
vượng và phát triển mạnh mẽ. Còn những người đóng khung trong cái cũ sẽ
suy giảm và yếu đi.” Thầy của Lương Khải Siêu, ông Khang Hữu Vi, cố vấn
cho cháu trai của Từ Hi Thái Hậu khi bà từ bỏ ngai vàng trong 102 ngày
trong năm 1898, xuất bản trong cùng năm đó tác phẩm lấy tên là Đại Đồng
Thư. Ngay cả Khang [Hữu Vi] người đã từng tư vấn cho vị hoàng đế nhà
Thanh yếu đuối về những biện pháp cải cách và củng cố chế độ, cũng vẫn
phù phép ra một tác phẩm về sự hài hòa không tưởng. Khang [Hữu Vi] cùng
trong trường phái học thuật tương tự như Ngụy Nguyên và chấp nhận tính
chất tuyến tính của lịch sử, cũng như mục tiêu cuối cùng của Đại Đồng và
lợi ích của chính sách thực tiễn trong giai đoạn quá độ. Mao [Trạch
Đông] sau đó nói với Edgar Snow, một nhà báo phương Tây có cảm tình với
ông, rằng ông rất mê Lương [Khải Siêu] và Khang [Hữu Vi] và hồi thanh
niên đã “đọc đi đọc lại những cuốn sách đó cho đến khi thuộc lòng mới
thôi.” Một nhà chính trị học được đào tạo ở Trung Quốc, nhưng sống ở
Kentucky, là ông Shiping Hua, nhận xét rằng các nhà lãnh đạo sau này của
ĐCSTQ vẫn kiên trì coi Đại Đồng là lí tưởng, nhưng lại theo đuổi những
mục tiêu khác vì đấy là những mục tiêu dễ thực hiện hơn trong giai đoạn
hiện nay. Ông khẳng định: “Việc người ta vẫn coi Đại Đồng là lí tưởng
cho thấy rằng sự tiến hóa của Trung Quốc theo mô hình chủ nghĩa tư bản
dân chủ tự do phương Tây là khó có thể xảy ra.” Việc các thế hệ kế tiếp
nhau trong giới tinh hoa của ĐCSTQ, trong đó có cả những người phản đối
tư tưởng Khổng giáo của Mao [Trạch Đông], thỉnh thoảng lại nhắc tới tư
tưởng Đại Đồng cho thấy truyền thống cố hữu của Trung Quốc, tức là
truyền thống đặt tập thể lên trên cá nhân và ủng hộ chính sách thực tiễn
cả trong lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại – trong khi chờ đợi ngày
Đại Đồng chưa ai biết bao giờ sẽ tới.
Mặc dù
trọng tâm của các nhà cải cách cuối thế kỷ XIX của Trung Quốc là hiện
đại hoá và lập trường chung của họ là bài Nho giáo, Đại Đồng không phải
là nguyên tắc Nho giáo cổ điển duy nhất được họ phục hồi. Các học giả và
các nhà hoạt động như, Ngụy [Nguyên] và Phùng [Quế Phân] cũng nhấn mạnh
giá trị đạo đức truyền thống của Nho giáo về sự sỉ nhục và coi đó là
sức mạnh hiện đại hoá. Ngụy [Nguyên] thường nhắc câu cách ngôn của Khổng
giáo: “Nhục làm người ta phải cố gắng, khi đất nước đang bị sỉ nhục,
tinh thần của nó sẽ thăng hoa”. Còn Phùng [Quế Phân] thì viết: “Khi
người ta cảm thấy xấu hổ, không có gì là tốt hơn là tự cường.” Tương tự
như Đại Đồng, ở Trung Quốc hiện nay đề tài sỉ (xấu hổ hay sỉ
nhục) vẫn thường xuyên được nói tới. Năm 1927, Tưởng Giới Thạch – kế
nhiệm Tôn Trung Sơn, lãnh đạo Quốc Dân Đảng – lập ra ngày Quốc nhục,
hiện nay ngày lễ đó vẫn được kỉ niệm. Như Schell và Delury đã chỉ ra,
nhiều điểm du lịch được du khách nội địa Trung Quốc đến nhất là những
nơi tưởng niệm những giai đoạn thất bại và tàn phá Trung Quốc bởi bàn
tay của các lực lượng phương Tây và Nhật Bản. Ở những địa điểm này người
ta giải thích lịch sử một cách rất tùy tiện. Bảo tàng Chiến tranh Nha
phiến do nhà nhà nước quản lí là một ví dụ, ở đây, do sai lầm mà người
ta đưa cả Hoa Kỳ vào hàng ngũ đối thủ của Trung Quốc. Chế độ thường
xuyên nhắc tới nỗi nhục quốc thể và viết lại lịch sử để kích động người
dân cho cuộc đấu tranh không phải là chế độ sẵn sàng công nhận các quyền
công dân hay tôn trọng trật tự quốc tế hiện hành.
Mặc
dù nhiều người trong số những nhân vật được Schell và Delury nhắc đến
đã coi dân chủ là nguồn sức mạnh của phương Tây và do đó cũng coi nó là
một phương tiện, nhưng không có ai trở thành nhà dân chủ hết, trừ ông
Lưu Hiểu Ba, hiện đang bị tù và dường như không có nhiều thính giả ở
Trung Quốc lắng nghe ông. Mặc dù Phùng Quế Phân ngưỡng mộ cuộc bầu cử
năm 1860 của Abraham Lincoln, nhưng ông ta, theo lời của Schell và
Delury, là “nhà độc tài chấp nhận sự tham gia của dân chúng” chứ không
phải một người dân chủ. Ban đầu Lương Khải Siêu ủng hộ dân chủ, nhưng
sau đó lại quyết định rằng Trung Quốc chưa sẵn sàng. Như đã nói, mặc dù
Tôn Trung Sơn ủng hộ tư tưởng cộng hòa, nhưng ông chưa bao giờ chấp nhận
hoàn toàn khế ước của xã hội tự do và cuối cùng đã ngưỡng mộ tổ chức
đảng Lênin. Tưởng Giới Thạch cũng được đúc từ cái khuôn đó: “Trong những
bài nói và bài viết của mình, Tưởng [Giới Thạch] thường xuyên nhắc tới
‘dân chủ lập hiến’, và ‘tự do’," Schell và Delury viết, “nhưng ông ta
làm thế cũng giống như Tôn [Trung Sơn]… Đối với ông ta, đây là những
khát vọng mơ hồ và xa vời, không quan trọng bằng cuộc đấu tranh trước
mắt của Trung Quốc để sống còn và đổi mới quốc gia.” Chỉ là ve vãn chứ
không bao giờ thực sự chuyển sang những nguyên tắc của chế độ dân chủ tự
do. Vì vậy mà câu hỏi về của cải và sức mạnh đặt ra là liệu ước muốn
tìm kiếm uy tín quốc tế của các nhà lãnh đạo của Trung Quốc có dẫn họ
đến quá trình dân chủ hóa hay không dường như là biểu hiện của tinh thần
lạc quan chứ không phải là một dự báo mang tính thực tế đối với tương
lai của Trung Quốc.
Một tầm nhìn khác về tương
lai của Trung Quốc có xuất xứ từ một nguồn ít người biết, được Schell và
Delury nhắc tới, nhưng hai ông này đã không nghiên cứu một cách kĩ
lưỡng. Đấy là bài viết Bàn về các cường quốc trên biển của Ngụy
Nguyên, xuất bản vào năm 1843, bốn tháng sau Hòa ước Nam Kinh, trong đó
có điều khoản các tàu chiến của Anh rút khỏi sông Dương Tử. Trong tiểu
luận này, Ngụy [Nguyên] trình bày về sự tương thuộc giữa sức mạnh quân
sự và thương mại của nước Anh. Nhưng, như học giả Jane Kate Leonard nhận
xét, Ngụy [Nguyên] đã làm được nhiều hơn là dự báo những thành tựu của
nước Anh. Ông đã đưa ra cả một chương trình cụ thể nhằm hiện đại hóa hải
quân và chiến lược địa chính trị của Trung Quốc. Có thể thấy những
thành tố của chương trình này trong bản kế hoạch của chính phủ ban hành
năm 1980, cho nên trong mấy thập niên vừa qua người Trung Quốc đã theo
sát những khuyến nghị Ngụy [Nguyên].
Ngụy
[Nguyên] bắt đầu từ ý tưởng cho rằng các quốc gia phương Tây có sức mạnh
là vì họ có một mạng lưới các căn cứ, tạo điều kiện cho họ khống chế
giao thông và thương mại trên biển. Ông nói tới không chỉ những hải cảng
của Anh ở châu Phi, Ấn Độ, ở Tích Lan và Singapore, có thể khống chế eo
biển Malacca, mà còn đề cập tới những căn cứ của Hà Lan ở Batavia, có
đủ khả năng tiếp cận eo biển Sunda nằm giữa đảo Java và đảo Sumatra. Ông
kết luận rằng Trung Quốc không bị đe dọa xâm lược ngay lập tức, nếu các
cường quốc phương Tây chưa thâm nhập vào lục địa Đông Nam Á, Nepal hay
Nhật Bản. (Nếu sống đủ lâu, Ngụy [Nguyên] có thể đã được chứng kiến cuộc
tấn công của Nhật Bản vào Đông Nam Á ngay từ đầu Thế chiến II, như khúc
dạo đầu của cuộc xâm lược của Nhật Bản vào Trung Quốc và do đó khẳng
định đánh giá của ông là chính xác.) Nghĩa là, Ngụy [Nguyên] tin rằng
mạng lưới các căn cứ của phương Tây trong khu vực rõ ràng đang làm mất
ổn định của trật tự – làm thiệt hại cho Trung Quốc – và đặt phương Tây
vào vị trí có thể đe dọa được bờ biển của Trung Quốc. Trên cơ sở phân
tích như thế, tiểu luận của Ngụy [Nguyên] trình bày rõ đường lối hành
động cả về quân sự lẫn ngoại giao nhằm tăng cường sức mạnh của Trung
Quốc.
Tiểu luận này khuyến cáo rằng Trung Quốc
phải tập trung nỗ lực ngoại giao vào khu vực Đông Nam Á lục địa, đặc
biệt là Việt Nam, Thái Lan và Campuchia, cũng như Nhật Bản, nước mà sau
này đã chứng tỏ khả năng đẩy lui được phương Tây trong cuộc chiến tranh
Nga-Nhật năm 1904-1905, và Nepal. Theo logic dĩ di trị di, Ngụy [Nguyên]
cho rằng Bắc Kinh nên xúi giục các nước bên ngoài đối đầu với nhau và
dùng ngoại giao để làm suy yếu các nước chư hầu. Ví dụ, ông đề nghị tìm
cách cân bằng sự hiện diện của Anh tại Hồng Kông bằng cách cho Pháp và
Mỹ tiếp cận tới Quảng Châu (lúc đó gọi là Canton). Ông cũng đề nghị tìm
kiếm sự ủng hộ của Nga nhằm đối chọi với các nước phương Tây khác – đến
mức có thể khuyến khích Nga hành động chống lại Anh ở Afghanistan và tây
bắc Ấn Độ, tức là những hành động có thể tạo điều kiện cho người Nepal
tiêu diệt người Anh ở Bengal. Một chuỗi các sự kiện như vậy sẽ làm cho
vị trí của Anh ở Singapore yếu đến mức Thái Lan cùng với Việt Nam có thể
tấn công.
Đã 170 năm kể từ khi Ngụy [Nguyên]
chấp bút bản kế hoạch này, thế giới và bản đồ thế giới đã thay đổi hoàn
toàn. Nhật Bản đã nằm trong liên minh với Hoa Kỳ từ năm 1945, người Anh
không còn cai trị Hồng Kông và Ấn Độ nữa. Anh cũng không còn ở
Afghanistan và không phải là quốc gia phương Tây mà Trung Quốc phải lo
ngại nhất nữa. Nhưng những kiến nghị của Ngụy [Nguyên] thì vẫn được một
số người ủng hộ và dường như đấy chính là lời giải thích cho những quyết
định ngoại giao gần đây của Trung Quốc. Chỉ cần xem xét cuộc tấn công
nhằm thu phục nhân tâm của Trung Quốc ở vùng Đông Nam Á trong mấy thập
niên qua và sự xâm nhập vào khu vực ảnh hưởng truyền thống của Ấn Độ,
trong đó có Nepal thì sẽ rõ. Cũng chớ bỏ qua quan hệ dường như thắt chặt
của Bắc Kinh với Moscow, tức là mối quan hệ nhằm ngăn chặn các đối thủ
tiềm năng khác cơ hội thiết lập với Nga liên minh chống Trung Quốc. Cuối
cùng, dường như có sụ tương đồng với luận cứ của Ngụy [Nguyên] về áp
lực lên những căn cứ của Anh ở những khu vực khác của châu Á sẽ mang lại
lợi ích cho Trung Quốc tại các lân bang của họ. Trong khuôn khổ những
nỗ lực của Bắc Kinh nhằm tạo ra một loạt các đối tác ở Trung Đông và
Afghanistan, trong đó có những nước thù địch với Mỹ, dường như có thể
dùng Mỹ thay thế cho Anh và Trung Đông thay thế cho Ấn Độ và chúng ta sẽ
được một logic gián tiếp giống hệt nhau – cần phải chuyển hướng và làm
suy yếu cường quốc mạnh nhất, đe dọa nhiều nhất những tham vọng ở Đông Á
của Trung Quốc.
Bên cạnh chiến lược ngoại giao,
Ngụy [Nguyên] còn đưa ra một số khuyến nghị về hiện đại hóa hải quân,
còn gần gũi hơn nữa với quá trình hiện đại hóa quân đội Trung Quốc trong
mấy thập kỷ vừa qua. Kế hoạch chi tiết bắt đầu bằng những biện pháp
củng cố lực lượng bảo vệ bờ biển của Trung Quốc trong thời gian trước
mắt. Sau đó là khả năng phòng thủ lâu dài, cùng với việc cải tổ quân đội
và thúc đẩy sự đổi mới từ bên trong. Cuối cùng, đất nước sẽ sẵn sàng
xuất hiện như một cường quốc hải quân nghiêm túc – đủ sức bảo vệ các hải
cảng chính, có một mạng lưới các căn cứ được tăng cường, mua và phát
triển công nghệ quân sự tiên tiến, triển khai một lực lượng hải quân nhỏ
hơn nhưng chất lượng tốt hơn so với trước đây. Kể từ đầu những năm
1980, Hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân (PLAN) đã theo đuổi chiến
lược đúng như quan niệm của Ngụy [Nguyên]. Những thế hệ lãnh đạo kế tiếp
nhau của PLAN đã liên tục tăng cường từ việc bảo vệ các hải cảng của
Trung Quốc đến gia tăng tầm hoạt động (tính từ bờ biển) và khả năng ngăn
chặn của Trung Quốc. Thuật ngữ dành cho cho nỗ lực này là “chuỗi đảo”,
chuỗi đảo “thứ nhất” tiếp giáp với Okinawa, Đài Loan và Philippines,
“chuỗi đảo thứ hai” tiếp giáp với Ogasawara, Guam và Indonesia. Theo
quan điểm này, mục tiêu cuối cùng của PLAN sẽ là biển Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương nằm dưới sự bảo vệ của các tàu sân bay mới của nước này.
Trung
Quốc cũng đã triển khai tên lửa với độ chính xác có thể nhắm tới những
mục tiêu trên đảo Guam, và những đánh giá mới nhất từ những nguồn công
khai cho thấy rằng nước này chuẩn bị bắn được những mục tiêu di động
cách bờ đến ba ngàn cây số, tức là nằm trên chuỗi đảo thứ hai. Trong khi
đó, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc hoàn thành thử nghiệm bay, mấy
chiếc tàu sân bay mới cũng đang được xây dựng. Cuối cùng, toàn bộ quân
đội Trung Quốc đang giảm biên, đấy là một phần của nỗ lực nhằm tăng
cường chất lượng thông qua việc mua các công nghệ mới, cùng với việc cải
tiến công tác đào tạo và chính sách cán bộ.
Chắc
chắn là hiện đại hóa quân đội không phải là công việc duy nhất đáng
quan tâm của Trung Quốc hiện nay, nhưng dự đoán tương lai của Trung Quốc
mà bỏ qua nó thì sẽ là việc làm hấp tấp. Schell và Delury làm được một
công việc tuyệt vời trong quá trình khám phá những tư tưởng và sự nghiệp
của các nhà cải cách chủ chốt và các nhà lãnh đạo của Trung Quốc trong
thế kỷ XIX và XX, và bao gồm thời kỳ cuối triều đại Mãn Thanh, trong đó
có bàn về Lý Hồng Chương và Tăng Quốc Phiên, người chỉ huy lực lượng tự
cường được Từ Hi Thái hậu sủng ái. Nếu nỗ lực tự cường trong thế kỷ XXI
của Trung Quốc tiếp tục được thực hiện theo kế hoạch, tức là tập trung
vào cả sức mạnh kinh tế và quân sự, thì lần xuất bản tiếp theo của tác
phẩm này phải có thêm những học giả trong lĩnh vực quân sự, thí dụ như
Phó Đô đốc Lưu Hoa Thanh (ông này được người ta coi là Alfred Thayer
Mahan của Trung Quốc, năm 1982 chính ông là người đưa ra chiến lược
chuỗi đảo). Trong khi đó – theo logic của Schell và Delury – chúng ta có
thể nói dứt khoát rằng, nếu Trung Quốc tiếp tục đi theo quỹ đạo hiện
tại của nó trong quá trình phát triển kinh tế và quân sự thì nước này sẽ
trở thành một diễn viên táo bạo hơn trên trường quốc tế chứ không phải
là một nước dân chủ hơn hay có trách nhiệm hơn.
Jacqueline Newmyer Deal
là chủ tịch kiêm tổng giám đốc công ty tư vấn quốc phòng có tên là Long
Term Strategy Group trụ sở ở Washington và là cộng tác viên cao cấp
Viện Nghiên cứu chính sách đối ngoại (Foreign Policy Research
Institute).
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 05:48
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/10/lan-theo-ke-hoach-lau-dai-cua-trung-quoc.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001