Kẻ ở miền xuôi
Tháng 10 31, 2013
Tưởng Năng Tiến
“Tô Hoài luôn hướng ngòi bút về phía người cùng khổ… bằng tất cả sự đồng cảm của trái tim. Đọc Truyện Tây Bắc
của ông để hiểu thêm về cuộc sống của miền núi, với những mặt trái như
những nỗi đau. Tập truyện có một chủ đề rất tập trung: những người dân
miền núi vừa là nạn nhân của thực dân Pháp, của chế độ phong kiến, của
chính những phong tục, tập quán lạc hậu, mê tín dị đoan của mình. Họ đã
đứng lên đấu tranh, giải phóng…” (Nhà xuất bản Trẻ)
Nhiều tác phẩm của Tô Hoài được
trích dẫn và giảng dạy trong chương trình học ở miền Nam. Ông
cũng rất được yêu quý và được ghi nhận, với tất cả sự trân
trọng, như là một nhà văn của tuổi thơ:
Một ngày phiên chợ, u tôi mua về đôi
gà nhỏ. Hai con gà: một trống, một mái, dáng còn bé tí teo, như vừa mới
lìa đàn. Suốt ngày chúng cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng
một giọng ai oán, thảm thương!
Ðoạn văn ngắn này, trong tập truyện O chuột,
tôi đã được cô giáo đọc cho nghe – đôi lần – khi còn thơ ấu. Dù rất
nhiều năm đã trôi qua, tôi vẫn tin rằng mình vừa ghi lại đúng nguyên
văn, nếu không hoàn toàn đúng thì chắc cũng gần đúng (y) như thế. Sao
tôi cứ thương mãi đôi gà nhỏ côi cút “dáng còn bé tí teo,” và có cảm
tình hoài với người viết những dòng chữ ghi trên.
Sau khi đất nước thống nhất,
Nam/Bắc hoà lời ca, tôi mới biết thêm là có một Tô Hoài khác –
khác hẳn trong trí tưởng ấu thơ của mình – qua lời của nhà
văn Nhật Tuấn:
Hội Nhà văn Việt Nam hồi đó có hơn 150 hội
viên mà hàng năm chỉ có dăm bảy suất, bởi vậy đó là cuộc đấu tranh sinh
tử, giành giật âm thầm và quyết liệt chẳng thua gì vũ đài quyền Anh…
Ấy thế mà riêng Tô Hoài, tổng kết
lại trong thời bao cấp ông đã xuất ngoại tới cả trăm lượt, đủ các nước
Á, Âu, Mỹ , Úc, Phi… Các bác hội viên “cả đời chưa một lần đặt đít lên
ghế tàu bay” phải ca cẩm:“cái thằng ranh ma thế, có mỗi con dế mèn mà
bay khắp thế gian.”
Tô Hoài không chỉ “bay” khắp năm châu
mà còn đi khắp nước. Ông tìm đến những nơi xa xôi để ghi lại
những cảnh tình, và những mảnh đời (cơ cực) của người dân
miền núi.
Năm 1956, Hội Văn nghệ Việt Nam đã trao giải thưởng (hạng nhất) cho tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Tuyển tập này gồm ba truyện ngắn: “Cứu Đất Cứu Mường”, “Mường Giơn” và “Vợ Chồng A Phủ.” Cả ba đều được coi là có giá trị cao vì “đã
thấm nhuần đường lối của Đảng” và “đã nói lên một cách đau xót
nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở vùng cao dưới ách chiếm
đóng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là bọn quan bang, quan châu,
phìa tạo, thống lý…” theo như bình phẩm của giáo sư Phan Cự Đệ.
Đường lối của Đảng (xem ra) cũng
chả tốt lành hay tử tế gì. Bởi vậy, một tác phẩm nghệ thuật
mà “thấm nhuần” thì e khó tránh khỏi ít nhiều khiên cưỡng hay
cường điệu – theo như nhận xét của nhà văn Nhật Tuấn và nhà văn Phạm Thị Hoài:
Có lẽ tôi không ưa “Vợ chồng A Phủ”
cũng vì trong phần lớn các tác phẩm có mầu sắc folklore miền ngược, viết
từ hình dung của người miền xuôi, các nhân vật đều được gán cho những
cách nghĩ, cách nói, đặc biệt là cách xưng hô, có phần ngồ ngộ, ngu ngơ,
sơ đẳng, ít nhiều bán khai…
Tôi còn e ngại rằng chính vì cái
khuôn mẫu “có mầu sắc folklore miền ngược” của những cây viết tiên
phong và cổ thụ (kiểu Tô Hoài) đã khiến những tác giả thuộc
thế hệ sau vẫn cứ tiếp tục nhắm mắt gán cho tất cả sắc dân
bản địa ở Việt Nam “những cách nghĩ, cách nói, đặc biệt là cách xưng
hô, có phần ngồ ngộ, ngu ngơ, sơ đẳng, ít nhiều bán khai…” – y hệt
như nhau. Coi:
Tham gia du kích xã từ năm 1962, đã
hơn 70 mùa rẫy nhưng Ngút vẫn còn đủ sức làm hơn 1ha lúa nước. Nghe nhắc
chuyện “dép Bác Hồ”, Đinh Ngút lục tìm trong gùi lấy ra một đôi dép đã
mòn trơ cả bố. “Dép Bác Hồ mình làm hồi Bác mất đấy. Chẳng biết đã theo
mình bao nhiêu trận đánh, bao nhiêu lần cõng đạn cho bộ đội nữa”.
Ngừng một thoáng, vẻ mặt ông lão chợt nghiêm trang:
- “Không dối lòng đâu, mỗi lần đi
“dép Bác Hồ” là thấy bụng không nghĩ điều trái, chân không đi hai đường.
Chẳng riêng mình, cả làng này ai cũng vậy…
Chiến tranh khỏi nói, hòa bình rồi
có biết bao chuyện khó… Bông Rẫy hồi chiến tranh chỉ có 50 hộ, bây giờ
đã lớn lên gần 120 hộ mà không còn ai đói, chỉ còn 10 hộ nghèo. Ai cũng
có xe máy, hơn một nửa đã làm được nhà xây. Không ai nghe lời kẻ xấu
vượt biên trái phép… Không nhờ phép lạ “dép Bác Hồ” sao được thế? Có
“dép Bác Hồ” là thắng tất! (Lê Quang Hồi. “Làng Bông Rẫy mang dép Bác Hồ.” Quân đội Nhân dân 1-6-2009).
Nhân dịp tái bản tập Truyện Tây Bắc, vào năm 2004, Tô Hoài có đôi lời tâm sự:
Năm 1952, tôi theo bộ đội chủ lực,
tiến quân vào miền Tây, tham dự chiến dịch giải phóng Tây Bắc…Cái kết
quả lớn nhất và trước nhất của chuyến đi tám tháng ấy là đất nước và
người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều, không thể bao giờ
quên. Không thể bao giờ quên được lúc vợ chồng A Phủ tiễn tôi ra khỏi
dốc núi Tà Sùa rồi cũng vẫy tay gọi theo: “Chéo lù! Chéo lù!’’ (Trở lại!
Trở lại!). Không bao giờ quên được vợ chồng Lý Nủ Chu đưa chúng tôi
dưới chân núi Cao Phạ, cùng vẫy tay kêu: Chéo lù! Chéo lù! Hai tiếng
“trở lại, trở lại” chẳng những nhắc tôi có ngày trở lại mà tôi phải đem
trở lại cho những người thương ấy một kỷ niệm tấm lòng mình, một cái gì
làm hiển hiện lại cuộc đời người H’Mông trung thực, chí tình, dù gian
nan đến thế nào, bao giờ cũng đợi cán bộ, đợi bộ đội, bao giờ cũng mong
anh em trở lại. Chéo lù! Trở lại! Trở lại! Chéo lù!
Sáu thập niên đã qua, Tô Hoài vẫn
chưa có dịp “chéo lù” thì “những “người H’Mông trung thực chí
tình” năm xưa đã “đổ về Hà Nội”, theo như tường thuật của
blogger Trần Thị Cẩm Thanh:
Trong mấy ngày qua, trời Hà Nội mưa và gió lạnh, thông tin về những người H‘Mông bị công an quận Đống Đa đuổi ra khỏi nhà thờ trong đêm giá lạnh đã khiến cộng đồng không thể không bàng
hoàng, vì tại sao con em nhân dân sau khi được tuyển vào ngành công an,
ngành công an đã đào tạo họ như thế nào, môi trường sống và làm việc ra
sao mà chúng nó lại trở nên tàn nhẫn như vậy…
Theo trình bày của người dân H’Mông
tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng thì tất cả dân tộc H’Mông sống trong 4 tỉnh
phía Bắc là Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều bị đàn áp
tàn nhẫn, cấm không cho sống đời sống văn minh mà bắt trở về với các thủ
tục lạc hậu của dân tộc H’Mông.
Khác hẳn với gam “mầu sắc folklore
miền ngược” (đậm nét trong truyện “Vợ chồng A Phủ”) cách ăn mặc
cũng như ăn nói gẫy gọn, chững chạc, tự tín của những thanh
niên H’Mông – nghe và thấy được qua Youtube – khiến tôi hết sức ngạc ngạc nhiên và vô cùng xúc động:
“Chính quyền từ trung ương đên địa phương đều cùng một duộc…
chỉ nói vu vơ ngoài pháp luật… không giải quyết gì, tôi đến chỗ Hà Nội
này tôi mới biết được rằng có rất nhiều người dân oan như chúng tôi cũng
đang phải gánh chịu những hậu quả mà Đảng và Nhà
nước đã gây cho mọi dân tộc… chúng em cũng cảm thấy là có lẽ chúng tôi
cần phải đứng lên để vạch trần, và đứng lên dũng cảm… để kiên nhẫn vượt
qua khó khăn đó… để chúng tôi được sống và quyền làm người như các dân
tộc khác.”
Hoặc:
“Trên đấy nó cứ bắt cóc người dân tộc H‘Mông… bắt người vô cớ, không có một
lý do gì, bà con rất hoang mang lo sợ, nên bà con bây giờ phải xuống
đây để cho chính phủ giải quyết, phải có một văn bản để cho bà con yên
tâm mà làm ăn thì bà con mới quay về, còn không có thì chúng tôi cứ ở
đây thôi. Cho đến khi nào chính phủ công nhận, nhà nước bảo không bắt
dân tộc này nữa, và không làm cho dân tộc này phải hoang mang lo sợ nữa
thì chúng tôi sẽ về… không phải ở đây làm gì. Chúng tôi có nhà có cửa,
có cuộc sống của chúng tôi, chẳng qua là do không công bằng nên chúng
tôi phải đi đòi hỏi.”
Không cần phải là thầy bói người
ta cũng có thể đoán được “chính phủ” đã “giải quyết” sự việc
“không công bằng” này ra ra sao. Từ Bangkok, hôm 24 tháng 10 năm
2013, biên tập viên Gia Minh RFA có bài tường thuật:
Thông tin truyền tải trên mạng Internet trong những ngày qua cho biết có một nhóm đồng bào người H’Mông
mấy chục người từ 4 tỉnh phía Bắc gồm Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên,
Tuyên Quang xuống Hà Nội khiếu kiện phải sống vật vạ tại Vườn hoa Mai
Xuân Thưởng như những dân oan các tỉnh khác lâu nay phải bám trụ tại đó
để tiếp tục khiếu kiện.
Một số người hảo tâm tại Hà Nội đã đến giúp đỡ cho họ trong suốt những ngày qua.
Thế nhưng đến đêm 23 tháng 10, lực lượng chức năng đã đến và đưa họ đi.
Một phụ nữ trong đoàn khi đang trên xe mà không biết bị đưa đi đâu, trả lời qua điện thoại kể lại chuyện bị bắt đưa đi như sau:
Người ta đến đánh, dùng roi điện
giật bà con. Họ là công an thành phố kết hợp với công an trên tỉnh, họ
có người mặc sắc phục, có người không. Bà con cầm tay nhau, những người
bên trong thoát, nhưng phía ngoài lăn ra đất hết. Họ lôi ra xe buýt, đưa
về đàn áp tại chỗ tiếp công dân. Sau đó đưa lên xe về Cao Bằng, có ba
xe. Khi lên xe, tôi thấy một người nằm tại đống rác là các chiếu mà bà
con Hà Nội cho dùng tạm, người đó không còn tính mạng nữa rồi!
Tô
Hoài, nay, đã bước qua tuổi 90. Chưa chắc ông đã đến được vườn
hoa Mai Xuân Thưởng để an ủi những người H’Mông trong những đêm
mưa giá lạnh. Tôi chỉ hy vọng (mỏng manh) rằng nay mai ông sẽ lên
tiếng, ít nhất thì cũng là một lời ai điếu, cho những người
H’Mông vừa bị đánh chết tại Hà Nội tuần qua. Đây là con cháu
của những người được chính Tô Hoài mô tả là “trung thực, chí
tình” mà hơn nửa thế kỷ trước khi ông bước “ra khỏi dốc núi Tà
Sùa rồi” mà họ “vẫy tay gọi theo: ‘Chéo lù! Chéo lù!’ (Trở lại! Trở
lại!)”
Tuy nhiên, tưởng cũng cần phải nói
thêm rằng “trung thực” và “chí tình” là những đức tính không
dễ tìm nơi (rất nhiều) những kẻ ở miền xuôi.
Ảnh: Đoàn người H’Mong về Hà Nội khiếu kiện bị trấn áp buộc phải rời nhà thờ ra đi trong đêm mưa. Nguồn: Blog Nguyễn Tường Thụy
© 2013 Tưởng Năng Tiến & pro&contra
nguồn:http://www.procontra.asia/?p=3577
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001