Đâu là sự thật của thác Bản Giốc?
Trương Nhân Tuấn
Từ
những năm đầu thập niên 2000, tác giả đã vào Trung tâm Văn khố Hải ngoại
của Pháp tại Aix-en-Provence (CAOM) để nghiên cứu vấn đề biên giới hai
nước Việt-Trung. Năm 2003 có bài biên khảo công bố các dữ kiện địa lý,
lịch sử và pháp lý liên quan đến chủ quyền thác Bản Giốc.
Bài biên khảo
này có lẽ vẫn còn đâu đó trong không gian internet. Thời gian tác giả
dành cho việc tìm kiếm tài liệu, riêng cho thác Bản Giốc, tính ra gần
một năm, với không biết bao nhiêu trang tài liệu, sách và bản đồ phải
tham khảo. Nếu đây chỉ là một công tác « thuần túy nghiên cứu khoa học
», thì mọi việc sẽ diễn ra hết sức dễ dàng. Người làm nghiên cứu tìm
thấy được điều gì thì ghi nhận điều đó, hiểu tới đâu nói tới đó, sau đó
tổng hợp lại các dữ kiện và đưa ra kết luận. Nhưng vấn đề tranh chấp
biên giới Việt-Trung là một trường hợp hết sức tế nhị và phức tạp. Vấn
đề tranh chấp đã tồn đọng từ hàng trăm năm trước, khi VN mới vào vòng lệ
thuộc Pháp. Trong khi đó, nhiều tài liệu phát tán từ trong nước tố cáo
các lãnh đạo CSVN «bán đất nhượng biển» cho TQ, sau khi hai bên VN-TQ ký
kết lại hiệp ước biên giới trên đất liền năm 1999.
Người
làm nghiên cứu về biên giới Việt-Trung vô hình chung cùng lúc bị áp lực
từ ba phía : 1/ thiên kiến do tình cảm cá nhân, muốn VN được lợi trong
việc phân định biên giới, 2/ do lòng yêu chuộng học thuật, muốn thiết
lập một sự thật khách quan và khoa học về vấn đề biên giới Việt-Trung và
3/ do sức ép chính trị từ các phía.
Vấn đề rắc
rối hơn từ khi tài liệu chính thức từ Chính phủ VN (Bị vong lục 1979),
khẳng định rằng thác Bản Giốc thuộc về VN, được công bố tại hải ngoại.
Tài liệu này viết như sau :
«Tại
khu vực cột mốc 53 (xã Ðàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên
sông Qui Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền
Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía
Trung Quốc đã huy động trên 2.000 người kể cả lực lượng vũ trang lập
thành hàng rào bố phòng dày dặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc
thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố
bằng bê tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi,
xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên cồn Pò-Thoong và ngang nhiên nhận cồn
nầy là của Trung Quốc
…
Năm
1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỉ lệ
1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số
đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam
thành của Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc
(mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác Bản Giốc
của Việt Nam và cồn Pò Thoong.»
Tài liệu «Bị
vong lục 1979» của nhà nước VN là một tài liệu được đúc kết từ các dữ
kiện lịch sử và pháp lý giữa hai nước Việt-Trung, đưa ra quốc tế nhằm tố
cáo phía TQ lấn đất của VN. Tài liệu này có giá trị pháp lý.
Vì có giá trị pháp lý, nó phải « đúng ».
Ngoài
giá trị pháp lý do nhà nước CSVN bảo kê, tài liệu này còn có giá trị
của «hồn thiêng sông núi». Nó đã động viên ý chí, thúc đẩy nhiều thế hệ
thanh niên VN hy sinh tính mạng để bảo vệ vùng lãnh thổ này.
Vì vậy, người làm nghiên cứu bị dồn vào cái thế chẳng đặng đừng: bằng mọi cách phải chứng minh cho được thác Bản Giốc thuộc VN.
Nguyên văn bài viết năm 2003 (xem bên dưới) tác giả trình bày cái logic về chủ quyền của VN tại thác Bản Giốc như sau:
1/ Chứng minh sông Qui Xuân (Qui Thuận), bằng các tài liệu lịch sử chính thức của TQ, có chảy sang VN.
2/ Chứng minh sông này vẫn có đoạn chảy sang VN, sau khi phân định lại biên giới 1887.
3/ Chứng minh thác Bản Giốc nằm trên đoạn sông thuộc VN bằng văn bản phân định biên giới Pháp-Thanh 1887.
4/ Dẫn tài liệu chứng minh thác Bản Giốc cách đường biên giới 2km.
5/ Dẫn tài liệu tài liệu chứng minh nhà nước thuộc địa Pháp đã quản lý thác Bản Giốc.
Với
những tài liệu lịch sử có giá trị pháp lý này, nếu với một đội ngũ
thương thuyết tài giỏi, thác Bản Giốc và cồn Pò-Thoong sẽ thuộc VN, chứ
không phải chia với TQ mà VN chỉ được một phần rất nhỏ như hiện nay.
Trong
khi sự thật của thác Bản Giốc, với những tài liệu thu thập được, tác
giả không hề có việc «ngộ nhận» nào. Những dữ kiện mà tác giả đã công bố
trong bài biên khảo đó, độc giả nào tinh ý đã có thể biết vị trí của
thác Bản Giốc ở đâu (trên sông Qui Xuân). Những dòng mở đầu, tác giả đã
viết :
«Thác Bản Giốc ở hướng Ðông Bắc phủ Trùng
Khánh, tỉnh Cao Bằng, nằm trên sông Qui Xuân (hay Qui Thuận, Quây Sơn).
Sông Qui Xuân bắt nguồn từ vùng núi phủ Trấn An (hay Thiên Bảo – Vân
Nam), chảy vào Việt Nam - theo các biên bản phân giới Pháp Thanh 1894 -
tại ải Lung (cột mốc 81), chảy lại sang Trung Quốc ở khoảng cột mốc số
50 đến 52. Từ cột mốc 50 cho đến cột mốc 52, biên giới hai nước
Việt-Trung là đường trung tuyến sông Qui Xuân. Thác Bản Giốc là một loại
thác nước bậc thềm. Theo tài liệu của Cdt Famin viết năm 1894, thác cao
khoảng 40 thước. Theo bản báo cáo của Trung Úy Détrie, ủy viên phân
giới 1894 (người phụ trách cắm mốc vùng Bản Giốc), thác cao khoảng 50m.
Về vị trí thác Bản Giốc, báo cáo của ông Détrie cho biết thác nằm ở phía
«hạ lưu» mốc 53. Điều này cho thấy thác Bản Giốc ở khoảng giữa hai cột
mốc 52 và 53.»
Cùng lúc với bản đồ:
Bản đồ SGI (Sở địa dư Dông Dương) khu vực Cao Bằng, tỉ lệ 1/100.000.
Như
đã dẫn, từ bản báo cáo của người cắm mốc: “thác Bản Giốc ở khoảng giữa
hai cột mốc 52 và 53»; nếu mọi người chú ý nhìn bản đồ thì sẽ thấy thác
Bản Giốc nằm trên đường biên giới.
Và «plan B» của tác giả trong bài viết, nếu để ý, mọi người sẽ thấy hai điều :
1/ Đường biên giới vẽ trên các bản đồ dành thác Bản Giốc và cồn Pò Thoong cho VN.
2/ Từ sau khi phân định biên giới, thác Bản Giốc được quản lý bởi nhà cầm quyền thuộc địa.
Vấn
đề thứ nhất thực hiện dễ dàng vì các bản đồ thuộc SGI, hay các bản đồ
liên quan khác, đều vẽ đường biên giới ở phía bên kia, để lại cồn Pò
Thoong và thác Bản Giốc cho VN.
Vấn đề thứ hai
khó khăn hơn. Tác giả phải mất nhiều thời giờ tìm kiếm mới tìm ra được.
Đây là một yếu tố quan trọng thuộc về công pháp quốc tế (effectivité).
Theo đó, trong một vùng lãnh thổ có tranh chấp chủ quyền, phía nào chứng
minh được mình đã áp dụng một cách liên tục và hòa bình thẩm quyền quốc
gia tại vùng lãnh thổ này, vùng lãnh thổ sẽ thuộc chủ quyền của quốc
gia đó. Tài liệu cho thấy Pháp đã quản lý, cho quân lính đi tuần thường
trực khu vực thác này.
Nếu VN có một đội ngũ
thương thuyết với TQ hiểu biết vấn đề hơn, VN sẽ dành phần lớn thác Bản
Giốc và toàn bộ cồn Pò-Thoong. (Nhưng không thể loại bỏ giả thuyết việc
nhượng bộ thác Bản Giốc là do các lãnh đạo chóp bu đảng CSVN quyết
định.)
Nguyên văn bài viết của tác giả năm 2003 như sau :
Tìm hiểu chủ quyền thác Bản Giốc.
1/ Tài liệu dẫn từ Ðại Thanh Hội điển đồ và Ðại Thanh Nhứt thống chí :
Tiểu
Thiên An có sông Qui Thuận; sông này bắt nguồn ở phía Bắc huyện Qui
Thuận, chảy vào huyện này ở vùng Tây-Nam, sau đó chảy về hướng Ðông
(ÐTHÐÐ, quyển số 125, tờ 4).
Sông Bác Lai Thủy
(Poh-lai chouei 駮來水) chảy ở phía Ðông sông Qui Thuận, bắt nguồn trên
vùng núi Tây Bắc châu Qui Thuận, chảy theo hướng Tây Nam và chảy vào
phía Ðông phủ Thái Bình (sđd, nt).
Sông Long Ðàm
Thủy (Long-t’an chouei 龍潭水), chảy cách huyện Qui Thuận 1 dặm về hướng
Tây Bắc. Sông này có nguồn từ chân núi, chảy qua vùng Nam châu Qui
Thuận, sau đó vào tỉnh Cao Bằng. Sông này thuyền bè không lưu thông được
(ÐTNTC, quyển số 366, tờ 6). Theo bản đồ của các nhà truyền giáo
Jésuites thì Long Ðàm Thủy là một tên khác của sông Qui Thuận. Sông nầy
cắt xéo ngang phần phía Bắc tỉnh Cao Bằng, chảy vào Việt Nam qua ải Nga
Tào (Ngo-tsao 峨漕) và vào lại Trung Hoa qua ải Canh Biền (Keng-ping 更駢).
Bản đồ Thái bình phủ, Đại Thanh hội điển đồ.
Như
thế tài liệu này cho chúng ta một khái niệm về sông Qui Thuận (trong
đoạn đi vào lãnh thổ Việt Nam). Sông này chảy vào Việt Nam qua ải Nga
Tào và chảy ra qua ải Canh Biền.
2/ Tài liệu biên bản phân định biên giới số 3, ký ngày 29-3-1887.
….
«Từ
điểm A của bản đồ thứ 3 đến điểm B của bản đồ thứ 3, gần làng An Nam
Luong-Bak-Trai ( ?), đường biên giới theo đường trung tuyến Sông Qui
Xuân.
Từ điểm B của bản-đồ thứ 3 cho đến điểm C
của bản đồ thứ 3, gần làng Bảo Khê thuộc VN, đường biên-giới vẽ một
vòng cung mà phần lồi hướng về phía Ðông, để lại cho Trung Hoa công sự
Ban-Thao-Kha ( ?), xuyên qua hẻm núi Ko-Ya-Ai, để lại cho Trung Hoa công
sự Ko-Ya-Kha ( ?) và Kaing-Hane-Kha ( ?) v.v.., bên An Nam, đoạn sông
Bắc Vong giữa hai điểm B và C, các làng Luong-Bak-Trai ( ?), Loung-Bo-Xa
(?) và Pham-Khé (?) v.v…»
So sánh với tài liệu
ở phần 1, điểm B tương ứng với ải Canh Biền (更 駢) và điểm C tương ứng
với ải Nga Tào (峨漕). Xem hình chụp dưới đây, từ điểm A đến điểm B, sông
Qui Xuân là đường biên-giới. Từ điểm B đến điểm C, sông Qui Xuân thuộc
Việt Nam.
Thác Bản Giốc ở trên đoạn sông AB hay BC?
Nếu
thác ở trên đoạn AB thì thác ở trên đường biên giới. Việc phân chia
thác này sẽ chiếu theo nội dung biên-bản: «đường biên giới là trung
tuyến» của dòng sông. Thác phải chia làm hai. Những cù lao hay cồn trên
sông sẽ thuộc về nước có bờ gần cồn nhất.
Nhưng nếu thác Bản Giốc ở trên đoạn BC thì thác này hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Hình
chụp phía dưới là đồ tuyến biên giới đính kèm biên bản phân định biên
giới 1887. Ta thấy đây là bản đồ gốc vì có chữ ký của hai phái đoàn Pháp
và Thanh, có chữ ký của ông Dillon, Chủ Tịch Ủy Ban Pháp và các ủy viên
Bouinais và bác sĩ Néïs. Bản đồ này là bản đồ số 3.
Bản đồ đính kèm biên bản phân giới 1887
3/
Tài liệu biên bản phân giới ký tại Long Châu ngày 19 tháng 6 năm 1894
giữa Ðại Tá Galliéni và Commandant Famin, đại diện chính-phủ Pháp với
ông Thái Hy Bân, Tri Phủ Long Châu, đại diện nhà Thanh.
Hai
trang cuối ghi sau: «Các cột mốc biên giới, như vừa thấy, đều mang một
con số, từ 1 đến 67 cho đoạn một và từ số 1 cho đến số 140 cho đoạn hai,
đã được cắm tại các địa điểm được chỉ định ở trên, với sự hiện diện một
ủy viên Pháp và một viên quan Tàu. Không một cột mốc nào được dời đi kể
từ bây giờ mà không có sự ưng thuận hỗ tương giữa hai nước.»
Cột
mốc số 53, thuộc đoạn thứ hai, được định nghĩa như sau: tên Pan-Ngô
(Bách-Nga Khẩu百峨口), cắm tại «bên lề một con đường ở phía Tây-Nam và trên
phần nối dài của một khu rừng nhỏ», « au bord du chemin et au SO et sur
le prolongement d’un petit bois ».
Cột 51, tên
Khau Pang (Canh Bàng Ải 更旁隘), cắm tại: Bên bờ trái sông Qui Xuân (bờ
bên TQ, ghi chú của tác giả) ở hạ lưu một cái cái thác và cách 150m. «
Sur la berge du Sung Quei Cheun (rive gauche) à 130 pas en aval d’une
cascade ».
Cột 52, tên Khau Canh Ai (Khẩu Canh
Ải 口更隘), cắm bên bờ sông và cách một trạm canh (ải, tức cửa biên giới
tên Khẩu Canh) 5 bước. «Sur la berge et à 5 pas en avant du poste».
Ta
thấy phần mô tả vị trí cột mốc 51 có đề cập đến một cái thác và thác
này ở phía hạ lưu cột 51. Thác này nhỏ, chỉ cao khoảng 1m, không phải
thác Bản Giốc. Sông Qui Xuân, như mô tả phần trên, có nhiều ghềnh thác,
thuyền bè không lưu thông được.
Cột 51 mang tên
Canh Bàng Ải 更旁隘. Xem lại phần 2 ở trên, điểm B tương ứng với Canh Biền
Ải 更駢隘. Rất có thể Canh Biền Ải chính là Canh Bàng Ải vì trùng hợp ở
chữ Canh 更 và cách phát âm của hai chữ Biền và Bàng. Hơn nữa, hai tên
chỉ định cho hai nơi rất gần nhau. Nếu giả thuyết này đúng thì đường
trung tuyến sông Qui Xuân chỉ là biên giới hai nước từ cột 50 đến cột
51.
Như thế thác Bản Giốc ở phía thượng lưu, nằm trong đoạn BC, nên hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Xem hình chụp 2 trang biên bản phân giới ở dưới có ghi các cột mốc liên quan, một tiếng Hán và một tiếng Pháp.
Về
các cột mốc, tùy theo vùng, được làm bằng đá đẽo, bằng xi-măng đúc hay
bằng đá tảng tự nhiên có sẵn trên thực địa. Cột mốc vùng Quảng Tây được
ghi nhận như hình dưới đây. Ta thấy trên mốc có khắc một số chữ. Hàng
dọc bên phải ghi là «Trung Quốc Quảng Tây Giới 中國廣西界». Phía phải, ở
trên, ghi chữ Pháp «Frontière Sino-Annamite». Ở giữa ghi số cột mốc và
phía phải, hàng dưới, ghi tên cột mốc.
Hình của Dr Péthellaz, đăng trong «Au Tonkin et sur la Frontière du Quang-Si» của Commandant Famin.
Biên bản ghi bằng tiếng Hán. Cột 53 tên Bách Nga Khẩu.
Biên bản tiếng Pháp.
4/
Tài Liệu Au Tonkin et sur la frontière du Kwang-si, Par le Commandant
Famin, Vice-Président de la Commission d’Abornement des Frontières
Sino-Annamites en 1894. Paris, Auguste Challamel, Editeur, Librairie
Coloniale, 1895 (Trang 12-13; 142,143).
Tonkin
và trên vùng biên giới Quảng Tây, của Cdt Famin, Phó Chủ tịch Ủy ban
Phân giới năm 1884. Ông này đảm trách việc phân giới dưới quyền Ðại tá
Galliéni, kết thúc việc phân giới vùng Quảng Tây trong chiến dịch
1893-1894 mà nhiều chiến dịch khác từ những năm trước do các ông
Servière, Flandin... đã không thành công.
Trang 12-13: Xác nhận thác Bản Giốc thuộc Việt Nam:
«
rên vùng phía Bắc (vùng II Quân Sự), sông Qui Thuận chảy qua Trùng
Khánh Phủ. Ðây là một phụ lưu của sông Tây Giang (Si-Kiang). Có chiều
rộng khoảng 60 thước, chảy vào Tonkin qua cửa Ải Lung và chảy vào lại TQ
ở gần công sự (của TQ) tên Nam-Ton, sau khi đã tưới một thung lũng rộng
lớn và trù mật. Hai cây số trước khi rời khỏi đất Tonkin, sông này chảy
xuống một bậc đá và tạo thành một cái thác tuyệt đẹp cao khoảng 40
thước. Từng cột nước khổng-lồ, trước hết rơi xuống vang rền trên một
trũng nước, sau đó dội ngược lên thành những chùm tua đầy bọt nước, chảy
trên những bậc thềm đá bóng láng. Vào mùa mưa, thác này mang một hình
thái tuyệt trần, tiếng động của nó âm vang ra thật xa, dội vào vách núi
đá nghe như là sấm động, trong lúc những đám mây hơi nước được tạo thành
ở các bên bờ tan ra tạo thành một đám mưa lâm râm thật sự.»
5/
Tài liệu: Nhật Ký của Trung Úy Détrie về đoạn biên giới từ Lũng Ban đến
Ðèo Lương, nhân dịp đảm nhận việc cắm mốc. (28 tháng 6 năm 1894) :
Tài liệu này xác định vị trí của cột mốc 53 và thác Bản Giốc :
«
Après la porte de Dốc-Khánh la frontière est tracée à l’intérieur du
massif rocheux, laissant au Tonkin de petit cirques peu importants
débouchant dans Lung-Piac, près les deux cirques difficilement
accessibles de Lung-Deng et Lung-Moi que traversent les chemins
conduisant à Thin-Thang par Ai-Thin-Thap (56) et Lung-Moi (55) jusqu’à
l’abornement, les habitants de Lung-Deng et Lung-Moi payaient l’impôt
aux Chinois. La frontière regagne ensuite le pied des rochers en face du
village de Ban-Mong (54) longe le pied de ces rochers et au pied du
blockhaus chinois de Pia-Mu, suit la lisière d’un petit bois et coupe le
chemin de Hang-Dong-Quan (53) pour atteindre la rivière qu’elle suivra
jusqu’à Ly-Ban. Le chemin qui de la borne 53 conduit à Dốc-Khánh (57) à
travers de très belles rizières devra être l’objet d’une surveillance
constante.
…
A partir
de la belle cascade de 50m qui se trouve un peu en aval de la borne 53,
le sông Qui-Xuân coule resserré entre des mamelons élevés ».
Bắt
đầu từ cái thác nước đẹp, cao 50 thước, ở phía hạ-lưu (aval) của cột
mốc số 53, sông Qui Xuân chảy hẹp lại ở giữa những ngọn đồi cao. »
Ta
thấy ông Détrie mô tả đường biên giới từ Tây sang Đông trong khi các
cột mốc trong vùng này được cắm từ Đông sang Tây. Như biên bản phân giới
mô tả, cột mốc 53 được cắm ở bên lề con đường.
Ta
thấy ghi chú trong hình dưới, đoàn quân «tirailleurs tonkinois» qua
sông (passage du gué) từ phía tả ngạn sang phía hữu ngạn. Đây là một yếu
tố quan trọng cho thấy hai bờ con sông đều thuộc Việt Nam (hay do hành
chánh thuộc địa Pháp quản lý). Đơn giản vì theo các công ước, quân đội
hai bên không được đi qua lãnh thổ nước bạn.
Bên
kia thác ta không thấy con đường (đi Hang-Dong-Quan) có cắm mốc số 53
như Trung Úy Détrie mô tả. Hình thái núi non hiểm trở phía bên kia cũng
như phía thượng lưu sông cho thấy không thể có con đường qua đây được.
Nhưng rất có thể con đường đi dọc theo sông, đoàn quân trong hình theo
con đường này, gần đến thác, qua sông. Riêng con đường, vì núi chận,
phải đi vòng sau núi. Vì thế cột mốc 53 chỉ có thể ở phía hạ lưu thác
Bản Giốc.
Theo các lý luận này thác Bản Giốc hoàn toàn thuộc về Việt Nam.
Hình trên : đoàn quân qua sông, dưới thác Bản Giốc.
6/
Tài liệu Bulletin du service Géologique de l’Indochine, Volume XI,
Fascicule I, Etudes Géologiques sur le Nord-Est Du Tonkin, (Feuilles de
Bảo Lạc, Cao Bằng, Hà Lang, Bắc Kạn, Thất Khê và Long Châu), Réné
Bourrret; Hà Nội - Hải Phòng Imprimerie d’Extrême d’Orient – 1922 (trang
32-33-34).
Xác nhận thác Bản Giốc của Việt Nam:
«
Sông Qui Xuân theo hướng Ðông-Bắc trong vùng núi nầy, chảy ở giữa hai
tường đá rất cao. Bờ tả ngạn, có chung hình thái với Phong Nam, là sự
nối dài từ bên TQ. Nhiều bằng chứng đá vôi, được chuốt thành đỉnh nhọn,
cao thấp đủ cỡ, rải rác khắp nơi trong thung lũng.
….
Vùng
này con sông Qui Xuân chảy qua gần ở Chi-Choi (?). Sông này sau khi ra
khỏi vùng đá vôi Phong Nam, mở rộng phía hạ lưu thung lũng. Tại đây dân
bản xứ lấy nước bằng hệ thống tưới bằng ống tre. Con sông này mở một con
đường ngoằn ngoèo ở vùng phía Ðông phủ Trùng-Khánh, chảy xuống hết
ghềnh thác nầy qua ghềnh thác khác để đến biên giới đông bắc, kế cận Bản
Giốc, trước khi chảy qua vùng đồi Bồng Sơn. Công sự Bản Giốc, hiện nay
bỏ trống, cheo leo trên một núi đá cao khoảng 30 thước, nhìn xuống ghềnh
thác của con sông và vùng đồng bằng đông đảo dân cư, với những tường
cao bao quanh. Ðây là một trong những vùng đẹp nhất của Tonkin, nếu
không vì xa xôi và vì khó khăn phương tiện lưu thông, nó rất xứng đáng
để du khách đến thăm viếng với những hang động, những cây cầu hình chữ Z
bắt lên những tảng đá để băng qua sông, và nhất là cái thác hùng vĩ,
gọi là thác bậc thềm Tụ Tổng, được người Châu Âu biết nhiều qua tên Thác
Bản Giốc».
Hình trên: cầu chữ Z bắt qua sông Qui-Xuân, gần thác Bản-Giốc.
T.N.T.
Nguồn: nhantuantruong.blogspot.fr
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 02:18
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/10/au-la-su-that-cua-thac-ban-gioc.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001