Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013

David Marr - Vai trò các Đảng Chính trị trong nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (P.1 - 2 - 3)

David Marr - Vai trò các Đảng Chính trị trong nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (P.1) 



Diên Vỹ chuyển ngữ
Trích dịch từ cuốn Việt Nam: Nhà nước, Chiến tranh và Cách mạng (1945-1946) của David G. Marr, NXB: University of California Press, 2013.
Chương 7: Đối phó với Thành phần Đối lập trong nước
...

Vai trò các Đảng Chính trị trong nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà

Ba ngày sau lễ tuyên ngôn độc lập 2 tháng Chín 1945, chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (VNDCCH) đã ra sắc lệnh giải tán hai đảng chính trị trên cơ sở âm mưu phá hoại nền độc lập quốc gia. Đại Việt Quốc Gia Xã Hội Đảng bị cáo giác là tư thông với ngoại quốc nhằm phá hoại nền độc lập quốc gia và Đại Việt Quốc Dân Đảng bị cho là có âm mưu phá hoại kinh tế và độc lập nước nhà. Những thành viên nào trong hai đảng vẫn còn tiếp tục hoạt động sẽ bị “Toà án chiểu luật nghiêm trị”. Một tuần lễ sau, hai tổ chức thanh niên mới thành lập ở miền bắc cũng bị đối xử tương tự. Báo chí nhanh chóng nhận diện bốn tổ chức này là “thân Nhật” mặc dù chẳng ai giải thích tại sao họ lại bị đối xử khác so với nhiều hội nhóm đã cộng tác với người Nhật trong những tháng trước. Hơn nữa Nhật không còn là mối đe doạ đến nền độc lập của Việt Nam, tại sao lại chú tâm vào một kẻ thù đã hết thời? Dù câu trả lời là gì đi nữa (chúng ta sẽ bàn sau), giới lãnh đạo VNDCCH muốn gửi một thông điệp rộng hơn: họ muốn xác định xem tổ chức trong nước nào đang là mối đe doạ đến an ninh quốc gia và vì thế cần phải chế ngự.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1925-45 thường miêu tả các đảng phái cộng sản và phi cộng sản như những kẻ thù truyền kiếp của nhau. Đa phần quan điểm này là kết quả của việc đem những hành động căm thù, phản bội, giết chóc của giai đoạn 1945-54 vào để giải thích tình hình của giai đoạn trước đấy khi các nhà hoạt động chính trị theo đuổi những ý thức hệ khác nhau nhưng lại có cùng trình độ học vấn, thường xuyên làm việc với nhau và đôi khi còn có quan hệ máu mủ hoặc hôn nhân với nhau. Các tổ chức với những chủ trương khác nhau vẫn chia sẻ thông tin (có chọn lọc), cùng ký chung các bản tuyên bố cũng như thành lập hoặc huỷ bỏ các liên minh chiến lược một cách hoà bình. Tại miền nam Trung Quốc giai đoạn 1924-27 người Việt từ những tổ chức phản đế khác nhau đã tương tác lẫn nhau cùng với người Trung Quốc, Triều Tiên và những người thuộc quốc tịch khác. Trong những năm 1930 một số các tổ chức thiên tả và trung lập tại Đông Dương đã cùng nhau thúc đẩy những thay đổi căn bản trong hệ thống thuộc địa. Sự kiện nổi bật nhất là liên minh chính trị trong giai đoạn 1933-37 tại Nam Kỳ giữa các thành viên của Đệ Tam Quốc Tế (“Stalinist”) và Đệ Tứ Quốc Tế (“Trotskyist”). Trong giai đoạn 1941-44 ở miền Nam Trung Quốc, Đông Dương Cộng sản Đảng, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội đều tham gia vào cùng một mặt trận chống Nhật, đôi khi họ tố giác ai đấy với chính quyền bảo trợ Trung Quốc nhưng không hề có việc bắt cóc hoặc thủ tiêu nhau. Chính việc tranh giành kết nạp thành viên, đóng góp ủng hộ và sự bảo trợ của Trung Quốc đã gia tăng căng thẳng giữa các nhóm lưu vong hơn là sự khác biệt về ý thức hệ.
Đảo chính của Nhật ngày 9 tháng Ba 1945 khiến mọi đảng phái người Việt thuộc mọi thành phần chính trị phải thẩm định lại thái độ và tương lai của mình. Những tổ chức từng có quan hệ đặc biệt với người Pháp đã ngưng hoạt động, và những người cầm đầu cố gắng hết sức để ẩn mình. Những ai từng làm việc với Nhật hoặc giúp người Nhật tránh bố ráp của Pháp đã công khai xuất hiện, lập đảng, mở báo, hội họp và thăm dò giới hạn đặc ân của người Nhật. Những tổ chức ủng hộ phe Đồng minh tìm cách chuẩn bị cho khả năng người Mỹ đổ bộ vào Đông Dương hoặc Trung Quốc tấn công từ phía Bắc trong khi lên án các tổ chức đang hợp tác với Nhật. Tất cả các tổ chức chống thực dân đều đã lợi dụng tình trạng tương đối hỗn loạn tại Sở Liêm phóng Đông Dương vì các nhân viên Pháp đều bị quản chế. Như đã đề cập ở trên, dù mức độ bạo lực chính trị đã tăng lên vào tháng Bảy, nhưng những người lãnh đạo chính trị và trí thức tên tuổi thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau vẫn tiếp tục gặp gỡ, trao đổi tin đồn và bàn về việc thành lập những liên minh yêu nước. Phần còn lại của chương này sẽ được viết theo lối gần như là biên niên ký, phân tích về các nhóm đối lập theo thứ tự họ bị chính phủ VNDCCH và ĐCS Đông Dương đàn áp. Đến tháng Tám 1946, ngoại trừ Nhà thờ Công giáo, phe đối lập đã bị đập tan, vô hiệu hoá hoặc buộc phải lưu vong.
Các Đảng Đại Việt: Đàn áp Ngay Lập tức
Tháng Năm 1945, các thành viên của một số đảng Đại Việt có quan hệ với Nhật sang Trung Quốc để gặp các lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sự kiện này dẫn đến việc thành lập Đại Việt Quốc Dân Đảng, một liên minh chuyên chú trọng vào việc điều phối các hoạt động trong và ngoài nước trong trường hợp Trung Quốc chiếm Đông Dương. Việc này hoá ra là một lựa chọn đầy thảm hoạ về mặt chiến lược của Quốc Dân Đảng, không phải vì nó buộc phải thoả hiệp tổ chức mình theo quan điểm của Quốc Dân Đảng Trung Quốc đỡ đầu mà vì thoả thuận này khiến các lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng phải chấp nhận tình trạng nương tựa vào khả năng của Đại Việt trong nước thay vì dùng người của họ để thâm nhập như ĐCS Đông Dương đã làm từ lâu. Khi Nhật bất ngờ đầu hàng vào giữa tháng Tám, các nhóm vũ trang của Đại Việt tại Hà Nội, Hải Phòng và Hải Dương đã phải tự tay hành động mà không được trợ giúp từ các đơn vị vũ trang Quốc Dân Đảng dọc theo biên giới Quảng Tây và Vân Nam, các đơn vị này phải đợi phép Trung Quốc để tiến vào Đông Dương.
Trương Tử Anh, lãnh tụ có khả năng nhất của Đại Việt đã đưa một đơn vị gồm 250 người vào Hà Nội tối 17 tháng Tám, lúc ấy một số quan chức trung thành với chính phủ đang tìm cách động viên các đơn vị Dân vệ và Công an nhằm ngăn cản lực lượng Việt Minh đang tìm cách chiếm chính quyền. Tuy nhiên, sáng 19 tháng Tám các phần tử này đã không chống cự lại khi đám đông do Việt Minh dẫn đầu tràn vào các công sở chính phủ. Vào tối đó tại Hà Nội, một phiên họp khẩn cấp giữa Đại Việt và các đảng viên Quốc Dân Đảng địa phương đã không đồng ý về một kế hoạch phản công cuộc đảo chính ngay lập tức. Với các lực lượng tiếp ứng từ các tỉnh vẫn bị kẹt vì lũ sông Hồng, đề xuất này nhanh chóng bị bỏ qua, và các đơn vị Đại Việt phải rút quân về phía đông và tây Hà Nội để đợi lệnh. Chính trong bối cảnh này chính phủ lâm thời VNDCCH đã đặt Đại Việt Quốc Dân Đảng ra ngoài vòng pháp luật vào ngày 5 tháng Chín vì biết rằng đơn vị quân đội đầu tiên của họ sẽ đến Hà Nội vào ngày 9 tháng Chín. ĐCS Đông Dương cũng hiểu rõ rằng các quan chức Pháp đang mô tả Việt Minh như là một sản phẩm của Nhật, vì thế rất có lợi khi tiếp tục vạch trần và trừng phạt những ai được cho là tay sai của Nhật như là một biện pháp củng cố uy tín với phe Đồng minh.
Từ tháng Chín đến tháng Mười 1945, các tổ chức của VNDCCH hoặc Việt Minh có thể đã giết hoặc bắt giữ vài trăm đảng viên Đại Việt. Ngày 1 tháng Chín, một đơn vị vũ trang Việt Minh đã tấn công một nhóm Đại Việt Duy Tân tại Ninh Bình, giết chết tám người, bắt giữ mười một người và tịch thu ba khẩu súng. Trong những tuần lễ kế tiếp, những ai bị tình nghi là Đại Việt đã bị bắt giữ tại Ninh Bình, bị điều tra cặn kẽ và báo cáo là đã trả tự do cho tất cả vào cuối tháng Mười. Tỉnh uỷ Tuyên Quang báo cáo là có vài nhóm Đại Việt đang hoạt động vào đầu tháng Chín, nhưng sự hiện hữu của họ không là bao so với việc phải đối phó với những khó khăn khi quân đội Trung Quốc tràn vào tỉnh này. Tỉnh Thái Bình báo cáo có một tổ chức Đại Việt Quốc Gia từng gây khó khăn cho phe Việt Minh trước ngày 19 tháng Tám hiện đang bị tan rã. Tuy nhiên các thành viên Đại Việt cùng nằm trong số những người được cho là phản quốc bị bắt giữ tại địa phương, và trong vài trường hợp đã bị giết chết mà không được lệnh. Tại Phú Thọ, hai mươi bốn đảng viên Đại Việt bị bắt, trong đó chỉ còn bốn người bị giam vào cuối tháng Mười. Trong khi đó, tổ chức Đại Việt địa phương được báo cáo là đã giải tán. Ở Hưng Yên, Nguyễn Thị Trang Nghiêm bị bắt vào ngày 1 tháng Mười hai vì tội rải truyền đơn phản động tại một tiệm ăn, và đã bị trục xuất vài ngày sau đó. Cha và em bà cũng là thành viên của Liên minh Đại Việt Quốc Gia.
Trương Tử Anh vẫn tìm cách thiết lập được một mạng lưới Đại Việt bí mật dù bị công an truy lùng, đồng thời ông liên tục cảnh báo giới lãnh đạo Quốc Dân Đảng không nên thương lượng bất kỳ giải pháp chia sẻ quyền lực nào với ĐCS Đông Dương. Trong suốt năm 1946 công an tiếp tục truy lùng các thành viên Đại Việt. Ví dụ như ngày 8 tháng Ba, chồng bà Bùi Thị Dịu đã bị dân quân dẫn đi mà không một lời giải thích, những yêu cầu lên cấp huyện cùng như thư kiến nghị của bà gửi lên Hà Nội đều bị tảng lờ. Vào tháng Năm, chồng bà Dịu bị truy tố là cán bộ đang hoạt động của Đại Việt Duy tân và vụ án của ông được chuyển về Toà án Quân sự tại Hà Nội. Ngay cả những ai bị tình nghi là có liên hệ đến Đại Việt và được trả tự do vẫn bị liên tục nghi ngờ, đày đoạ và có thể bị bắt lại. Trong khi ấy, vài nhân viên của chính quyền thuộc địa cũ từng bị người Pháp cách chức vì là thành viên của Đại Việt Dân Chính xin làm việc lại trong chính quyền VNDCCH lại được chấp thuận. Nguyễn Huy Thành, từng bị đuổi việc vào năm 1942 vì đã tìm cách tuyên truyền đồng nghiệp tại Toà Công sứ Phúc Yên, đã được nhận vào làm việc cho chínhy quyền vào tháng Chín 1946.
Đa phần vì tài tuyên truyền khéo léo của Việt Minh, khái niệm “Đại Việt” trở thành biểu tượng của việc mù quáng hợp tác với quân chiếm đóng Nhật, ngược lại với những chiến sĩ Việt Minh đã giải phóng đất nước khỏi bọn đế quốc phát xít “lùn”. Tuy nhiên trước ngày 9 tháng Ba 1945 chỉ có vài người Việt có quan hệ mật thiết với quân Nhật chính là người Pháp mới làm phía Việt Minh vất vả. Sau ngày 9 tháng Ba, người Việt trong khắp các hệ phái chính trị - bao gồm cả những người theo Việt Minh - đã có liên hệ phi bạo lực với quân đội cũng như nhân viên dân sự Nhật. Tuyên bố của Việt Minh về việc chống Nhật đa phần được thổi phồng từ vài trận phục kích ở miền núi phía bắc. Việc đưa ra hình ảnh kẻ phản bội hèn hạ trong nước có tên Đại Việt giúp phóng đại huyền thoại Quân đội Giải phóng chiến đấu chống lại Quân đội Nhật Hoàng.
Trotskyist: “Phe Tả Đối lập” của ĐCS Đông Dương
Không bao lâu sau khi các đảng Đại Việt bị giải tán, những người Trotskyist cũng bị lên án là kẻ thù của VNDCCH. Những thành viên Đệ Tam Quốc Tế (ĐCS Đông Dương) và Đệ Tứ Quốc Tế từ lâu đã tố cáo nhau là chuyên phục vụ quyền lợi của đế quốc. Đấu đá này đa phần chỉ nằm trong hình thức báo chí, truyền đơn và diễn thuyết cho đến tháng Tám 1945, ở Sài Gòn tình trạng này nhanh chóng phát triển thành việc công khai đối đầu vì quyền lực, về cách đối phó với phe Đồng minh và về việc liệu có nên khuyến khích cuộc đấu tranh giai cấp hay không. Các cuộc họp nhằm thành lập mặt trận thống nhất cách mạng miền nam Việt Nam biến thành những trận chửi mắng, tiếp theo là việc tố cáo nhau trên báo chí làm tình hình càng xấu hơn và khiến việc thoả hiệp khó thành công. Nhóm “Đấu Tranh” (La Lutte) thuộc Đệ Tứ Quốc Tế và Liên Minh Quốc Tế Cộng Sản lên án Việt Minh vì đã tin tưởng vào các cường quốc Đồng minh, những nước rõ ràng là đế quốc, vì thế chúng sẽ tìm cách phá vỡ một Việt Nam độc lập hơn là thừa nhận sự hiện hữu của nó. Cả hai nhóm Trotskyist này đều chỉ ra rằng chiến thuật hiển nhiên là vũ trang cho quần chúng và tấn công toán quân Anh và Pháp đầu tiên đến miền nam hơn là tìm cách thương lượng một vài thoả hiệp nào đấy trong khi kẻ địch đổ quân vào ngày một nhiều. Khi Trần Văn Giàu, lãnh đạo ĐCS Đông Dương và chủ tịch Uỷ ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ gặp gỡ một đại diện người Pháp, những người Trotskyist đã lên án ông phản bội cách mạng, ông trả đũa bằng cách tố cáo họ là những kẻ khiêu khích. Dù vậy, khi chiếc máy bay đầu tiên chở quân Anh hạ cánh tại phi trường Tân Sơn Nhất vào ngày 6 tháng Chín, Lâm uỷ Nam Bộ đã cử bốn thành viên của nhóm Đấu Tranh vào phái đoàn tiếp đón - và họ đã nhận lời. Ba ngày sau Giàu nhường chức cho một luật sư không đảng phái là Phạm Văn Bạch, và một số thành viên Trotskyist đã được mời vào Uỷ ban Miền Nam được mở rộng.
Nhưng vào ngày 7-8 tháng Chín tại châu thổ sông Mê Kông, một số thành viên Trotskyist lại tham gia với những môn đệ của vị lãnh đạo giáo phái Hoà Hảo đầy lôi cuốn là Huỳnh Phú Sổ trong một trận tấn công đẫm máu vào phe Việt Minh tại Cần Thơ. Dương Bạch Mai (thuộc ĐCS Đông Dương), người đứng đầu bộ phận an ninh của Lâm uỷ Nam Bộ, bắt đầu tống giam những người Trotskyist vào nhà tù Khám Lớn nổi tiếng tại Sài Gòn, nơi quân Anh tìm thấy họ vào tối 22 tháng Chín và giao họ cho quân Pháp. Những cuộc tấn công của liên quân Anh-Pháp đêm ấy khiến Trần Văn Giàu đưa ra lời kêu gọi tổng kháng chiến vũ trang chống lại đế quốc và tay sai, lời lẽ rất giống như của những người Trotskyist vào tháng trước. Những người Trotskyist đã chiến đấu cùng với các nhóm quân khác và đã khước từ lời đề nghị ngừng bắn của quân Anh từ 3 đến 9 tháng Mười (xem chương 4). Trong cuộc tổng rút quân khỏi Sài Gòn vào giữa tháng Mười, các tiểu đội thuộc ĐCS Đông Dương đã ráo riết lùng sục và bắt giữ những người phái Trotskyist và sau đó giết chết ít nhất là hai mươi người cầm đầu. Phan Văn Hùm, một trong những nhân vật chính trị khả kính nhất tại miền nam từ những năm 1930 đã bị xử bắn trên một chuyến tàu ở phía bắc Phan Thiết, xác của ông bị quẳng xuống sông. Những người Trotskyist khác ẩn náu trong lực lượng vũ trang Hoà Hảo và các tổ chức quốc gia phi tôn giáo khác trong vùng châu thổ sông Mê Kông. Quyết định xóa sổ toàn bộ một nhóm Marxist chống thực dân tại miền nam đã tạo cơn sốc đối với người Việt đang cảnh giác về chính trị trong cả nước và vẫn còn bị lên án cho đến ngày nay.
Ở miền bắc, những người trong Đệ Tứ Quốc Tế không gây ảnh hưởng được như ở miền nam. Trong Chiến tranh Thái Bình Dương, vài người Trotskyist vẫn còn hoạt động trong nhà xuất bản Hàn Thuyên tại Hà Nội, nơi những học giả thiên tả khác nhau vẫn đang tiếp tục cân nhắc giá trị của “cách mạng vĩnh viễn” và “cách mạng hai giai đoạn”. Một số thợ mỏ, phu khuân vác và công nhân dệt vẫn còn ưa chuộng lập luận của phe Trotskyist về vấn đề đấu tranh giai cấp và lực lượng vô sản kiểm soát nơi sản xuất. Tháng Tám 1945 công nhân tại Cẩm Phả phía đông bắc Hải Phòng đã thành lập các uỷ ban điều hành các mỏ than, các tuyến đường sắt và hệ thống điện tín, nhưng không tuyên bố theo chủ trương của Đệ Tứ Quốc Tế. Lương Đức Thiệp, một cảm tình viên của Trotskyist tiếp tục phân phát tài liệu về chủ nghĩa vật chất và chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản. Vị thế của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh phản đế trên toàn cầu cũng là một tranh luận sôi nổi giữa Đệ Tam Quốc Tế và Đệ Tứ Quốc Tế trong những năm 1930, nhưng lúc ấy không có một nhân vật Troskyist nào ở miền bắc đứng lên kêu gọi kháng chiến vũ trang ngay lập tức đối với việc chiếm đóng của Quốc Dân Đảng Trung Quốc sắp xảy ra, không như tình thế tương tự đã xảy ra với quân Anh tại Sài Gòn. Tuy nhiên các tờ báo của ĐCS Đông Dương và Việt Minh tại miền bắc đã đặt những người Troskyist vào danh sách những kẻ thù nguy hiểm cần phải truy tận gốc và vô hiệu hoá (xem chương 8).
Những người Trotskyist không là đối tượng trong sắc lệnh trục xuất của chính phủ VNDCCH. Thay vì thế, các uỷ ban nhân dân tỉnh được lệnh thường xuyên báo cáo các vụ phát hiện và xử lý thành phần Trotskyist. Đầu tháng Chín, Uỷ ban Nhân dân tỉnh Hải Phòng đã báo cáo việc “khẩn cấp trấn áp” một số phần tử Trotskyist trong thành phố. Vào tháng Mười, tỉnh Hưng Yên cho biết đã phát hiện ra “thành phần phản động Trotskyist” đang lưu trữ một số báo Chiến Đấu, nhưng chỉ có hai người bị bắt giữ. Trong thành phần “phản động” bắt buộc phải báo cáo, tỉnh Quảng Yên đã đề cập một cách mơ hồ rằng “hai phần tử Trotskyist trung thành đã được giác ngộ.” Vào tháng Mười, Nguyên Công Tính bị bắt tại Hà Đông với tội là thành viên “Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản” và giao cho công an Thái Nguyên, ở đó ông bị đưa vào trại trục xuất Bắc Cạn. Vào tháng Tư 1946, đơn khiếu nại của mẹ ông về địa điểm giam giữ được trả lời nhưng Bắc Cạn lại không có hồ sơ tông tích của ông. Tỉnh Hải Dương báo cáo một nhóm Trotskyist đã bị “đập tan”. Tháng Mười hai tại Hà Nội có hai người bị bắt và bị tố giác là theo phe Trotskyist và bị chuyển đến Bắc Cạn. Sáu tháng sau họ kiến nghị xin được trả tự do, tự nhận rằng “trước đây đã có tư tưởng Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản” nhưng chỉ mang tính chính trị phi bạo lực, và hứa sẽ không còn chống đối chính quyền.
Trong biên bản một cuộc họp vào cuối tháng Mười một 1946 giữa các cán bộ Phòng Thông tin và Tuyên truyền của chính quyền VNDCCH cho biết rằng trong số những người Việt từ Pháp quay về Hải Dương đã có “một số phần tử Trotskyist cực đoan đang hoạt động nhưng không có kết quả đáng kể.” Ngoại trừ tài liệu trên, các văn bản chính phủ năm 1946 không hề nhắc đến lực lượng Trotskyist. Hoặc là chính quyền đã không còn đưa Trotskyist vào danh sách cần tiêu diệt, hoặc các chính quyền địa phương không còn ai bị tình nghi là Trotskyist để báo cáo theo thành phần “phản động”. Trên báo chí tính ngữ Trotskyist vẫn tiếp tục được sử dụng, thường là để cảnh cáo các nhân viên nào công khai than phiền về việc lương bổng không bắt kịp nạn lạm phát, hoặc những ai dám kêu gọi công nhân có quyền kiểm soát các doanh nghiệp. Điều thú vị là Hồ Hữu Tường, người lãnh đạo nhóm Đệ Tứ Quốc Tế Tháng Mười trong những năm 1930 đã được bầu vào Hội đồng Quản trị trường Đại học Hà Nội vào tháng Mười hai 1945, ông dạy môn khoa học xã hội ở Khoa Văn và cộng tác với các trí thức theo Việt Minh để chuẩn bị cho đại hội văn hoá toàn quốc.
Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội: Chia rẽ và Tan vỡ
Trong hầu hết giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ II, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội hoạt động như là một tổ chức bao trùm trong đó các nhóm chống thực dân tại miền nam Trung Quốc được công nhận và ủng hộ bởi Tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh của Đệ tứ Quân khu (Quảng Tây-Quảng Đông). Nhưng vào khoảng tháng Năm 1945 Hồ Chí Minh đã quyết định thực hiện các hoạt động xuyên biên giới của Việt Minh tại phía bắc Bắc Kỳ mà không tham khảo với Việt Cách, khiến cho Tướng Tiêu Văn, cấp dưới của Tướng Trương chuyên trách sự vụ Đông Dương lấy làm khó chịu. Tướng Tiêu Văn tìm cách nâng cao vị thế của Nguyễn Hải Thần, một nhà quốc gia lưu vong sáu mươi bảy tuổi, được vì nể vì từng hoạt động với Phan Bội Châu (1867-1940). Hàng trăm người Việt lưu vong đang dồn về chung quanh Thần để đợi ông dẫn họ vượt biên giới cùng với lực lượng Đệ tứ Quân khu đánh Nhật. Tuy nhiên khi Nhật bất ngờ đầu hàng Đồng minh vào giữa tháng Tám 1945, Thống chế Tưởng Giới Thạch tại Trùng Khánh quyết định giao nhiệm vụ tiếp quản Đông Dương cho Tướng Lư Hán ở Vân Nam thay vì Tướng Trương. Tướng Lư không có lý do gì phải thiên vị Việt Cách hơn Việt Nam Quốc Dân Đảng hoặc Việt Minh, mặc dù ông vẫn nhận Tướng Tiêu vào đơn vị tiếp quản của mình.
Đến ngày 20 tháng Tám 1945, các đơn vị của Việt Cách cùng với các đơn vị tiền trạm Trung Quốc vượt sang Cao Bằng và Lạng Sơn. Thật thế, ngày hôm ấy một đơn vị Việt Cách đã xuất hiện tại Tuyên Quang, cách biên giới tám mươi ki lô mét về phía nam. Ngày 1 tháng Chín, một nhóm lớn Việt Cách đi cùng với quân Trung Quốc vào đến thị trấn duyên hải Móng Cái và tuyên bố thành lập “Chính phủ Quốc gia Lâm thời Việt Nam” do Nguyễn Hải Thần đứng đầu. Mười hai ngày sau đơn vị Việt Cách tại Lạng Sơn đã báo với Hà Nội rằng lá cờ của họ đã được chính phủ Trung Quốc và phe Đồng minh công nhận là “cờ của toàn thể các đảng phái cách mạng Việt Nam.” Thậm chí họ còn đưa ra một bản phác hoạ của lá cờ Việt Cách với những đường kẻ ngang màu xanh và trắng trên góc trái của một nền đỏ. Khi quân Trung Quốc lê bước tiến về Hà Nội và Hải Phòng, các tư lệnh sư đoàn ra lệnh cho các cán bộ Việt Cách để lại các toán dân sự tại những thị trấn dọc đường đi, vì thế khiến Thần không thể nào tập trung lực lượng của mình để gây được ảnh hưởng chính trị. Khi Thần về đến Hà Nội vào ngày 16 tháng Chín, ông chỉ có một đơn vị bảo vệ nhỏ bé và có lẽ chẳng biết điều gì sẽ xảy đến.
Ngày 30 tháng Chín, Nguyễn Hải Thần dẫn đầu một đoàn đại biểu Việt Cách đến gặp Tướng Tiêu Văn để tìm cách thảo luận việc dẹp bỏ chính phủ lâm thời của VNDCCH đè bẹp ĐCS Đông Dương. Theo một điềm báo viên của công an VNDCCH, tướng Tiêu mỉa mai hỏi nhóm Việt Cách rằng họ đang có bao nhiêu lính và súng để thực hiện việc đảo chính và khiển trách họ vì đã nghĩ đến việc cần phải loại trừ phe cộng sản thay vì chấp nhận họ là một phần của mặt trận thống nhất dân tộc (đàm phán giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc đang diễn ra tại Trùng Khánh) Lời lẽ khinh thường của Tiêu chắc chắn đã làm Thần nổi giận, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông rời bỏ người Trung Quốc. Sau đó Thần còn bị sỉ nhục hơn khi bảy người cấp dưới trong Việt Cách cùng với năm thành viên Việt Minh ký kết một bản “Đoàn kết tinh thần” trong đó tuyên bố giữ vững “cuộc đấu tranh chung chống quân Pháp xâm lược để bảo vệ tự do và độc lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.” Ngày 25 tháng Mười một, Trương Trung Phụng, một thành viên Việt Cách cùng ký bản “đoàn kết tinh thần” bị Quốc Dân Đảng bắt cóc và được thả 16 ngày sau. Một thành viên khác của Việt Cách là Đinh Trương Dương được VNDCCH giao nhiệm vụ đi vào miền trung Việt Nam. Tuy nhiên một số thành viên Việt Cách khác đã huỷ bỏ quan hệ với chính quyền chỉ sau vài ngày, và Thần đã công khai lên án vai trò của ĐCS Đông Dương trong chính quyền VNDCCH. Tại Hà Nội, hàng loạt những cuộc đụng độ bạo lực đã xảy ra giữa hai phía Việt Cách và Việt Minh, làm chấn động dân chúng và thử thách tính kiên nhẫn của các tư lệnh Trung Quốc.
Khi tướng Tiêu Văn tăng cường áp lực lên các đảng phái để thành lập một chính quyền quốc gia thống nhất, Hồ Chí Minh đã dùng chiến thuật mưu mẹo để nâng đỡ Nguyễn Hải Thần bằng cái giá của giới lãnh đạo Quốc Dân Đảng. Hình ảnh Thần giúp gợi lại tình đồng chí giữa ông với Phan Bội Châu cũng như tiểu sử luôn từ chối hợp tác với thực dân Pháp. Giới lãnh đạo Trung Quốc từ Thống chế Tưởng trở xuống đều công khai tôn trọng Thần, mặc dù đôi khi người Việt chế nhạo ông vì không nói sõi tiếng mẹ đẻ. Thần cho thấy có ít khả năng xây dựng một nền tảng quyền lực trong nước, và do đó rất hợp trong chức vụ phó chủ tịch dưới mắt của Hồ. Các thành viên Việt Minh đã chơi trò chia rẽ bên trong Việt Cách, khiến cho Việt Nam Quốc Dân Đảng vô cùng khó chịu.
Trong khi các lãnh đạo Việt Minh, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Cách bắt tay nhau và mặc cả những giới hạn pháp lý, các chức bộ trưởng và những công báo chung, một cuộc đấu đá mãnh liệt đã xảy ra giữa các chủ bút, những người tuyển mộ đảng viên, những người gây quỹ và lực lượng bảo vệ vũ trang. Bộ Thông tin và Tuyên truyền VNDCCH cho đăng những bức thư vu khống trên nhiều tờ báo lên án Nguyễn Hải Thần đã không chịu đóng góp nhân sự của Việt Cách để chiến đấu tại miền nam, và tố cáo ông đã thương lượng với người Pháp. Báo chí thường xuyên cáo buộc quan chức đối lập chuyên tống tiền thường dân thấp cổ bé miệng. Công an VNDCCH thường xuyên bắt giữ thành viên Việt Cách với cáo buộc tống tiền dân thường đặc biệt là người gốc Hoa. Thành viên Việt Minh và Việt Cách giật xé biểu ngữ của nhau, đe dọa nhau bằng vũ lực và đôi khi phá đám các cuộc họp của đối phương. Bồ Xuân Luật, một cán bộ Việt Cách đã chia tay với Nguyễn Hải Thần, được lãnh đạo VNDCCH khuyến khích mở tờ báo riêng. Mười ngày sau tại trung tâm Hà Nội, Luật bị hai chiếc xe vũ trang phục kích và may mắn thoát chết với hai viện đạn chỉ làm bị thương. Tờ báo Đồng Minh của ông tiếp tục xuất bản đến tháng Mười một 1946.
Các đơn vị Việt Cách tại các thị trấn từ biên giới Trung Quốc đến vùng châu thổ sông Hồng đã không gặp khó khăn trong việc giữ vững vị trí của mình, ít nhất là cho đến khi Trung Quốc bắt đầu rút quân vào tháng Tư 1946. Các giáo viên, nhân viên dân sự và cảnh sát địa phương phải quyết định có nên trung thành với Việt Cách, hoặc giữ trung lập hoặc phải bỏ đi. Một báo cáo vào cuối năm 1945 của Bộ Giáo dục ở Hà Nội cho biết có bốn tỉnh trong đó một số trường học bị lính Trung Quốc chiếm đóng, trong khi những trường khác các lớp học bị gián đoạn vì các thành viên Việt Cách “quấy rầy” giáo viên, học sinh và dân địa phương. Việt Cách thỉnh thoảng trên thực tế phải công nhận chính quyền VNDCCH, như khi họ xin giấy phép chính quyền để mua và vận chuyển hai mươi tấn muối.
Theo thoả thuận ba bên được ký kết vào ngày 23 tháng Mười hai 1945, Nguyễn Hải Thần được bổ nhiệm chức phó chủ tịch NDCCH trong một chính phủ liên hiệp lâm thời, được công bố đúng vào ngày 1 tháng Giêng 1946, năm ngày trước khi tổng tuyển cử toàn quốc. Theo thoả thuận ngày 23 tháng Mười hai, hai mươi thành viên Việt Cách được đưa vào Quốc hội không qua bầu cử. Họ không được bổ nhiệm vào các đơn vị cử tri như các ứng cử viên Quốc hội thường có. Một số thành viên Việt Cách muốn thực sự tham gia tranh cử. Hồ Đắc Thành cố gắng để tên tuổi và thông tin các nhân của mình được công bố chung với các ứng cử viên khác tại Nam Đinh, và đã đắc cử vào Quốc Hội từ tỉnh này. Bồ Xuân Luật cũng thắng cử từ Hưng Yên và không lâu sau trở thành thứ trưởng nông nghiệp VNDCCH. Khi Quốc Hội nhóm họp tại Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 2 tháng Ba 1946, Hồ Chí Minh phải báo với các đại biểu rằng Nguyễn Hải Thần “bị ốm” và không thể tham dự. Khi đề cử thành phần Nội các chính phủ với Quốc hội, Hồ đã sắp đặt trước để đề nghị Thần làm phó chủ tịch và một thành viên Việt Cách khác là Trương Đình Tri làm bộ trưởng bộ xã hội (bao gồm cả y tế, an sinh và lao động), ca ngợi Bác sĩ Tri là “chuyên viên nổi tiếng trên lĩnh vực y tế.”
Nhưng vấn đề ám ảnh mọi người trong ngày đầu tiên của tháng Ba chính là cuộc thương lượng đầy căng thẳng và quan trọng giữa VNDCCH, Pháp và Trung Quốc. Các thành viên Việt Cách hẳn đã rụng rời khi nghe được thoả thuận Trung-Pháp ngày 28 tháng Hai, trong đó Trùng Khánh chấp nhận việc người Pháp sẽ quay lại miền bắc Đông Dương cũng như việc Trung Quốc rút quân khỏi nơi đây. Có thể Hồ đã muốn Thần tham gia vào cuộc thương lượng với người Pháp và Trung Quốc, và chắc chắn ông muốn có được chữ ký của Thần trong bản Hiệp ước Sơ bộ ngày 6 tháng Ba, nhưng không ai tìm thấy Thần vì ông đã rời Hà Nội vài ngày trước đấy.
Bị Việt Nam Quốc Dân Đảng phủ bóng và ngày càng điêu đứng bởi những đấu đá nội bộ, Việt Cách đã mất phương hướng trong tháng Ba 1946. Một số thành viên chú trọng vào việc bảo vệ các thị xã phía bắc Hà Nội, những người khác bỏ sang Quốc Dân Đảng và vẫn còn những thành phần khác chấp nhận phục tùng Việt Minh. Một số các cuộc tấn công vào quân Pháp tại Hải Phòng có thể là của các thành viên Việt Cách. Vào cuối tháng Tư, lực lượng của Pháp đã khai quật mười hai xác người từ căn hầm của một căn cứ cũ của Việt Cách tại Hà Nội, bao gồm hai người Pháp bị mất tích vào ngày 24 tháng Mười hai 1945. Hoàng Cừ, một nhà báo nổi tiếng có liên hệ với Việt Cách bị bắt với tội danh chuyên chở bất hợp pháp một trăm tấn muối và bị tuyên án mười năm khổ sai. Chính phủ VNDCCH đã thương lượng với giới lãnh đạo Việt Cách tại Lạng Sơn để đổi ông sang biên giới Trung Quốc vào tháng Sáu, nhưng sau đó họ lại bị bắt buộc phải để người Pháp cùng chiếm giữ Lạng Sơn vào ngày 8 tháng Bảy. Các thành viên Việt Cách tại Quảng Yên và Móng Cái dường như đã rút quân về bên kia biên giới vào giữa tháng Sáu cùng lúc Trung Quốc rút quân. Hồ Đắc Thành, đại diện Việt Cách ở Nam Định có tên trong danh sách một mặt trận thống nhất rộng hơn do ĐCS Đông Dương khởi xướng mang tên Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam. Báo Đồng Minh tường thuật các cuộc họp giữa các chi bộ Việt Cách còn lại và việc một số thành viên tham gia khóa họp thứ hai của Quốc hội vào cuối tháng Mười. Công an theo dõi tài liệu thu được từ Việt Cách và mời các thành viên đến để truy vấn. Từ đấy trở đi một số thành viên Việt Cách phục tùng đã giúp chính quyền trưng bày hình ảnh của một mặt trận đoàn kết dân tộc, trong khi những người khác phải đối diện với tù đày hoặc truy bắt.
(còn tiếp)
Diên Vỹ gửi hôm Chủ Nhật, 29/12/2013          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131228/david-marr-vai-tro-cac-dang-chinh-tri-trong-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong-hoa-p1
=======================================================================
David Marr - Vai trò các Đảng Chính trị trong nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (P.2)




Diên Vỹ chuyển ngữ
Trích dịch từ cuốn Việt Nam: Nhà nước, Chiến tranh và Cách mạng (1945-1946) của David G. Marr, NXB: University of California Press, 2013.


Hồ Chí Minh giới thiệu Nội các mới trước Quốc hội ngày 2 tháng Ba 1946. Từ trái sang phải: Trương Đình Tri, Đặng Thai Mai, Chu Bá Phượng, Nguyễn Tường Tam, Huỳnh Thúc Kháng, Hồ Chí Minh, Vĩnh Thụy, Lê Văn Hiến, Phan Anh, Vũ Đình Hoè, Trần Đăng Khoa, Bồ Xuân Luật. Tài liệu: Hội Sử học Việt Nam.
Việt Nam Quốc Dân Đảng: Không bị Cấm đoán
Nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng do Lê Khang cầm đầu rời khỏi Hà Nội ngay sau khi Việt Minh chiếm chính quyền vào ngày 19 tháng Tám 1945 đã đi năm mươi ki lô mét đến thị xã Vĩnh Yên. Tại đấy nhóm này được Đỗ Đình Đạo, một chỉ huy đầy năng động của một tổ chức thanh niên địa phương đón tiếp. Họ cùng tổ chức một cuộc biểu tình với nhân dân thị xã nhằm thuyết phục đồn Dân vệ Vĩnh Yên tham gia. Lê Khang không chọn Vĩnh Yên một cách ngẫu nhiên: thị xã này nằm dọc theo tuyến đường sắt Lào Cai - Hà Nội mà quân Trung Quốc từ Vân Nam cũng như những người Việt Quốc lưu vong sẽ sử dụng để tiến vào Bắc Kỳ.
Ngày 29 tháng Tám, vài nghìn người từ ba huyện nông thôn bên cạnh đã tiến về các vị trí của Việt Quốc ở Vĩnh Yên, họ phất cờ Việt Minh và đề nghị tiến hành một cuộc tuần hành “đoàn kết” trong thị xã. Sau khi bị từ chối, đám đông vẫn tiến đến gần và một số người đã nổ súng. Việt Quốc bắn trả bằng súng trường tự động, giết chết không rõ bao nhiêu, bắt giữ 150 người và khiến cho những người tham gia biểu tình khác hoảng loạn và chết đuối trên con sông gần đấy. Đa số các tù nhân được trả tự do sau khi nghe Việt Quốc giảng huấn và thừa nhận họ đã bị lừa gạt tham gia biểu tình. Vài tuần sau, lãnh đạo hai bên đã trao đổi thư từ về việc trao trả tù binh, quyền hạn của những người tham gia và đề nghị cùng quản lý chính quyền địa phương. Nếu Việt Minh chặn đường vận chuyển lương thực thì đời sống sẽ rất khó khăn. Ngày 18 tháng Chín một thành viên tên tuổi của Đảng Dân chủ là Hoàng Văn Đức đã được VNDCCH uỷ nhiệm đến từ Hà Nội để thương thảo. Nhưng Lê Khang lại quyết định tấn công Phúc Yên và đã thất bại. Các đơn vị Quân đội Giải phóng VNDCCH sau đó tìm cách lấy lại Vĩnh Yên nhưng không thành, sau đấy một lệnh ngừng bắn được thực hiện trong vài tháng. Việt Quốc dường như không tranh chấp quyền lực của Việt Minh tại khu vực nông thôn, ngoại trừ việc chiếm giữ đồn điền Tam Lộng ở Vĩnh Yên. Một cuộc tấn công tầm cỡ của Việt Minh vào Tam Lộng đã bị đẩy lui vào đầu tháng Mười hai.
Phía bên kia biên giới Trung Quốc, các nhà hoạt động Việt Quốc và Việt Minh đều được kết nạp cùng với ba nghìn hai trăm lính của các đơn vị thuộc địa Pháp từng bỏ chạy sang Vân Nam sau đảo chính của Nhật vào ngày 9 tháng Ba 1945. Cả hai bên đều thành công trong việc tuyển mộ khoảng hai nghìn lính người Kinh hơn là với những phần tử dân tộc thiểu số. Vào tháng Chín, Việc Quốc đạt được thoả thuận mật với Đại uý Nguyễn Duy Viên bằng việc đại đội bộ binh người Kinh của ông sẽ đồng loạt ngả sang phía họ vào thời điểm thuận lợi. Tuy nhiên các cán bộ Việt Quốc tại Côn Minh nghi ngờ rằng Đại uý Viên (còn có tên là Ba Viên vì quân hàm sĩ quan ba vạch của ông) là một điệp viên hai mang của Pháp, đơn vị ông sẽ được lệnh tiêu diệt Việt Quốc sau khi tiến vào Bắc Kỳ. Trong tuần lễ đầu của Tháng Mười một, Viên đã đưa đại đội hành quân gần hai trăm ki lô mét từ Mông Tự đến Hà Giang, nơi các thành viên Việt Quốc hân hoan đón chào ông. Những người đào ngũ từ các đơn vị lính thuộc địa cũng đổ về thị xã Hà Giang, lên đến bốn trăm người dưới quyền chỉ huy của Đại úy Viên. Nhưng sự thù địch giữa Việt Quốc và Việt Minh quá rõ ràng khiến một thường dân đã phải gửi thư yêu cầu chính quyền hiện tại xuống để thuyết phục mọi người chú tâm vào việc chống trả quân ngoại quốc. Sau khi đi Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, Viên quay lại Hà Giang, bắt đầu bắt giữ các thành viên Việt Quốc và sau đó xử tử một số tù nhân tại vùng đồi gần đấy. Vào ngày Giáng sinh, đơn vị Viên gia nhập vào đoàn Vệ quốc của VNDCCH. Vào tháng Tư 1946, một toán ám sát của Việt Quốc tìm được Viên tại Hà Nội và ông bị bắn chết khi đang rời khỏi một tiệm ăn.
Giới lãnh đạo ĐCS Đông Dương nhận định Việt Nam Quốc Dân Đảng đem lại thách thức lớn hơn cho họ so với các đảng Đại Việt, Trotskyist và Việt Cách gộp chung. Bất chấp nỗ lực của ĐCS Đông Dương trong việc thuyết phục quần chúng rằng giới lãnh đạo hiện tại của Việt Quốc đã phản bội lại di sản cao quý của Nguyễn Thái Học và những anh hùng khác của năm 1930, nhiều người dân vẫn có cái nhìn thoáng về họ vào cuối năm 1945. Bên cạnh các đơn vị đi chung với quân Trung Quốc xuống hành lang sông Hồng vào cuối tháng Chín, các cơ sở Việt Quốc vẫn hoạt động trong Công ty Hoả xa Đông Dương, ngành Bưu điện và Đại học Hà Nội. Còn có những cựu tù nhân Việt Quốc vừa được ra tù và thành viên Đại Việt đang mong muốn gia nhập. Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), một nhà văn, chủ bút và nhà xuất bản nổi tiếng nhất Việt Nam trong những năm 1930 có triển vọng tổ chức một chiến dịch truyền thông để đối đầu với nỗ lực của Việt Minh.
Đầu tháng Chín 1945 Vũ Hồng Khanh, lãnh đạo Việt Quốc có trụ sở tại Vân Nam đã không tìm được một chỗ trong chuyến bay từ Trung Quốc đến Hà Nội, sau đó lại bị tư lệnh quân đội Trung Quốc tại Lào Cai ngăn cản trên đường bộ. Sau khi đồng chí của ông là Nghiêm Kế Tổ vận động các đầu mối Quốc Dân Đảng Trung Quốc ở Trùng Khánh, cuối cùng Khanh đã đến Hà Nội vào ngày 20 tháng Mười. Trong thời gian ông vắng mặt một nhóm người sẵn sàng nghiêng về phe VNDCCH đã thành lập một Uỷ ban Vận động Tái Tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng mà Khanh đã cố tình tảng lờ. Nguyễn Tường Tam quyết định ở lại Côn Minh và Trùng Khánh trong suốt thời gian cuối năm 1945, với nỗ lực vận động thêm giúp đỡ từ Trung Quốc và Mỹ nhưng không thành. Tài năng báo chí của Tam rõ ràng rất cần thiết ở Hà Nội, mặc dù đồng nghiệp của ông là Trần Khánh Dư (Khái Hưng) đang biên tập tờ Việt Nam, tờ báo chính của Việt Quốc.
Xuất bản lần đầu tiên vào ngày 15 tháng Mười một 1945, Việt Nam nhanh chóng trở thành tờ báo chống đối ĐCS Đông Dương và Việt Minh hiệu quả nhất. Đăng trên trang nhất của số đầu tiên là tuyên bố của Việt Nam Quốc Dân Đảng nhắc lại những hy sinh anh dũng của Nguyễn Thái Học và các đồng chí trong năm 1930, tố cáo Hồ Chí Minh đã phản bội mặt trận liên hiệp giai đoạn 1942-45 bằng cách đơn phương chiếm chính quyền vào tháng Tám, và tuyên bố rằng Việt Quốc có thể lật đổ chính quyền mới nhưng đã quyết định không làm vì lợi ích cao cả của quốc gia. Từ đấy Việt Minh đã theo đuổi một chính sách sai lầm và thiếu hiệu quả, làm mất đi bạn bè quốc tế vì chủ thuyết cực đoan của mình, khủng bố các đảng phái Việt Nam khác, không đối phó được với tình hình kinh tế thảm hại, và cam chịu chấp nhận sự xâm lăng của kẻ thù ở miền nam. Nhu cầu cấp bách, theo Việt Quốc, là tất cả các đảng phái phải dẹp bỏ những vấn đề nhỏ nhặt, thành lập một chính quyền thống nhất quốc gia chính danh, và vận động toàn dân từ bỏ tình trạng nô lệ để đạt được độc lập thực sự. Một bài báo đăng kèm lời tuyên bố kêu gọi “các anh em cách mạng” phía Việt Minh nhận thức được rằng giới lãnh đạo của họ đã đưa đất nước vào một con đường nguy hiểm và lợi dụng họ vào những mục đích tham vọng ích kỷ.
Trong suốt sáu tuần kế tiếp các biên tập viên tờ Việt Nam không bao giờ sử dụng cái tên “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà” ngoại trừ những lúc châm biếm hoặc bỏ trong ngoặc kép, và họ liên tục không công nhận lá cờ và bài hát của Việt Minh là quốc kỳ và quốc ca. Họ tố cáo Hồ Chí Minh là một kẻ độc tài, gọi ông là “bè lũ phát xít Hồ Chí Minh” và đăng tải một số tranh biếm hoạ chế nhạo Hồ. Nhưng mục tiêu hàng đầu của Việt Nam là Tổng Bộ Việt Minh, vốn bị nó liên tục mệnh danh là phát xít vì được cho là chuyên tung tin thất thiệt, tống tiền, bắt cóc đối phương và tổ chức tấn công vũ trang vào các cơ quan Việt Quốc. Tờ Việt Nam ăn miếng trả miếng dữ dội với tờ Cứu Quốc , tờ nhật báo hàng đầu của Việt Minh. Nó ít đề cập đến nhà nước VNDCCH ngoại trừ việc thường xuyên lên án ngành An ninh và Bộ Thông tin và Tuyên Truyền do Trần Huy Liệu đứng đầu.
Những câu chuyện từ các tỉnh được nhanh chóng đăng ngày càng nhiều trên tờ Việt Nam, đặc biệt là tin tức lên án hành động của các nhóm Việt Minh và uỷ ban nhân dân địa phương. Việt Nam thường xuyên than phiền về việc chính quyền địa phương tịch thu các số báo của họ. Nhờ tài liệu lưu trữ của VNDCCH chúng ta biết được việc này thường xuyên xảy ra và thật sự đôi khi người ta bị bắt vì chỉ đơn giản có trong tay tờ Việt Nam. Tuy thế, các số báo Việt Nam vẫn được ấn hành rộng rãi, nhờ sự trợ giúp của các đảng viên và cảm tình viên Việt Quốc nằm trong ngành Bưu điện và Công ty Hoả xa Đông Dương.
Sự nghi ngờ lẫn nhau, thậm chí là thù hằn rõ rệt, cũng đã không ngăn cản các đại diện Việt Minh và Việt Quốc gặp gỡ nhau để thảo luận những dị biệt và thậm chí cùng ký tên vào các hiệp ước chiến thuật. Điều vẫn không rõ là liệu những người đứng đầu hai phía có muốn tìm ra một liên minh có hiệu quả hay đơn giản chỉ làm lấy lệ để tránh bị Trung Quốc quở phạt. Ngay từ ngày 29 tháng Chín, Nguyễn Lương Bằng (Việt Minh) và Chu Bá Phượng (Việt Quốc) đã đồng ý đình chỉ những tranh chấp bạo lực, thả tù nhân và chấm dứt việc công khai tố cáo lẫn nhau. Ngày 19 tháng Mười một Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần đã ký một bản “Nguyên tắc Chung Tối cao” nhằm hướng dẫn việc thương lượng hướng đến một “chính phủ nhất trí” cũng như tổ chức được một quân đội duy nhất, chấm dứt tranh giành đảng phái, và huỷ diệt những “xí đồ của thực dân Pháp” đang đe doạ sự độc lập hoàn toàn của Việt Nam. Ngày 24 tháng Mười một, Việt Nam Quốc Dân Đảng triệu tập một cuộc họp công khai trước trụ sở của mình tại Hà Nội trong đó các diễn giả của hai phía dường như đã tránh nhắc đến những tranh luận cảm tính thường thấy trên báo chí của hai bên. Cuối cuộc họp, cả ba người đứng đầu đã ký một bản ghi nhớ trong đó “hai bên” hứa hẹn sẽ chấm dứt tấn công lẫn nhau, để thúc đẩy liên hiệp và ủng hộ cuộc kháng chiến vũ trang ở miền nam.
Nhưng chỉ vài ngày sau, các biên tập viên tờ Cứu Quốc lại giải thích rằng bản ghi nhớ chúng ngày 24 tháng Mười một là để củng cố chính quyền hiện tại của một quốc gia liên hiệp, khiến phía Việt Quốc lập tức phản đối. Hồ Chí Minh cũng trở nên cứng rắn hơn trong vị trí của mình, công khai thông báo với Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần rằng đã đạt được thống nhất và bầu cử toàn quốc sẽ được tiến hành trong ba tuần, và không cần phải thay đổi chính phủ trước đấy. Các cây bút của Việt Nam giờ đây tố cáo Hồ không có tính chất của một người quân tử, và cùng với những đồng chí cộng sản của ông, đã sử dụng đến “những chính sách khủng bố và độc tài.”
Vì cả hai phía đều không nhân nhượng, Tướng Tiêu Văn và các sĩ quan Trung Quốc khác đã phải đóng vai trò chủ động hơn trong các thảo luận. Ngày 25 tháng Mười hai, Hồ chấp thuận việc thành lập một chính phủ liên hiệp quốc gia lâm thời trước khi triệu tập quốc hội và đồng ý hoãn thêm hai tuần trước khi bầu cử. Ngược lại, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần đồng ý để Hồ tiếp tục làm chủ tịch nhà nước lâm thời, chấp thuận để quốc hội có quyền quyết định quốc kỳ và quốc huy, và đã thất bại trong việc nhanh chóng đưa người vào các vị trí chỉ huy và cơ chế tham mưu của quân đội quốc gia. Việt Quốc được dành sẵn năm mươi ghế và Việt Cách hai mươi ghế trong Quốc hội mà không qua bầu cử. Mặc dù rõ ràng đây là một nhượng bộ của Việt Minh, điều khoản này củng cố quan điểm của nhiều người rằng phe đối lập không có khả năng tranh giành hậu thuẫn ở cấp địa phương. Với dấu hiệu rõ rệt về vai trò trọng tài của Trung Quốc trong sự kiện này, văn bản bằng tiếng Trung trong hiệp ước ký kết ngày 23 tháng Mười hai được tuyên bố là có giá trị pháp lý. Điều khoản 13 của bản thoả thuận đã không được công bố, có lẽ vì nó đề cập đến hành động của Trung Quốc trong trường hợp có bạo lực xảy ra. Văn bản không hề nhắc đến tên quốc gia đang được đề cập, vì Việt Quốc vẫn chưa chấp thuận “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.”
Thoả thuận 23 Tháng Mười hai 1945 cũng đã vạch rõ một phương thức bổ nhiệm mười bộ trưởng: hai Việt Minh, hai Đảng Dân Chủ [cũng là Việt Minh], hai Việt Quốc, hai Việt Cách, và hai phi đảng phái. Nhưng Nội các được công bố vào ngày 1 tháng Giêng 1946 lại có đến mười bốn bộ trưởng và hai thứ trưởng, cho thấy việc ngã giá vẫn đang tiếp tục và chắc chắn sẽ không giải quyết được trước kỳ bầu cử Quốc hội ngày 6 tháng Giêng. Hồ Chí Minh không cần vội vã triệu tập Nội các 1 tháng Giêng 1946. Việc Nguyễn Tường Tam và Nghiêm Thế Tổ từ Trùng Khánh về ngày 20 tháng Giêng, cả hai hẳn đều đã biết rõ diễn tiến của cuộc đàm phán Trung-Pháp, chắc đã dấy lên một tranh luận căng thẳng trong Việt Quốc về việc cần phải làm gì trong trường hợp Trung Quốc rút quân khỏi bắc Đông Dương. Vào tháng Giêng tại Lai Châu, Việt Quốc và Vệ quốc Quân VNDCCH đã đụng độ riêng rẽ với quân Pháp, Việt Quốc sau đấy đã rút về Lào Cai, Vệ quốc Quân rút về Sơn La. Ngày 10 tháng Hai ở Hà Nội, Việt Quốc đã tổ chức một buổi lễ công khai kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái với nhiều người đến tham dự. Nhưng tại Hải Phòng, buổi lễ kỷ niệm bị chia rẽ khi một người trong cử toạ phản đối việc thiếu bóng lá cờ đỏ sao vàng.
Sau thoả thuận 23 tháng Mười hai 1945, lãnh đạo trung ương cả hai phía đều chỉ thị xuống hạ tầng ra lệnh ngừng những cuộc tấn công bạo lực lẫn võ mồm với đối phương. Một số địa phương đã bị lúng túng. Ví dụ như tỉnh uỷ Hoà Bình báo cáo là những người đứng đầu dân tộc Mường từng phụ giúp phá hoại các hoạt động của Việt Quốc giờ đây lại nghi ngờ bộ máy hành chính của VNDCCH. Những người khác vẫn thấy rõ mối đe doạ từ quân đội Pháp, muốn chấm dứt tình trạnh huynh đệ tương tàn. Một số người sẵn sàng bàn đến việc thống nhất đảng phái hoặc hợp nhất hoạt động, nhưng ít nhất trong thời điểm này cả hai bên đều không muốn gây sự. Các chỉ huy Trung Quốc tại địa phương đôi khi làm người hoà giải. Tướng Hoàng đang đóng ở thị xã Phú Thọ đã triệu tập hai bên lại để thảo luận thành lập một cơ quan hành chính chung, mặc dù cuộc thảo luận bị thất bại vì một vụ nổ súng ở chợ. Người dân thị xã phẫn uất đã gửi đơn thỉnh nguyện lên Chủ tịch Hồ Chí Minh, than phiền về việc cả hai bên đã bắt giữ nhiều con tin, việc buôn bán bị thất thiệt và chẳng bên nào chịu lắng nghe các bậc trưởng thượng địa phương. Cuối cùng Tướng Hoàng dàn xếp được một thoả thuận ngưng bắn miễn cưỡng nhưng cũng kéo dài được bốn tháng.
Từ giữa tháng Hai 1946, tin tức về cuộc thương thảo Trung-Pháp, mối đe doạ quân Pháp xâm chiếm miền bắc và thảo luận giữa Hồ Chí Minh và Jean Sainteny đều góp phần làm tăng thêm nỗi lo lắng chính trị và nhen nhóm lại trận võ mồm. Một tờ báo phi đảng phái đã phê phán cả hai tờ Việt NamCứu Quốc, nói rằng việc hai bên tấn công lẫn nhau đã đi quá giới hạn của phép lịch sự và đã bỏ qua thực tế là kẻ thù cũng đọc báo của họ. Một bài xã luận mang tên “Ai là Phản động?” lên án cả Việt Quốc lẫn Việt Minh trong việc liên tục sử dụng tính ngữ “phản động” khiến quần chúng thêm bất an và làm ảnh hưởng đến việc chuẩn bị chống quân Pháp xâm lược. Ngày 20 tháng Hai, lại có thêm một tình tiết mới khi một đám đông tụ tập tại nhà riêng của Bảo Đại với lá cờ hoàng gia màu vàng và các biểu ngữ “Ủng hộ Tổng thống Vĩnh Thụy”, “Đả đảo Chính sách thân Pháp” và “Tổ quốc Nguy biến”. Ba bô lão được đưa vào để kêu gọi Bảo Đại đứng đầu chính phủ mới thay Hồ Chí Minh. Quân cảnh Trung Quốc đã ngăn cản Công an VNDCCH dùng vũ lực giải tán đám đông. Việt Minh tố cáo Việt Quốc tổ chức cuộc biểu tình này.
Giờ đây, nhận biết rằng quân Pháp cũng sẽ đổ vào miền Bắc bằng cách này hoặc cách khác, Hồ Chí Minh quyết định dàn xếp tranh chấp với phe đối lập về việc bổ nhiệm Nội các và triệu tập Quốc hội. Ông tán thành yêu cầu từ lâu của Việt Quốc về việc loại bỏ hai người cộng sản nổi tiếng là Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu ra khỏi Nội các. Một hội nghị chung được tổ chức liên tục để tìm cách đạt được thoả thuận trong hai vấn đề: ai trong số những người Việt không đảng phái hoặc trung lập sẽ giữ hai vị trí quan trọng về quốc phòng và nội vụ; và nên phân chia quyền lực như thế nào đối với Vệ quốc Đoàn? Từ lúc đầu, Phan Anh có vẻ là một lựa chọn chắc chắn cho chức bộ trưởng quốc phòng, điều này hơi bất ngờ vì anh của ông có liên hệ với Việt Minh. Có lẽ các lãnh đạo Việt Quốc biết được uy tín của Phan Anh là một luật sư bào chữa thẳng thắn và một bộ trưởng thanh niên nhiệt tình trong Nội các ngắn ngủi của Trần Trọng Kim, họ hy vọng ông sẽ cưỡng lại nỗ lực của Việt Minh trong việc giành độc quyền chỉ huy tối cao cũng như các vị trí tham mưu của Vệ quốc Quân. Nếu thế, họ sẽ sớm bị thất vọng.
Hội nghị chung cân nhắc ít nhất bốn nhân vật cho chức bộ trưởng nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng, một chủ bút và nhà xuất bản ở Huế được nhiều người nể trọng; Trần Đình Nam, một bác sĩ, nhà văn và bộ trưởng nội vụ trong chính phủ Trần Trọng Kim; Ngô Đình Diệm, cựu quan triều đình và một chính trị gia gốc Công giáo; và Bùi Bằng Đoàn, cựu quan triều đình và hiện là trưởng ban thanh tra của Chính phủ VNDCCH. Có vẻ Diệm đã bị gạt sang một bên vì tinh thần chống cộng nổi tiếng của ông, trong khi Đoàn được xem là quá gần gũi với Việt Minh. Cho đến ngày 27 tháng Hai, Nam có vẻ là một ứng cử viên được mọi người ưa chuộng. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh đã quyết định sử dụng tất cả quyền lực của mình để đề cử Kháng, đã gửi phái viên và điện tín đến Huế mời Kháng cho bằng được. Kháng miễn cưỡng chấp nhận và được vội vã hộ tống về Hà Nội để kịp ngày khai mạc Quốc hội 2 tháng Ba. Với uy tín lớn trong cả nước của Kháng, không ai có thể phản đối việc bổ nhiệm ông một khi ông sẵn sàng nhận nhiệm sở.
Vấn đề về quyền kiểm soát Vệ quốc Quân được giải quyết bằng cách thành lập Kháng chiến Uỷ viên Hội gồm chín thành viên, rõ ràng là với mục đích trực thuộc vào Quốc hội hơn là vào Chủ tịch nước hoặc Nội các. Điểm nổi bật là Việt Quốc đã chấp thuận cho Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch của một bộ phận có tiềm năng quyền lực lớn này, mặc dù họ từng cực lực lên án ông trong nhiều tháng qua. Vũ Hồng Khanh được bổ nhiệm làm phó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến, mặc dù ông không thể lạc quan tin rằng mình có nhiều thực quyền. Có lẽ ông đã hy vọng sẽ cài được các cán bộ Việt Quốc có kinh nghiệm từ Quân đội Trung Quốc vào Ban Tham mưu của Vệ quốc Quân, và để bảo đảm các đơn vị vũ trang của ông được vẹn toàn nếu họ chính thức được biên chế vào Vệ quốc Quân. Nhận thức rất rõ việc quân Pháp có thể đến sớm, và thoả thuận Trung-Pháp ngày 28 tháng Hai đã làm lung lay quan hệ giữa ông và các quan chức Trung Quốc, Khanh không thể nào đòi hỏi được chức chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến.
Hai nhà lãnh đạo chính của Việt Quốc là Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh dường như đã bị bỏ rơi trong cuộc đàm phán ba bên đầy bận rộn giữa VNDCCH, Pháp và Trung Quốc từ ngày 3-6 tháng Ba 1946. Là Bộ trưởng ngoại giao trong Nội các mới của VNDCCH, Tam lẽ ra phải ở cạnh Hồ trong các cuộc họp quan trọng với các quan chức Trung Quốc và Pháp, nhưng hoặc là Hồ đã quyết định tiếp tục thương lượng một mình, hoặc Tam hiểu rõ các điều khoản nên không muốn dính líu đến chúng. Tam không có mặt tại cuộc họp Nội các trong đó Hồ tìm được thoả thuận về nội dung chính thức thảo ra cùng Jean Sainteny. Ông đã tham gia buổi lễ ký kết vào ngày 6 tháng Ba nhưng vẫn tránh ký tên vào văn bản. Gánh nặng này được đặt vào Khanh, có lẽ là từ áp lực của Trung Quốc. Tham gia phiên họp Nội các với vai trò phó chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến, Khanh đã miễn cưỡng đồng ý ký tên vào hiệp ước chung với Hồ. Khanh còn đồng ý cùng Hồ và Võ Nguyên Giáp phát biểu trước đám đông tụ tập trước Nhà hát Lớn Hà Nội ngày 7 tháng Ba, ông đã không nói điều gì mâu thuẫn với hai diễn giả kia (xem chương 4).
Nhiều đảng viên Việt Quốc đã giận dữ về việc Vũ Hồng Khanh ký tên vào Hiệp ước Pháp-Việt ngày 6 tháng Ba. Các sinh viên trường cán bộ Nguyễn Thái Học từ ngoại ô Hà Nội đã bỏ học để phản đối, và cùng hiệu trưởng đi đến trụ sở đảng để chất vấn Khanh. Tại một phiên họp khẩn cấp của ban chấp hành trung ương đảng, một số đảng viên đã gọi Khanh là một kẻ độc tài khi đưa ra một quyết định quan trọng như thế mà không hội thảo trước. Một số chi bộ cách xa Hà Nội đã cắt đứt với trung ương và phát động một phong trào phản đối chính phủ đã hợp tác với giặc ngoại xâm. Ban chấp hành trung ương phái Lê Khang, một trong những thành viên uy tín nhất đến các địa phương để tìm cách giải thích tình hình chính trị và lập lại trật tự.
Nhìn lại, thời gian đầu tháng Ba 1946 là cơ hội cuối cùng của Việt Quốc để thách thức ĐCS Đông Dương và Việt Minh trong vai trò lãnh đạo chống Pháp. Nếu Nguyễn Tường Tam và Vũ Hồng Khanh sử dụng sự kiện khai mạc Quốc hội ngày 2 tháng Ba để lên án cuộc đàm phán Hồ Chí Minh-Sainteny và kêu gọi vũ trang kháng chiến ngay lập tức, thì cuộc đàm phán Việt-Pháp có thể đã không thành. Nếu Hồ và Sainteny vẫn tiếp tục tiến hành hiệp ước sơ bộ bất chấp việc Quốc hội công khai phản đối thì Vệ quốc Quân có thể bị rạn nứt vì nội bộ vốn đã có một thành phần chống đối đáng kể đối với việc nhượng bộ bất kỳ điều khoản quan trọng nào với người Pháp. Điều duy nhất khiến Việt Quốc không chịu đi theo con đường này là sự phản đối của giới chỉ huy lực lượng tiếp quản Trung Quốc, họ thật sự muốn tránh dính líu vào cuộc tranh chấp vũ trang Pháp-Việt, và vì thế đã đẩy Hồ và Sainteny vào thế thoả hiệp. Lẽ ra Tam và Khanh cần lập tức hi sinh mối quan hệ với Trung Quốc và có thể sẽ phải chịu sự trả đũa của họ, trong khi tìm cách thiết lập và lãnh đạo một mặt trận liên hiệp chống Pháp. Thay vì thế họ lại quyết định ở lại trong chính phủ VNDCCH và đợi tìm những cơ hội không bao giờ đến.
Ngay sau khi ký kết Hiệp ước 6 tháng Ba, Hồ Chí Minh đạt được chấp thuận của Nội các VNDCCH để phái một phái đoàn đến Trùng Khánh để tái xác định tình hữu nghị Trrung-Việt và đặc biệt là để biết được rõ hơn Thống chế Tưởng Giới Thạch muốn mối quan hệ diễn tiến ra sao sau thoả thuận Trung-Pháp ngày 28 tháng Hai. Nghiêm Thế Tổ, một thành viên Việt Quốc có quan hệ gần gũi với Trung Quốc và hiện là thứ trưởng bộ ngoại giao VNDCCH dưới Nguyễn Tường Tam, được chỉ định dẫn đầu phái đoàn với hai thành viên Việt Minh. Vào đêm trước khi phái đoàn ba người lên đường, Hồ bất thình lình thuyết phục Cố vấn Tối cao Vĩnh Thụy (Bảo Đại) đi cùng. Ban đầu cả Bảo Đại lẫn Tổ đều phản đối ý kiến này, nhưng sau một cuộc họp khẩn cấp với Tam và Vũ Hồng Khanh họ đã đổi ý. Ngày 18 tháng Ba - cùng ngày tướng Leclerc và đoàn quân thiết giáp của ông từ Hải Phòng đến Hà Nội - đoàn đại biểu có thêm Bảo Đại đã đi Côn Minh trên một chiếc máy bay Trung Quốc. Rõ ràng là Hồ muốn ngăn cản Tướng Leclerc tuyển dụng Bảo Đại, trong khi giới lãnh đạo Việt Quốc thấy được khả năng Bảo Đại trở thành một phần tử của một chính phủ Việt Nam khác được Trung Quốc và có lẽ cả Hoa Kỳ ủng hộ.
Nguyễn Tường Tam đảm nhận chức vụ bộ trưởng ngoại giao VNDCCH một cách nghiêm túc, ngay cả khi Hồ Chí Minh tiếp tục độc quyền tiếp xúc với các quan chức Pháp và chủ yếu nhờ vào sự phụ tá của Hoàng Minh Giám. Như ta đã thấy, Tam dẫn đầu phái đoàn VNDCCH đi Đà Lạt để có một buổi trao đổi kỹ lưỡng đầu tiên với người Pháp. Mặc dù trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo đoàn, Tam tỏ ra là một phát ngôn viên có tài và đã giúp dàn xếp một số mâu thuẫn trong chiến thuật đàm phán của đoàn. Nhưng vài tuần sau Tam lại chọn việc bỏ đi Trung Quốc thay vì dẫn đầu đoàn đàm phán của VNDCCH từ Hà Nội đi Paris. Giả định rằng những phát biểu của Tam với phái đoàn tại Đà Lạt về sự đoàn kết trước mối đe doạ của người Pháp là thật lòng, có nguyên nhân nào đấy đã khiến ông đổi ý sau khi quay lại thủ đô. Tôi cho rằng một văn bản được lưu hành ngày 29 tháng Năm báo trước việc thành lập một Liên hiệp Quốc gia Việt Nam mới trong đó đặt Việt Nam Quốc Dân Đảng dưới cùng một tổ chức chính trị chung với Việt Minh. Tam nằm trong danh sách các thành viên sáng lập Liên hiệp mới này, nhưng chắc chắn là nhữnng kẻ chủ mưu của ĐCS Đông Dương đã tự đưa tên ông vào, và Tam cho rằng có cố gắng vì một chính quyền liên minh cũng sẽ không đi đến đâu. Ngày 31 tháng Năm, báo chí đăng tin Tam sẽ không đi Paris vì “quá mệt nhọc”. Có tin đồn rằng Tam đã bỏ trốn với một món tiền lớn dùng để chi phí cho phái đoàn đi Pháp. Dường như chắc chắn là Tam đã không làm việc này, đặc biệt là trong vai trò của ông.
(Xem tiếp phần 3)
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Hai, 30/12/2013          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131229/david-marr-vai-tro-cac-dang-chinh-tri-trong-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong-hoa-p2
=======================================================================
David Marr - Vai trò các Đảng Chính trị trong nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (P.3)




Diên Vỹ chuyển ngữ
Trích dịch từ cuốn Việt Nam: Nhà nước, Chiến tranh và Cách mạng (1945-1946) của David G. Marr, NXB: University of California Press, 2013.
Xiết chặt ốc
Trong khi đó, nghi ngờ và thù địch đang sôi sục giữa Việt Minh và Việt Quốc tại các tỉnh phía bắc thủ đô. Vào tháng Tư, một thành viên của Khu uỷ Bắc bộ đi dọc theo tuyến đường sắt Hà Nội-Lào Cai để ký một “thoả thuận liên hiệp” với đại diện Việt Quốc từ bốn thị xã của các tỉnh nhằm thiết lập các uỷ ban hành chính được các bên chấp thuận. Nhưng văn bản với đầy dẫy ngôn ngữ quan liêu cho thấy những căng thẳng sâu đậm và thiếu tin tưởng nhau. Đầu tháng Năm, Khu uỷ Bắc bộ nhắc nhở tỉnh uỷ Bắc Giang nên linh hoạt hơn với các đảng viên Việt Quốc, “giữ tinh thần liên hiệp” và chuẩn bị kế hoạch dự phòng nhằm “tránh các hoạt động bất thường xảy ra”. Trong thời gian này Trần Đăng Ninh, người đứng đầu bộ phận an ninh của ĐCS Đông Dương đến thăm Vĩnh Yên với lý do thảo luận việc sửa đê và đã bị Vũ Hồng Khanh bắt giữ. Ninh và hai đồng chí tìm cách trốn hoặc được thả, nhưng sự kiện của họ được dùng làm lý do để kêu gọi việc đàn áp Việt Quốc. Vào giữa tháng Năm, Bộ Nội vụ ra lệnh cho toàn thể các công chức hiện đang làm việc tại bảy thị xã các tỉnh phía bắc và tây bắc Hà Nội phải di dời và tham gia các uỷ ban hành chính đang thành lập tại các địa điểm mới. Những ai không đi sẽ được xem làm bị mất việc làm trong chính quyền.
Các đơn vị Vệ quốc Quân tuần tra nghiêm ngặt hơn chung quanh các vị trí của Đảng Việt Quốc từ đầu tháng Năm. Khi quân Trung Quốc rút theo tuyến đường sắt về Vân Nam, dân quân Việt Minh địa phương liền phong toả các thị xã do Việt Quốc nắm giữ. Trong các trận đụng độ chung quanh Phú Thọ vào ngày 20 tháng Năm, Việt Quốc bắt giữ và xử tử một nhóm Việt Minh, thả các tử thi trôi trên sông Hồng để răn đe. Từ ngày 18 tháng Sáu, Việt Quốc phát động một cuộc tấn công lớn vào hai hướng Phú Thọ và Việt Trì. Cả hai bên sử dụng súng máy và đôi khi cả súng cối. Sau bốn ngày giao tranh, Việt Quốc tại Phú Thọ hết đạn và buộc phải rút lên thượng nguồn. Vũ Hồng Khanh chỉ huy phòng vệ Việt Trì với 350 quân, bao gồm 120 học viên từ trường quân sự Yên Bái. Sau chín ngày giao tranh, khi nghe tin Phú Thọ đã thất thủ và các đồng chí ở Vĩnh Yên đang đàm phán với kẻ thù, Khanh và hầu hết quân của ông rút khỏi Việt Trì vào ban đêm và đi về phía tây bắc đến Yên Bái. Trong suốt tháng Năm và Sáu, tờ Việt Nam, một bộ phận của Việt Quốc ở Hà Nội đã tăng cường những lời kêu gọi thống thiết với Vệ quốc Quân VNDCCH chấm dứt tấn công những đồng bào mình.
Tương phản với Phú Thọ và Việt Trì, lãnh đạo Việt Quốc tại Vĩnh Yên là Đỗ Đình Đạo đã tổ chức những cuộc thảo luận với đại diện Việt Minh từ giữa tháng Sáu, và cả hai phía đều đồng ý đình chiến trong hai tháng. Cuối cùng Đạo đồng ý thành lập một uỷ ban hành chính chung tại Vĩnh Yên và chấp nhận các điều khoản để nhập chung đội vũ trang của ông vào Vệ quốc Quân. Huỳnh Thúc Kháng đưa ra một chỉ thị thống nhất trong vai trò quyền chủ tịch VNDCCH. Chính trị viên của Quân khu 1 đã chủ toạ buổi lễ chính thức sát nhập Quốc dân Quân vào Vệ quốc Quân của VNDCCH. Các đơn vị Việt Quốc sau đó đã bị tách ra và điều về các tiểu đoàn Vệ quốc ở những nơi khác. Đạo và người phó của mình là Lê Thanh chuyển về Hà Nội.
Vào cuối tháng Sáu tại Hà Nội các thành viên Việt Quốc đã thảo luận việc có nên phục tùng quyền thống lĩnh của Việt Minh, hoặc chạy sang biên giới, hoặc tìm cách đảo chính lật đổ chính phủ trung ương VNDCCH. Trương Tử Anh, người đứng đầu nhóm hoạt động bí mật của Đại Việt liên minh với Việt Quốc đã kêu gọi việc nổi dậy, có thể bằng một cuộc tấn công vào lính Pháp để gây bối rối. Cũng vào cuối tháng Sáu, Võ Nguyên Giáp đã thăm dò Đại tá Jean Crépin, quyền tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Kỳ về thái độ của Pháp sẽ ra sao trong trường hợp VNDCCH leo thang các hoạt động tấn công Việt Quốc và Việt Cách. Crépin trả lời rằng quân Pháp “sẽ không can thiệp vào một việc nội bộ như thế.” Vì Vệ quốc Quân đang trên đà tấn công trong suốt mấy tuần lễ dọc hành lang tây bắc, cả Giáp và Crépin có lẽ đang nói về thành phố Hà Nội. Khi người Pháp đề xuất một kế hoạch diễu binh chung quanh hồ Hoàn Kiếm vào ngày Quốc khánh Pháp 14 tháng Bảy, an ninh VNDCCH sợ rằng sự kiện này sẽ là mục tiêu hấp dẫn cho các phần tử chống chính quyền. Sáng sớm ngày 12 tháng Bảy, Công an lùng sục một ngôi nhà và được cho là đã khám phá ra một kế hoạch do Trương Tử Anh ký trong đó dự định sẽ ném lựu đạn vào toán quân người châu Phi trong buổi diễu binh của Quân đội Pháp nhân ngày Quốc khánh, sau đó Đại Việt hoặc các đơn vị Pháp sẽ bắt giữ các lãnh đạo của ĐCS Đông Dương và VNDCCH, và Anh sẽ tuyên bố thành lập một chính phủ Việt Nam mới. Giám đốc Công an là Lê Giản đã đem tài liệu này đến Quyền Chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng, ông được kể là đã đeo kính vào, đọc vài đoạn rồi đập gậy xuống sàn, hét lên “Diệt! Diệt hết bọn bán nước hại dân! Đồ chó má.” Sau đấy Lê Giản đến tìm Giáp và ông này đã ra lệnh tấn công các văn phòng Việt Quốc tại Hà Nội lẫn các tỉnh.
Vào bảy giờ sáng ngày 12 tháng Bảy, Công an với sự trợ giúp của dân quân Việt Minh đã bao vây thêm bảy địa điểm tại Hà Nội. Trong vài trường hợp họ bị chống trả bằng súng tự động và đã phản công bằng cách quẳng lựu đạn lên mái nhà bên cạnh cho rơi xuống bên trong đến khi những người trong nhà đầu hàng. Hơn một trăm người bị bắt đi, một số không bao giờ quay về. Tại một căn nhà ở số 7 Phố Ôn Như Hầu, công an mạo nhận là đã tìm thấy một tù nhân bị trói, một căn phòng chứa dụng cụ tra tấn, và bảy xác người được chôn sơ xài ngoài vườn sau. Khi nghe tin về những xác chết, hàng trăm dân chúng đã tràn đến khu vực mà không bị công an ngăn cản - họ nhìn ngó, than khóc hoặc lớn tiếng lên án thủ phạm. Chính quyền thông báo với các nhà báo, và không bao lâu sau những vụ bố ráp này được tóm tắt lại là “Vụ án Ôn Như Hầu”. Ở Huế, một tờ báo của Việt Minh chạy tin: “Sào huyệt của bọn bắt cóc, tống tiền và sát nhân đã bị tiêu diệt.” Tờ báo Độc Lập của Đảng Dân Chủ tại Hà Nội đăng tin trang nhất: “Công an phát hiện và bắt giữ hang ổ bọn khủng bố”, rồi khẳng định rằng công an đã nhận được tin tình báo về một âm mưu chống đối chính quyền, ám sát, bán nước và sử dụng các khẩu hiệu cực đoan để lừa dối dân chúng. Công an đã phát hiện được một máy in, “truyền đơn nổi loạn”, tiền giả, súng ống và một số người đang bị giam giữ để lấy tiền chuộc. Bọn tội phạm đã bị bắt giữ và đang được điều tra… Có thể vì bị kiểm duyệt, tên Quốc Dân Đảng đã không được nhắc đến trong các bài báo ban đầu.
“Vụ án Ôn Như Hầu” chưa bao giờ là đề tài nghiên cứu lịch sử nghiêm túc. Câu chuyện bên trong của Lê Giản khiến ta phải đưa ra câu hỏi liệu có phải Công an và một số lãnh đạo cao cấp của ĐCS Đông Dương muốn dùng bằng chứng Dương Tử Anh đang âm mưu đảo chính như là một nguyên cớ để ấn công và xoá sạch toàn bộ Quốc Dân Đảng, và từ đó vu cáo thêm cho Pháp đã thảo luận với một thành phần thứ ba và tăng cường quyền kiểm soát của ĐCS Đông Dương đối với bộ máy hành chính và Vệ quốc Quân. Tài liệu chủ chốt đã được đưa cho Huỳnh Thúc Kháng trong đó liệt kê chi tiết việc tấn công vào cuộc diễu binh nhân ngày lễ Độc lập Pháp, được Lê Giản công nhận là “bản thảo viết tay” của Trương Tử Anh, chỉ được dùng trong nội bộ đảng Đại Việt mà thôi. Lê Giản không đưa ra một bằng chứng nào về việc thông đồng của người Pháp trong dự định đảo chính ngày 14 tháng Bảy ngoài việc Sainteny nhất quyết đòi hỏi cuộc diễu binh. Nếu người Pháp quyết định tổ chức đảo chính (một hành động mà họ từng nghĩ đến và trì hoãn nhiều lần trước đây), chẳng có lý do nào họ lại dựa vào Trương Tử Anh làm kẻ châm ngòi, nói gì đến việc cho ông cơ hội thành lập chính quyền. Công an đã cố tình đánh lận lằn ranh giữa tổ chức tổ chức Đại Việt bí mật của Anh và các nhóm do Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Tường Tam lãnh đạo trước đây khi họ nhắm vào các toà soạn báo Việt Nam và những cơ sở Việt Quốc khác. Rất có thể là các cán bộ Việt Quốc đã đoán được hung tin ba ngày trước đấy, khi văn phòng trung ương đảng cho biết rằng con dấu chính thức và một tư trang của Khanh bị mất. “E rằng ai đó sẽ dùng chúng với mục đích xấu, chúng tôi tuyên bố rằng chúng không còn giá trị,” thông báo của văn phòng trung ương kết luận. Theo sau việc Công an tấn công và bắt giữ, ai đấy trong chính quyền lại tìm cách giới hạn việc quần chúng lên án Quốc Dân Đảng với mục đích cho thấy đảng vẫn giữ vững việc tuyên truyền về mặt trận thống nhất. Tuy nhiên, thiệt hại đã xảy ra và ngoại trừ vài cá nhân lãnh đạo, mọi công dân trong nước VNDCCH từ đây sẽ kinh hoàng khi bị nhận diện là Việt Quốc. “Việt Quốc” trở thành đồng nghĩa với phản quốc.
Ngày 20 tháng Bảy, Xứ uỷ Bắc Kỳ - không một lần nhắc đến Việt Quốc - đã thông báo với tất cả các tỉnh rằng công an vừa khám phá ra những hành vi tội phạm nghiêm trọng như tống tiền, bắt cóc và tiền giả, cần phải điều tra và truy tố. Xứ uỷ đặc biệt chỉ thị cho chính quyền địa phương có quyền ngăn chặn, bắt bớ và giam giữ các thành phần từ thoái hoá đến khủng bố. Các uỷ ban hành chính địa phương giờ đây được phép bắt giữ những thành viên hoặc nghi can Việt Quốc trong khi cũng nên cẩn thận không được trả thù hoặc trừng phạt toàn bộ. Các nguồn tài liệu cho biết dường như hàng nghìn người đã bị thẩm vấn trong những tháng kế tiếp, hàng trăm người bị tống giam hoặc đưa vào các trại trục xuất, và vài trăm người bị cách chức khỏi các cơ quan hành chính. Nhân viên các “phòng chính trị” thuộc phòng Công an tỉnh tra tấn đối tượng, ép ký bản tự khai rồi đề xuất sang uỷ ban hành chính tỉnh để trả tự do, tuyên án hoặc trục xuất. Ví dụ như tại Sơn Tây, công an lấy được một bản khai dài bốn trang của Dương Thể Tú, một sinh viên mỹ thuật hai mươi bốn tuổi, nhận là đảng viên Việt Quốc và cung cấp các hoạt động của đảng ở thị xã Việt Trì, nơi anh ta làm việc tại phòng tuyên truyền và huấn luyện. Tú thú nhận với những người thẩm vấn rằng anh đã nhầm đường lạc lối, xin được tha tội và hứa từ nay sẽ ủng hộ chính quyền. Chắc chắn là Tú đã bị đưa vào một trại trục xuất.
Mặc dù tờ Việt Nam ngưng xuất bản vào cuối tháng Bảy 1946, tờ báo đồng hướng với nó là Chính nghĩa Tuần báo vẫn tiếp tục xuất bản thêm ba tháng với quan điểm rất khác biệt so với giới truyền thông hiện đang bị Việt Minh thống lĩnh. Nó vẫn tiếp tục với một bài viết tương đối dài lên án chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa đế quốc Sô Viết (còn được mệnh danh là “Phát xít Đỏ”) và chỉ bị kiểm duyệt nhẹ. Chính nghĩa Tuần báo cũng phê phán việc hệ thống uỷ ban hành chính của VNDCCH và chính phủ đã không thiết lập một hệ thống toà án độc lập. Chiến lược đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bị đặt vấn đề. Sự tồn tại duy nhất của tờ Chính nghĩa Tuần báo cho thấy một số thành viên nội các đã không vừa lòng với việc Trường Chinh đang tìm cách đồng nhất quan điểm dưới khẩu hiệu Liên Việt. Nếu thật thế thì nỗ lực tập hậu này đã bị thất bại vào tháng Mười, khi các biên tập viên biến mất khỏi tờ báo, sau đấy chỉ là những tin tức về tình hình trong nước. Người đọc chỉ được vài mẫu tin nhỏ về tình hình thế giới, những bình luận văn nghệ mang tính ru ngủ và những truyện ngắn của Khái Hưng. Đến đầu tháng Mười hai việc vô hiệu hoá tờ Chính nghĩa Tuần báo đã hoàn tất đến nỗi cơ quan kiểm duyệt không cần phải xoá bỏ một câu nào.
Từ tháng Bảy đến tháng Mười một 1946, một số người không rõ bao nhiêu trong số năm mươi thành viên Việt Quốc nằm trong Quốc hội VNDCCH đã bị bắt. Trong các cuộc ruồng bắt của công an vào ngày 12 tháng Bảy, đại biểu Quốc hội Phan Kích Nam bị tố cáo tội bắt cóc và tống tiền và bị bắt giam lập tức. Một đại biểu khác là Nguyễn Đổng Lâm đã bị công an Hải Dương bắt và đề nghị đưa ông đi trại trục xuất trong hai năm. Uỷ ban hành chính tỉnh Hải Dương đồng ý,nói rằng “chính quyền địa phương sẽ làm việc rất khó khăn nếu để ông Lâm nằm ngoài vòng pháp luật.” Lâm từng tham gia vào cuộc khởi nghĩa của Việt Quốc năm 1930, bị giam sáu năm trong nhà tù thực dân, và chỉ vừa quay lại tham gia hoạt động chính trị vào năm 1944. Vào cuối năm 1945 ông viết bài cho báo Việt Nam, năm 1946 ông lui về quê nhà tại Hải Dương. Ngày 7 tháng Tám, trường hợp của Lâm được chuyển lên ban Thanh tra Khu uỷ Bắc bộ và ở đó Nguyễn Văn Tố, chủ tịch không đảng phái của Ban Thường vụ Quốc hội nhanh chóng trả lời rằng ông không đồng ý việc bắt giữ Lâm. Ý kiến của Tố cũng được toàn bộ Ban Thường vụ ủng hộ, họ đã yêu cầu ban thanh tra ra lệnh cho công an Hải Dương thả Lâm. Ngày 21 tháng Tám, thanh tra đã làm theo, nói thêm rằng nếu tập trung được bằng chứng rõ ràng về tội trạng của Lâm, họ sẽ xin phép Ban Thường vụ để bắt Lâm lại.
Có nhiều vụ bắt giữ các đại biểu Quốc hội thuộc đảng Việt Quốc mà Nguyễn Văn Tố và Uỷ ban Thường vụ của ông không biết được. Các đại biểu Việt Quốc cũng bị địa phương quấy nhiễu. Trình Như Tấu đã phải kiến nghị đến năm cơ quan chính phủ sau khi một ban quân nhạc bao vây nhà ông đòi bồi thường một chiếc máy chữ mà họ dựng lên, đe doạ bạo lực nếu ông không chấp hành. Tấu nêu danh bốn người phá rối và yêu cầu được bảo vệ theo tư cách đại biểu Quốc hội, nhưng ông chẳng nhận được hồi đáp nào. Khi Quốc hội nhóm họp lần thứ hai vào cuối tháng Mười, không đến mười người trong số năm mươi đại biểu Việt Quốc tham dự.
Từ cuối tháng Bảy đến cuối năm 1946, đa số những người bị Công an bắt giữ vì lý do chính trị đều trên danh nghĩa Việt Quốc, dù đúng hay không. Ví dụ như bốn trong năm người bị tỉnh Hà Đông trục xuất bị gán là Việt Quốc. Hà Nội nhận được rất nhiều đơn thỉnh nguyện do thân nhân của những người bị bắt giữ với tội danh tham gia Việt Quốc ở Phú Thọ. Việc bắt giữ mở rộng đến cả Quảng Nam ở miền trung Việt Nam, với một số người không rõ bao nhiêu bị gán là Việt Quốc và trục xuất vào tháng Chín. Không phải ai cũng ngoan ngoãn chấp hành việc bị bắt giữ. Phạm Đức Tuyên, một người Công giáo tại Thái Bình đã bảo công an rằng ông thích Đảng Việt Quốc vì họ khẳng định Hồ Chí Minh thân Pháp, và vì thuế quá cao. Đã đến lúc nên dẹp bỏ chính quyền hiện tại. Vì thế ông đã bị đề nghị trục xuất. Công an báo cáo với Khu uỷ Bắc bộ rằng Phạm Văn Giàu, bị đưa đến trại trục xuất ở Bắc Cạn, vẫn tiếp tục bày tỏ thái độ phản động, kêu gọi những người khác tham gia hát các bài hát Việt Quốc, và tuyên bố rằng các cựu hoàng Duy Tân và Bảo Đại đang cùng với Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam thành lập một chính phủ Việt Nam chính danh tại Nam Ninh. Giàu không biết rằng cựu hoàng Duy Tân đã thiệt mạng trong một vụ rơi máy bay ở châu Phi một năm trước đấy, nhưng khẳng định về một chính quyền lưu vong khác không phải là ấu trĩ. Trong khi đó, ĐCS Đông Dương vẫn đang khắc phục những mất mát của mình bằng cách tiếp tục tra vấn các tù nhân Việt Quốc về những vụ bắt cóc cán bộ ĐCS Đông Dương xảy ra trong cuối năm 1945. Vào sáng ngày 19 tháng Mười hai tại Hà Nội - chỉ vài giờ trước khi chiến sự bùng nổ - một báo cáo của công an được chuyển lên Bộ Nội vụ về những nỗ lực tìm kiếm thông tin về số phận của một số thành viên được cho là đã bị phe Việt Quốc giết chết.
Sau khi rút về Yên Bái vào cuối tháng Sáu, Vũ Hồng Khanh sớm nhận ra rằng nguồn lương thực địa phương chỉ đủ cho các đơn vị quân sự Việt Quốc chứ không đủ cho các nhân viên dân sự, sinh viên, gia đình và những cảm tình viên đến từ châu thổ sông Hồng. Việc tái vận chuyển nguồn tiếp tế từ Lào Cai vị thất bại vì Việt Minh đã phá huỷ tuyến đường sắt. Đến tháng Mười một, Lào Cai cũng hầu như bị Việt Quốc bao vây và lương thực cùng đang cạn kiệt. Khanh ra lệnh vượt sông di tản sang Vân Nam và xử tử hai giảng viên quân sự vì tội đã tìm cách đưa học viên đi ngược về khu vực châu thổ. Tháng Mười 1947, khi quân Pháp nhảy dù xuống thị xã Phú Thọ, Công an VNDCCH được cho là đã giết hơn một trăm tù nhân Việt Quốc vì không muốn họ bỏ trốn hoặc lọt vào tay quân Pháp.
Tháng Mười một 1946 từ Đề lao Trung ương Hà Nội, Nguyễn Tường Thụy, cựu tổng giám đốc ngành Bưu điện đã gửi một thư thỉnh nguyện dài đến Chủ tịch Hồ Chí Minh để xin ông can thiệp. Là một nhân viên nhà nước chuyên nghiệp, Thụy nói rằng ông cố tình tránh gia nhập Quốc Dân Đảng cùng với em trai Nguyễn Tường Tam, và ông cũng không bàn chuyện chính trị với em mình. Thụy bày tỏ lòng tôn kính sâu nặng đối với “Cụ Chủ tịch”, nói rằng ông là người chỉ đạo việc in ấn bộ tem đầu tiên của VNDCCH với chân dung ca Cụ Chủ tịch. Thụy bị bắt giam vì liên quan đến số tiền bán tem được dùng hiến cho Quỹ Cứu quốc và Hội Cứu đói, nhưng rõ ràng đây chỉ là một nguyên cớ. Trong lời kết luận buồn bã, Thụy hứa không chỉ bản thân mình mà cả người mẹ già tóc bạc, vợ ông và mười người con sẽ mãi mãi biết ơn giúp đỡ của Cụ Chủ tịch. Tuy nhiên Thụy không nhận được hồi đáp nào về thỉnh nguyện của mình, và chúng ta không biết số phận của ông đã ra sao sau ngày 19 tháng Mười hai.
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Hai, 30/12/2013 
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131230/david-marr-vai-tro-cac-dang-chinh-tri-trong-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong-hoa-p3
=======================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001