Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Chọn mặt gửi vàng - Chuyện đời xưa, chuyện đời nay

Chọn mặt gửi vàng - Chuyện đời xưa, chuyện đời nay 



Chuyện đời xưa

Trong lịch sử tồn tại của mình, mỗi khi gặp khó khăn, cần phải có nhiều tiền, đảng Cộng sản Việt Nam thường dòm ngó đến số vàng dự trữ trong mỗi gia đình người Việt Nam. Với quyền lực trong tay (bao gồm chính quyền và quân đội) cộng với mưu sâu kế hiểm, họ nhiều lần khua khoắng số vàng này của dân.

Thủ đoạn được dùng có khi là những lời lẽ ngọt ngào về các lý tưởng cao cả tốt đẹp để người dân tự động móc vàng trong túi ra (Tuần lễ vàng, Việt kiều hồi hương). Nhưng cũng có khi là chiếm đoạt công khai bằng chính sách và bộ máy công quyền rồi dùng báo chí tuyên truyền biện minh cho hành vi của mình rồi đổ lỗi cho người khác (Cải tạo công thương, Đánh tư sản, 16 tấn vàng). Hoặc là dồn người dân vào đường cùng rồi mở một lối thoát ra để ai muốn ra khỏi thì phải nộp vàng (tổ chức vượt biên bán chính thức cho Hoa kiều, người xuất cảnh phải giao nhà cửa, vàng, đá quý cho Nhà nước giữ).

Ở đây nhắc lại một số chuyện đời xưa của đảng Cộng sản liên can đến số vàng dự trữ trong tủ của người dân Việt Nam.

1. Tuần lễ vàng

Sau khi giành được chính quyền ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh phát động tuần lễ vàng nhắm vào tầng lớp thương nhân và trung lưu ở các thành thị. Cũng nhắc lại là ở thời điểm đó, các vùng nông thôn miền Bắc mới vừa trải qua trận đói khiến hàng triệu người chết làm cho người dân nông thôn gần như kiệt quệ, cho nên giới thượng và trung lưu chính là đối tượng mà đảng Cộng sản muốn nhắm tới.

Qua tuần lễ vàng, chính quyền Hồ Chí Minh đã thu được 20 triệu đồng và 370 kg vàng. Trong đó có những nhà tư sản đóng góp nhiều như ông bà Trịnh Văn Bô đã hiến tặng hơn 5.000 lượng vàng, ông Đỗ Đình Thiện tặng 100 lượng vàng và 1 triệu đồng tiền đấu giá bức chân dung Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Sơn Hà tặng 10,5 kg vàng bạc, đá quý và còn rất nhiều người khác nữa. Họ đóng góp cho Hồ Chí Minh với một niềm tin là tài sản, tiền vàng của họ sẽ được dùng vào mục đích giành độc lập và kiến thiết đất nước.

Nhưng thực tế thì sau khi gom vàng được của người dân, thì Hồ Chí Minh đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 đồng ý cho Pháp tái xâm lược miền Bắc. Điều này đã đi ngược lại với lời tuyên bố độc lập của Hồ Chí Minh ngày 2-9-1945.

Sự phản bội không chỉ dừng lại ở đó, sau khi nắm được chính quyền ở miền Bắc năm 1954 và ở miền Nam sau năm 1975, đảng Cộng sản tiếp tục thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp nhằm tịch thu toàn bộ cơ sở sản xuất kinh doanh, tài sản và nhà cửa của những người thuộc tầng lớp thương nhân mà rất nhiều người trong số họ đã đóng góp rất lớn cho đảng Cộng sản trong những ngày đầu giành chính quyền.

2. Vàng của Việt kiều hồi hương

Vào khoảng năm 1960 - 1964, nghe lời kêu gọi của chính quyền VNDCCH, Việt kiều ở Thái Lan và Tân Đảo (New Caledonia) hồi hương về miền Bắc. Khi những Việt kiều mới đặt chân xuống cảng Hải Phòng, trong không khí hân hoan chào đón, cán bộ chính quyền nói với họ rằng: Bà con có vàng cứ gửi vàng cho Chính phủ giữ dùm, khi nào cần tiền để chi tiêu hoặc làm ăn thì sẽ rút tiền ở Kho bạc địa phương nơi mình sinh sống, giá trị vàng sẽ được quy đổi theo giá thị trường tại thời điểm rút, còn vàng thì để Chính phủ dùng để xây dựng đất nước. Lúc đó họ là những người Việt xa xứ lâu năm, chưa ai sống chung với cộng sản nên đã tin tưởng và giao hết số vàng dành dụm lâu nay cho Chính phủ VNDCCH để nhận lại tờ giấy chứng nhận gửi vàng. Họ nghĩ việc gửi tiền giống như kiểu gửi ngân hàng ở nước họ sinh sống trước đây, khi nào cần thì rút lại tiền vì đó là tiền của mình.

Sau này khi bị đưa về các vùng kinh tế mới ở miền trung du các tỉnh Thái Nguyên, Nghệ An, Thanh Hóa, các Việt kiều phải chịu đựng cuộc sống rất cực khổ, thiếu thốn. Khi đó, họ muốn rút tiền ra để làm ăn, tiêu xài thì chính quyền yêu cầu phải làm đơn xin được rút tiền thì mới giải quyết. Lúc này vàng đang nằm trong tay của Nhà nước nên họ đành phải xin xỏ, cạy cục mãi mới được phát lại những số tiền ít ỏi vì tiền khi đó đã được quy đổi theo giá trị vàng với giá rẻ mạt do Nhà nước ấn định.

3. Vụ 16 tấn vàng, vừa ăn cướp vừa la làng

Sau năm 1975, khi nền kinh tế đất nước gặp khó khăn, nhiều người miền Nam (bao gồm các nhân sĩ trí thức, cán bộ chính quyền và người dân) đã đề cập đến việc dùng 16 tấn vàng trong ngân khố quốc gia Việt Nam Cộng hòa để giải quyết khó khăn nhưng báo chí của bên thắng cuộc tuyên bố rằng chính tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng ra nước ngoài. Nhưng sau này họ đã im lặng thừa nhận khi mà những nhân chứng của cả hai bên, thắng cuộc và thua cuộc như Bùi Tín (cựu đại tá QĐNDVN), Nguyễn Văn Hảo (phó thủ tướng phụ trách kinh tế VNCH), Huỳnh Bửu Sơn (chuyên viên phụ trách kho vàng, Ngân hàng Quốc gia VNCH), lên tiếng xác nhận số vàng này đã được bàn giao cho bên thắng cuộc.

4. Thu vàng của người Hoa vượt biên bán chính thức

Sau các chiến dịch đánh tư sản ở miền Nam, đảng Cộng sản biết, dù đã tịch thu hầu hết tài sản, máy móc, hãng xưởng nhưng các thương gia Hoa kiều vẫn còn cất giấu rất nhiều vàng, đá quý và đôla. Một chiến dịch nữa được tung ra để gom tiếp số vàng còn ở trong tay người Hoa đó là cho phép họ vượt biên bán chính thức. Theo đó, chính quyền cộng sản sẽ lên danh sách, cấp giấy phép đóng tàu, bán bến bãi đổi lại người Hoa phải nộp vàng cho chính quyền. Tổng số vàng tiền thu được trong chiến dịch này như sau: “Số tàu đã cho đi: 533; Số người đã đi: 134.322; Thu vàng: 16.181kg; Ngoại tệ: 164.505 đô la; Tiền ngân hàng VN: 34.548.138 đồng; Một số tài sản khác: 538 ô tô, xe du lịch; 4.145 nhà và gian nhà 217”. (Huy Đức, Bên Thắng cuộc, tập 1). Chỉ tính riêng số vàng đã hơn 16 tấn, tức là nhiều hơn số vàng trong ngân khố quốc gia của Việt Nam Cộng hòa.

5. Tang vật là vàng trong các vụ án.

Hiện nay ở Việt Nam, trong các vụ án, khi công an tạm giữ các tang vật là vàng thì bao giờ họ cũng ghi trong biên bản là kim loại màu vàng chứ không ghi thẳng ra là vàng. Sau đó, khi trả lại tang vật cho người dân thì vàng đó có thể biến thành vàng giả và công an sẽ không chịu trách nhiệm gì hết vì biên bản đâu có ghi đây là vàng thật đâu, chỉ ghi là kim loại màu vàng thôi mà. Nếu ai đó phản đối việc ghi vàng là kim loại màu vàng trong biên bản thì công an nói là làm sao mà biết được đây có phải là vàng thật không. Đây là một thủ đoạn cướp vàng quen thuộc của công an nhà Sản.

6. Vụ 96 viên kim cương

Vào cuối thập niên 90, chính quyền Việt Nam vẫn còn duy trì quy định cấm người xuất cảnh đi nước ngoài mang theo tài sản quý như vàng, đôla, đá quý. Những tài sản đó phải gửi lại cho Nhà nước, khi nào hồi hương thì Nhà nước sẽ trả lại. Đây là hình thức từng bước chiếm đoạt tài sản của người dân vì hầu như rất ít Việt kiều hồi hương về Việt Nam và nếu lỡ làm mất giấy tờ thì coi như Nhà nước lấy luôn.

Năm 1995, Bộ luật Dân sự Việt Nam được ban hành. Theo đó Nhà nước Việt Nam công nhận quyền sở hữu tài sản của người dân và bắt đầu cho phép người dân thực hiện các giao dịch dân sự như: thừa kế, mua bán, ủy quyền, cho tặng...

Khi đó có một bà Việt kiều Pháp đã làm giấy ủy quyền cho luật sư Đào Hoàng Mỹ đến Kho bạc Nhà nước TP.HCM nhận lại 96 viên kim cương mà bà đã gửi lại cho Nhà nước trước khi xuất cảnh. Sau khi xuất trình đầy đủ hồ sơ, vị luật sư này đã lấy lại được số kim cương này. Đến cuối năm đó, khi cấp trên của Kho bạc kiểm kê kho quỹ mới phát hiện. Khi đó, chính quyền TP.HCM tìm cách lấy lại bằng cách buộc tội luật sư Đào Hoàng Mỹ chiếm đoạt tài sản. Nhưng với những bằng chứng pháp lý rõ ràng, chính quyền TP.HCM đành nuốt hận và mở chiến dịch tấn công trả thù luật sư Đào Hoàng Mỹ. Lúc đó báo chí đăng bài cho là bà Đào Hoàng Mỹ đã chiếm đoạt 96 viên kim cương của thân chủ, đồng thời chính quyền yêu cầu Đoàn luật sư TP.HCM khai trừ bà ra khỏi Đoàn. Sau đó bà gia nhập Đoàn Luật sư Đắc Lắc, chính quyền TP.HCM tiếp tục yêu cầu Đoàn Luật sư Đắc Lắc khai trừ bà. Rồi họ thấy bà để bảng hiệu Luật sư Đào Hoàng Mỹ ở trước nhà, họ bắt bà phải tháo xuống vì cho rằng bà không còn là luật sư nữa, bà đành sửa bảng hiệu là Thạc sĩ luật Đào Hoàng Mỹ.

Đây là một thắng lợi hiếm hoi của người dân trong vô số trường hợp người dân bị trắng tay.

Chuyện đời nay


Mấy hôm nay, báo chí bắt đầu đề cập đến chính sách của Chính phủ về việc huy động vàng trong dân. Có lẽ là nhà Sản đang gặp khó khăn gì đó, cần phải có nhiều tiền để giải quyết nên mới bàn tính việc lấy vàng của dân. Mục đích thì vẫn như cũ nhưng hình thức thì có phần tinh vi hơn. Số vàng nằm trong nghe nói đâu khoảng 500 tấn, tức gấp hơn 30 lần số vàng của VNCH, mà lại nằm trong túi của những người đang ở trong vòng kiềm tỏa của nhà Sản. Nếu nhà Sản không nghĩ cách thâu tóm số vàng này mới là lạ.

Chỉ lạ một điều là, mặc dù Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là người huy động nhưng các ngân hàng thương mại (NHTM) sẽ đứng ra nhận vàng của dân. Như vậy, việc huy động vàng của dân được tách ra làm hai giao dịch riêng biệt, độc lập nhau: một là các NHTM vay vàng của dân; hai là NHNN vay lại vàng của các NHTM.

Với một bộ máy công quyền đầy rẫy tham nhũng và tiêu tiền ngân sách phung phí như hiện nay, liệu NHNN sẽ có đủ vàng để trả cho các NHTM để các NHTM trả lại vàng người dân hay không.

Một khi NHNN không có đủ vàng để trả lại cho các NHTM, dẫn đến việc các NHTM tuyên bố phá sản, giải thể - kiểu Vinashin - thì ai sẽ phải trả vàng lại cho người dân? NHNN sẽ vô can khi các NHTM tuyên bố phá sản.

Việc NHNN không trực tiếp đứng ra nhận vàng của dân thì NHNN sẽ không phải chịu trách nhiệm về số vàng đã huy động của người dân. Người dân chỉ có thể đòi các NHTM trả lại vàng, chứ không thể đòi NHNN được. Phải chăng đây là cách gài thế để chuẩn bị cho việc quịt nợ - cướp vàng trong tương lai.

Chưa hết, với vai trò quản lý nhà nước trong tay, NHNN hoặc cao hơn là Chính phủ có thể thay đổi luật chơi bằng cách ban hành những luật lệ, quy định có lợi cho phía chính quyền hơn là phía người dân. Rủi ro pháp lý nếu xảy ra, gây thiệt hại cho người dân gửi vàng thì đó là việc giữa người dân và các NHTM. Nếu muốn giải quyết thì người dân nộp đơn kiện ở Tòa án và người dân sẽ bị sa vào mớ bùng nhùng không lối thoát của những vụ kiện tụng.

Nhìn qua vụ án Huyền Như chiếm đoạt 5.000 tỷ đồng. Rõ ràng là cô ta chiếm đoạt tiền trong tài khoản của khách hàng gửi tại Ngân hàng Công thương. Lẽ ra, NH Công thương phải có trách nhiệm trả lại tiền cho khách hàng vì tiền đang do NH Công thương giữ. Đằng này, họ lại phủi trách nhiệm, cho là Huyền Như chiếm đoạt tiền của khách hàng cho nên khách hàng phải tự đi đòi Huyền Như trả nợ, còn NH Công thương thì vô can. Qua vụ này, thấy được sự ngang ngược, bất công của hệ thống pháp luật Việt Nam luôn muốn bảo vệ lợi ích cho chính quyền và các Ngân hàng (có vốn của Nhà nước) bất chấp quyền lợi của người dân. Kịch bản này hoàn toàn có thể lặp lại trong chính sách huy động vàng sắp tới của NHNN.

Một khả năng có thể xảy ra là NHNN có thể đứng ra bảo lãnh cho NHTM vay vàng. Khi đó người dân cần đòi NHTM cho coi, hoặc nhờ luật sư xem xét kỹ lưỡng, các điều khoản của việc bảo lãnh này để làm rõ phạm vi bảo lãnh và nghĩa vụ bảo lãnh của NHNN tới đâu nhằm bảo toàn số vàng cho mình.

Còn nếu như NHNN không đứng ra bảo lãnh các khoản huy động vàng của NHTM thì người dân tuyệt đối không nên giao vàng cho các NHTM. Và khi đó, cái gọi là “NHNN ủy quyền cho các NHTM huy động vàng” chỉ là mớ giấy lộn.

Kết luận


Ông bà mình có để lại cho chúng ta một câu rất chí lý, đó là “Chọn mặt gửi vàng”. Câu này trở nên rất đúng trong tình hình hiện nay khi mà có nhiều gương mặt lên tiếng kêu gọi người dân gửi vàng. Những gương mặt đó xuất hiện kèm theo các chức danh và học vị rất là oai như là: Thủ tướng, Thống đốc, Bộ trưởng, Giáo sư, Tiến sĩ, Chuyên gia kinh tế. Nhưng bà con coi thử coi có gương mặt nào đáng tin để bà con gửi vàng không. Các NHTM hiện nay có đáng tin cậy nữa không khi mà nguy cơ đổ vỡ của các NHTM xuất hiện ngày càng nhiều. Liệu đến khi xảy ra chuyện, bị mất vàng thì những gương mặt đang kêu gào huy động vàng hiện nay có khả năng giúp người dân lấy lại được vàng không.

Tầng lớp người dân lao động đang vất vả kiếm sống không phải là đối tượng của chính sách huy động vàng cho nên hệ thống tuyên truyền báo chí sẽ hướng về thành phần trung lưu và thượng lưu. Một mặt họ sẽ đưa tin đậm nét về các vụ cướp vàng làm cho những người đang giữ vàng sợ hãi phải đem vàng đi gửi Ngân hàng, mặt khác họ sẽ ca ngợi về việc huy động vàng sẽ mang lại ích nước lợi nhà... Nếu cần tăng sức hấp dẫn, NHNN sẽ tăng lãi suất gửi vàng để đánh vào lòng tham của mọi người. Mọi người cũng nên biết rằng, cho dù xảy ra nhiều vụ trộm cướp vàng đi nữa thì xã hội cũng không thiệt hại nhiều bằng việc một NHTM nào đó tuyên bố phá sản, không trả lại được vàng cho người dân.

Trước khi quyết định gửi vàng cho NH, mọi người cần đặt ra cho mình mấy câu hỏi:

- Ai là người vay vàng của mình và mình sẽ đòi ai trả lại vàng? Có ai đứng ra bảo lãnh cho việc huy động vàng này không? Mức độ uy tín của người bảo lãnh có cao không? Việc bảo lãnh cụ thể ra sao?

- Khi cần thì người dân lấy vàng ra có dễ không, làm sao bảo đảm được là vàng mình nhận lại từ NHTM có đúng chất lượng như lúc mình gửi không. Có khả năng người dân bị buộc phải nhận lại bằng tiền thay vì nhận bằng vàng không?

- Cơ sở pháp lý cao nhất của việc huy động vàng là những văn bản pháp luật nào? Ai ký, ai ban hành và ai có thể thay đổi hay hủy bỏ được những văn bản đó?

- Vàng của mình sẽ được sử dụng như thế nào, cho mục đích gì? Ai sẽ là người trực tiếp xài, ai phê duyệt và ai sẽ kiểm soát việc xài số vàng này?

- Khả năng sinh lợi cũng như khả năng hoàn vốn của việc sử dụng số vàng như thế nào?

- Nếu các NHTM hay NHNN không trả vàng lại được thì mình sẽ dựa vào ai hay công cụ pháp luật, cơ quan hay tòa án nào để đòi lại? Khả năng đòi lại được có cao không? Nếu các NHTM tuyên bố phá sản thì mình sẽ làm gì?

Và cuối cùng bà con không nên quá chú trọng đến lãi suất mà người ta trả cho mình cũng như đừng quan tâm đến các lý tưởng cao đẹp mà nhà Sản rêu rao mà hãy nhìn lại những việc làm của nhà Sản trước đây để biết ý họ muốn gì.

nguồn:http://danlambaovn.blogspot.fr/2013/12/chon-mat-gui-vang-chuyen-oi-xua-chuyen.html#more
======================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001