Trần
Doãn Nho
Ngày
3/7/2012, đọc trên tờ Người Việt:
Nhà
văn Nguyễn Mộng Giác qua đời, thọ 73 tuổi!
Cùng
ngày, đọc trên Yahoo:
Actor Andy
Griffith,
who played folksy Sheriff Andy Taylor in the fictional town of
Mayberry, died Tuesday at the age of 86.
Thông
báo về cái chết nào thì đại loại cũng như thế: đơn
giản, gọn gàng.
Nhưng
đàng sau cái “qua đời” đơn giản đó là một chuỗi
dài những ngày tháng vật vã với bệnh tật, vật vã với
cuộc tử sinh, vật vã giữa hy vọng và tuyệt vọng. Có
lẽ chỉ trừ gặp phải tai nạn bất ngờ, cái chết
không đến ngay lập tức. Chết là một hành trình. Ngắn
hay dài, tùy. Với Nguyễn Mộng Giác (NMG) thì dài, quá
dài. Chín năm, kể từ mùa hạ năm 2003, khi anh bắt đầu
về hưu. Với Diệu Chi thì dài gấp bội. Người phụ nữ
đã từng cất giữ bản thảo Sông
Côn mùa lũ
một thời gian dài khi còn ở Việt Nam và khôn khéo ngụy
trang, qua mặt hải quan VN để mang sang xuất bản ở Hoa
Kỳ; người phụ nữ phụ tá đắc lực cho NMG trong những
năm làm Văn Học; người phụ nữ hiếu khách trong những
cuộc bạn bè thù tạc, chị cùng đi tiếp với NMG trong
cuộc hành trình cuối cùng khó khăn nhất, đau đớn nhất.
Cái dài dằng dặc đó đã được Diệu Chi chống đỡ
bằng những tràng cười trong veo và những câu chuyện
tiếu lâm dí dỏm.
Còn
nhớ rất rõ một buổi họp mặt tại nhà NMG vào tháng
5/2010. Đó là một buổi ăn tối do Trần Mộng Tú đến
từ Seattle, chủ xướng. Có lẽ đây là lần có mặt
nhiều bạn bè nhất với NMG cho đến lúc anh ra đi: Trần
Mộng Tú, Đỗ Quý Toàn, Phạm Phú Minh, Đặng Hiền, Bùi
Vĩnh Phúc, Trần Doãn Nho, Bùi Bích Hà, Đặng Thơ Thơ. Mọi
người ăn uống, trò chuyện vui vẻ. Chuyện cũ, chuyện
mới, chuyện văn chương, chuyện đời thường, kể cả
chuyện thanh, chuyện tục đều được mang ra bàn tán rôm
rả. Hôm đó, có lẽ Diệu Chi là người vui nhất. Chị
nói cười huyên thuyên. Kể chuyện tiếu lâm. Và hát…Một
cái vui đầy lo toan. Nguyễn Mộng Giác, tuy yếu, nhưng anh
cố gắng ngồi với bạn bè từ đầu cho đến cuối. Anh
mệt, không nói được nhiều, nhưng tỏ ra rất hạnh
phúc. Như biết được nỗi lo âu của mọi người, mỗi
khi có ai đề cập đến chuyện sức khỏe, anh cười nói:
đừng lo, tôi còn sống lâu lắm.
Nghe
thì nghe vậy, nhưng thực lòng, trong thâm tâm mọi người,
kể từ ngày anh lâm bệnh, vẩn vơ trong đầu vẫn là đợi
chờ một tin xấu.
Trong
nỗi đợi chờ kỳ quặc ấy, một năm trước đó (2009),
tôi bàn với các bạn trong Da Màu thực hiện một cái gì
để vinh danh NMG trong khi anh còn sống. Với sự nhiệt
tình của ban biên tập, “Chuyên đề Nguyễn Mộng Giác”
xuất hiện và kéo dài nguyên cả tuần trên Da Màu, tập
trung bài vở của nhiều tác giả trong và ngoài nước như
Thụy Khuê, Đặng Tiến, Nam Dao, Mai Quốc Liên, Mai Kim
Ngọc, Trần Mộng Tú, Trần Hữu Thục, Ban Mai, Luân Hoán,
Thường Quán, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Chí Kham, Trúc Chi…Tuy
chưa đề cập đến tất cả mọi khía cạnh của những
tác phẩm của Nguyễn Mộng Giác, nhưng chuyên đề cũng
chuyên chở khá đủ một số nét chính trong cuộc đời
và sự nghiệp văn chương của anh. Đọc chuyên đề, anh
vui lắm. Anh khoe với tôi, có người bạn trong nước đã
in ra giấy tất cả bài vở góp mặt trong chuyên đề (hơn
200 trang) rồi photocopy gửi cho những người quen. Sau đó,
anh Nguyễn Khoa Kha, chủ nhân nhà xuất bản Văn Mới,
nhiều lần thúc giục tôi lấy bài vở từ chuyên đề và
chọn lọc thêm một số truyện khác của NMG để làm một
tuyển tập Nguyễn Mộng Giác khi anh còn sống (như Thế
Kỷ đã làm cho Võ Phiến), mọi phí tổn in ấn và phát
hành, Văn Mới gánh. Tôi hứa, nhưng đã…thất hứa! Tôi
nhắc lại điều này để ghi nhận tấm lòng của chủ
nhân nhà xuất bản Văn Mới đối với Nguyễn Mộng Giác.
Cũng là một lời xin lỗi.
Tôi
quen NMG muộn, nhưng lại khá thân. Mãi đến khi qua định
cư ở Hoa Kỳ năm 1993, tôi mới có dịp tiếp xúc với
anh. Trước hết qua tờ Văn Học, lúc đó anh là chủ bút.
Mới chân ướt chân ráo đến Mỹ là tôi chuyển ngay cho
Văn Học một truyện ngắn tôi viết từ trong nước. Đây
là một truyện hoàn toàn mang tính cách ẩn dụ, tôi đã
gửi cho tờ tạp chí Sông Hương, Huế, nhưng đúng lúc
đó, tờ Sông Hương bị đóng cửa vì “có vấn đề”.
Dù không mặn mà với loại truyện “ngụ ngôn” cũ kỹ
như thế này, nhưng anh vẫn cho in. Như một khuyến khích
với một người vừa thoát khỏi bóng tối. Tôi viết
tiếp nhiều truyện ngắn khác và cũng được NMG cho đi.
Từ đó về sau, tôi trở thành một cây bút cộng tác
thường xuyên cho Văn Học, cả về sáng tác cũng như về
biên khảo. Từ đầu năm 2001 đến cuối năm 2004, tôi phụ
trách hẳn một mục cho Văn Học là phần Tin Văn. Tháng
9/2004, khi phát hiện mình bị bệnh nan y, NMG gọi điện
thoại và muốn bàn giao vai trò chủ bút tờ Văn Học cho
tôi. Nhưng do ở quá xa quận Cam, nên tôi không nhận. Sau
đó, tờ Văn Học trở lại với anh Cao Xuân Huy, vốn là
tổng thư ký Văn Học trước đó.
Dù
không còn phụ trách tờ Văn Học, và dù không còn viết
lách được nữa, nhưng trước sau, NMG vẫn quan tâm đến
văn chương. Những lúc sức khỏe phục hồi, anh vẫn tham
gia các sinh hoạt văn chương, vẫn tiếp bạn bè trong văn
giới. Cho đến
những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, trong tận
cùng tâm thức, một mình đối diện với chỉ thân phận
của mình, NMG vẫn sống với thế giới văn chương.
Tôi
đến thăm Nguyễn Mộng Giác tại nhà dưỡng lão
(Westminster, quận Cam) vào buổi trưa ngày 25/4/2012. Anh nằm
trên giường, tỉnh táo, vui vẻ mặc dầu quanh người đầy
những dây nhợ thuốc men. Hỏi thăm tình trạng sức khỏe,
anh trả lời:
- Chưa sao! Đầu óc mình vẫn còn sáng suốt lắm. Thục đừng lo.
Nhưng
rồi giọng anh chợt trầm xuống:
- Nhìn thấy vậy nhưng giờ thì chỉ có cái đầu mình là làm việc thôi. Tất cả, tất cả đều…hư hỏng cả rồi. Thục biết không, mình là người trí thức, cứ chịu đựng tình trạng bất khiển dụng như thế này là điều không phải, đôi khi mình cũng muốn tự xử, nhưng rồi nghĩ đi nghĩ lại, lại thôi.
Tôi
đang suy nghĩ về hai chữ “tự xử” của anh, thì anh
quay sang bàn chuyện văn chương. Như mỗi lần và mọi
lần. Anh say sưa nhắc đến những vật hư cấu của anh,
đặc biệt là trong Sông Côn Mùa Lũ và Mùa Biển Động.
Anh vui mừng cho biết một số sinh viên trong nước đã
chọn “Sông Côn mùa lũ” để làm luận án tốt nghiệp
đại học. Anh cũng rất hớn hở khi nghe tôi báo tin là
dịch giả Tôn Thất Quỳnh Du bên Úc đã dịch xong một
số chương quan trọng trong “Mùa biển động”.
Đang
giữa câu chuyện, anh chợt hỏi:
-
Thục còn nợ tôi cuốn sách.
- Sách gì vậy? Tôi nhớ là tôi đã trả hết cho anh rồi mà.
- Tập thơ Mai Thảo.
Tôi
ngẩn người. Phải rồi, thơ Mai Thảo! Những năm sau này,
anh rất thích đọc và bàn luận về thơ Mai Thảo. Không
những đọc mà còn thuộc nhiều bài. Còn nhớ, hai năm
trước đây, khi ghé thăm, Nguyễn Mộng Giác mang thơ Mai
Thảo ra đọc, rồi cùng Diệu Chi và tôi bình thơ Mai Thảo
và cùng cười sảng khoái. Anh nói: Đang mang bệnh như thế
này mà đọc thơ Mai Thảo, thật thích! Và đọc: Bệnh
ở trong người thành bệnh bạn. Bệnh ở lâu dài thành
bệnh thân. Gối tay lên bệnh nằm thanh thản. Thành một
đôi ta rất đá vàng.
Sau
đó, khi ra về, tôi hỏi mượn tập thơ Mai Thảo của
anh. Anh nhắc đi nhắc lại: Nể Thục, mình cho muợn,
nhưng mình chỉ có một cuốn và là cuốn Mai Thảo tặng,
nhớ gửi trả lại. Khi tôi về nhà, quên mất. Chừng vài
tháng sau, anh gọi điện thoại, nhắc trả cuốn thơ. Tôi
nhớ là sau đó, tôi đã gửi trả lại. Bây giờ nghe anh
nhắc, tôi đâm ra nghi ngờ mình: quên chăng?
Tôi
hứa sẽ về tìm lại tập thơ. “Nhớ nghe!”, anh nhắc
lại và lên tiếng đọc:
Đặt
tay vào chỗ không thể đặt
Vậy
mà đặt được chẳng làm sao
Mười
năm gặp lại trên hè phố
Cười
tủm còn thương chỗ đặt nào.
Đọc
xong, anh hỏi: “Thục có biết đặt
chỗ nào
là “chỗ nào” không? Biết chứ! Tôi đáp. Và chúng tôi
cùng cười vui vẻ.
Sau
chừng gần một giờ trò chuyện, tôi chào từ biệt và
hẹn sẽ trở lại thăm anh tháng sau, tháng Năm, khi tôi đi
Cali để dự một sinh hoạt đồng hương. Anh nắm tay tôi,
giọng tha thiết:
- Khi qua, nhớ ghé nghe! Mình cần bạn bè lắm.
Đó
là lần cuối cùng tôi gặp anh. Ba tuần sau, cuối tháng
Năm, tôi trở lại quận Cam, “nhớ ghé” thăm anh, thì
anh trở bệnh nặng phải chuyển vào bệnh viện, không
thăm viếng được. Cho đến lúc anh ra đi. Thế là tôi
vẫn còn nợ anh tập thơ Mai Thảo! Và không quên nụ cười
ý nhị của anh khi anh hỏi tôi “đặt chỗ nào” trong
bài thơ Mai Thảo.
Nguyễn
Mộng Giác thật đã ra đi. Nhưng Nguyễn Mộng Giác ảo
vẫn còn đó. Mãi mãi còn đó. Không chỉ là cái tên,
không chỉ là sự tiếc thương, là những kỷ niệm mà là
một cái gì rất cụ thể, rất vật chất: những con chữ.
Trên giá sách của tôi, NMG vẫn hiện diện. Y như thể
NMG chưa hề bệnh tật, chưa hề ra đi. Y như thể không
có gì thay đổi. Văn chương quả thật lạ lùng. Dường
như nó vĩnh cửu hóa mọi phù du.
Khác
với quan niệm của một số người cho rằng “văn dĩ
tải dạo”, văn chương phải có sứ mệnh này sứ mệnh
nọ, cải tạo cuộc đời cải tạo đất nước, vân vân
và vân vân, NMG có một cái nhìn gần gũi hơn, bình dân
hơn. Theo anh, tiểu thuyết
là
“một thể loại văn chương nhằm thỏa mãn nhu cầu muốn
ngóng chuyện thiên hạ của người đời. Người viết
tiểu thuyết là người kể. Người đọc tiểu thuyết là
người muốn nghe kể. Với
NMG, “căn bản
hấp dẫn và lôi cuốn người nghe người đọc người
xem những tác phẩm” là
những nhân vật và “những
nhân vật huyễn tưởng ấy cư xử y như người đời, y
như những độc giả khán giả.
Chẳng thế mà, với NMG, “Dù
tác giả có ngụy trang khéo léo cách nào, nhân vật tiểu
thuyết vẫn luôn luôn là bản sao của chính người viết.
Thế giới tiểu thuyết là bản ngã tác giả phóng chiếu
ra ngoại giới, tạo thành một thế giới mang trọn bản
ngã ấy”.
Quan
điểm này chi phối các tác phẩm của anh. Quả là có một
sự gần gũi giữa con người NMG ngoài đời và những
nhân vật của NMG trong tác phẩm. Một mặt, anh kéo những
nhân vật có danh phận cao xuống đời thường và ngược
lại, kéo những nhân vật không có danh phận lên cao hơn
khả năng suy tưởng lẫn nhân cách của họ; mặt khác,
nhân vật nào của anh cũng đầy “chất người”: bạn,
thù, chính diện, phản diện…không ai “dữ” cả. Chẳng
thế mà, cái thiện, cái lành, cái nhân tình luôn luôn
phảng phất trên các trang sách của anh. Kể cả ở những
chỗ gay cấn nhất. Chả là vì, anh cho rằng mọi con người
đều là con người bình thường. Con người bình thường
“là con người
thụ động, ích kỷ, nhút nhát, rụt rè trước quyền
lực, làm được cái gì cao cả cũng phải bị hoàn cảnh
thúc đẩy đến chỗ không có lựa chọn nào khác, và khi
ra khỏi hoàn cảnh đặc biệt ấy, lại trở về với lối
sống tầm thường cố hữu.”
Có
lẽ vì thế, trong đời sống, anh không có phong thái đầy
kịch tính của một kẻ thành danh, một thứ nhân vật hư
cấu luôn luôn sống như một kẻ trình diễn. Ở một số
tác giả
(mà tôi ngưỡng mộ), tôi thấy có một khoảng cách khá
xa giữa giữa văn và người, xa đến nỗi tôi không thể
hình dung là tác giả đó lại viết được những giòng
văn như thế và tạo ra những nhân vật như thế. Lúc
đầu, tôi ngạc nhiên. Sau, tôi thấy đó là chuyện bình
thường. NMG khác. Khi
gặp bạn bè, anh em trong văn giới, lạ hay quen, anh không
tự tạo cho mình một cái gì khác mình, khác cái “bình
thường” của mình. Ăn nói chẳng màu mè, cử chỉ sắp
xếp chẳng cần lớp lang: nhún vai thế nào, huơ tay thế
nào, nhíu mày, cười, đi đứng thế nào, vân vân.
Văn
NMG hiền, chuẩn, mực thước. NMG
cũng thế, mực thước, cận nhân tình. Đọc văn anh, theo
dõi hành vi, cử chỉ và nhất là những suy gẫm của
những nhân vật của anh và con người anh ngoài đời, hao
hao giống nhau. Tôi không mấy tán thành quan niệm “văn
tức là người” nhưng ở NMG, quan điểm này có phần
đúng.
Có
lần, chúng tôi bàn nhau về cái tốt cái xấu của nước
Mỹ. Anh nhận xét: xã hội Mỹ là cái xã hội ở đó,
một con người chỉ cần lương thiện là có thể sống
được, sống ra một con người. Ở các xã hội khác như
ở VN, lương thiện hầu như không giúp gì được cho ai,
nếu không muốn nói là thường đồng nghĩa với thua
thiệt và thất thế. Tôi chia xẻ cái nhìn này của anh.
Với
tôi, tác phẩm của NMG, sự nghiệp NMG, con người NMG,
quan điểm NMG gặp nhau ở một điểm: sự lương thiện.
Anh không sử dụng con đường tắt, sự ngụy biện, sự
lương lẹo để sống trong cuộc đời và trong văn chương.
Lương thiện với mình, với bạn bè, với chữ nghĩa, và
lương thiện cả với những nhân vật của mình. Anh đem
con người vào chữ nghĩa, chứ không vặn vẹo chữ nghĩa
để tạo nên con người. Những nhân vật của NMG, có thể
ta không thích nhưng không thù ghét; có thể ta thích nhưng
không quá sùng bái. Con người NMG cũng thế. Khen ai, anh
không đưa lên tận mây xanh và chê ai, anh cũng không hạ
giá đến tận cùng.
NMG
ra đi. Cái lương thiện vẫn còn ở lại.
Từ
xa đến, không thể quên được nơi ấy. Từ khu Phước
Lộc Thọ, đi một đoạn ngắn, quẹo phải qua Magnolia, đi
thêm chừng một mile,
quẹo trái qua McClure, đi thêm một đoạn ngắn là đến
Strait. Ngôi nhà nằm ngay góc đường. Số 14321.Căn nhà là
một thế giới mở.
Cái địa
chỉ ấy, thân tình, ấm cúng.
Cái
địa chỉ ấy rất thân quen với khách văn chương đến
từ khắp nơi. Từ các tiểu bang Hoa Kỳ, từ Việt Nam, từ
Úc, từ Pháp, từ Anh, từ Đức…Cần hẹn, cứ hẹn tại
đây, muốn nhắn tin ai, cũng nhắn tại đây, cần đi uống
cà phê, ghé lại đây, cần
gặp bạn, tạt qua đây. Cứ thế, quanh năm. Riêng
mà rất chung. Chủ nhân lúc nào cũng sẵn sàng tiếp
khách. Có người từ Việt Nam qua, thú nhận là nghe tiếng
tăm tờ Văn Học, muốn ghé chỉ để cho biết cái tờ
báo hải ngoại này hiện đại, đồ sộ đến mức nào.
Người ấy ngạc nhiên và thất vọng, vì chẳng tìm thấy
cái tòa soạn nào cả. Chỉ là một cái máy vi tính, một
hai người phụ trách với một số lượng độc giả vô
cùng khiêm tốn: vài trăm.
Cái
địa chỉ ấy rộn ràng, ấm cúng tình quê hương. Y như
một chỗ nào thân quen ở Sài Gòn ngày cũ.
Trong
khi anh nằm bệnh viện, không thể vào thăm viếng được,
tôi ghé về lại cái địa chỉ ấy. Cuối tháng năm. Nắng
rực rỡ soi bãi cỏ, ô đậu xe trước garage.
Căn nhà vắng lặng. Thật vắng lặng. Tôi bấm vào cái
nút chuông kim loại tròn, nhỏ nằm trên một khung cửa
hẹp, đè mạnh như mọi lần, cố tưởng tượng là
Nguyễn Mộng Giác sẽ ra mở cửa. Không. Diệu Chi. Gầy,
mỏng. Chị nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi nói: tôi muốn đến
thăm căn nhà. Chị vừa ở bệnh viện về, mệt nhọc, cố
gắng tiếp tôi.
Tôi
ngồi trên ghế salon.
Nhìn cái lò sửa, nơi không phải để đốt lửa mùa
đông, mà để chứa sách báo. Tôi nhìn cái máy vi tính
nằm bên góc, nơi từng được dùng để in ra tờ Văn Học
hàng tháng. Nhìn sách, báo để quanh căn nhà. Nhìn ra khu
vườn nhỏ, nơi có lúc chúng tôi ngồi say sưa bàn chuyện
văn học và văn chương. Nói chuyện với Diệu Chi. Nghe
chị tâm sự việc sắp xếp chuyện “hậu sự” cho
người bạn đời.
Thật
thấm thía khoảng trống mênh mông của một vắng mặt.
Chào
nỗi buồn, tôi ra về. Lặng lẽ. Ngậm ngùi.
Cái
địa chỉ ấy, mai, mốt, vài tháng sau, năm sau nữa… mọi
thứ có lẽ vẫn còn y như cũ. Kể cả cái garage
xe dành làm nơi lưu trữ tờ Văn Học. Cái địa chỉ ấy,
bây giờ thiếu đi một người. Người
ấy đã đến.
Đã ở. Đã ăn, nói, đứng, ngồi, trò chuyện...Và một
hôm, chợt đi. Đi mất.
Thiếu
một người và vắng tất cả mọi người!
TDN
(9/2012)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2012/09/tran-doan-nho-ia-chi-ay-thieu-mat-mot.html?utm_source=BP_recent
====================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001