Với Nguyễn Trân Trân, thơ là một cái gì mang màu sắc
thần bí, mà những tín đồ của nó, nếu không đủ tỉnh táo sẽ lạc vào mê hồn trận
của thứ đạo tự kỷ ám thị. Hơn thế nữa, thơ tuy là thể loại văn học tao nhã, sang
trọng, nhưng cũng có thể mua bán được như các mặt hàng thông thường ngoài chợ
trời. Quan niệm về thi ca thời mở cửa của một bác sĩ thú y ở vào cái tuổi quá
niên trạc ngoại thất tuần này thật chẳng giống ai. Tôi quý ông là chính bởi
những ý tưởng độc đáo ấy, mặc dù, đôi lúc cũng thấy chạnh lòng cho khách văn
chương.
Nguyễn Trân Trân chơi thơ nhưng không coi đó là mục đích của đời
mình. Ông làm thơ bằng...tay trái, trong khi tay phải, thế mạnh của vị doctor đa
tài này lại dùng để chữa...trâu, cứu cho hàng ngàn bà con nông dân những bàn
thua hàng chục triệu. Hóa ra quan niệm của ông ngày càng đúng khi mà thị
trường thơ đang ở vào thời kỳ tiền khủng hoảng. Thi hữu của đủ loại câu lạc bộ
đua nhau mọc lên như nấm mùa xuân. Mỗi năm có hàng vạn tập văn vần hoặc tấu thi
được xuất xưởng từ những nhà xuất bản danh giá. Có không ít ấn phẩm dày cả gang
tay kèm theo phần trích ngang cùng ảnh màu chân dung tác giả. Nhà nào cũng
comples, cravate bảnh chọe với gương mặt đầy vẻ tự mãn. Sở dĩ tôi lan man đôi
chút là để nhấn mạnh một điều, Nguyễn Trân Trân yêu thơ nhưng không coi thơ là
canh bạc để rồi đặt cược cả cuộc đời vào đó. Thơ, dù sang trọng nhưng không phải
là tất cả. Nó cũng có thể thành yêu ma khi mà người ta tước đi mất phần hồn,
biến nó thành công cụ đánh bóng cho nhân cách văn hóa nhếch nhác . Loại thơ ấy
chính là thơ loạn, bởi ai cũng có thể làm được, chẳng ai phục ai, cãi nhau loạn
xà ngầu, vì thơ không còn chuẩn mực, tạo ra một thứ văn chương ba rọi, làm ô
nhiễm môi trường . Cầm tinh con trâu, kéo cày ba phần tư thế kỷ, chìm nổi một
kiếp nhân sinh, bản thân Nguyễn Trân Trân đã là một toàn tập... Trầm luân nhưng
ông lại đặt tên thi phẩm của mình là Miền quê ngoại. Ấy là một vùng đất mặn mòi
sóng biển, tiếng gió lao xao hàng sa mộc, nâng cánh cò chao nghiêng, thoảng
giọng ru hời ngọt ngào của người bà đôn hậu đã khuất núi, chỉ còn hình bóng
trong ký ức. Miền quê ngoại đầy tâm trạng có lẽ bởi cuộc đời tác giả đã trải lắm
đắng cay. Tâm hồn ông vốn đa cảm nên những vần thơ thường phảng phất nỗi u buồn,
thiên về hoài niệm. Những hoài niệm ấy, lúc đậm lúc nhạt, lúc sôi nổi, lúc trầm
tĩnh, âm thầm như dòng sông ngầm, lặng lẽ nối liền quá khứ với hiện tại, bồi đắp
tâm hồn, tìm về ký ức hầu như đã lãng quên, bất ngờ được kích hoạt để rồi hiển
hiện thành những vần thơ tâm huyết. Có thể xem, thế mạnh của Nguyên Trân Trân
qua Miền quê ngoại là những vần thơ nảy sinh từ hệ thống ký ức. Ký ức của ông có
nhiều tầng nhiều vỉa. Ông đào bới ký ức như người thợ lò bền bỉ, nhọc nhằn tìm
kim loại quý, rồi đến một lúc nào đó ắt tìm ra cái mà mình muốn tìm. Những bài
thơ thuộc về miền ký ức của ông tràn đầy niềm thương nhớ. Ở đấy, hình ảnh hiện
lên như một phiên bản của thời thơ bé, vừa ngọt ngào vừa cay đắng. Lại nữa,
trong ông đôi lúc dường như có hai thứ quê hương. Quê hương thời tuổi mộng mơ
thì xa tít tắp ở đâu đó mãi vùng trời hoang tưởng, chỉ như chút dư ba của những
mối tình bâng quơ, lãng đãng màu sương khói, hiện lờ mờ trong ký ức suốt hành
trình nhọc nhằn kiếm sống. Cái còn lại chỉ là một thứ vỏ quê hương thời mở cửa,
hỗn loạn bởi nhạc Pop, nhạc Rock xập xình tra tấn thiên hạ từ những quán Bar của
nền văn minh đô thị sống sượng:
Đời người bãi bể nương
dâu Làng ta hóa phố từ lâu mất rồi
Quê hương
Làng hóa
phố, mọi giá trị văn hóa truyền thống tưởng như bền vững bỗng chốc trở thành thứ
xa xỉ, chỉ dành cho những kẻ ấm đầu hoặc sắp vế với tổ tiên. Cũng may, trong
thời buổi mọi thứ đều có thể bán được để quy ra tiền thì vẫn còn chút triền đê
lấp vào nơi trống vắng tâm hồn kẻ lãng du:
May còn vạt cỏ chân
đê Vẫn xanh như lối đi về ngày
xưa Quê hương
Cùng với ký
ức quê hương là những vần thơ về mẹ và mối quan hệ gia đình. Tình cảm gia đình
luôn là điểm tựa tinh thần để Nguyễn Trân Trân chịu đựng sự va đập của cuộc
sống, tìm thấy niềm lạc quan trong hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt, cho dù không
phải lúc nào cũng thành công. Hình ảnh người mẹ tần tảo với gánh hàng vải
thập thững trên đường rừng đầy bất trắc luôn hiển hiện trong tâm tưởng người con
trai xa xứ. Đó là những vần thơ đau đáu niểm thương yêu, sự kính phục cũng như
nỗi ân hận về một thời tao loạn, đói nghèo cùng với tham vọng điên rồ sắp xếp
lại giang sơn của những ai đó, đã khiến tác giả trở thành kẻ bất hiếu với chính
người đã đẻ ra mình. Trong số những bài viết về mẹ thì Mẹ tôi được xem là có sức
nặng nhất cả về lượng lẫn phẩm. Đó là những vần thơ cay đắng, xót xa, nghe như
dao cứa vào lòng:
Bố ra trận mẹ đi buôn chuyến Hết
chợ Si rồi lại chợ Hàu Đêm gánh vải qua Khe Nước
Lạnh Chợt rùng mình, mùi cọp thoảng bờ lau.
Hình ảnh người mẹ
vun vén cho cuộc sống đàn con để người cha đi chiến trận được tác giả đẩy lên
một tầm cao mới, tầm Tổ Quốc, làm người đọc liên tưởng đến những bà mẹ Việt Nam
đang gánh cả đất nước trên đôi vai gầy qua mấy cuộc chiến tranh:
Dẻo dai vô cùng là bờ vai mẹ Mấy lớp chai giờ đã hóa
sừng Gánh cả giang sơn trên đường ngàn dặm Ký ức
ùa về, lòng bỗng rưng rưng.
Chiến tranh kéo theo bi kịch của cả một dân tộc.
Hàng triệu chàng trai trẻ một đi không trở lại, đúng như Vương Hàn đã từng cảm
tác trong bài Lương Châu từ: Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Mấy chục năm rồi,
Nguyễn Trân Trân vẫn canh cánh bên lòng về nỗi người em trai chẳng biết gửi xác
nơi nào ở chiến trường miền Nam. Đêm mưa dầm rả rích, tiếng tắc kè đằng sau tấm
bằng Tổ quốc ghi công, như có thần giao cách cảm, ông chợt thoáng thấy hình hài
đứa em liệt sĩ từng tình nguyện viết đơn nhập ngũ :
Tiếng tắc kè
sau tấm bằng Tổ quốc ghi công Sắp về! Sắp về! Ba
mươi năm có lẻ Mà hồn em còn khắc khoải nhớ
quê. Sắp về
Cái cách
diễn đạt ngôn từ ở đây mạng đậm tính biểu tượng. Đằng sau những con chữ như có
hồn phách ấy là sức nặng của nỗi đau trầm tích từ một phần ba thế kỷ. Cũng là
nói về tình yêu nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Trân Trân phần lớn thuộc về thời
trai trẻ, giờ tất cả đều thành kỷ niệm êm êm, minh chứng cho thứ tình yêu
Platonique vốn là sản phẩm của dòng văn học lãng mạn từng được ông nhập tâm quá
nhiều sau thời kỳ buộc phải bỏ quê ra Hà Nội. Đất Hà thành ngày ấy còn nhiều
người tốt. Một gia đình trí thức có tên tuổi đã hào hiệp cưu mang chàng sinh
viên nghèo xứ Thanh sau cơn gia biến. Cùng với những trang Tự lực văn đoàn, nhân
cách Nguyễn Trân Trân dần dần hình thành sau khi tiếp nhận nền văn hóa đất Kinh
kỳ qua những nhà văn hóa lớn vốn được đào tạo khá bài bản từ nền giáo dục tiến
bộ phương Tây. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để sau này ông có những bài
thơ tình yêu đầy chất lãng mạn bay bổng, thậm chí yêu đến đắm đuối, si mê nhưng
vẫn không gợn chút dung tục của những kẻ phàm phu. Cách lập tứ, lập ý và cả
phong vị thơ nữa đều có cái gì bàng bạc, gián cách với đối tượng, tạo nên một ấn
tượng đẹp, khác hẳn với lối yêu đương chụp giật ngày nay:
Giang
hồ là cách đời anh chọn Người bảo tình ta đợi kiếp
sau Cho dẫu kiếp này ta chẳng trọn Đoạn tuyệt nhau
là đã vì nhau.
Đoạn tuyệt
Trong Vầng trăng khuyết, tình yêu là một cái gì đó mang tính ước
lệ, nửa hư, nửa thực nhưng thân phận của những người trong cuộc thì lại như vừa
trải qua một kiếp đoạn trường :
Chợ tình xế bóng qua
chiều Câu thơ đứt đoạn, trang Kiều xa xăm.
Đọc Miền quê
ngoại, ngoài những trang rất xúc động về tình yêu, Nguyễn Trân Trân cũng còn khá
đa dạng ở mảng thơ thế sự. Đây là chủ đề chiếm số lượng nhiều nhất, cập nhật
nhất, cho dù không phải bài nào cũng thành công, nhưng người đọc tinh ý vẫn thấy
được tình đời, tình người với đủ cung bậc thăng trầm trong cõi trần bụi bặm này
hiển hiện qua những ý tưởng táo bạo. Gọi là thơ thế sự bởi nó là cách nhìn
của tác giả về những hiện tượng đời sống văn hóa xã hội qua lăng kính chủ quan
của cả một đời chiêm nghiệm. Thực ra, cái nhìn cuộc sống mang tính phản biện đôi
khi chỉ là lát cắt ngẫu nhiên, nhưng không hiếm trường hợp ông chọn được những
điểm khá đặc trưng , mà qua đó ta có thể khái quát thành quy luật mang tính phổ
biến. Bài Tô Thị xi măng là một ví dụ :
Ai đúc xi măng thành Tô
Thị Bày trò hóa đá để đùa chơi?
Luôn trăn trở bởi nhân tình ấm
lạnh, thế sự sớm nắng chiều mưa, từ quán chè xanh của người thương binh cụt tay
sống mỏi mòn bằng đồng tiền trợ cấp chỉ có giá trị tượng trưng, ông xúc động
viết những dòng khá là đắng cay tặng bạn:
Giấc mộng công hầu, hồn
tráng sỹ Chìm trong tàn phế một kiếp
người. Quán
thương binh
Trước cây thông cảnh bị giam hãm trong chậu sứ, Nguyễn Trân Trân
liên tưởng đến thân phận nổi chìm của một trí thức tài hoa luôn bị đời hắt hủi
bằng những câu thơ cảm khái:
Khách đa tình lặng đứng trước màu
xanh Ngắm thế cây dáng hình thác đổ Bỗng thấy lòng
bồn chồn thương nhớ Một cây thông heo hút phía chân trời.
Cây thông
cảnh
Trăm năm một cuộc bể dâu. Có lẽ đó là vận số của đời người mà Nguyễn
Trân Trân cho dù từng trải đến mấy cũng khó mà tính hết được. Quẻ Tiên thiên của
chủ thể sinh năm Đinh Sửu vướng vào vòng Thủy lôi truân mà Nguyên đường lại nằm
ở trên cùng của Hạ quái (hào 3 quẻ Chấn) là thế. Cứ từ tượng quẻ mà suy, ông là
người có cả Thiên nguyên khí lẫn Địa nguyên khí, nghĩa là lúc vừa mới sinh ra đã
được trời đất ban cho linh khí, nhưng lại bị hãm bởi quẻ Khảm ở trên. Mà Khảm
thì hung hiểm vô cùng. Tiếc cho một đời tài hoa. Để khép lại đôi dòng tản mạn
về Miền quê ngoại vốn đã khá dài, tôi xin dẫn thêm hai câu như một dự cảm vốn
có sẵn ở quẻ Tiên thiên trong bài Tôi của ông:
Chiều về Bến Tắm
mờ sương khói Thăm thẳm non sông một kiếp
người... ĐVS
THƠ NGUYỄN TRÂN TRÂN
Tưởng Rằng
Tưởng rằng cả một đoàn tàu Té ra
chỉ một cái đầu mà thôi Qua nhà tôi kéo còi
hơi Giật mình thức giấc giữa trời trăng sao.
02 giờ sáng, 19 / 5 / 1995
Tìm em*
Lớp lớp trùng trùng bao mộ chí
Vạn ngàn ngôi mộ vẫn chưa tên Ngẩn ngơ ngước mắt, trời
Quảng Trị Vần vũ mây bay thoáng bóng em.
Quảng Trị tháng
7-2011
Hội làng
Tháng Tám quê ngoại hội làng Mẹ
không còn nữa mà mang con về Nỗi niềm đằng đẵng xa
quê Bồi hồi nhớ thủa ven đê tím chiều.
Nguyệt Hồ
Nguyệt Hồ đêm nay trăng khuyết
Mông lung trong cõi mộng mơ Nhớ xưa một thời Phố
Hiến Âm vang hai tiếng Nguyệt Hồ
Êm đềm sông Hồng cuộn chảy Nặng
tình bao hạt phù sa Bãi bờ bên bồi bên
lở Chuyện tình huyền thoại ngày xưa
Nhớ em mắt huyền nhãn tiến Một
thời duyên dáng kiêu xa Anh giữa cuộc đời trần
trụi Có gì ngoài mấy vần thơ
Tháng hai anh về Dạ Trạch** Tìm
đâu thương cảng bây giờ Ơi em người con phố
Hiến Theo trăng lặng lẽ vào
thơ. Tháng 1/ 2004
* Em trai tác giả hy sinh ở Quảng Trị ** Phố
Hiến, thế kỷ XVI-XVII thuộc phủ Khoái Châu, nơi có đền Đa Hòa thờ Chử Đồng Tử và
Tiên Dung.
|
Chiều về Bến Tắm mờ sương khói
Trả lờiXóaThăm thẳm non sông một kiếp người...