Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

Michael Lüders - Những Ngày Thịnh Nộ: Chương 1


Michael Lüders
Phan Ba dịch

TẤT CẢ BẮT ĐẦU NHƯ THẾ NÀO CON ĐƯỜNG ĐI ĐẾN CÁCH MẠNG

Thị trấn buồn thảm có ở khắp mọi nơi trên thế giới. Nhưng sự buồn thảm của tỉnh lẻ Ả Rập có một cái gì đó nặng nề. Trì trệ và nghèo nàn giữa một kiến trúc phần lớn bao gồm những hộp vuông bằng bê tông không trát vữa. Sự cằn cỗi đặt dấu ấn lên thiên nhiên cũng như lên con người mà sự cam chịu nhiều lần hiện rõ lên trên gương mặt của họ. Hiếm khi nào có một cảm giác của khởi đầu và hy vọng, vì người dân quá bận rộn với việc kiếm sống qua ngày, cho họ và cho gia đình, mỗi ngày một bắt đầu mới. Từ ngữ văn học bay bướm “trạm cuối cùng của ước mơ” tìm thấy trong tỉnh lẻ Ả Rập, ở Maroc hay trong Jemen cũng vậy, sự tương ứng trong thực tế của nó. Không phải ở khắp mọi nơi, không phải không có ngoại lệ, nhưng thông thường là như thế. Và có lẽ tỉnh lẻ Ả Rập cũng đặc biệt không mến khách, bởi vì người dân của nó biết rằng có một cuộc sống mang nhiều hứa hẹn hơn, đẹp hơn, tốt hơn ở đâu đấy ngoài kia, cách xa, không thể đến được, nhưng lúc nào cũng hiện diện qua truyền hình vệ tinh.

Sidi Bouzid

Sidi Bouzid là một nơi như thế. Vùng nông thôn sâu thẳm của Tunisia, cách thủ đô Tunis về phía Nam 250 kilômét. Đồng ruộng, bãi cỏ và cây ăn quả đặt dấu ấn lên phong cảnh. Rác nằm dọc theo đường, túi nhựa vướng vào những cây xương rồng nopal. Có thể nhìn thấy những khối nhà ở đầu tiên, không trát vữa và xấu xí. Trung tâm của tỉnh lỵ nghèo, 40.000 dân cư, không có nhiều thứ để chào mời. Một vài tiệm cà phê, nhà hành chính, trường học và cửa hàng đơn giản. Đỉnh cao văn hóa, theo trang mạng của ủy ban hành chính thành phố, là “những đêm ramadan”, cái được tiến hành vào nửa sau của tháng chay. Ngoài ra, vùng này sống nhờ vào trồng ngũ  cốc, cây ăn quả và rau, cũng không nên quên việc nuôi cừu và nuôi bò sữa.

Và tuy vậy, lịch sử thế giới đã đến đấy hai lần, ít nhiều đều ngẫu nhiên. Trong khuôn khổ của Chiến dịch Tunisia, cái cần phải bảo đảm trật tự cho cuộc rút lui của Quân đoàn châu Phi và đồng minh Ý của nó sau chiến bại ở El Alamein trong tháng 11 năm 1942, các sư đoàn tăng của Đức và Ý đã tấn công các liên đoàn tăng của Mỹ vào ngày 14 tháng 2 năm 1943 tại Sidi Bouzid (“Chiến dịch gió Xuân”). Các cuộc chiến quanh đèo Kasserine kéo dài mười ngày và 12.000 người lính đã tử trận. Không có số liệu về tổn thất trong thường dân Tunisia, nhưng thành phố đã bị san bằng thành bình địa. Đó là một trong những trận đánh tăng lớn cuối cùng ở Bắc Phi, trước khi phe Trục đầu hàng ở đấy trong tháng 5 năm 1943.
Cuộc gặp gỡ lần thứ nhì của Sidi Bouzid với lịch sử là nhờ vào số phận của người dân Mohammed Bouazizi của nó, mà cuộc tự thiêu của anh ấy vào ngày 17 tháng 12 năm 2010 đã tạo nên đầu tiên là cuộc Cách mạng Tunisia, rồi đến cuộc Cách mạng Ả Rập và lần lật đổ nhà độc tài Tunisia lâu năm Zine al-Abidine.

Con bướm đập cánh gây nên một cơn lốc ra sao

Mohammed Bouazizi sinh ngày 29 tháng 3 năm 1984. Cha anh ấy mất sớm, người mẹ lấy chồng thêm lần nữa, một người đàn ông kém sức khỏe, phần lớn thời gian đều thất nghiệp. Ngay từ lúc lên mười, em học sinh đấy đã phải phụ giúp nuôi gia đình như là người bán rau quả. Ngay trước khi tốt nghiệp phổ thông, gánh nặng đôi trở nên quá sức, và cũng như nhiều người Tunisia và Ả Rập đồng lứa tuổi với anh ấy, Mohammed Bouazizi bỏ học không bằng tốt nghiệp. Trước sau gì thì cũng không đủ tiền để đi học đại học. Hiện giờ anh ấy đã có thêm năm người em cùng mẹ khác cha mà anh ấy có cảm giác phải lo cho chúng. Anh xin việc ở công sở, bên quân đội, và lần nào cũng bị từ chối. Anh ấy chỉ còn lại cuộc sống như là người bán rau quả. Hàng ngày vào buổi sáng sớm anh ấy ra chợ lớn bán trái cây và rau quả, chất đầy xe kéo của mình và rồi sau đấy đẩy nó đi hai kilômét trở về khu mua bán địa phương, nơi người nghèo mua sắm. Thu nhập trong ngày của anh ấy ở vào khoảng năm đến sáu euro. Nhưng anh không có giấy phép bán. Thu nhập không đủ cho việc đấy. Khi cảnh sát tiến hành những cuộc vây bắt thường xuyên của họ, để thu tiền hối lộ, anh ấy chỉ còn có hai khả năng. Trả tiền hoặc là chạy đi, để mất chiếc xe đẩy. Có một lúc Mohammed Bouazizi có một cô bạn gái mà anh ấy có mối quan hệ Platon với cô ấy, như thường gặp trong giới những người Hồi giáo bảo thủ. Nó thất bại vì tiền. Một người đàn ông trẻ, người sống qua ngày như kẻ bán dạo, hầu như không có được một cơ hội nào trên thị trường hôn nhân. Năm 2008, anh ấy cố vượt Địa Trung Hải chạy sang Sicily, đến châu Âu, sống tốt đẹp hơn. Cảnh sát biên phòng Tunisia đã bắt anh ấy lại, anh ấy phải ngồi tù hai tuần. Một năm sau đấy anh ấy cố thử vận may của mình thêm lần nữa, lần này là qua ngõ Libya. Anh ấy lại bị bắt, ngồi nửa năm trong tù.
Trong mùa hè 2010, anh ấy cố gắng lần cuối để mang lại cho cuộc sống của mình một bước ngoặc khác. Trong thành phố cảng Sousse, anh ấy nhận giúp việc trong một quán ăn, rửa bát, lau nhà. Khi người chủ từ chối không trả tiền công cho anh ấy, anh ấy đi thưa kiện. Nhưng luật lệ trong đất nước của anh ấy không được lập nên cho những người đói ăn mà cho những người có mối quen biết, những người biết đền đáp lại cho cảnh sát và tư pháp.
Bị hạ nhục và bị lừa gạt, anh ấy lại là người bán rau quả trong Sidi Bouzid. Rõ ràng là cảnh sát ở đấy đã để ý đến con người hay càu nhàu đấy và đã ra sức hành hạ anh ấy. Vài tuần trước khi tự tử, anh ấy nhận giấy phạt 250 euro – một số tiền tương ứng với gần hai tháng thu nhập. Vào ngày 17 tháng 12, một nữ cảnh sát đến gặp anh ở chợ và yêu cầu giao nộp cái cân. Anh ấy từ chối không đưa ra. Có một cuộc ẩu đả xảy ra, viên nữ cảnh sát tát tai anh ấy, cùng với một đồng nghiệp cô ấy quật anh xuống đất. Cái cân của anh ấy bị lấy đi cũng như trái cây và rau quả của anh ấy. Con người bị làm mất thể diện ở nơi công cộng đấy đi tìm sự công bằng, đến ủy ban hành chính thành phố và yêu cầu được nói chuyện với một người có trách nhiệm. Người ta nói với anh rằng điều đấy là không thể, nhân viên nhà nước đang bận việc.
Thế là anh ấy mua xăng, trở về ủy ban hành chính thành phố, đổ cả can xăng lên người và đốt cháy bằng một que diêm. Bị thương nặng, anh ấy được đưa vào bệnh viện. Phải nghĩ rằng tự thiêu như thế sẽ đau đớn tới đâu thì mới đoán được sự tuyệt vọng là gốc rễ to lớn đến dường nào.
Anh ấy không phải là người Tunisia đầu tiên tự thiêu. Những người khác đã làm trước anh ấy, từ những lý do tương tự. Thế nhưng những trường hợp của họ không được biết đến, vì cơ quan nhà nước làm mọi cách để che dấu các vụ việc. Truyền thông trong nước không được phép tường thuật về những vụ việc đấy, người thân buộc phải im lặng vì bị đe dọa trừng phạt. Ở Sidi Bouzid thì ngược lại, ngay sau vụ việc xảy ra, hàng chục người biểu tình đã tụ tập trước ủy ban hành chính thành phố, “một tay cầm điện thoại di động, tay kia cầm đá”, một người họ hàng, Abdesslem Trimech, thuật lại cho đài truyền hình Al-Jazeera. Cảnh sát giải tán cuộc biểu tình, như thông thường ở Tunisia.
Nhưng lần này thì tất cả đều khác đi. Người biểu tình tải những video từ điện thoại di động của họ qua Facebook lên Internet. Cũng như hình ảnh của một cuộc tuần hành phản đối khác vào ngày 20 tháng 12, do mẹ của Mohammed Bouazizi dẫn đầu. Ngay trong ngày đó, những hình ảnh đấy được Al-Jazeera phát đi, trên kênh Mubaschir (Live). Al-Jazeera, được thành lập năm 1966 trong tiểu vương quốc vùng Vịnh Qatar, bên cạnh đài Al-Arabiya phát sóng từ Dubai từ năm 2003, chính là cơ sở truyền thông Ả Rập dẫn đầu. Bất cứ người Ả Rập nào quan tâm đến chính trị, và đấy là phần lớn, cũng đều thường xuyên xem đài truyền hình vệ tinh này, hầu như không bị kiểm duyệt và hoạt động hết sức chuyên nghiệp về mặt báo chí. Ở Mubaschir có một nhóm truyền thông tìm kiếm một cách có hệ thống trong Internet những câu chuyện có thể khai thác được. Qua Facebook, nhóm này đã tìm thấy Sidi Bouzid.

Sidi Bouzid, 23/12/2010

Qua đó, lần đếm ngược cho đến cuộc cách mạng đã bắt đầu. Một cuộc cách mạng dường như xác nhận định lý nổi tiếng của lý thuyết hỗn loạn mà theo đó lần đập cánh của một con bướm ở Hongkong có thể tạo nên một cơn bão xoáy ở New York. Ngay sau khi phát sóng, những cuộc phản đối tự phát ở Sidi Bouzid, rồi trong những tỉnh lỵ lân cận và cuối cùng là trên toàn nước đã diễn ra, những cái nhanh chóng biến thành những cuộc biểu tình chống nhà độc tài Ben Ali và chế độ của ông ấy. Người này ra lệnh bắn người biểu tình, cả bằng thiện xạ bắn tỉa. Nhiều người chết. Nhưng với việc đấy, cuộc nổi dậy đã không bị dập tắt, còn ngược lại nữa. Lần đập cánh lớn lên trở thành một cơn bão xoáy, đuổi nhà độc tài ra khỏi nước một tháng sau đấy.

Internet đóng một vai trò quan trọng trong lúc đó, trước hết như là một cơ quan ngôn luận và nơi cùng cộng hưởng. Thế nhưng hạt giống của cuộc cách mạng đã được gieo trong những thập niên trước đó. Nó chủ yếu là hậu quả của đàn áp chính trị, tham nhũng công khai, biến đổi xã hội, nghèo nàn, không có tương lai, ước mong có tự do và một cuộc sống có phẩm cách – một khái niệm mà thường là người Bắc Âu không hiểu được. Ngược lại, trong vùng văn hóa Địa Trung Hải nó có ảnh hưởng rất lớn đến sự nhận diện của cá nhân hay của một nhóm, cũng như khái niệm “danh dự”, cũng bị lãng quên ở chúng ta. Điều đấy có liên quan đến việc thế giới công cộng quanh Địa Trung Hải được tổ chức dọc theo những mối quen biết hay mạng lưới gia đình, cá nhân, nghề nghiệp hay những thứ khác nhiều hơn là ở phía Bắc của dãy Alpes.

Ngài Tổng Thống, dân của ngài đang chết đấy!

Trong lúc những đoạn video của điện thoại di động từ Sidi Bouzid nhờ vào Al-Jazeera mà nhanh chóng lan qua Tunisia và các quốc gia Ả Rập khác, truyền thông bị kiểm duyệt của Tunisia tiếp tục im lặng về lần tự thiêu và các cuộc biểu tình nối tiếp theo sau đấy. Tuy Internet cũng bị kiểm duyệt dưới Ben Ali, nhưng với hai ngoại lệ: Facebook và Twitter. Rõ ràng là chế độ này đã đánh giá quá thấp tầm quan trọng của chúng. Theo thống kê, cứ ba người Tunisia là có một người dùng Internet, tương ứng với mật độ người dùng lớn nhất trong châu Phi. Điều mỉa mai lớn nhất cho Ben Ali: Ông ta muốn xây dựng Tunisia trở thành “Trung tâm của kiến thức” và đã chủ ý dựa trên Internet. Lẽ ra thì ông ta nên nghiên cứu các lý thuyết về hiện đại hóa. Theo các lý thuyết đấy, phi tự do cộng với đàn áp và tham nhũng đồng thời lại ở tại một mức tri thức cao chính là một công thức gần như toàn hảo cho những cuộc nổi dậy. Khi cả các đài  truyền hình vệ tinh khác cũng tường thuật về số phận của Mohammed Bouazizi, con đập cuối cùng cũng đã vỡ. Vào ngày 29 tháng 12, lần đầu tiên một đài truyền hình nhà nước Tunisia, Nessma TV, nói về đề tài này và hứa hẹn sẽ có một cuộc “điều tra độc lập”. Đồng thời, chế độ này cắt điện và Internet trong Sidi Bouzid và vùng lân cận. Vào ngày 2 tháng 1 năm 2011, một “Chiến dịch Phishing” có quy mô lớn được bắt đầu với mục đích xóa những đoạn video phê phán chế độ ra khỏi Internet. Nhiều blogger, nhà hoạt động trên mạng và ca sĩ nhạc rap nổi tiếng nhất của Tunisia, Hamada Ben Amor, được gọi là El Général, bị bắt hay bị đánh đập. Bài ca chống đối của anh ấy “Ngài Tổng Thống, dân của ngài đang chết đấy!” qua Facebook và Twitter đã trở thành bài ca của cuộc “Cách Mạng Hoa Lài”.
75% người dân Ả Rập, không chỉ riêng của Tunisia, trẻ hơn 30 tuổi.  Điều đấy giải thích cho sự chấp nhận cao độ những phương tiện truyền thông mới và mạng xã hội. Ngoài ra, đặc biệt là ở Algeria và Tunisia, đã có một thế hệ nhạc sĩ trẻ hoạt động chính trị, những người nhờ vào nhạc rap để lên án tham nhũng và kinh tế móc ngoặc của những kẻ đang thống trị. Trong bản nhạc đã được nhắc đến, El Général 22 tuổi quê ở thành phố cảng Sfax đã phê phán sự xa hoa phung phí và làm giàu cho bản thân của gia đình tổng thống cũng như nạn nghèo nàn ở khắp mọi nơi. Giới Hip-Hop Ả Rập khởi đầu vào cuối những năm 1990 ở Algeria và từ đó đã bước đi trên con đường chiến thắng vào các đất nước Ả Rập láng giềng. Hip-Hop đánh trúng cảm giác sống của một giới trẻ đã tan vỡ ảo tưởng, chẳng còn chờ đợi gì nhiều hay hoàn toàn không còn chờ đợi gì ở tương lai nữa.
Sau một thời gian, những cuộc biểu tình đông người đã về đến thủ đô Tunis. Để xoa dịu tình hình, Tổng Thống đã đến thăm Mohammed Bouazizi trong bệnh viện, ngay trước lúc anh ấy qua đời vào ngày 4 tháng 1. Có một bức ảnh chụp lần gặp gỡ đấy, một hình tượng của cuộc Cách mạng Tunisia; Ben Ali bên cạnh giường bệnh, xung quanh là những bác sĩ và viên chức trông có vẻ xum xoe, Mohammed Bouazizi được băng bó như một xác ướp. Ben Ali nhìn anh ấy như thể anh ấy là một người từ hành tinh khác. Con người sắp chết đó nghĩ gì trong khoảng khắc đấy?

Ben Ali bên cạnh giường bệnh của Mohammed Bouazizi

Như đã nói, cuộc Cách mạng Tunisia không chỉ nhờ vào Internet. Có những yếu tố khác thêm vào đấy. Những cuộc biểu tình đầu tiên ở Sidi Bouzid và vùng lân cận, dù có tự phát đến đâu đi chăng nữa, cũng nhận được sự cộng hưởng không chỉ qua các môi trường truyền thông mới. Ngay từ đầu, Tổng Liên đoàn Lao động Tunisia (Union Générale Tunisienne du Travail – UGTT) đã đóng một vai trò quan trọng trong tổ chức và mở rộng những cuộc phản đối. Tunisia, tương tự như ở Maroc và Algeria, có những liên hiệp nghề nghiệp và công đoàn tương đối mạnh – một thành tựu từ thời còn là  thuộc địa của Pháp. Trong cả ba nước, các tổ chức này rất thân chính phủ, cán bộ của họ được nhà nước trả lương. Vì thế mà tất nhiên là hầu như không thể nào mà làm cách mạng với họ được. Nhưng ở tỉnh, nhất là ở tỉnh lẻ xa xôi, nơi không một quan chức nào tình nguyện về đấy, thỉnh thoảng lại có một tinh thần khác. Có lẽ vì con người ở đấy có ít thứ để mà mất hơn. Từ căm phẫn. Hay chỉ từ sự thích thú, muốn chỉ bảo cho “những kẻ ngồi ở trên đấy” xem một lần.

Bánh mì và cai trị

Và rồi thêm vào đấy là giá bánh mì. Một phần ba người Tunisia thất  nghiệp, một phần mười sống dưới ranh giới nghèo hai dollar mỗi ngày. Dưới những điều kiện khung như thế, những cái mà còn tồi tệ hơn nữa trong các quốc gia Ả Rập khác, giá bánh mì thường được nhà nước trợ giá mang một lực nổ chính trị xã hội rất lớn. Ở Bắc Phi, đặc biệt là ở Ai Cập, thường hay có những cuộc nổi dậy và bạo động ngay sau khi chính phủ cắt giảm trợ giá và bánh mì trở nên đắt tiền hơn. Phần nhiều, việc đấy được tiến hành bởi sự thúc giục của Ngân hàng Thế giới trong lúc cho vay tiền hay đáo nợ. Tháng 1 năm 1984, chính phủ Tunisia dưới thời nguyên Tổng thống Habib Bourguiba đã nâng giá bánh mì lên 150% chỉ qua một đêm. Thế là đã bùng nổ những cuộc bạo động lớn nhất kể từ lúc độc lập năm 1956. Khắp nước đều có những cuộc nổi dậy, công nhân trong những mỏ phosphate ở miền Nam tự phát đình công. Bourguiba phái quân đội đến, hơn 500 người bị giết chết. Nhưng ông ấy đã phải hủy bỏ lần tăng giá bánh mì.
Năm 2010, bánh mì ở Tunisia đắt chưa từng có. Việc này có liên quan đến diễn tiến trên các thị trường thế giới, với cung cấp lúa mì giảm xuống trong lúc nhu cầu đang tăng lên. Sau khi quả bong bóng bất động sản ở Hoa Kỳ nổ tung và sau khi hệ thống ngân hàng trong nhiều quốc gia Phương Tây suýt sụp đổ trong năm 2008/09, nguyên liệu nông sản trở thành một đối tượng của đầu cơ thị trường chứng khoán, việc lại càng làm cho giá tăng lên. Bánh mì trong vùng Bắc Phi nguyên thuộc Pháp được ưa chuộng như chính trong nước Pháp. Hiện nay, giá cả ở đây và ở kia đã gần như ngang nhau. Mohammed Bouazizi thu nhập hàng ngày năm đến sáu euro. Nếu một ổ bánh mì có giá gần một euro thì con đường đi đến đói ăn và nổi dậy không còn xa nữa. “Phẩm giá và bánh mì!” người biểu tình reo hò, những người đã buộc Ben Ali phải chạy trốn. Một bức ảnh tượng trưng cho cuộc Cách mạng Tunisia chụp một đám đông trong Tunis: Một người đàn ông dùng tay trái đưa ra dấu hiệu chiến thắng, tay phải cầm một ổ bánh mì.

“Phẩm giá và bánh mì!”

Nhưng tại sao Bourguiba lại thành công trong năm 1984 khi dùng quân đội để đập tan những cuộc bạo động trong nước, mà người kế nhiệm của ông ta Ben Ali lại không thành công trong năm 2011?

Nói một cách đơn giản, thời đấy còn chưa chín mùi cho một cuộc cách mạng. Đầu tiên, trong thời của cuộc Chiến tranh Lạnh, tình thế địa chính trị hoàn toàn khác hẳn so với ngày nay. Cả Hoa Kỳ lẫn Pháp đều sẽ không để cho Tunisia có thể rơi vào tay “những người cộng sản” – tuy là ảnh hưởng của Moscow ở Bắc Phi và trong Cận Đông có giới hạn. Sau khi Tổng thống Ai Cập Sadat quay lưng lại với Liên bang Xô viết vào đầu những năm 1970, nước này chỉ còn có hai đồng minh đáng tin cậy trong vùng: Syria và Nam Jemen. Bên cạnh đấy còn có những mối quan hệ tốt đẹp với Algeria  và Iraq. Thêm nữa, thế hệ Facebook vừa mới chào đời vào thời đấy. Các hệ thống chính phủ của thế giới Ả Rập, các hệ thống mà đã bị quét phăng đi hay lung lay cho đến tận xương tủy, vẫn còn chưa bước qua đỉnh điểm lịch sử của chúng, cả ở Tunisia lẫn ở Ai Cập, trong Libya cũng không như ở Jemen và những nơi khác. Ngoài ra, cách mạng bao giờ cũng là một cái gì đó huyền bí và không thể nào giải thích được mà chỉ dựa trên những tiêu chuẩn lý trí. Những khoảng khắc tâm lý cũng đóng một vai trò như sự trùng khớp đúng lúc – trong trường hợp này là cái chết bi thảm của một người mà dưới hoàn cảnh bình thường thì chắc thế giới sẽ không bao giờ biết đến rằng người đấy nói chung là tồn tại. Thế nhưng mỗi một người Tunisia và mỗi một người Ả Rập đều có thể tự nhận dạng mình qua con đường đau khổ của Mohammed Bouazizi, nếu như không vì may mắn mà đã được sinh ra trong giới thượng lưu. Đến mức lần tự thiêu của anh ấy được nhiều người bắt chước, ở Tunisia cũng như ở Ai Cập, Algeria, Mauritania. Điều đấy giải thích tại sao cái chết của anh ấy lại có thể huy động được nhiều người đến như thế, vượt qua tất cả các ranh giới xã hội và chính trị. Sinh viên, thầy giáo, người thất nghiệp, luật sư, phụ nữ có và không có khăn trùm đầu, trẻ, già, họ cùng nhau đi trên đường phố và vượt qua được nỗi sợ hãi của họ. Bắt đầu ở Sidi Bouzid. Cuối cùng, họ còn có cả quân đội đứng về phía của họ, quân đội mà đối diện với đám đông giận dữ đã không còn muốn bắn vào người dân của chính mình nữa.
Michael Lüders
Phan Ba dịch

THẬT RA TẠI SAO KHÔNG CÓ DÂN CHỦ TRONG THẾ GIỚI Ả RẬP?

Câu hỏi này dễ hiểu và không thể trả lời trong một câu được. Ngoại  trừ người ta khẳng định một cách đơn giản rằng đạo Hồi và dân chủ là không thể hòa hợp với nhau. Tuy vậy, trong trường hợp này thì không được phép có cuộc Cách mạng Ả Rập và yêu cầu tự do và dân chủ của nó. Một cuộc cách mạng mà trước hết là do những người theo đạo Hồi tiến hành.
Số phận chung của vùng này là một sự phát triển đã bị ngăn chận lại, sự phát triển từ một xã hội phong kiến chịu dấu ấn của nông thôn trở thành một xã hội công nghiệp đô thị. Điều này cũng đúng cho cả các quốc gia vùng Vịnh. Nhìn bề ngoài, với cái nhìn đến lối kiến trúc tiên phong, họ đã hoàn thành bước nhảy vào thời Hiện đại từ lâu. Thế nhưng chính trị và xã hội, kể cả những hệ giá trị và tâm tính hiện đang thống trị, vẫn còn chịu ảnh hưởng phong kiến nặng nề. Vài gia đình và thị tộc riêng lẻ nhờ vào sự giúp đỡ của quân đội và an ninh mà thống trị cả nhiều quốc gia – rõ rệt nhất là ở Ả Rập Saudi, nơi họ của triều đang cai trị, Al Saud, đã trở thành một với tên của nước đó.



Người biểu tình kết nối cờ cuea các quốc gia Ả Rập lại với nhau trên Quảng trường Tahrir

Kim tự tháp, được rèn thành những cột trụ kiên cường

Các cấu trúc xã hội đều có thể so sánh được với nhau trong tất cả các quốc gia Ả Rập, và trong kiến trúc của nó giống như một kim tự tháp. Trên đỉnh là một giới tinh hoa nhỏ nắm giữ quyền lực, giới từ lúc độc lập sau Đệ nhị Thế chiến nắm giữ lấy các nguồn tài nguyên quốc gia và ảnh hưởng của họ, với nhân sự được thay đổi một phần, vẫn còn tồn tại sau những biến đổi cách mạng. Cho tới thời điểm của cuộc cách mạng, các vị trí lãnh đạo trong chính trị, kinh tế và hành chính chỉ do giới tinh hoa cầm quyền đấy nắm giữ, những người thường cùng tộc hay có quan hệ qua hôn nhân với nhau. Trong xã hội, vươn lên đến tầng lớp này là điều hầu như không tưởng. Giới tinh hoa nắm quyền lực bao gồm 3 đến 5% dân số và chưa từng bao giờ đắn đo trong việc vơ vét không kiềm chế ngân quỹ quốc gia. Các nhà cai trị trong các quốc gia vùng Vịnh còn chẳng buồn phân biệt giữa ngân sách công cộng và tài sản cá nhân. Ngân sách quốc gia được công bố chỉ thể hiện một phần của thu nhập từ hoạt động kinh doanh dầu mỏ và khí đốt. Chi tiết là việc của sếp. Tinh thần của những người cai trị, đặt nền kinh tế quốc dân dưới quyền của mình, có thể giải thích về cơ bản tại sao hạ tầng cơ sở trong phần lớn các quốc gia Ả Rập chỉ là hư nát, hệ thống giáo dục nằm trong một tình trạng đáng thương, tỷ lệ mù chữ một phần hơn 50% (Jemen, Sudan), nghèo nàn và thất nghiệp ở khắp nơi và những thách thức cấp bách, trước hết là bùng nổ dân số, kế hoạch đô thị, thiếu nước và biến đổi khí hậu, chỉ được tiến hành, nếu như nói chung là có, một cách sơ đẳng.
Giới thường dân trung lưu mà phần lớn người dân ở châu Âu phương Tây thuộc vào trong đó, ngay cả khi có xu hướng giảm xuống, bao gồm 30 đến 40% dân số trong thế giới Ả Rập. Đặc trưng cho giới trung lưu Ả Rập, phần lớn đã tốt nghiệp đại học, là tình thế khó khăn của nhiều người trong số họ – họ có thu nhập thấp và luôn luôn bị đe dọa sẽ trượt bậc thang xã hội. Giảng viên đại học, người đồng thời là tài xế taxi để nuôi sống gia đình là chuyện thường chứ không phải là trường hợp ngoại lệ. Những hệ thống bảo hiểm xã hội như bảo hiểm thất nghiệp hay bảo hiểm y tế, lương hưu chỉ có ở mức sơ khai. Chỉ tình đoàn kết của đại gia đình mới bảo đảm sự sống còn trong lúc khốn khó.
Trong những thành phố lớn như Cairo hay Beirut có một con số đang tăng lên của các nhân viên dotcom hay của doanh nghiệp mới được thành lập, những người từ một vài năm nay đã tạo ra một nhóm xã hội mới và là nhóm duy nhất đứng ngoài giới tinh hoa truyền thống nhưng một phần đã có được tài sản đáng kể. Do phản đối tình trạng chính trị đang tồn tại nên phần lớn họ đều ủng hộ cuộc cách mạng.
Tuy vậy, phần lớn người Ả Rập đều đứng ở rìa dưới của chiếc kim tự tháp xã hội. 60 đến 70%, tùy theo nước, thuộc vào trong cái được gọi là khu vực phi chính thức. Là những người làm công nhật, tức làm ngày nào ăn ngày đấy, như Mohammed Bouazizi và gia đình của anh ấy. Đặc biệt ở Ai Cập có nhiều người nghèo làm việc trong khu vực hành chính. Nhưng đó chỉ là một biện pháp tạo việc làm và được trả lương thấp đến mức không ai có thể sống nhờ vào đấy cả.
Tức không phải giới trung lưu thường dân đặt dấu ấn lên nhà nước và xã hội mà là giới tinh hoa nhỏ nắm quyền lực, những người cố gắng bảo vệ đặc quyền của mình bằng mọi giá. Trước bối cảnh đấy, không thể có được nhà nước pháp quyền, tự do ngôn luận, đa nguyên, tam quyền phân lập – nếu thế thì tất nhiên giới tinh hoa sẽ mất đi quyền lực. Không một hiến pháp nào có thể nghiêm chỉnh giải thích phúc lành của Thượng Đế cho việc tự làm giàu của một thiểu số nhỏ bé. Tuy đã và đang có đảng phái và quốc hội trong nhiều quốc gia Ả Rập tiền Cách Mạng, thế nhưng đó chỉ là mặt ngoài. Trong cốt lõi, chúng thực hành hình thức bảo trợ [clientelism].
Sự chính danh hóa là khái niệm chủ yếu để có thể hiểu được chính trị Ả Rập trước cuộc cách mạng. Tất cả những kẻ thống trị đang – đã – cố gắng tự phô diễn mình như là một người thực thi những giá trị cao quý. Như Habib Bourguiba (cầm quyền 1956-1987) người Tunesia này được tuyên truyền nhà nước gọi là “Người đấu tranh tối cao” (chống Chủ nghĩa Thực dân), Muammar al-Ghaddafi (1969-2011) người Libya có danh hiệu là “người anh em lãnh tụ cách mạng”, Hafiz al-Assad (1971-2000) người Syria được gọi là “cột trụ của sự kiên cường và đối đầu” (chống Chủ nghĩa Đế quốc và Israel) hoặc là “chiến hữu”, vua Abdallah của Saudi hoạt động dưới tên “Người bảo vệ hai vùng đất thánh”, tức là của Mecca và Medina.
Cho tới cách mạng, về cơ bản chỉ có hai thể loại của trật tự chính trị. Về một mặt là những nền quân chủ truyền thống mà tính chính danh của chúng dựa trên sự thống trị của bộ tộc hay yêu cầu quyền lãnh đạo về mặt tôn giáo. Thuộc vào đấy là các quốc gia vùng Vịnh, Jordan và Maroc. Các vua Mohammed I (Maroc) và Abdallah II (Jordania) đều tự xem mình là dòng dõi trực tiếp của nhà tiên tri Mohammed. Và mặt khác là các hệ thống độc đảng phi tôn giáo mà các tổng thống của chúng, có quyền lực hết sức to lớn, thông thường là (đã) xuất phát từ giới quân đội. Ở Libya, cung cách xuất hiện kỳ lạ của Ghaddafi mang lại cho hệ thống này những đường nét của một nhà hát opera, ở Iraq qua cung cách của Saddam Hussein là những đường nét của Stalin.
Một vấn đề nữa trong sự chính danh hóa ở nhiều nơi là lịch sử quốc  gia rời rạc và thiếu vắng những huyền thoại lập nước. Biên giới của phần lớn các quốc gia Ả Rập là do các thế lực thuộc địa dùng thước kẻ một cách tùy tiện. Jordan và các quốc gia nhỏ ở vùng Vịnh nói chung là chỉ tồn tại vì người Anh và người Mỹ thích như thế.

Thị tộc, bộ tộc, quốc gia

Các nhà sử học đánh dấu lần bắt đầu của Chủ nghĩa Thực dân trong thế giới Ả Rập thường là với cuộc viễn chinh Ai Cập của Napoleon năm 1798. Sau đó, Pháp và Liên hiệp Anh chia nhau Bắc Phi và Cận Đông. Paris nhận vùng Maghreb (Maroc, Algeria, Tunisia, Mauritania) và, lớn mạnh thêm sau Đệ nhất Thế chiến và sau khi Đế chế Ottoman chấm dứt, giữ vững ảnh hưởng của mình ở Lebanon và Syria. London kiểm soát Ai Cập và Sudan, thêm vào đấy sau Đệ nhất Thế chiến là Palestine, Jordan ngày nay và Iraq. Dưới thời Mussolini, Ý tuyên bố những sở hữu của mình ở Libya là thuộc địa năm 1934. Các thế lực thực dân quan tâm đến trước hết là nguyên liệu và tuyến đường buôn bán. Kênh đào Suez, được khánh thành năn 1869 với nhiều phô trương long trọng, rút ngắn đường biển từ châu Âu sang Ấn Độ được tròn 10.000 km, là thí dụ dễ hiểu nhất. Nhà nước Ai Cập chi trả để xây dựng nó, nước mà Liên hiệp Anh đã chinh phục bằng quân sự chính vì mục đích này. Nó được cố tình đẩy đến chỗ phá sản bằng những khoản tiền mà London đã cho vay một cách hào phóng. Tiếp theo sau đó, các ngài thực dân đã phá hỏng nền công nghiệp dệt may đang được xây dựng ở Ai Cập, cái đã trở thành nhà cạnh tranh thật sự cho công nghiệp dệt may Anh. Ngành trồng bông vải ở Ai Cập vì thế mà suy tàn, làn sóng lớn đầu tiên rời bỏ nông thôn bắt đầu. Pháp thì lại tiến hành một Chủ nghĩa thực dân định cư rõ rệt tại Algeria, ở Maroc và Tunisia thì ít hơn. Quân đội Pháp xua đuổi hàng trăm nghìn nông dân người bản xứ và chiếm đất của họ để tạo chỗ cho thực dân Pháp. Luật pháp của Pháp mãi đến những năm 1960 vẫn còn xem Algeria là một phần đất của Pháp, không khác gì Normandy hay Burgundy. Mỗi một phản kháng chống lại lực lượng chiếm đóng đều bị đập tan một cách hết sức tàn bạo, kể cả tàn sát. Nhiều vấn đề xã hội, đoàn thể và chính trị của thế giới Ả Rập có nguồn gốc của nó trong thời kỳ thuộc địa.
Trước bối cảnh đấy, có thể hiểu được tại sao cá nhân trước hết là trung thành với thị tộc, bộ tộc, với nhóm tôn giáo và sắc tộc của mình, và nhiều lúc vẫn còn là như thế, và sau đấy là mới trung thành với quốc gia. Vì thế mà sau khi Ả Rập độc lập đã tồn tại một khao khát to lớn về lịch sử, về tầm quan trọng và ý nghĩa riêng biệt, không chỉ ở phía những người cầm quyền và còn cả ở phía những người dưới quyền. Lúc đầu, Chủ nghĩa Dân tộc Ả Rập, ý thức hệ quần chúng của thời hiện đại, đã lấp đầy khoảng chân không đó. Mục đích của nó là sự thống nhất Ả Rập “từ vùng Vịnh cho tới Đại Tây Dương” và cuộc đấu tranh chống quyền bá chủ của Phương Tây. Nhân vật lãnh đạo bất tranh cãi của nó là người có sức thu hút Gamal Abdel Nasser, tổng thống đầu tiên của Ai Cập, người sau cuộc đảo chính quân sự năm 1952 đã dẫn dắt đất nước này đi đến nền độc lập với Liên hiệp Anh. Ông ấy muốn thống nhất thế giới Ả Rập dưới sự lãnh đạo của mình, làm cho nó trở thành một động lực của Phong trào Không Liên kết, phong trào mà năm 1955 trong hội nghị huyền thoại ở Bandung của Indonesia đã tiếp nhận ông ấy vào trong hàng ngũ của mình với những cử chỉ long trọng. Sau 150 năm do nước ngoài quyết định và bị làm nhục, người Ả Rập muốn cuối cùng rồi cũng tìm thấy được chỗ đứng của mình trong số những nước lớn của thế giới. Nasser là người cầm cờ của họ, một thể chế phán xét và một nhà hùng biện xuất sắc, được người dân tung hô, tin tưởng và phục tùng, giới trí thức cũng như fellah, nông dân Ả Rập.
Thế nhưng nó vẫn là một giấc mơ. Tất cả các chính trị gia Ả Rập đều nói về sự thống nhất, nhưng trong cuộc sống hàng ngày, ngoài lời nói suông thì nó không xảy ra – ngoại trừ lần hợp nhất ngắn ngủi của Ai Cập và Syria để trở thành nước Cộng hòa Ả Rập Thống nhất (1958-1961). Điều đấy là không thể được. Ngoại trừ ngôn ngữ, lịch sử và một sự nhận dạng chung mang dấu ấn của Hồi giáo, các khác biệt trong thế giới Ả Rập to lớn vô cùng. Maroc có nhiều hay ít điểm chung với Iraq cũng giống như Na Uy với Kosovo. Tại sao những quốc gia mới vừa độc lập đã lại phải giải tán? Vì cớ gì mà giới tinh hoa mới, phần lớn là sĩ quan trẻ tuổi và những mối quen biết của họ, phải từ bỏ những đặc quyền đã thu được? Ngoại trừ các nhà vua, giới tinh hoa mới này có thiện cảm với Nasser và Chủ nghĩa Dân tộc Ả Rập. Trong tinh thần của họ, họ rất giống với giới tinh hoa cũ, phần nhiều là địa chủ. Họ không quan tâm đến công bằng xã hội. Thay vì vậy, mục đích của họ là củng cố quyền lực của họ. Ai cản đường họ đều bị bắn chết hay vào tù. Kình địch trong nội bộ nhóm tinh hoa thường được giải quyết bằng đảo chính và đảo chính ngược lại, những cái được gọi là “cách mạng sửa đổi”, và đã trở thành chính trị thường ngày đặc biệt là ở Syria và Iraq trong những năm 1950 và 1960. Ở đó cũng đã phát triển một biến thể của Chủ nghĩa Dân tộc, Chủ nghĩa Baath (từ tiếng Ả Rập “Baath” là phục sinh), cái tuy vậy không vượt qua khỏi cái bóng của Nasser.
Tiếp theo giấc mơ về tầm vóc to lớn và sự thống nhất là lần thức dậy nhức nhối sau chiến bại mang tính hủy diệt trước Israel trong Chiến tranh Sáu Ngày năm 1967. Quân đội Israel chiếm Đông Jerusalem và Bờ Tây (Tây Jordan) của Jordan, Sinai của Ai Cập và cao nguyên Golan của Syria. Thay vì nhìn thẳng vào hiện thực và tự chất vấn mình một cách phê phán, phần lớn lại rơi ngay lập tức vào ảo tưởng kế đến, Trào lưu Chính thống Hồi giáo. Cho tới hiện tại vẫn là: “Hồi giáo chính là giải pháp!”. Tuy vậy, hiện giờ đạo Hồi chính trị cũng đã qua thời vàng son của nó từ lâu. Thời gian gần đây, phần lớn người Ả Rập đã nhận ra rằng nó không góp phần giúp họ có được nhiều tự do hơn lẫn cải thiện hoàn cảnh sống của họ.

Một Hitler thứ nhì và Cuộc khủng hoảng Kênh đào Suez

Gamal Abdel Nasser là nhà cách mạng Ả Rập đầu tiên của thời Hiện đại. Tương tự như con cháu của mình sau này thuộc thế hệ Facebook, ông ấy đi theo một viễn tưởng gây cảm hứng và thúc đẩy ông ấy. Ông ấy tin vào một Ả Rập mới. Thế nhưng ông không thể biến lần biến động lịch sử đấy thành một chính sách chính trị thực tiễn bền vững được. Ông ấy dao động lầm lạc giữa sự không tưởng và khát vọng quyền lực, và cuối cùng đã bị tài hùng biện của chính mình thuyết phục. Đồng thời, cung cách đối xử của Phương Tây với Nasser là một thí dụ sớm cho tầm nhìn mang dấu ấn thực dân, đã bị công cụ hóa, đến thế giới Ả Rập, cái nhìn mà đã hạ thấp họ xuống trở thành một số đông để sử dụng trong địa chiến lược. Nasser không phải là một chính khách chống Phương Tây, nhưng bị nhìn như thế trong châu Âu và ở Hoa Kỳ. Để phát triển Ai Cập về mặt kinh tế, ông ấy quyết định xây một con đập ở phía Nam của thành phố Assuan. Đồng thời, ông đứng về phía của người Palestine trong xung đột với Israel. Cũng như nhiều người Ả Rập thời của ông, ông ấy cho rằng nhà nước Do Thái chỉ là một vật cấy của Chủ nghĩa Đế quốc với mục đích ngăn chận sự thống nhất Ả Rập. Khi Nasser công nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc năm 1955, cuối cùng Hoa Kỳ cũng cho rằng ông ấy là một người cộng sản. Washington lo liệu sao cho Ngân hàng Thế giới không cho Ai Cập vay tiền để xây con đập Assuan. Mong muốn của Nasser, được Hoa Kỳ cung cấp vũ khí, đã không được lắng nghe. Thế là ông ấy quay sang Moscow và đã nhận được từ đấy cả vũ khí lẫn tiền cho vay.



Gamal Abdel Nasser tuyên bố quốc hữu hóa kênh đào Suez

Đối diện với tư thế thù địch của Phương Tây, Nasser hiện thực lời tuyên bố của mình và quốc hữu hóa kênh đào Suez năm 1956, cái đa phần thuộc các cổ đông người Anh và người Pháp. Thủ tướng Anh Anthony Eden sau đấy đã gọi Nasser là một “Hitler thứ nhì” – một tên gọi mà sau này cả Saddam Hussein lẫn Tổng thống Iran Mahmud Ahmadinedschad đều chia sẻ. Trong trường hợp của Nasser và Saddam Hussein, tiếp theo sau lần ma quỷ hóa là chiến tranh. Trên Vườn Eden, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Guy Moller và Thủ tướng Israel David Ben Gurion thỏa thuận tấn công Ai Cập trong một hội nghị bí mật tại Sèvres ở ngoại ô Paris. Cuộc Chiến tranh Kênh đào Suez bắt đầu vào ngày 29 tháng 10 năm 1956 và chấm dứt với thất bại về quân sự của Ai Cập: quân đội Israel tiến cho đến kênh đào Suez, người Anh ném bom Port Said.

Thế nhưng thất bại đấy đã trở thành một chiến thắng về mặt chính trị cho Nasser. Người Mỹ tức giận vì họ hoàn toàn không biết gì về các kế hoạch tấn công đó. Đồng thời, người Anh phải đối chọi với một cuộc chiến tranh du kích mới bắt đầu. Theo sáng kiến của Tổng thống Mỹ Eisenhower, Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết yêu cầu tất cả ba thế lực xâm chiếm phải rút quân. Washington đe dọa không úp mở là sẽ để cho đồng bảng Anh rơi giá trên thị trường tiền tệ. Các nhóm quân lính Anh cuối cùng rút ra khỏi Ai Cập ngay trước Giáng Sinh 1956, Israel rút khỏi Sinai ba tháng sau đó.
Cuộc Chiến tranh Kênh đào Suez chấm dứt kỷ nguyên của Chủ nghĩa Thực dân và đưa Hoa Kỳ trở thành thế lực bá chủ trong Trung và Cận Đông. Lần đầu tiên và cho tới nay là lần cuối cùng, Washington tạo áp lực thật sự lên Israel. Năm 1957, lần đầu tiên sau Đệ nhị Thế chiến, quân đội Mỹ lại đổ bộ lên vùng này. Ở Lebanon, họ ủng hộ Tổng thống Camille Chamoun thân Phương Tây chống lại các lực lượng thân Nasser. Ở Iraq, năm 1958 đã xảy ra một cuộc đảo chính của giới quân sự: Vua Faisal II, người tán thành cuộc Chiến tranh Kênh đào Suez, bị bắn chết, chế độ quân chủ bị hủy bỏ. Trong Chiến tranh Sáu Ngày 1967, Israel lại chiếm Sinai và mãi đến 1979 mới trao trả lại nó cho Ai Cập trong khuôn khổ của một hiệp ước hòa bình. Năm 2003, người Mỹ và người Anh cùng lật đổ chế độ của Saddam Hussein trong Iraq và chấm dứt sự thống trị của giới quân đội ở đấy. Tất cả đều có liên quan với nhau, quá khứ tiếp tục trong hiện tại. Những lần can thiệp liên tục của Phương Tây đã tạo nên đồng minh hay hoàn cảnh mới và đã loại trừ hay làm suy yếu những người chống lại. Tuy vậy, chúng không góp phần tạo thêm dân chủ hay cải thiện đời sống, cả ở Iraq cũng không.
Nasser về phần mình không hiểu rằng kết cục của Cuộc chiến Kênh đào Suez là nhờ vào một tình thế chính trị thế giới có lợi cho Ai cập. Ông ấy tin rằng “số đông người Ả Rập” đã đánh bại những kẻ tấn công, và cùng với giới truyền thông nhà nước đã tự say sưa với những lời hùng biện như sấm nổ của mình mà cuối cùng rồi ông ấy lại là nạn nhân của chúng. Đánh giá hoàn toàn sai lầm tương quan lực lượng quân sự, cuối cùng ông ấy phong tỏa không cho tàu thủy Israel đi qua Vịnh Aqaba và qua đó đã tạo cho Israel một cơ hội đáng mừng để tấn công Nasser đang bị họ căm ghét và các đồng minh Jordan và Syria của ông ấy.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001