Ngô Nhân Dụng - Dân tộc thắng chủ nghĩa
at 7/31/2013 10:10:00 AM
Ngô Nhân Dụng
Sử gia Benedict Anderson mở đầu cuốn sách bàn về các “phong trào dân
tộc,” xuất bản năm 1983, ông nhắc ngay đến các cuộc chiến tranh ở bán
đảo Ðông Dương, giữa Việt Nam với Campuchia từ cuối năm 1978, và Trung
Quốc với Việt Nam đầu 1979.
Anderson thấy một hiện tượng đáng chú ý: Các chính quyền cộng sản nào
phát động các cuộc chiến này không ai nhắc nhở gì đến “Chủ nghĩa Mác” để
biện minh cho những cái chết của bao nhiêu người dân và binh sĩ mà họ
gây ra. Nó khác hẳn “mô típ” quen thuộc của các chính quyền cộng sản
trước đó.
Anderson nhắc lại các vụ quân Nga can thiệp vào nước Ðức (1953), Hungary
(1956), Tiệp Khắc (1968), Afghanistan (1980) và các cuộc đụng độ biên
giới giữa Nga Xô và Trung Cộng năm 1969. Trong các cuộc dụng binh đó họ
vẫn còn nêu lên các khẩu hiệu “bảo vệ chủ nghĩa xã hội” hoặc “chống đế
quốc xã hội chủ nghĩa.” Những chữ “xã hội chủ nghĩa” hồi đó còn linh
thiêng lắm. Các cuộc chiến ở Ðông Dương năm 1978, 1979 là chiến tranh
giữa các chế độ cùng theo “chủ nghĩa xã hội” như nhau! Cái khác nhau là
dân tộc, họ xúi người Việt, người Campuchia, người Trung Quốc đánh giết
nhau. Dân tộc là một động lực thúc đẩy lịch sử, mà trong hàng thế kỷ
trước đó, các người quá tin vào chủ thuyết của Karl Marx đã tự bịt mắt
họ nên không chịu nhìn thấy. Rõ ràng, dân tộc là một hiện tượng xã hội
rất cần nghiên cứu, đáng được phân tích kỹ lưỡng.
Benedict Anderson đã nhìn ra việc lợi dụng tinh thần dân tộc, tự ái dân
tộc ngay trong quá trình phát triển phong trào cộng sản quốc tế. Ở những
nước như Việt Nam, Trung Quốc, Campuchia, các đảng cộng sản chiếm được
chính quyền không phải vì họ lôi cuốn được người dân tin vào chủ nghĩa
cộng sản. Chủ nghĩa đó quá xa vời. Trong thực tế, các đảng cộng sản đã
dựa vào làn sóng giải phóng dân tộc để kêu gọi người ta hy sinh. Ý thức
dân tộc là một động cơ vừa mạnh vừa có nguồn gốc sâu xa hơn mọi thứ chủ
nghĩa. Không cần đợi tới năm 1989, khi các chế độ cộng sản sụp đổ hàng
loạt như những quân bài domino người ta mới thấy như vậy. Sau năm đó thì
cái gọi là chủ nghĩa cộng sản đã “hết thiêng” rồi, ngay các đảng viên
cộng sản cũng mất hết niềm tin. Các đảng cộng sản còn sống sót cũng cố ý
lờ đi không nói đến chủ nghĩa nữa.
Tại nước ta ngay bây giờ, chính quyền cộng sản đang nhân danh cái gì khi
họ đàn áp những người đòi dân chủ tự do, khi họ bỏ tù những Ðiếu Cày,
Tạ Phong Tần, Cù Huy Hà Vũ? Tội danh họ thường gán cho các nhà tranh đấu
dân chủ là tội “chống nhà nước” hay “âm mưu lật đổ nhà nước;” trong
hình luật. Ðảng Cộng sản không hề nói đến chủ nghĩa xã hội, là thứ mà họ
vẫn nhân danh để biện minh cho việc chiếm độc quyền cai trị 90 triệu
người dân Việt. Trong khi đó thì những người Việt Nam yêu nước đang vận
động khắp nơi trên thế giới để bảo vệ mạng sống và con đường tranh đấu
của Ðiếu Cày, nhân danh quyền sống của dân tộc Việt Nam. Các nhà trí
thức, các bloggers trong nước, các đoàn thể ở hải ngoại khi lên tiếng
yêu cầu cả thế giới can thiệp bảo vệ Ðiếu Cày đều nhân danh dân tộc,
nhân danh quyền bảo vệ tổ quốc Việt Nam trước các âm mưu bành trướng của
Cộng sản Trung Hoa. Ðiếu Cày, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên, Ðỗ Thị
Minh Hạnh, vân vân, được đồng bào yêu mến vì lòng yêu nước của họ chứ
không phải vì một chủ nghĩa trừu tượng nào cả. Nói như Benedict
Anderson, chúng ta đang sống trong một “Cộng đồng Tưởng tượng,” là dân
tộc Việt Nam, cho nên cùng nhau tranh đấu.
Cuốn sách của Benedict Anderson đặt tựa đề là “Những Cộng đồng Tưởng
tượng: Suy nghĩ về nguồn gốc và sự bành trướng của phong trào dân tộc”
(Imagined communities: reflections on the origin and spread of
nationalism, in lần đầu năm 1983).
Anderson mô tả một dân tộc (nation) là một “Cộng đồng Tưởng tượng,” vì
người ta không cần phải gặp nhau, không cần nhìn thấy nhau, nhưng trong
đầu vẫn nghĩ tất cả mọi người cùng thuộc vào một “cộng đồng” có thật.
Một đặc tính của cộng đồng này là nó có giới hạn, dù biên giới của nó
khá co giãn (elastic). Người Pakistan tự nhận họ thuộc một dân tộc dù họ
nói nhiều ngôn ngữ khác nhau. Người Bangladesh thấy họ là một dân tộc,
cần tách ra khỏi nước Pakistan. Ðó là những “Cộng đồng Tưởng tượng,” chỉ
vì người ta muốn như thế. Người ta biết họ thuộc vào một dân tộc, và
mặc nhiên coi những người khác cũng nghĩ như mình; bên ngoài biên giới
đó là “người khác, dân khác.” Ðặc tính thứ hai mà Anderson nhấn mạnh là
chủ quyền. Khi thấy mình là một dân tộc thì người ta cũng nghĩ họ có
quyền quyết định trên cuộc sống chung của họ với nhau. Quyền này vượt
trên các chế độ chính trị, các vương quốc hay đế quốc đang cai trị họ. Ở
Châu Âu vào thế kỷ 19, nhiều nhóm dân sống rải rác trong các đế quốc
hay vương quốc nhưng cùng chung một ngôn ngữ, chia sẻ những tập tục văn
hóa với nhau. Ðến lúc họ ý thức được mối liên hệ này một cách nồng
nhiệt, và bày tỏ ý nguyện được xác định ý thức dân tộc và đòi quyền sống
như những dân tộc, phong trào này tiếp tục thay đổi bản đồ châu Âu
trong hai thế kỷ.
Các đảng Cộng sản thành công ở nhiều nước nhờ đã đội lốt phong trào dân
tộc trong các cuộc cách mạng gọi là giải phóng. Người dân Việt (hay dân
Trung Hoa, dân Campuchia) nghe nói “giải phóng” thì nghĩ đến việc thoát
khỏi vòng đô hộ và chính sách bóc lột của các đế quốc thực dân. Còn theo
đúng chủ nghĩa cộng sản thì nói “giải phóng” có nghĩa là giai cấp công
nhân vùng lên lật đổ giai cấp “tư bản bóc lột.” Nhưng ngay từ đầu, các
đảng cộng sản cũng mạo danh cả chủ nghĩa Mác để lòe bịp người lao động.
Vì nếu đúng theo chủ nghĩa của Karl Marx, thì không thể nào có cách mạng
vô sản ở các nước như Trung Hoa, Việt Nam, và Campuchia. Marx xác định
rằng cách mạng vô sản chỉ bắt đầu ở các xã hội với một nền kinh tế tư
bản đã phát triển hết tiềm năng của nó, chính nó tạo ra giai cấp vô sản
sống cực khổ trong các thành thị, những người lao động sẽ “đóng vai trò
lịch sử” thay đổi trật tự, giúp cả xã hội cùng tiến lên. Bây giờ thì ai
cũng biết các lời tiên đoán của ông Karl Marx sai hết. Lịch sử nhân loại
đã quẹo qua một ngả rẽ khác hẳn. Nhưng vào những năm 1930 nếu người ta
tin vào kịch bản do ông Marx vẽ ra thì những nước Trung Hoa, Việt Nam,
và Campuchia cũng chưa hội đủ các điều kiện để có “cách mạng vô sản” như
ông ta tiên đoán.
Một cuộc kiểm tra dân số ở Việt Nam năm 1937 cho thấy rõ điều này. Nước
ta chưa thật sự công nghiệp hóa, 95% dân chúng sống ở nông thôn. Những
người cộng sản lúc đó tuyên truyền là có một giai cấp tư bản bóc lột lao
động ở nước ta. Nhưng trong thực tế cái gọi là giai cấp tư bản nội địa
đó chỉ có khoảng 10,500 gia đình, gồm những địa chủ không tự mình làm
ruộng mà chỉ thuê người khác làm, một số nhỏ các nhà kinh doanh, và các
công chức làm cho chính quyền thuộc địa. Con số đó chỉ chiếm nửa phần
trăm (0.5%) dân số cả nước. Có thể nói, nước ta chưa có một giai cấp tư
sản.
Năm 1940 Phan Bội Châu đã cực lực bác bỏ dự định làm “cách mạng vô sản” ở
nước ta, mặc dù trước đó cụ vốn có cảm tình với Liên Bang Xô Viết. Vì
cụ cũng vạch ra rằng ở nước ta chưa có giai cấp tư bản, cũng chưa có
giai cấp vô sản! Tại Campuchia cũng vậy.
Một cuộc điều tra dân số năm 1962 cho thấy cả nước có dưới 1,300 người
thuộc “giai cấp tư sản” gồm những người tiểu tư sản và các công chức cao
cấp, họ chiếm nửa phần trăm dân số. Còn nông dân chiếm hơn 78%, trong
đó chỉ có dưới 2% là bần cố nông. Trong dân số hai triệu rưỡi người
Campuchia chỉ có 2.5% có thể gọi là công nhân vô sản!
Các phong trào cộng sản đã mạo danh dân tộc, chỉ cốt để cướp lấy chính
quyền. Sau khi lừa bịp được mọi người và nắm quyền bính rồi, họ mới lộ
rõ bộ mặt thật, là đang theo đuổi giấc mộng xây dựng thiên đường vô sản,
theo đường lối Stalin.
Bây giờ, không còn ai bị lừa gạt nữa. Cho nên bọn cộng sản cầm quyền cũng không còn dám nhắc đến chủ nghĩa Mác Lê.
Riêng tại nước ta, đến lượt chính các lãnh tụ cộng sản phải đối đầu với
tinh thần dân tộc của dân Việt. Anh Nguyễn Văn Hải, tức Ðiếu Cày, chỉ
phạm có một tội là yêu nước Việt Nam. Vì thế, anh đã đòi Trung Cộng phải
trả lại quần đảo Hoàng Sa và các đảo họ chiếm ở Trường Sa. Bỏ tù Ðiếu
Cày, Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên tức là muốn bỏ tù luôn cả tinh
thần dân tộc của dân Việt Nam! Dân tộc Việt Nam sẽ không tha thứ cho
hành động gian ác nối giáo cho giặc đó.
Trong cuốn Ðứng Vững Ngàn Năm chúng tôi muốn chứng tỏ một điều: Người
Việt Nam đã xây dựng ý thức dân tộc trong suốt ngàn năm Bắc thuộc, nếu
không phải đã sẵn có từ trước. Nếu vào thời đại Hùng Vương và văn minh
Ðông Sơn dân Việt chưa thấy nhu cầu xác định “dân tộc tính” của mình,
thì cuộc đụng chạm với các quan lại nhà Hán và văn minh Hán tộc cũng tự
nhiên thúc đẩy dân mình ý thức một cách mạnh mẽ hơn về một “cộng đồng
tưởng tượng” nối chặt họ với nhau. Nhờ ý thức dân tộc và ý chí tự chủ
được rèn luyện trong ngàn năm Bắc thuộc, sau này dân Việt Nam tiếp tục
giữ tinh thần quật cường, bất khuất, trong thời kỳ tự chủ, từ thế kỷ thứ
10. Cho nên Vương Thông, viên chỉ huy quân Minh xâm chiếm nước ta vào
thế kỷ 15 đã từng viết mật báo về triều đình, nói thật ra rằng cái nước
Ðại Việt này, “Có chiếm được cũng không giữ nổi” (Túng đắc chi, bất khả
thủ chi - Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư, Kỷ nhà Lê). Những nhà Hán, nhà Ðường,
nhà Minh đến Việt Nam và đã thất bại. Các vua quan mới ở Bắc Kinh cũng
sẽ thất bại.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/07/ngo-nhan-dung-dan-toc-thang-chu-nghia.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001