Nguyễn Xuân Việt - Họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo
vào lúc 2:45 CH
Ghi chép của họa sĩ Nguyễn Xuân Việt -
Lời giới thiệu của Thụy Khuê:
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí không chỉ để lại tranh mà còn để lại lời cho hậu
thế. Những lời ông nói trong khoảng từ 75 đến 92 được họa sĩ Nguyễn Xuân Việt,
người học trò ghi lại trong một cuốn cẩm nang nhỏ tựa đề “Họa sĩ Nguyễn Gia Trí
nói về sáng tạo” do Nhà xuất bản Văn Học in năm 1998 tại Sài Gòn. Đây là những
câu nói tuy độc lập mà cũng như liên lạc mật thiết với nhau về nghệ thuật hội
họa, nghệ thuật sơn mài, nghệ thuật sống, nghệ thuật thiền họa.
Họa đạo cũng như trà đạo rút cục chỉ là con đường tìm đạo của mỗi người:
bức tranh là phương tiện để người nghệ sĩ “nâng” mình lên, vẽ xong phải “bỏ” nó
đi, tìm lối khác. Nghệ thuật nào cũng thế, nếu nghệ sĩ chỉ biết dừng lại ở một
tác phẩm mà không tìm cách nâng mình lên là không sống nữa.
Đọc trích lục một số lời của Nguyễn Gia Trí, cũng là một cách xem tranh
của ông, cách xem tốt nhất không qua lời người phê bình mà trực tiếp qua lời
họa sĩ. Th. Kh.
Họa sĩ Nguyễn Gia Trí
01.06.1975
Cứ vẽ, gặp cái gì vẽ cái ấy. Vẽ cho nhanh, cho kịp
cảm xúc của mình.
Phải luyện mắt để nhìn, để thấy cái đẹp. Vẽ làm sao
phải tạo được cuộc sống, cuộc sống xanh tươi như hoa cỏ.
Nếu
tự mình không cảm xúc, không sáng tạo, thì không ai có thể giúp mình sáng tạo
được.
14.11.1975
Giữa sáng tác và cuộc sống phải trong suốt, là giao
cảm trực tiếp. Cuộc sống khơi gợi ta vẽ. Như cây phải hô hấp ánh sáng và nước,
để nuôi lá đâm hoa.
Vứt bỏ mọi thành kiến cũ, xưa. Vẽ với đầu óc hoàn
toàn mới. Chính những định kiến ước lệ giết chết nghệ thuật.
Đừng nghĩ đến kết quả của tranh, hay kết quả đời
người nghệ sĩ. Hãy yêu và say mê cái đẹp. Học tập rút kinh nghiệm mọi người.
Nhưng vẽ theo bản lĩnh của ta.
Tuổi trẻ là tuổi sôi động sáng tạo. Phải làm việc
thật nhiều ở tuổi sung sức này.
05.01.1976
Đứng trước thiên nhiên và con người, phải xua đuổi
mọi lý thuyết, giao cảm trực tiếp với con người và thiên nhiên mình vẽ.
Nên tạo sự thông cảm giữa giấy, mực, bút, chất liệu,
để làm nên tác phẩm. Mỗi chất liệu có tiếng nói riêng, phải hiểu nói tiếng ấy.
Tính dân tộc không phải là lý thuyết, định kiến, nó
từ tình cảm và cuộc sống của mỗi người, mỗi dân tộc tạo nên.
Bản chất và tính cách của mỗi người hiện lên trên
tác phẩm, như thô bạo, trong sáng, hoặc yếu ớt, khỏe khoắn...
Vẽ nhiều chất liệu, thể loại, để mở mang đầu óc.
28.03.1976
Cái chính là hướng vẽ đúng (1)
Kỹ thuật cũng giống như xe đạp anh dùng để đi. Chú ý
nhiều đến xe thì sẽ trở thành thợ máy. Phải có xe riêng của mình. Tất cả kỹ
thuật đều chỉ là phương tiện.
Khi vẽ phải vứt bỏ mọi thành kiến. Thành kiến đã đầy
rồi, thì rót gì vào cũng chỉ tràn ra.
Mỗi chất liệu có sở trường, sở đoản riêng. Phải biết
tận dụng nó.
Người nghệ sĩ có sáng tạo, thì để tay vào cái gì,
cái ấy thành nghệ thuật.
Hãy cứ đi mãi, làm việc mãi đừng nghĩ đến đích. Chỉ
riêng tìm thấy chút cái đẹp mong manh, cũng là cả một quá trình mệt nhọc của
người nghệ sĩ.
Khi vẽ là chúng ta sử dụng cái hữu hình để nói cái
vô hình. Sa lầy vào lý luận, cảm xúc văn học, là rất nguy hiểm.
Nhìn hình phải rõ hơn. Vẽ thế nào để người ta thấy
cây này khác cây kia.
Chủ yếu là do con mắt, nhìn hình chắc, thì nét vẽ
chắc, màu chắc.
04.05.1979
Thời kỳ Van Gogh (2) Gauguin (3) và Cézanne (4)...
họa sĩ bắt chước thiên nhiên một cách trực tiếp. Còn đến Picasso trở đi, thì
làm ngược lại. Trước kia khung tranh là một cái cửa sổ, bên trong là thiên
nhiên. Nay thì tranh là tranh. Trước kia tạo không gian ba chiều trên mặt
phẳng, nay chỉ có hai chiều vì nó thật hơn.
Thấy mình đã là một bước tiến bộ lớn (5). Nhưng thấy
mình, phải tự vượt lên mình. Không bị cái thấy ấy chi phối, thì mới giải thoát
được. Học vẽ là phải tự mình suy nghĩ, tự mình đi. Cứ soi vào tâm mình thì
không bao giờ lạc lối. Nghệ sĩ chân chính thì không bao giờ lạc lối cả. Vì khi
anh tìm tòi, thì lạc vào đâu cũng thú vị. Cho dù lạc vào địa ngục, cũng là thấy
được địa ngục. Vì anh luôn luôn đi tìm một cách vô tư trong sáng. Cái học nguy
hiểm nhất là đi theo đuôi người khác, hoặc lạc vào tiền tài danh vọng.
Bắt chước thiên nhiên là để nắm qui luật thiên
nhiên. Và từ đó sáng tạo ra một cái khác mạnh mẽ hơn thiên nhiên. Trước kia
người ta làm cánh như con chim cũng bay được một ít. Nhưng đấy chỉ là cái vỏ bề
ngoài, không có lực bay nội tại. Do đó còn thua một con chim chích nữa. Cũng
bắt chước chim và thiên nhiên, người ta làm ra máy bay, tên lửa. Việc bắt chước
ấy là một tiến bộ khác hẳn.
Mỗi bức tranh là một cơ thể sống. Nó có cuộc sống
riêng của nó. Nó sẽ tác động đến người xem khác nếu họ có sự đồng cảm.
Hỏi: Về cách đi trong học tập và sáng tác thì
phải vẽ chính xác rồi mới tìm tòi?
Đáp: Đặt
vấn đề như vậy là đúng, nhưng không nên quá cứng. Những bước chuyển lớn, phải
tự mình quyết định. Vì mình biết mình rõ nhất.
Với trừu tượng, chữ Hán là một thứ trừu tượng. Người
Á Đông đi thẳng vào trừu tượng, và là người đi trước.
19.09.1979
Công của nghệ sĩ là rửa mắt cho công chúng. Cho công
chúng nhìn sáng hơn, rõ hơn, và mới hơn. Muốn vậy nghệ sĩ phải có con mắt mới,
cái đầu mới. Một quan niệm, một đầu óc quá cổ điển không có lợi cho sáng tác.
Nghệ sĩ dùng qui luật nhỏ của riêng mình để mò mẫm
tìm qui luật lớn.
Với chất liệu sơn mài, hoặc chất liệu khác cũng vậy,
không được bắt nó phải theo mình, mà phải tôn trọng chất liệu, hiểu nó và nương
theo nó mà điều khiển.
Trên một tấm vóc (6), một tấm tole (7), hoặc một tờ
giấy, nghệ sĩ được tự do tuyệt đối, không có tự do vì nghệ sĩ tự trói mình bằng
những thành kiến quy tắc nào đấy.
Hỏi: Nên sử dụng kỹ thuật trong sáng tác như thế
nào?
Đáp: Giải quyết kỹ thuật là giải quyết đi đến
hoàn chỉnh, thỏa mãn về mọi mặt trên bức tranh của mình. Chưa thỏa mãn thì còn
phải tìm, phải làm tiếp.
Tác phẩm nghệ
thuật cũng như mặt trăng. Trên sông, hồ, cũng soi bóng trăng. Trên chén nước,
cũng soi bóng trăng.
Hỏi: Hội
họa là gì?
Đáp: Hội
họa là nghệ thuật tạo hình. Cái gốc của nó là tạo hình. Tranh trừu tượng cũng
là tạo hình. Hình rất đa dạng. Một nét, một phẩy cũng là hình. Màu sắc và hình
không nhất thiết gắn với nhau như phái Ấn tượng đã vẽ.
Chữ Hán là một
dạng tranh trừu tượng. Từ cái hình gần với thực tế, nó được tinh giản thành
những tín hiệu.
Tôi đã đọc bản
dịch thơ Tô Đông Pha viết: “không muốn vẽ
cỏ cây, hoa lá, hoặc người, vì những cái cụ thể ấy trói buộc cảm xúc.”
Nhưng tìm bản chính để đọc, thì không thấy.
Tranh phong
tục địa phương hoặc phong cảnh cản trở nghệ sĩ truyền cảm xúc đến những người
xem ở các nước khác (8).
Trong nghệ
thuật không nên cố ý. Có hai câu thơ:
“Cố ý trồng
hoa không nở
Vô tình cắm
liễu liễu sum xuê” (9)
Nói chung là
“sắm xe đạp của riêng mình (10) cho tốt để đi chơi.”
Chân, Thiện,
Mỹ là một, không có đầu có cuối. Mọi cái gì đạt đến tuyệt đối đều có những thứ
ấy.
29.04.1980
Nghệ thuật là
phương tiện để nâng con người mình ngày càng tốt hơn.
Nhật vẽ tranh
trừu tượng ngang hàng với Âu Châu. Họ vẽ bằng sơn dầu.
Hỏi: Năm
1960, bác sang Nhật mua vật liệu sơn mài. Bác thấy người Nhật họ vẽ sơn mài như
thế nào?
Đáp: Không
có gì đặc biệt.
Hỏi: Vì sao
Nhật là nước có truyền thống vẽ sơn mài lâu đời, họ có những tranh sơn mài cổ
nghệ thuật rất cao, mà lại không sử dụng nó trong nghệ thuật hiện đại?
Đáp: Có lẽ
do thành kiến (11).
Bắt đầu vẽ sơn
mài là đã vẽ trừu tượng rồi. Vì nó không thực như ngoài đời. Họa sĩ sơn mài
nhìn vào tâm bên trong, chứ không nhìn vào cái vỏ bên ngoài của sự vật.
Sở dĩ sơn mài
ngả về vàng son, vì sơn mài ngả về âm nhiều hơn, như các màu trong không gian
đình chùa, cung điện.
Sơn mài vẽ
nhiều vì càng vẽ càng “nghiện.” Mà mỗi ngày lại càng “nghiện” nặng hơn. Và điều
ấy thì không có chất liệu nào có thể thay thế được.
Vẽ là một loại
hình sinh hoạt đặc biệt, khác với mọi cái thông thường, nói là giàu rồi mới vẽ
là không phải.
Tranh sơn mài
có kỹ thuật riêng. Vẽ sơn mài mà nhìn bằng thói quen của sơn dầu là không được.
Sơn mài Việt
Nam là kỹ thuật mới mẻ. Nó có cách giải quyết riêng, cách vẽ riêng của sơn mài.
Không nên lấy
chất liệu này để phác thảo chất liệu kia. Vẽ lụa nhiều, sẽ tạo thói quen làm
việc không tốt. Trong học tập, sáng tác, nếu “khéo quá” thì chậm tiến
bộ.
Họa sĩ không
làm việc để minh họa triết gia nào. Nghệ sĩ lúc sáng tác có những suy nghĩ
riêng. Không nên bận tâm về việc giải thích hoặc mổ xẻ sáng tác như các nhà
văn, nhà phê bình.
Một họa sĩ nếu
không hiểu, không vẽ được sơn dầu, thì cũng không thể hiểu, không thể vẽ được
sơn mài.
01.08.1980
Vì tôi làm
việc bị lỗi lầm nhiều nên mới tiến bộ. Còn vẽ khéo quá, thì chậm phát triển.
Nếu không có
cụ I (12) và bác phó Thành thì cũng không có sơn mài của tôi.
Công đức của
cụ I lớn lắm.
Ngày xưa khi
thấy tôi làm sơn mài, cụ I là họa sĩ sơn dầu không sao hiểu được vấn đề “Thời
gian” trong cách vẽ sơn mài. Cụ rất thích sơn mài, rất muốn vẽ thử, nhưng cứ
mỗi lần cụ nhìn thấy sơn ta nó lại “ăn”
(13) cụ, nên đành phải thôi.
Mỗi bức tranh
sơn mài, là tự mình đề ra một bài học để giải quyết: nét, độ chuyển của nét, thay
đổi màu nền, đen trên son, đỏ trên đen, đen trên bạc v.v...
Hội họa gần
với tôn giáo vì nó xuất phát từ tâm người ta. Nó không phải làm bằng óc hay
bằng tay.
Phải làm
nhiều. Tập điều khiển sơn mài. Chú ý đến những biến chuyển đậm nhạt của chi
tiết nhỏ trên tranh.
Mỗi họa sĩ là
một thế giới riêng biệt, không ai hiểu hết mình được.
19.11.1980
Làm nghệ thuật
điều chính yếu nhất là thành thật. Cái hại nhất là giả với mình. Phải làm việc
nghiêm túc, có khi đến khắc nghiệt với chính mình. Làm hàng trăm cái hỏng để
chỉ lấy nửa cái được, hoặc một cái được. Người nghệ sĩ không bao giờ tự thỏa
mãn.
Chất liệu
chiếm một nửa người nghệ sĩ. Phải yêu chất liệu, như yêu vợ mình, thì mới có
con là tác phẩm. Mỗi chất liệu có đặc điểm riêng. Phải nắm được tính chất riêng
của nó. Ví dụ: độ dày mỏng của sơn dầu. Với sơn mài thì lại yêu cầu phẳng, độ
bóng, hoặc bằng bất kỳ cách nào, miễn là đạt được hiệu quả nghệ thuật. Khi có
điều gì chưa đạt, người vẽ áy náy, tìm cách khắc phục. Cho đến khi tạm thỏa
mãn, hoặc thỏa mãn với bức tranh ấy.
Giữa phác thảo
và tác phẩm là quá trình liền một mạch. Phác thảo chỉ là sự chuẩn bị kỹ lưỡng
cho tác phẩm. Ngoài ra, còn phải tính bước thực hiện để cho đạt hiệu quả. Hội
họa là một phương pháp thiền.
Có người bảo “ông
đã hòa cảm xúc tâm hồn của ông vào trong tranh.” Họ coi tâm hồn là
một chất gì đó sền sệt, có thể đem nghiền trộn vào màu, rồi bôi lên tranh!
Chính vì họa
sĩ muốn biết và thấy cái tâm mình, nên mới tìm tòi làm việc. Vì không biết nên
mới vẽ.
Đối với hội
họa trừu tượng, cũng không nên phân biệt với các môn phái khác. Nó cũng chỉ là
phương tiện để họa sĩ tìm cái thật. Hội họa trừu tượng khó là vì họa sĩ không
có chỗ dựa vào mẫu thực. Từng chấm, từng nét trong tranh trừu tượng cũng có
hình riêng và là một với toàn thể tranh. Chi tiết cũng như những giọt sương.
Nhưng mỗi giọt đều soi ánh mặt trời. Mọi chi tiết trong tranh đều chịu một sự
kiểm soát ngang nhau.
Pollock (14)
vẽ trừu tượng là ông “lên đồng,” nhập thể, tự mình là một với bức tranh. Mọi
cảm xúc cuộc sống đều hiện lên đấy.
Học vẽ giống
như người đi xe đạp, mới lên thì chuệnh choạng, nghiêng ngả, sau đó lấy lại
được thăng bằng và cứ thế đạp thẳng đi được.
Vẽ là tự mình
làm việc, tự mình khám phá, rút kinh nghiệm. Không phải cứ vẽ ngoằng, ngoằng,
là được. Mà mỗi nét, mỗi hình, đều suy nghĩ để đạt hiệu quả, tưởng như “vô
tâm,” tự nhiên như một hơi thở.
Những tranh
thấy như đơn giản của Nhật, là cả một sự công phu mới đạt được. Hoặc ví như có
người không biết uống trà theo “Trà Đạo” của Nhật, thì cho là nhạt. Cái nhạt ấy
cũng phải luyện.
Sự sai lầm
cũng như thành công có giá trị ngang nhau. Vì nó đều có công dụng: thúc đẩy
người nghệ sĩ đi tới.
Đọc sách thì
nên đọc thẳng vào bản gốc của các tác giả, tránh đọc những tác phẩm trung gian.
Học hội họa, nên tránh đọc những bài viết về hội họa của các nhà phê bình.
Sáng tác, có
lúc như trong mơ. Người vẽ không suy nghĩ, mà chỉ làm. Khi đã nghĩ mình vẽ trừu
tượng, thì bức tranh lại không còn trừu tượng nữa. Lúc ấy sáng tác đã bị phân
hai, giữa tranh và người vẽ tranh.
Tất cả vẫn là
tự nhiên. Khi vẽ để diễn tả ý nào đó, thì đã là minh họa. Mức cao hơn, là biết
chú ý đến bố cục, bút pháp v.v...
Trước thiên
nhiên mình vẫn có thể rút ra cái trừu tượng. Có khi ở cái tướng cụ thể, mà
người ta nhìn thấy trừu tượng.
Vẽ cũng như
ăn. Phải ăn nhiều món thì mới sành, mới biết nấu nướng. Mỗi bức tranh làm xong
đều phải suy nghĩ để rút kinh nghiệm: những hiệu quả cố ý, những cái được, cái
hỏng...
Ngày xưa, thầy
tôi thường nhắc: “Hãy coi chừng thói quen, sự quen tay.” Thói quen tốt
còn được. Thói quen xấu, lâu ngày sẽ nguy hiểm, khó chữa. Hồi xưa thầy tôi đã
hết lòng với tôi.
Khi Nhật chiếm
Đông Dương, máy bay Đồng Minh ném bom Hà Nội. Hai thầy trò ngồi dưới hầm trú
ẩn, cụ I nói với tôi: “Chiến tranh như thế này, thì tôi đành phải từ bỏ Giấc
Mộng Lớn của mình thôi.”
26.02.1981
Tôi không dám
phê bình. Nếu không tôi đã chẳng là tôi. Cái chính ở người vẽ thấy “ngon” hay
không? Vì vẽ là vẽ cho mình, chứ không phải để bán, hay để triển lãm. Mọi sự
phải hỏi mình.
Tranh là “phương
tiện,” như “ngón tay chỉ mặt trăng” (15) của Phật. Có nhiều người
không thấy trăng mà vẫn chỉ, chỉ lung tung.
Phải thay đổi
phương tiện để “đầu óc luôn luôn mới.”
Trước một bức
tranh chuẩn bị vẽ, phải tĩnh tâm và “xua
mọi rác rưởi” (những cái nhớ về tranh người khác đã vẽ và những tình cảm đa
tạp) rồi mới vẽ được.
Khi mình “vô
ngã” thì lúc ấy nghệ thuật mới bắt đầu. Không phải Nguyễn Gia Trí, Trần Văn
Cẩn, Nguyễn Xuân Việt v.v... mà đấy là sơn sống cuộc sống của nó. Cũng như cây
cối trong thiên nhiên, nó thích nghi và sinh trưởng theo điều kiện tự nhiên của
nó, không bắt ép được. Cái gì cũng có tuần tự. Không thể vội. Không thể đốt
cháy giai đoạn được.
Hỏi: Vẽ
trừu tượng có phá mất hình thực hay làm hình thực yếu đi?
Đáp:
Sợ vẽ trừu tượng sẽ ảnh hưởng đến hình thực? Sẽ có ảnh hưởng. Nhưng cũng như
món ăn. Ăn vào sẽ tiêu hóa. Mình không thể trực tiếp thấy nó
tiêu hóa như thế nào.
Ngày xưa, Hokusai
vẽ một bức tranh, lấy guốc dẫm lên, nhổ nước vào tranh, cũng thành hội họa. Có
cái “khí” hội họa thì ngậm màu nhổ vào tranh cũng ra mặt trời. Chứ không phải ở
hoa tay.
“Ngón tay chỉ
trăng” là phương tiện. Không có nó, có khi dùng cây chổi cũng được.
“Cố ý trồng hoa
hoa tàn úa
Vô tình cắm liễu
liễu đơm bông”
Có người vẽ tranh
vui: trồng một cây non, sau lấy một cây que cắm cho dựa, kết quả cây thì héo,
mà que thì lại mọc lá hoa, hội họa cũng vậy.
Hỏi: Nho giáo nói gốc ở “nhân.” Vậy gốc
của người nghệ sĩ cũng là “nhân”?
Đáp: Phải. Vì họa sĩ cũng là người, nhưng
không phải con người bằng xương thịt.
Hỏi: Triết Đông và triết Tây khác nhau như thế
nào?
Đáp: Như cơm và bánh mì.
Vẽ trừu tượng như
người ta lên mặt trăng. Phải chuẩn bị bình dưỡng khí như thế nào, trên ấy nó
khác. Và rồi đất đá trên ấy cũng vẫn là đất đá.
Luyện tập từ những
tranh nhỏ, cũng như luyện viết chữ cho chân phương, sau đó mới có thể viết
những đại tự. Và cũng phải biết tin ở mình.
10.07.1981
Hồi xưa tôi vẽ
tranh trừu tượng, xé giấy ra, rồi lắc xem sự thay đổi. Như thầy bói xem sự thay
đổi của con bài, rồi họ dùng sự liên hệ riêng của mình với thế giới siêu hình
mà phán đoán.
Hỏi: Dùng tay chỉ mặt trăng thì Phật mới chỉ được.
Nếu không phải là Phật thì sao?
Đáp: Đấy là một ví dụ, còn có thể lấy ví dụ khác
như: Nghệ thuật là phương tiện để mình đi vào thế giới chưa từng biết đến.
Mỗi tác phẩm là
phương tiện đã bỏ lại. Người ta thường không thể sáng tạo được phương tiện nên
mua về dùng.
Sự lầm lẫn phương
tiện và cứu cánh dẫn người ta đến sự sai lạc rất tai hại.
Khi sáng tác, cũng
như người làm xiếc, đu đi, đu lại, đến một nhịp nào đó thì buông tay. Lúc đầu
tập bằng cách có bảo hiểm. Khi thuần thục thì không cần sự bảo hiểm nữa.
Khi vẽ sơn mài, có
thể chuẩn bị ra giấy trước. Bắt tay vào tranh thì dùng sơn vẽ. Cũng như không
thể dịch hết cái đẹp của thanh, sắc thơ, từ ngôn ngữ này ra ngôn ngữ khác.
Ta không “dịch” tranh từ giấy ra sơn mài. Vì mỗi
chất liệu có đặc tính và cuộc sống riêng.
Sáng tác như
sinh đẻ. Nếu không ham muốn thì không thể có tác phẩm.
Đi sâu vào một
ngành thì có thể hiểu được ngành khác. Triết học là cái gốc, từ đây có thể hiểu
cái khác. Đọc kinh rất khó, phải có người hướng dẫn đúng đắn thì may ra mới
hiểu được.
Phải hiểu rõ
bản chất của sơn thì may ra mới có thể điều khiển được nó.
26.09.1981
Tranh sơn mài
để càng lâu càng tốt. Khi mài và đánh bóng sơn, vàng bạc không bị đi mất.
Sơn cũng có
cuộc sống riêng của nó: cũng trẻ, già, chết (16). Vẽ sơn mài có cái lý riêng
của sơn mài.
Khi vẽ là lúc
mơ, lúc tỉnh, lúc ngất đi. Không ai vẽ lại giấc mơ.
Ý định của một
bức tranh biến chuyển không lường trước được. Dù thế nào cũng giữ cho được chí
ban đầu. Cũng như cuộc sống con người, có nhiều cái không định trước được.
Tranh không có ý gì cả.
Vẽ sơn mài
khó, nên phải tập cái khó. Người nghệ sĩ không được dễ dãi, nên gặp việc khó,
càng tốt. Đó là cách thử thách ý chí của mình.
Cũng như lội
bùn và leo núi, các chất liệu khác so với sơn mài, cũng vậy. Có biết khổ, mới
biết sướng. Có biết xấu mới biết đẹp.
Trong những
tranh trừu tượng, phải biết chọn ra những chỗ đẹp để phát triển. Cũng như người
nấu ăn phải biết vị thức ăn của mình nấu.
Tranh không
phải chỉ có hai chiều, mà còn có chiều sâu nữa, chiều sâu của tác giả.
Hồi xưa thời
còn đi học, có một lần tôi làm phác thảo sơn mài mãi không được. Mỗi ngày cụ I
vào lớp nhìn thấy bài lại lắc đầu. (Cụ I dạy vẽ rất ít nói, thường chỉ “gật”
và “lắc” rồi chỉ vào chỗ được hay chưa được trên tranh). Sau một tuần
làm bài cụ hỏi tôi: “Vẽ cảnh Hòn Gai đấy hả?” Vì trời đen, đất
đen. Lúc ấy giống trong Thiền nói “Ngộ.” Tôi tự hỏi: “Sao ngói
đỏ, tường trắng, mà trời đen, đất đen?” Và tôi chợt hiểu ra: sơn mài
có cái “lý” riêng của nó. Sơn mài khác hẳn sơn dầu.
Có làm sơn mài
mới hiểu “matière” (1). Trước tôi cứ nghĩ “matière” là vẽ quả
táo, phải có chất như quả táo thực. Chất, không phải chất của vật. Làm tranh
với các chất liệu khác đều tốt, nếu mình coi nó là bài tập.
Những người
giỏi về kỹ thuật thường ít óc sáng tạo. Vì óc sáng tạo là cái gì mềm yếu, non
nớt. Khi nó bị dày đặc, bị rắn lại, thì sẽ khô cứng và chết (18).
Trong văn học
nghệ thuật nói chung, hội họa luôn luôn đi trước. Ví dụ họa sĩ sáng tác ra
chiếc áo dài, rồi người ta mới làm văn làm thơ, làm bài hát về chiếc áo dài...
(19)
Chất liệu hội
họa là vật chất. Nghệ sĩ phải biến nó thành nghệ thuật, thành chính linh hồn
mình.
Tập phân biệt
các độ đen, độ son. Mỗi bức tranh là một bài tập. Phải biết yêu và sung sướng
say mê những khó khăn lúc làm tranh. Không phải chỉ yêu tác phẩm đã hoàn thành.
Cách làm nhiều
tranh sơn mài cùng một lúc cũng được. Tùy theo mỗi người, có người dễ, có người
khó. Cũng như những diễn viên làm xiếc, họ có thể cho cùng quay mười chiếc đĩa
trên các đầu que.
Mỗi tranh của
tôi chỉ là bài tập tôi tự đặt cho mình. Nếu nói ra như vậy có lẽ họ sẽ không
mua.
Người mua
tranh, phần nhiều chỉ là mua một chữ ký đã nổi tiếng.
Mọi sự ở trong
tác phẩm, chỉ một mình người đẻ ra tác phẩm biết.
09.10.1981
Mỗi vật đều có
cái lý của vật ấy.
Bề mặt, phần
ngọn của nghệ thuật, cũng như thiên nhiên, có muôn ngàn thứ. Vậy cái chính yếu:
cần phải thấy cái “lý” bên trong.
Dùng vỏ trứng,
phải có sáng tạo, nếu chỉ để thay màu trắng bằng trứng, thì không có vấn đề gì
đặc biệt cả.
Vẽ sơn mài có
định trước, nhưng có những cái đẹp tự nhiên xuất hiện, thì phải biết giữ lại.
11.12.1981
Sơn mài, sơn
dầu là hai thế giới khác hẳn nhau. Không thể lấy cái đẹp tạo hình bên này mà
tạo hình bên kia. Không thể chắp vá mà được. Nó phải nguyên phiến. Nó phải là
nó, không pha tạp.
Nhanh chậm
không thành vấn đề, bởi thời gian ở trong tâm ta. Có thể vẽ xuôi, vẽ ngược,
đằng nào cũng được. Vì vẽ cũng như nét chữ của ta. Khi ta nhập thể, nó chính là
ta, ta chính là nó. Khi ấy những sai sót vi tế nhất ta cũng phân biệt được. Như
người chỉ huy một giàn nhạc giao hưởng có thể phân biệt được từng nốt nhỏ bị
lạc điệu.
Tranh phải bỏ
hết ý đi. Vì cố ý làm là đã có một khoảng cách giữa ta và chất liệu. Mà việc cố
gắng thể hiện ý lại tạo một khoảng cách lớn hơn nữa.
Nhập thể cái
toàn thể bao giờ cũng vậy, không phải ta chú ý đến cái nhỏ mà nó thành. Bao giờ
cũng nhìn toàn bộ, nhìn cái lớn.
Vẽ sơn mài mới
hiểu được thời gian, hiểu cuộc sống. Sơn mài là phương tiện để ta sống và nó
cũng là cứu cánh. Đến lúc nào đó hai cái nhập vào làm một.
Cái gì là
phương tiện thì cái ấy không thể là cứu cánh. (20)
Sống đúng,
sống đủ, thì khi ta chết đi ta thấy mình đã làm đúng, làm đủ, không để uổng phí
cuộc đời mình, ta có thể chết thanh thản.
Cái sống và
cái chết, cũng như màu trắng và màu đen. Hai cái ấy ẩn hiện, đan xen vào nhau,
như đậm nhạt trong một bức tranh, nó là một.
Không nên nói “Với
hạnh phúc của người nghệ sĩ, thì hạnh phúc của người bình thường thấy thật đáng
thương.”
Nói như vậy là
cao ngạo. Vì mình không thể biết trong tâm người ta như thế nào. Tốt hơn hết là
sống giản dị. Vì cao ngạo lắm có ngày sa xuống thấp.
Tôi không vẽ
gì cả. Người khác vẽ, chất liệu tự nó vẽ.
Cả đời tôi làm
sơn mài, tôi chỉ muốn chứng minh cái dụng đối với hội họa của nó. Vì thấy chất
liệu quí mà người ta bỏ, hoặc cười chê, khinh thường nó.
Người ta phụ
thuộc chất liệu, phương tiện nhiều lắm. Chất liệu sơn mài đẹp và có nhiều ngẫu
nhiên. Nhưng cái khó, là mình, chứ không phải là vật. Mình khó tính, không thỏa
mãn với cái làm được, bắt mình phải đi đến một cái khác khó khăn hơn.
Về bố cục và
vẽ bốn phía, không phải là mình quyết định hết đâu.
Xước tranh,
xem nghiêng bốn phía thì sẽ thấy hết. Đánh bóng, vết xước sẽ rõ hơn.
Tôi có thể vẽ
mãi.
Cứ vẽ, không
cần biết nó là hình gì, sẽ chỉnh sau.
01.06.1982
Nhà bác học
cũng phải là một triết gia nhìn vấn đề mới lớn, nếu không chỉ là một nhà toán
học bình thường.
Bắt rất nhanh
một thoáng nhỏ đến trong óc. Một bức tranh, toàn thể phải được vẽ một hơi. Các
chi tiết cùng xuất hiện trên bất cứ điểm nào. Nếu cái mặt vẽ một tiếng, mà bàn
tay vẽ năm phút, thì đấy là sự thiếu nhất quán.
Kết thúc một
bức tranh sơn mài là một cái chớp mắt cuối cùng. Cũng như nhạc sĩ sáng tác nghe
toàn bộ bản nhạc trong chớp mắt, họa sĩ cũng vậy.
Để luyện tập,
phải tập vẽ nhanh.
Hội họa chuyển
động (Action Painting) của Pollock: một vệt sơn rơi thẳng, một vệt sơn vẩy
ngang. Bụi sơn từng chấm nhỏ trong tranh, nếu soi kính hiển vi, cũng thấy sự
sống vận động trong đó.
Vẽ sơn dầu dễ
gây cho họa sĩ bệnh hời hợt. Vẽ sơn mài luyện được sự bền bỉ, cùng sống với
tranh.
Nếu thành
chuyên môn hóa về dessin, ký họa, phác thảo, thì không đi đến đâu cả, vì chất
liệu nó chỉ có đến vậy. Chất liệu càng rộng thì càng khó.
Trên tranh sơn
mài hoặc sơn dầu, một nét vẽ ngập ngừng, một nét vẽ bay bổng, đều nhìn thấy.
“Tự giác, giác
tha.” Phải hiểu sâu hơn. Ta chỉ là một chấm
nhỏ, tự giác là rất khó, còn giác tha, thì rộng lớn mênh mông.
Đọc thẳng vào
kinh Phật, ít quan tâm đến cái nền triết Ấn. Chỉ biết được cái nhà cũng khó
rồi.
Cách sống của
đạo Phật chỉ đơn giản là làm việc gì cũng “lợi ta, lợi người.”
Bớt đọc sách
đi, loạn chữ. Đọc sách nhiều có hại. Đọc sách như uống rượu để kích thích sáng
tạo.
Không có bức
tranh nào gọi là xong cả. Tất cả đều là phác thảo (21).
Làm sơn mài
bận bịu như nuôi con mọn vậy. Cả đời làm sơn mài cực nhọc như tù khổ sai chung
thân. (22)
Chú thích:
(1) Họa sĩ
Nguyễn Sáng cũng có lần nói với tôi: vẽ là phải thay đổi, tìm tòi nhiều hình
thức “nhưng cái chính là đừng để mất phương hướng” (Tất cả chú thích
phần ghi chép của họa sĩ Nguyễn Xuân Việt).
(2) Họa sĩ Hòa
Lan (1853-1890)
(3) Họa sĩ
Pháp (1848-1903)
(4) Họa sĩ
Pháp (1839-1906)
(5) Khi tôi
hỏi: “Bao giờ thì một họa sĩ thấy mình,” ông trả lời ngay “Thấy mình
thì chết rồi còn gì!” Sau đó ông nói tiếp câu trên.
(6) Gỗ bọc
vải, bọc sơn để vẽ sơn mài.
(7) Vải căng
trên khung gỗ để vẽ sơn dầu.
(8) Họa sĩ
Mondrian cũng nói: “Nhân loại chỉ gặp nhau ở những gì phổ quát.”
(9) Hai câu
thơ này ở trong tác phẩm của Kim Dung, được ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần, có
khác chữ.
(10) Kỹ thuật
riêng.
(11) Họa sĩ
Nguyễn Gia Trí bắt đầu say mê sơn mài khi thấy tranh của họa sĩ Trần Quang
Trân. Và chính họa sĩ Trần Quang Trân đã có thời gian sang Nhật Bản nghiên cứu
kỹ thuật sơn mài cổ truyền Nhật đem áp dụng vào sáng tác sơn mài hiện đại ở
Việt Nam.
(12) Họa sĩ
Joseph Inguimberty hoặc gọi một cách thân mật là cụ I, như bác phó Thành (nghệ
nhân sơn mài) mà Sinh viên trường CĐMT Đông Dương thường gọi.
(13) Bị dị
ứng, sưng mặt, tay chân...
(14) Jackson
Pollock, họa sĩ Mỹ (1912-1956)
(15) Phật chỉ
sự khác biệt giữa phương tiện và cứu cánh trong kinh “Thủ Lăng Nghiêm.”
(16) Ông nói
câu này để giải thích: vóc sơn mài phải để lâu cho sơn hết rút, mặt tranh sẽ
phẳng mịn, không bị lên sớ gỗ.
(17) Chất của
tranh.
(18) Có một
lần, tôi đưa ông xem một tranh sơn mài của tôi đẹp, mà không sâu. Ông dẫn tôi
ra vườn chỉ một giò phong lan mới ra hoa, cũng có cái đẹp như vậy: trơ, không
hương. Ông im lặng, chỉ vào các đầu chùm rễ phong lan xanh non. Có lần ông chỉ
vào một chi tiết đẹp ở tranh “Vườn Xuân Trung-Nam-Bắc” và nói: “giữ
lấy cái mới” và ở một chỗ chưa đẹp thì ông nói: “Phải biết chịu đựng cái
xấu.”
(19) Thời Phục
Hưng ở Ý Michelangelo (1475-1564) là một họa sĩ, nhà thơ, kiến trúc sư, kiêm
điêu khắc gia nổi tiếng đã nói: “... ai suy nghĩ cẩn thận và hiểu biết rõ
việc làm của con người sẽ thấy ngay rằng mọi công trình của con người không gì
ngoài hội họa hoặc là một bộ phận của hội họa.”
Ngày nay E.
Powell (giám đốc bảo tàng quốc gia Mỹ) cũng nhận thấy: “Những yếu tố biểu
hiện và những thủ pháp nghệ thuật đã làm cho mỹ thuật trở thành trung
tâm kinh nghiệm của con người.”
(20) Cách nói
của ông cũng như tranh của ông luôn hướng đến một cái gì đó huyền diệu khó nắm
bắt có khi tưởng như mâu thuẫn. Có lần ông nói bâng quơ “Từ cái mù mờ sinh
ra cái không mù mờ.”
(21) Ông không
bao giờ thỏa mãn với một tác phẩm nào. Có lần tôi hỏi: “Bác có muốn xem tranh
của bác còn lại trong thành phố hay không?” Ông đáp: “Không. Tôi không
thích xem cái cũ, vì không chữa được.”
Kết thúc tranh
“Vườn Xuân Trung-Nam-Bắc” khổ 2m x 5m4, khi đã 82 tuổi, ông còn muốn tạo
“matière” lan ra toàn bộ khung hoa văn của tranh. Để nó mờ đi, giảm chất trang
trí, và tăng chất hội họa lên. Vì sức yếu ông phải dừng lại và để nguyên như
hiện nay.
(22) Thời gian
sáng tác nhiều, ông phải dậy từ ba giờ sáng, uống trà đọc sách, sau đó chuẩn bị
công việc cho thợ làm. (Khi việc nhiều xưởng vẽ có năm thợ). Buổi tối, ông sửa
chữa tranh mà thợ đã thực hiện đến 10-11 giờ mới đi nghỉ.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2014/01/nguyen-xuan-viet-hoa-si-nguyen-gia-tri.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001