Michael Lüders - Những Ngày Thịnh Nộ - Chương 9
Michael Lüders
Phan Ba dịch
VỀ NHỮNG NGƯỜI GIÀ NUA Ả RẬP SAUDI GIẬT DÂY, CẢ Ở JEMEN
Nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài thì Al Khalifa đã không thành công với cuộc phản cách mạng. Tầm quan trọng về địa chiến lược của Bahrain đã tạm thời bảo đảm cho sự sống còn về mặt chính trị của nó. Thủ đô Manama là căn cứ chính của Đệ ngũ hạm đội Hoa Kỳ trong vịnh Ba Tư. Ở Washington, người ta đã chuẩn bị tinh thần khi bị mất các đồng minh lâu năm ở Tunesia, Ai Cập và Jemen. Nhưng trong vùng Vịnh, chính phủ Mỹ vẫn tiếp tục dựa vào những nhà quân chủ có thể tin cậy được, ngay cả khi vì vậy mà phong trào dân chủ bị chận lại hay còn bị đập tan nữa. Họ thúc giục cải cách ở hậu trường, nhưng không thúc giục thay đổi chế độ. Từ những năm 1970, trọng tâm của những mối quan tâm Phương Tây đã dịch chuyển ngày một nhiều hơn từ Cận Đông, Israel và các quốc gia lân cận, sang hướng Vịnh Ba Tư. Lý do về một mặt là các lợi ích kinh tế, trước hết là sự an toàn cho các mỏ dầu, và mặt khác là ảnh hưởng liên tục lớn mạnh của thế lực trong vùng, Iran, mà sự tự tin đang tăng lên của nó được Phương Tây, nhưng cũng cả các quốc gia Ả Rập vùng Vịnh, xem là một mối đe dọa.
Những gương mặt của cuộc phản cách mạng
Giới lãnh đạo ở Riad không để cho người khác cầu khẩn lâu rồi mới tiến quân vào Bahrain. Nếu như Al Khalifa bị lật đổ, thì việc đấy sẽ thúc giục người Shiite Saudi ở miền Đông của Ả Rập Saudi – ở đấy có trữ lượng dầu lớn nhất của đất nước này– cũng nổi dậy. Cho tới nay, phong trào dân chủ chỉ nhận được một ít hậu thuẫn trong Ả Rập Saudi. Tuy vậy, vua Abdallah đã siết chặt Luật Báo chí Saudi trong tháng 4 năm 2011. Ai quấy rối an ninh và trật tự công cộng, nghi ngờ Luật Hồi giáo Sharia, phê phán các học giả tôn giáo cũng như thành viên lãnh đạo của chính phủ có nguy cơ bị cấm hành nghề và bị phạt tiền cho tới 100.000 euro. Vị vua cũng đưa ra một củ rà rốt kèm theo cây gậy đấy: ông ấy cho thần dân của ông ấy một số tiền thưởng là 130 tỉ dollar, phần nhiều là thêm vào tiền lương. Điều đấy không làm cho người Shiite Saudi bớt bất mãn. Họ bị đàn áp một cách dã man và bị loại trừ ra trong mọi mối quan hệ. Thuyết Wahhab, học thuyết quốc gia Hồi giáo của Ả Rập Saudi, cho rằng người Shiite chỉ tốt hơn cặn bã của loài người một ít. Điều đấy chẳng có gì liên quan đến sự hợp lý cả – công cụ hóa nhóm người, tôn giáo và hệ thống bộ tộc của nhà nước phong kiến chính là vật cản lớn nhất trên con đường tiến đến dân chủ và hiện đại.
Đồng thời Riad nhìn những người Shiite của Bahrain cũng như những người Shiite của chính mình như là đạo quân thứ năm của Teheran, cái phải được chiến đấu chống lại. Thật sự thì giới lãnh đạo Iran cũng cố gắng huy động người Shiite của thế giới Ả Rập về cho họ, nếu như có một xung đột vũ trang giữa Iran và Hoa Kỳ hay Israel xảy ra. Nhưng ở phía dưới của bình diện đấy thì ít có điều gì cho thấy rằng Teheran đi tìm sự đối đầu với Ả Rập Saudi, ngay cả khi cả hai bên đều cố vươn đến quyền thống trị ở vùng Vịnh. Ngoại trừ lời nói thì người Shiite hoàn toàn không nhận được sự ủng hộ nào từ Cộng hòa Hồi giáo Iran. Cũng không, vì giới lãnh đạo Iran không thống nhất trong đánh giá của họ về cuộc Cách mạng Ả Rập. Một phe, mà Tổng thống Ahmadinejad thuộc vào trong đó, đặt nó ngang với cuộc Cách mạng Iran năm 1979 bất chấp mọi bằng chứng. Phái kia, cũng không phải là say sưa với hiện thực, cho rằng nó là một phong trào do Phương Tây điều khiển với mục đích làm suy yếu đạo Hồi.
Cuộc phản cách mạng Ả Rập có ba gương mặt. Các thế lực có nhiều ảnh hưởng của Ancien Régime, như giới quân đội Ai Cập, cố gắng bảo tồn ảnh hưởng và các đặc quyền của họ ở hậu trường. Những nhà độc tài, thích phá hủy quê hương của họ hơn là từ chức, trước hết là Ghaddafi. Và cuối cùng là Ả Rập Saudi, nước cố gắng gây ảnh hưởng đến sự phát triển đặc biệt là trong Ai Cập qua những ngưởi Salafi, những người Hồi giáo cực đoan, can thiệp quân sự như ở Bahrain hay giật dây trong hậu trường như ở Jemen.
Đang gây ra tai họa ở đây là những kẻ già nua chính trị. Giới tinh hoa quyền lực của Ả Rập Saudi, các gia đình khác nhau trong triều đại Al Saud đang cai trị, không thể thống nhất với nhau ai sẽ là người kế tục vua Abdallah 88 tuổi. Người anh em cùng cha khác mẹ của ông ấy và là người làm phó, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Sultan, về phần mình cũng nắm cây gậy quyền trượng một cách khó nhọc với 86 tuổi. Người thứ ba trong thứ tự nối ngôi, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Naif, 76 tuổi, được cho là người đàn ông quyền lực mới, ít nhất là cho thời kỳ quá độ. Ông ấy ủng hộ một đường lối cứng rắn trong cách đối xử với những lực lượng đối lập và ít có thiện cảm với một biến đổi thận trọng, cái mà vua Abdallah được kính trọng đã ban ra cho đất nước đó. Diễn tiến của lần tiến quân vào Bahrain hẳn đã làm cho ông ấy hoàn toàn hài lòng. Thế nhưng không thể chờ đợi ở chính khách loại này các câu trả lời thuyết phục cho những thách thức trong tương lai, nhất là khi nhìn đến những chấn động của thế giới Ả Rập. Sự bất lực của dòng họ Al Saud trong thay đổi thế hệ sẽ trở thành một mối nguy hiểm nghiêm trọng không chỉ riêng cho Ả Rập Saudi.
Người Zaydiyyah và người Mácxít
Cánh tay dài của Riad vươn cho tới tận Jemen, đất nước Ả Rập nguyên thủy nhất và cổ xưa nhất, nếu như có những cực đại như vậy. Trong những ngôi làng hẻo lánh trên núi, cuộc sống ngày nay phần lớn hẳn vẫn còn diễn ra như vào thời của nhà tiên tri. Quá khứ và hiện tại rơi vào lẫn nhau, văn hóa bộ tộc vẫn còn được bảo toàn hầu như không đổi ở đây. Hơn 1000 năm, từ 896 đến 1962, thống trị ở Bắc Jemen là triều đại của người Zaydiyyah. Họ đồng thời cũng đưa ra các học giả tôn giáo của trường phái đạo Hồi cùng tên. Nói cho chính xác thì người Zaydiyyah là một nhóm bộ tộc trên núi trong vùng biên giới giữa Jemen và Ả Rập Saudi, những người được xem như là người Shiite, nhưng đứng rất gần Hồi giáo Sunni. Điều này nghe có vẻ phức tạp và nó cũng là như thế. Nói một cách đơn giàn, trong thời đầu của Hồi giáo có những phong trào di cư đặc biệt là từ Iraq sang hướng các quốc gia vùng Vịnh và Jemen. Nguyên nhân là khó khăn về kinh tế hay bị đàn áp về mặt chính trị. Để đừng bị những bộ tộc đã sinh sống lâu đời tại chỗ ám sát, người ta nên mang theo trong hành lý một thông điệp cứu thế, tự giới thiệu mình là những người hòa giải hay bậc thầy. Zaid Ibn Ali Zain al-Abidin cũng làm như thế, người từ Basra trong Iraq lưu lạc tới vùng dồi núi của Jemen, nơi ông ấy thành lập triều cai trị của người Zaydiyyah.
Người ta có cần phải biết những điều đó không? Người ta cần nên biết, bởi vì nguồn gốc nguyên thủy lịch sử của những cuộc khủng hoảng hiện nay nằm ở đây, đặc biệt là với cái nhìn đến cuộc nổi dậy của người Houthi mà sẽ còn nói về họ sau này.
Về mặt chính thức, Bắc Jemen từ thế kỷ thứ 16 thuộc Vương quốc Ottoman, nhưng thật sự thì người Zaydiyyah vẫn nắm giữ quyền lực. Địa hình của đất nước này, núi đồi hiểm trở, sa mạc không thể đi xuyên qua được, bảo vệ nó trước sự thống trị từ bên ngoài, nhưng cũng gây khó khăn cho sự thống nhất về mặt nhà nước, Năm 1962, triều Zaydiyyah bị lật đổ bởi một cuộc đảo chính quân sự, dưới tác động tích cực của Tổng thống Nasser. Người Zaydiyyah lui về miền cực Bắc. Cho tới năm 1970, Ai Cập và Ả Rập Saudi tiến hành một cuộc chiến tranh ủy nhiệm, chấm dứt khi quân đội can thiệp của Ai cập rút quân.
Phần lớn thời gian trong lịch sử rất lâu đời của mình, Jemen bị chia cắt thành Bắc và Nam. Năm 1839, người Anh chiến cứ thành phố Aden và vùng đất xung quanh đó trong Nam Jemen. Họ cần một căn cứ tiếp tế dọc theo các tuyết đường hàng hải và buôn bán đến Ấn Độ – càng bị thúc đẩy sau khi kênh đào Suez khánh thành năm 1869. Sau đi London trao trả độc lập cho Nam Jemen năm 1967, các nhóm Mácxít ở đấy đã giành lấy quyền lực và thành lập “Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Jemen”, cái sống hầu như chỉ nhờ vào tiền viện trợ từ Moscow. Đến cùng với sự kết thúc của Liên bang Xô viết cũng là lần kết thúc của nước Cộng hòa Nhân dân Jemen. Ngay trong năm 1990, Bắc và Nam Jemen đã thống nhất trở thành Cộng hòa Jemen.
Bộ tộc, dầu mỏ và phá sản quốc gia
Qua đó, nhiều vấn đề góp phần cơ bản dẫn đến cuộc nổi dậy của người dân năm 2011 đã bắt đầu. Cũng như đã thường hay xảy ra, đấy là những xung đột bộ tộc, bộc phát ra tại những câu hỏi về phân chia quyền lực và tài nguyên. Aki Abdallah Salih, Tổng thống Bắc Jemen từ 1978, bây giờ trở thành tổng thống của Jemen thống nhất. Salih có nguồn gốc từ thị tộc Ahmar, là thị tộc có tiếng nói quyết định trong liên minh các bộ tộc người Hashid lớn nhất Jemen. Vùng sinh sống của người Hashid nằm ở phía Bắc và Tây Bắc và chồng chéo lên vùng của người Houthi. Các vị trí quan trọn trong nhà nước, hành chính và đặc biệt là trong quân đội đều nằm trong tay của Ahmar/Hashid. Dưới tình hình đã thay đổi, cùng cấu trúc phong kiến của thiểu số đó bây giờ thống trị đa số, cái đã dẫn đến nổi dậy và bạo loạn ở khắp mọi nơi trong thế giới Ả Rập. Không quan tâm đến những đức tính tốt của bộ tộc, mà cao nhất trong số đó là tình hiếu khách, phần lớn các lãnh tụ bộ tộc đều hiểu sự thống trị không gì nhiều hơn là sự bá quyền của nhóm riêng của họ. Các bộ tộc kình địch hoặc là bị khuất phục bằng bạo lực hoặc là bị mua chuộc bằng tiền.
Lần hòa nhập Bắc và Nam Jemen không phải là một sự thống nhất của những người bình quyền mà nhiều hơn là một chuyến cướp bóc trước hết là của người Hashid mà miền Nam, giới tinh hoa bộ tộc ở đó và một lớp thật mỏng của giới trung lưu thành thị có học thức đã phải trả giá. Vì thế nên năm 1994 đã xảy ra nội chiến. Miền Nam cố gắng tái lập nền độc lập của mình, nhưng đã bại trận trước miền Bắc. Thời gian vừa qua, dầu được phát hiện trong miền Nam. Chính phủ trong thủ đô Sanaa, tức là Ahmar/Haschid, không muốn từ bỏ chúng trong bất cứ trường hợp nào. Đối với nhà cai trị lâu năm Ali Abdallah Salih, dầu mỏ là một món quà của Thượng Đế. Nó cho phép ông ấy mua chuộc sự trung thành của các bộ tộc trong quy mô lớn và qua đó ổn định sự thống trị của mình. Ít nhất là cho một khoảng thời gian tròn mười năm. Vì trữ lượng có hạn, khai thác đã giảm dần xuống từ nhiều năm nay. Dầu mỏ là nguồn thu nhập chủ yếu của Jemen, đất nước Ả Rập nghèo nhất. Tổng sản phẩm nội địa trên đầu người chỉ nằm ở 972 dollar – ở Katar, như đã nói, ở 69.000. Trong vòng một năm duy nhất, từ 2008 sang 2009, thu nhập của nhà nước Jemen vì dầu cạn kiệt mà đã giảm mất đến 75%.
Jemen, một đất nước mà người dân của nó trước đây một thế hệ vẫn còn sống trong thời Trung cổ, trên thực tế là đã phá sản. Chính phủ Salih cũng bị dồn đến chân tường tương ứng. Họ thiếu tiền để tiếp tục nắm được sự trung thành. Chính phủ trung ương Jemen lúc nào cũng đã yếu, nhưng ít khi nào yếu như hiện tại. Uy quyền của họ hầu như không vượt quá được thủ đô. Đất nước đang sắp sử phân rã ra thành những lãnh đạo của các trưởng bộ tộc, trở thành một Somalia thứ nhì – ai là tổng thống hay lập chính phủ đều cũng thế. Hai con đường xung đột mang tính quyết định trong lúc đó. Về một bên là cuộc nổi dậy của phiến quân Houthi ở miền Bắc, về cơ bản là hiện thân của các bộ tộc Zaydiyyah thời trước, giới tinh hoa cai trị đã bị tước quyền lực năm 1962. Từ giữa những năm 2000, chính phủ đã hoài công cố gắng dùng quân đội đập tan cuộc nổi dậy. Đầu 2011, phiến quân Houthi chiếm được nhiều phần rộng lớn của Bắc Jemen và kiểm soát thành phố quan trọng nhất trong miền Bắc, Saada. Về mặt khác là phong trào độc lập tái trỗi dậy trong miền Nam, cái thường xuyên có những trận đánh đẫm máu với quân đội chính phủ trong tỉnh Abyan. Thêm vào đó, thiếu vắng quyền lực trung ương đã biến miền Nam Jemen trở thành nơi trốn tránh quan trọng nhất của Al–Qaida sau Afghanistan và Pakistan.
Nước uống, kat và cuộc cách mạng
Qua đó vẫn chưa hết khó khăn. Đất nước này có một trong các tỷ lệ sinh đẻ cao nhất thế giới, dân số đã tăng lên gấp đôi trong vòng 18 năm vừa qua và ngày nay ở khoảng 23 triệu. Phân nửa người Jemen mù chữ, ba phần tư sống nhờ vào nông nghiệp tự cung tự cấp. Tức là nhờ vào những gì mà họ trồng được. Đồng thời bắt đầu thiếu nước. Jemen, quê hương của con đập nước Marib, của công trình xây dựng kỹ thuật lớn nhất thời Cổ đại, ngày nay hoàn toàn không tiến hành trữ nước. Mặc dù thường hay có mưa, nước mưa không được giữ lại trong bể chứa nước hay đập nước, mà thấm xuống đất. Thay vào đó, nước ngầm cổ lại được bơm lên. Ở khắp nơi trong Sanaa, người ta nhìn thấy những cái máy bơm diesel được dựng tạm, bơm nước từ độ sâu hơn 100 mét lên – giữa những năm 1990, ba đến năm mét là đã đủ. Theo tất cả các dự đoán, chậm nhất là mười năm nữa thủ đô sẽ không có nước. Ngay ngày nay, 70 phần trăm hộ dân ở Sanaa được cung cấp nước qua xe bồn, việc mà không ai có khả năng chi trả về lâu dài và buộc những nhà máy công nghiệp ít ỏi ở đấy phải đầu hàng. Thêm vào đó, gần như toàn bộ dân cư nam giới đã qua tuổi dậy thì đều nghiện kat, một loại thuốc phiện phổ thông mà trồng nó hết sức tốn nước. Ngay sau giữa trưa, cuộc sống công cộng trên thực tế là đã ngưng lại, vì người Jemen, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia, tụ lại với nhau và nhai lá kat, cái đầu tiên có tác dụng kích thích, nhưng sau đó lại làm cho đờ đẫn. Kat là hàng hóa thương mại quan trọng nhất sau dầu mỏ. Nó tăng trưởng tốt nhất là ở trên những độ cao giữa 900 và 1500 mét. Cả ở đó cũng được tưới bằng nước ngầm cổ, tiếng kêu của động cơ Diesel là âm thanh thống trị trên cao nguyên. Để giữ giá rẻ cho chất ma túy phổ thông, nhiên liệu Diesel được trợ giá cho tới 80%. Năm 2005, khi chính phủ dự định cắt giảm trợ giá, trong nhiều thành phố đã xảy ra bạo loạn. Song song với đó, mực nước ngầm giảm xuống liên tục, vùng cao nguyên bị sa mạc hóa và thảo nguyên hóa. Theo thông tin của Hội Cộng tác Kỹ thuật Đức (GTZ), thành phố lớn thứ ba, Tais, trong vùng núi nằm giữa Sanaa và Aden, trong vài năm tới đây sẽ thiếu nước tới mức không sống ở đó được nữa. Các chuyên gia lo ngại những dòng người di cư có quy mô như trong Kinh Thánh.
Tình trạng chung không tốt đẹp, để không phải nói là mang tính thảm họa, cho tới mức cuộc cách mạng Jemen dường như là lần bật dậy cuối cùng để ngăn chận sự sụp đổ đang đe dọa. Nó bắt đầu trong tháng 1 năm 2011, song song với cuộc nổi dậy của người dân ở Ai Cập, và diễn ra một cách hòa bình vào lúc ban đầu. Nhưng rồi Tổng thống Ali Abdallah Salih đã dựa vào bạo lực, cũng như những người mà rõ ràng là ông ấy lấy làm gương ở Libya và trong Bahrain. Vào ngày 18 tháng 3, ông ấy đã tạo một biển máu trong số những người biểu tình ở Sanaa: 52 người bị bắn chết, hàng trăm người bị thương. Thế nhưng các cuộc biểu tình vẫn tiếp tục diễn ra và, cũng như trong tất cả các nước Ả Rập còn lại, bao gồm tất cả các tầng lớp xã hội, từ giảng sư đại học cho tới người làm công nhật. Ngoại trừ đảng cầm quyền “Đại hội Nhân dân Toàn quốc” còn gồm cả toàn bộ các đảng khác, người Xã hội và người theo Nasser cũng như đảng đối lập lớn nhất “Islah” (Cải Cách), một tụ điểm của những người Hồi giáo. Tuy vậy, thế hệ Facebook chỉ đóng một vai trò thứ yếu trong Jemen, tương tự như ở Libya. Trong cả hai nước này, giới trẻ thành thị không phải là động cơ của sự biến đổi, mà là các bộ tộc bị loại trừ ra ngoài trong cuộc chia chác tài nguyên và qua đó bị thất lợi.
Sau vụ thảm sát, giới lãnh đạo tôn giáo và cả nhiều phần trong thị tộc của chính Ali Abdallah Salih cũng tách rời ra. Nhiều thống đốc và đại sứ từ chức. Anh em cùng cha khác mẹ của Salih, Ali Muhsin al–Ahmar, tướng hai sao và là người liên lạc với những nhóm Dshihad bạo lực, trong đó có Al–Qaida, tuyên bố từ bỏ người đứng đầu nhà nước và bước sang với phe đối lập cùng với các lực lượng quân đội của ông ấy. Sau 9/11, Sanaa bật đèn xanh cho Washington chống Al–Qaida trong Jemen, nhưng không muốn chính mình bị đứng vào trong tầm ngắm của mạng lưới khủng bố đó. Vì thế nên người ta cũng cố gắng có “quan hệ tốt” tương ứng ở hướng này.
Mặc cho tất cả các cố gắng dàn xếp, người bạo chúa vẫn giữ chặt lấy quyền lực cũa ông ấy. Cũng như Ghaddafi người đối xứng với ông ấy, ông biết rõ mọi mưu mẹo để xúi giục các bộ tộc chống lại lẫn nhau. Lúc đầu, Washington tin rằng không thể từ bỏ được Salih trong cuộc đấu tranh chống khủng bố. Cả Riad cũng không thể quyết định trong một thời gian dài, rằng người ta có nên bỏ rơi ông ấy hay là không.
Các bộ tộc ở Trung Ả Rập, Ả Rập Saudi ngày nay, đã có ảnh hưởng đến sự phát triển của Jemen từ tròn 200 năm nay. Đó phần lớn là những tranh cãi biên giới hay các cố gắng, 1803 và 1926, xâm chiếm những vùng đất màu mỡ ở ven Biển Đỏ của Jemen. Quan hệ của Saudi với Ali Abdallah Salih luôn luôn mâu thuẫn và ngược lại cũng thế. Ngay sau lần chiếm quyền lực năm 1978, Salih đã hoài công cố gắng đẩy lùi ảnh hưởng của Saudi trong lực lượng nòng cốt của quân đội. Raid đã rất bực tức khi ông ấy mua vũ khí có giá trị 600 triệu dollar từ Moscow, mặc dù Liên bang Xô viết cũng cung cấp cho kẻ thù của Bắc Jemen ở miền Nam. Đồng thời, ông ấy hoàn toàn không hề muốn để cho các bộ tộc trong miền Bắc phải trả giá để củng cố chính phủ trung ương. Ông để cho họ hầu như tự trị, việc khiến cho người Saudi vui mừng, những người có quan hệ chặt chẽ với họ theo truyền thống. Chính sách của Saudi đối với Jemen bao gồm trước hết là tạo thu nhập thêm cho càng nhiều chính trị gia, người trong quân đội, lãnh tụ tôn giáo và lãnh tụ bộ tộc càng tốt. Mua người theo mình, nói cách khác.
Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhì 1990/91 để giải phóng Kuwait, Ali Abdallah Salih đứng về phía của Saddam Hussein. Để trả thù, các quốc gia vùng Vịnh, trước hết là Ả Rập Saudi, đã trục xuất hơn một triệu công nhân người Jemen. Nền kinh tế Jemen, cái hết sức cần đến số tiền chuyển về nước của họ, đã không còn hồi phục sau cú đánh đấy. Sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, Salih đứng vào hàng ngũ của cuộc “chiến tranh chống khủng bố”. Do vậy mà chính phủ ở Sanaa nhận được sự giúp đỡ bạc triệu từ Hoa Kỳ và Ả Rập Saudi để chống lại Al–Qaida – từ Ả Rập Saudi vì lật đổ dòng họ cầm quyền Saudi chính là mục đích được Osama bin Laden tuyên bố.
Năm 2009, đứng về phía của chính phủ Jemen, Riad can thiệp bằng quân sự vào trong những trận chiến chống phiến quân Houthi nhưng không thành công. Từ nỗi lo ngại, rằng người Zaydiyyah và người Ismali (một giáo phái Shiite khác mà người đứng đầu là Aga Khan) ở trong tỉnh Nadshran ở miền Tây Nam Saudi có thể liên kết với cuộc nổi dậy. Nhiều người trong số họ nguyên thủy xuất phát từ Jemen.
Về mặt chính thức, giới lãnh đạo Saudi cũng ít bình luận về lần nổi dậy của người dân trong Jemen cũng như về những cuộc nổi dậy khác trước đây trong thế giới Ả Rập. Nhưng sự thay đổi ý kiến về Salih hiện rõ nét một cách gián tiếp trong đài Al–Arabiya do Saudi tài trợ. Đài truyền hình vệ tinh này làm ngơ hoàn toàn trước cuộc nổi dậy ở Bahrain, nhưng tường thuật chi tiết về láng giềng ở phía Nam – dưới biểu trưng “Biến đổi trong Jemen”.
Sau một vụ mưu sát, Ali Abdallah Salih bị trọng thương phải bay sang Riad chữa trị vào ngày 5 tháng 6 năm 2011. Có ít điều ủng hộ cho việc người Saudi sẽ cho phép ông ấy trở về lại Jemen – ngay cả khi ông ấy cương quyết không từ chức tổng thống. Tình hình Jemen vì thế vẫn phức tạp và dễ bùng nổ. Hai trận tranh giành quyền lực chồng chất lên nhau: về một mặt là cuộc tranh giành giữa gia đình của tổng thống, kể cả lực lượng an ninh do họ thống trị, cũng như các lãnh tụ Hashid và những phần ly khai của thị tộc Ahmar. Mặt khác là giữa chính phủ và người dân. Kết cuộc vẫn còn chưa rõ.
Michael Lüders
Nhà xuất bản C. H. Beck
Phan Ba dịch
Admin gửi hôm Thứ Tư, 24/04/2013
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20130424/michael-luders-nhung-ngay-thinh-no-chuong-9
======================================================================
Michael Lüders - Những Ngày Thịnh Nộ - Chương 10
Michael Lüders
Phan Ba dịch
NGƯỜI HỒI GIÁO KẾT CUỘC LÀ NGƯỜI CHIẾN THẮNG?
Không có gì bền vững hơn là sự biến đổi, nhà viết bi kịch người Ai Cập có lẽ là nổi tiếng nhất Tawfik al–Hakim (1898 – 1987) cũng biết điều đó. Cuộc Cách mạng Ả Rập không chỉ làm biến đổi chính trị và xã hội. Nó cũng có ảnh hưởng mang tính quyết định đến mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, đạo Hồi và cai trị. Cũng như mối quan hệ đến tín ngưỡng. Sự cá nhân hóa trong các thành phố lớn Ả Rập diễn tiến càng nhiều, sự “công dân hóa” thay thế các cấu trúc và khuôn mẫu suy nghĩ càng nhiều, thì sự cộng hưởng với các cách đọc phi mê tín kinh Koran càng lớn, các lối sống càng tự do hơn. Quá trình này đã được thể hiện ở ví dụ của những nhà giảng đạo trên truyền hình và các ứng xử có định hướng life–style của thế hệ Facebook với đạo Hồi. Có một điều mà cuộc Cách mạng Ả Rập chắc chắn không là: một cuộc nổi dậy mang tính tôn giáo, một cuộc nổi loạn Hồi giáo. Hầu như không nhìn thấy hay đọc được những câu khẩu hiệu của người Hồi giáo. Các câu khẩu hiệu thường gặp nhất, “Kifaya!” (“Đủ rồi!”) hay “Irhal!” (“Cút đi!”) rõ ràng là phi tôn giáo. Những người anh hùng của cuộc cách mạng không phải là Hassan al–Banna, người thành lập Huynh Đệ Hồi giáo, hay người kế tục ông ấy Sayyid Qutb, nói chi đến Osama bin Laden. Các tấm gương cũng được chọn lựa một cách tự phát hơn, trong số đó là nhà điều hành Google người Ai Cập Wael Ghonim, người đã tường thuật lại trên Facebook về cái chết của một người dùng Internet trẻ tuổi trong tay của cảnh sát Alexandria và vì thế mà tí nữa thì đã bị cảnh sát mật của Mubarak tra tấn cho tới chết. Thời của những hệ tư tưởng lớn, có là Chủ nghĩa Dân tộc hay Chủ nghĩa Hồi giáo đi nữa, đã chấm dứt. Đồng thời, đạo Hồi chính trị cũng tự biến đổi mình, tách rời khỏi một đạo luật Hồi giáo Sharia được hiểu theo cách giáo điều và biểu lộ sự sẵn sàng đón tiếp các ý tưởng và liên minh mới.
Không ai có thể tiên đoán trước diễn tiến tiếp tục của cuộc Cách mạng Ả Rập. Nó sẽ bám rễ trong một vài nước, bị nghiền nát trong những nước khác hay phải đi đến những thỏa hiệp đau đớn với giới Anciens Régimes [chính quyền cũ]. Nhưng có một cái đã biến đổi không thể đảo ngược lại được nữa: nhận thức. Người Ả Rập đã trải nghiệm được rằng họ có thể làm thay đổi diễn tiến của lịch sử. Trong quá khứ, cá nhân bao giờ cũng phải phục tùng người cai trị mình. Phê phán là đồng nghĩa với bất tuân lệnh hay còn là báng bổ nữa và bị đàn áp không thương xót. Với cuộc cách mạng, xã hội và mỗi một cá nhân lần đầu tiên đã thắng được những kẻ cầm quyền trong các đòi hỏi quan trọng về tự do và công bằng. Người là thần dân đã tự giải phóng mình. Ông ấy trở thành người công dân. Thời của những con người già cả đứng đầu các cỗ máy quyền lực được điều khiển bởi mật vụ đã bắt đầu đổi thay. “Allah, Muammar, Libya – chúng tôi không muốn nhiều hơn!”, những người theo Ghaddafi gọi to. “Với máu của chúng tôi, với linh hồn của chúng tôi – chúng tôi hy sinh cho Người, Saddam!” Hay là cho một lãnh tụ nào khác. Những câu khẩu hiệu được đạo diễn từ trên xuống như thế ngày càng ít phù hợp hơn với thời kỳ này.
Một sự thật không chứng minh được
Sự biến đổi từ một xã hội phong kiến sang một xã hội công nghiệp dịch vụ hiện đại diễn ra rộng lớn chừng nào thì những sự nhận diện tập thể mất đi nhiều chừng đó. Hiện đại hóa lúc nào cũng có nghĩa là cá nhân hóa. Các mẫu mực và truyền thống gia trưởng được nhìn với một con mắt khác đi. Ảnh hưởng của tôn giáo giảm xuống. Nó đánh mất lực tạo chuẩn mực của nó. Life–style thay thế ý thức hệ. Chủ nghĩa khoái lạc không thể đi cùng với Dshihad. Ngay một cái nhìn hời hợt đến lịch sử châu Âu cũng cho thấy rằng cả ngôi nhà giảng dạy và bộ khung tín ngưỡng của Kitô giáo lẫn thể chế nhà thờ cũng chưa từng bao giờ là những độ lớn bất động. Chúng luôn luôn là một phần của những hoàn cảnh xã hội và chính trị bao xung quanh nó, đã đặt dấu ấn lên chúng và cũng bị chúng đặt dấu ấn lên mình giống như thế.
Chính vì thế mà quan điểm thống trị trong Phương Tây, rằng đạo Hồi đấu tranh cho một sự thật tuyệt đối, không dân chủ và không có khả năng thích hợp với hiện đại, hơn thế nữa, đàn áp và bạo lực, có tinh thần độc đoán và hướng đến sự thống trị thế giới, hết sức là vô lý. Các hình ảnh và định kiến ở đây [châu Âu/Đức] đặt sự tồn tại của một Homo Islamicus ra làm tiên đề mà sự nhận dạng đồng nhất của nó chỉ được quyết định bởi tín ngưỡng mà thôi. Đạo Hồi như là giáo điều vĩnh cữu, bất biến từ ngọn lửa và thanh kiếm. Kinh Koran theo đó không gì nhiều hơn là một tập hợp của những bài viết ca ngợi bạo lực, không thể hòa hợp với Hiến Pháp và những giá trị của Phương Tây được. Nhà mỵ dân cánh hữu người Hà Lan Geert Wilders, và không chỉ ông ấy, cứ đơn giản đặt kinh Koran ngang hàng với “Mein Kampf” của Hitler. Bộ trưởng Bộ Nội vụ Hans–Peter Friedrich thuộc đảng CSU suýt tí nữa thì đã làm nổ tung Hội nghị Hồi giáo ở Đức, vì trong đề tài đạo Hồi và hòa nhập, ông ấy không biết nói gì hơn là về “cộng tác an ninh” và phòng chống khủng bố. Chưa được một ngày trong chức vụ mới, ông ấy đã cúi mình thật thấp trước những người đi theo các luận đề thô thiển của Thilo Sarrazin: “Nhưng việc đạo Hồi thuộc về nước Đức là một sự việc không thể chứng minh được ở bất cứ nơi nào từ trong lịch sử.”
Lời nói đấy thay đổi hướng ở giữa câu. Lúc đầu, nó thuộc vào trong đó, đạo Hồi, như sau đó thì nó lại bị bình luận đuổi ra ngoài theo cửa sau của lịch sử. Friedrich thuộc trong cộng đồng tín ngưỡng đầy quyền lực đó, cái tin chắc vào sự tồn tại của một “Phương Tây Kitô giáo”, hay “Phương Tây Kitô–Do Thái giáo”. Một Phương Tây tự hiểu mình chính là sự phân định giới hạn với những vực sâu của Hồi giáo, với sự cuồng tín, phi lý và cổ hủ. Lịch sử của Phương Tây từ cách nhìn này rõ ràng là một dãy liên tục của những hành động nhân đạo cao cả mà trong đó con người, hòa hợp như anh em với nhau, bước nhanh từ lần khai sáng này đền lần khai sáng khác, đưa ra hết hiến pháp này đến hiến pháp khác, luôn luôn có các đức cha Công giáo, nhà thờ tháp tùng, những người không còn có thể chờ đợi được phép có phần trong lần ban phúc của cuộc Cải cách Kháng cách và Cách mạng Pháp được nữa.
Tòa án dị giáo? Chính tranh tín ngưỡng? Tiêu diệt thổ dân Mỹ? Chủ nghĩa Thuộc địa? Auschwitz?
Ít ra thì ngày nay người ta chủ yếu là nói về “Kitô–Do thái giáo” hay “Phương Tây Kitô–Do Thái giáo”, một ám chỉ đến lịch sử Đức mới đây. Trong ngữ cảnh của những cuộc thảo luận Phương Tây, có thể chứng minh được tính từ “Do Thái” từ những năm 1960. Trước đó, những ẩn dụ đầy huyền thoại được dành riêng cho Kitô giáo, loại trừ Do Thái giáo và đạo Hồi. Mặc dù đạo Hồi có lẽ đã góp phần cơ bản nhất vào trong lịch sử văn hóa và tri thức của châu Âu: trong tác động qua lại với Vương quốc Byzantine, người Hồi giáo đồng thời vẫn giữ cho Thời Cổ đại Hy Lạp tiếp tục sống động. Thông qua con đường vòng của những học giả Hồi giáo, nhờ vào những bản dịch từ tiếng Hy lạp sang tiếng Ả Rập và rồi cuối cùng sang tiếng La tinh mà kiến thức đã mất đi của người Hy Lạp lại tìm được con đường đi vào nền văn hóa Phương Tây – và góp phần xây dựng thế giới hiện đại. Khái niệm “Phương Tây” không thể được giới hạn một cách rõ ràng cả về mặt lịch sử lẫn địa lý lẫn nội dung. Ai tuy vậy vẫn sử dụng nó thì thật ra phải nói một cách đúng đắn về một “Phương Tây Độc Thần giáo” hay một “Phương Tây Do Thái giáo– Hồi giáo – Kitô giáo” (theo thứ tự chữ cái). Tất cả ba tôn giáo đó, cùng nhau và chống lại nhau, đã đặt dấu ấn lên châu Âu, tốt cũng như xấu.
Huynh đệ Hồi giáo trên con đường trở về nguồn
Niềm tin cơ bản của sự sợ hãi đạo Hồi, Hồi giáo thật ra là nguyên nhân của mọi vấn đề, từ hòa hợp cho tới khủng bố, vẫn tiếp tục tồn tại trong đánh giá về cuộc Cách mạng Ả Rập. Sẽ như thế nào, nếu nó kết cuộc rồi sẽ giúp cho những người theo đạo Hồi cực đoan nắm lấy quyền lực? Nhưng ngay cả khi các Huynh Đệ Hồi giáo ở Ai Cập hay những người anh em của họ ở Tunesia, Đảng Nahda, trở thành lực lượng mạnh nhất qua các cuộc bầu cử tự do, họ cũng sẽ không thành lập một nhà nước thần quyền. Họ thiếu nền tảng xã hội để làm việc đó. Dưới những điều kiện dân chủ, các đảng Hồi giáo có hai sự lựa chọn. Hoặc là họ ôn hòa và rồi có sức thu hút cho đông đảo những người đi bầu, tương tự như Đảng AK–Partisi của chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, hoặc là họ tu dưỡng một ý thức hệ cực đoan và trở thành một giáo phái.
Chúng ta hãy nhìn sự phát triển này ở ví dụ của các Huynh Đệ Hồi giáo. Đầu tiên là phải phân biệt giữa các Huynh Đệ Hồi giáo trước và sau cuộc Cách mạng. Trước Cách mạng, họ là một phong trào đánh thức đức tin quốc gia, sẵn sàng dùng bạo lực trong những thập niên đầu tiên sau khi thành hình. Trong diễn tiến lịch sử của mình, họ đã tự cải mới nhiều lần và qua đó đã trở thành một đảng thích hợp với hệ thống. Dưới thời Nasser, các Huynh Đệ Hồi giáo thành lập năm 1928 bị cấm hoạt động, Sadat cho phép họ tổ chức mới, nhưng không như là một đảng phái. Ông ấy xem họ như là một nhóm trợ giúp, để đẩy lùi những người của phe cánh tả và những người theo Nasser ra khỏi các trường đại học và công đoàn. Nhờ vào gian lận bầu cử, Mubarak lo liệu sao cho các Huynh Đệ Hồi giáo, xuất hiện như một phái độc lập, luân phiên bị gạt ra khỏi Quốc Hội hay được phép có một con số đại biểu có giới hạn. Bệnh tâm thần phân liệt của các Huynh Đệ Hồi giáo luôn luôn là việc họ có được một hậu thuẫn lớn ở các trường đại học và trong các hội nghề nghiệp, trong số người dân ở nông thôn và người nghèo, nhưng chính thức thì lại không hề tồn tại – mặc dù họ là nhóm đối lập mạnh nhất. Ngay từ dưới thời của Sadat, họ đã từ bỏ ý tưởng của một trật tự Hồi giáo, một “nhà nước thần quyền”. Đấy là tiền đề để họ được khoan dung.
Khái niệm “nhà nước thần quyền” được chúng ta hay sử dụng xuất phát từ Khomeini và là một điều mới trong thần học Hồi giáo cũng như trong lịch sử. Ở Phương Tây, nó thường được xem một cách sai lầm là cái tinh túy của Chủ nghĩ Hồi giáo và Đạo Hồi. Thay vì vậy, các lý thuyết gia Hồi giáo và học giả chính thống giáo nói về một “trật tự Hồi giáo”. Các suy nghĩ của họ xoay quanh câu hỏi, cái cũng đã được những con người đơn giàn từ thời Mohammed quan tâm đến: Làm sao vượt qua được vực sâu to lớn giữa lý tưởng tôn giáo và những yêu cầu của cuộc sống, những cái tầm thường của cuộc sống hàng ngày? Khoảng cách giữa sự toàn năng của Thượng Đế và sự yếu đuối, kém cỏi, cám dỗ của con người?
Chỉ cho các tín đồ “con đường về nguồn”, Luật Hồi giáo “Sharia” phục vụ cho điều đó – bên cạnh “Jihad” là khái niệm thách thức lớn nhất của Hồi giáo trong sự cảm nhận của Phương Tây. Sharia không chỉ đưa ra những quy định cho các vấn đề luật pháp cụ thể, như luật hôn nhân, luật gia đình và luật thừa kế, mà, giống như trên bình diện mẫu mực lý tưởng, cả các cư xử của con người trong quan hệ với Thượng Đế và với những người khác bên cạnh mình. Vì thế là Luật Hồi giáo cũng có cả những quy định thờ cúng, tiêu chuẩn đạo đức, quy định cho vệ sinh, cho những câu hỏi về danh hiệu xã hội và những thứ giống như thế. Sharia theo đuổi dự án không tưởng của một trật tự xã hội và chính trị công bằng, cái cần phải được thực hiện nhờ vào sự giúp đỡ của những quy tắc tiêu chuẩn luật lệ tương ứng. Ngược với sự tưởng tượng ở Phương Tây, Sharia không phải là một giáo điều vĩnh cửu bất biến, mà cho phép nhiều diễn giải. Những hình thức trừng phạt tàn bạo như chặt chân tay hay ném đá những người phụ nữ ngoại tình (cũng được thực hành trong Kitô giáo qua nhiều thế kỷ) xuất phát từ thời đầu của Hồi giáo: người du cư không biết đến nhà tù. Ngày nay chúng vẫn còn – hiếm – được tuyên xử trong Ả Rập Saudi, Iran, Afghanistan và Somalia, việc do Hồi giáo thì ít mà nhiều hơn là từ các hoàn cảnh chính trị đang thống trị ở đó. Đại đa số các luật gia Hồi giáo từ chối việc áp dụng những hình phạt như thế. Họ lý luận: chỉ khi thế giới toàn hảo được tạo thành, Thiên Đàng trên trần thế, thì những hình phạt thân thể nặng nề như thế mới được phép. Tức là không bao giờ, nói một cách khác đi.
Làm việc tốt như thế nào?
Sự căng thẳng giữa Sharia lý tưởng và hiện thực có thể trải nghiệm qua là một trong những vấn đề chính của lịch sử Hồi giáo. Tổng cộng có bốn trường phái luật pháp đã thành hình dưới những người Sunni, những cái có sự tưởng tượng riêng của họ về “con đường” về nguồn đúng đắn. Hệ thống các quy định phức tạp của Sharia có thể được dẫn về những ý tưởng đơn giản cũng như đáng kính trọng: làm việc tốt và tránh việc xấu. Để chắc chắn, rằng con người bao giờ cũng có thể mắc sai phạm không phạm tội với Thượng Đế, các trường phái luật đã tạo ra những bộ quy định phức tạp. Các học giả về luật, Ulama, thường ủng hộ quan điểm rằng Hồi giáo là tôn giáo và nhà nước, din wa dawla. Ý ở đây không phải nhà nước thần quyền của Khomeni, mà là một trật tự chính trị công bằng trên cơ sở Sharia với một nhà cai trị tôn sùng Thượng Đế đứng đầu. Điều đấy nghe có vẻ tốt, thành hình từ đó trong thực tế không có gì nhiều hơn là vương quốc của ông vua Hồi – một nơi chốn cho các âm mưu bè đảng.
Một chỗ yếu lớn của Sharia, của Chính thống giáo Sunni, nằm trong tính sẵn sàng phục tùng ý muốn và sự chuyên quyền của người cầm quyền, và tuân theo những yêu cầu của người đó. Giáo sĩ phủ nhận người cai trị là hiếm có trong lịch sử Hồi giáo. Thật ra thì họ cũng có thể chống lại những nhà cai trị bất công hay độc tài, vì vua Hồi có nhiệm vụ phải hành xử theo các nguyên tắc của luật sunna, cung cách sống thực tiễn của nhà tiên tri, và theo Sharia. Vua Hồi trong bất cứ lúc nào cũng không phải là một người có thẩm quyền xét xử, mà chỉ là một người phục vụ cho luật Thượng Đế được các Ulama quản lý. Nhưng thay vì vậy, những người này lại thường hay để cho quyền lực mua chuộc và để cho hối lộ bằng những đặc quyền hay ít nhất thì cũng chấp nhận những hoàn cảnh đang tồn tại. Như Đại giáo sĩ Hồi giáo Ali Gomaa, học giả luật có cấp bậc cao nhất Ai Cập, đã cực lực lên án cuộc Cách mạng khi nó mới bắt đầu. Điều đấy không có gì đáng để ngạc nhiên, vì ông ấy có được chức vụ của ông ấy là nhờ vào Mubarak. Trên trang mạng của mình, ông ấy bào chữa cho viêc tại sao mình lại đứng vào bên sai lầm của lịch sử: “Đó là một thời gian của sự lộn xộn trần trụi, tương lai xuất hiện một cách đen tối, con số nạn nhân không có kết thúc. Imam Ali (anh em họ và là con rễ của nhà tiên tri, người theo đạo đầu tiên) cũng sẽ không bao giờ tán thưởng việc đó. Thuộc vào trong các nguyên tắc cơ bản của đạo Hồi là kính trọng sự thiêng liêng của cuộc sống con người. Người ta nói rằng Mohammed đã từng nói rằng: ‘Đối với Thượng Đế, máu của một người Hồi giáo còn thiêng liên hơn cả Kaaba.’” (Kaaba là vật thiêng liêng nhất của đạo Hồi: một ngôi nhà bằng gạch là trung tâm điểm của ngồi nhà thờ Hồi giáo to lớn ở Mecca.)
Rằng không phải người biểu tình bắn vào những người theo Mubarak mà là ngược lại, chính quyền dựa trên bạo lực, việc đó thì rõ ràng là ông ấy đã tránh né. Cả nhà truyền giáo truyền hình nổi tiếng nhất bên cạnh Amr Khaled, Yussuf al–Qaradawi, đứng gần những người Salafi, những người Hồi giáo cực kỳ bảo thủ, cũng liên tục lên án cuộc Cách mạng, hoàn toàn theo ý của những người thầy Saudi của mình và ca ngợi “yên ổn và trật tự” như là những gì cao cả nhất.
Sự phục tùng những người cầm quyền của Chính thống giáo và chủ nghĩa bảo thủ qua nhiều thế kỷ đã biến Sharia trở thành một công cụ của sự trật tự hóa, cái đặt nghi vấn và trừng phạt những gì khác với mẫu mực đang có hiệu lực, dù đó là cung cách sống cá nhân hay những câu hỏi với cái nhìn đến tình hình chính trị đang tồn tại. Sự khát khao không tưởng đến Thiên Đàng, sự hợp nhất giữa Thượng Đế và con người, cô đọng lại ngày một nhiều hơn trong diễn tiến của lịch sử thành ý thức hệ. Ngay cả khi không có một Sharia chính thức, nó là tổng số của những diễn giải nó thì đúng hơn, thì đã từ lâu nó cũng không còn có thể trở thành một động cơ cho sự phát triển của xã hội nữa.
Trong vòng 100 năm vừa qua, trong phần lớn các quốc gia Ả Rập và Hồi giáo, ngoại trừ Luật Hôn nhân, Gia đình và Thừa kế, Sharia đã bị đẩy lùi bởi Luật Dân sự (Qanun) có định hướng phi tôn giáo. Trong đó người ta có định hướng mạnh đến châu Âu. Đặc biệt các quy định pháp luật từ Pháp và Thụy Sĩ được tiếp nhận nhiều trong các bộ luật Ả Rập. Ranh giới giữa Sharia và Qanun chính xác là ở đâu, về việc này thì người ta tranh cãi một phần thật gay gắt. Nói chung: các nhà thần học Chính thống giáo hay đạo Hồi chính trị bảo thủ càng nhiều và có ảnh hưởng càng nhiều thì họ càng cố mở rộng ảnh hưởng của Sharia ra xã hội. Nơi mà Sharia được diễn giải theo truyền thống thì nó không thể hòa hợp với những mẫu mực của một nhà nước pháp quyền, với dân chủ, tự do ngôn luận và nhân quyền được. Điều hợp lý nhất là nên dọn dẹp Sharia một cách có hệ thống và làm cho nó thích hợp với những yêu cầu của thời hiện đại, nhất là phải củng cố cho các khoảng không gian tự do của cá nhân đối với nhà nước và xã hội. Ngoại từ Thổ Nhĩ Kỳ, nơi Sharia bị bãi bỏ năm 1926, và Maroc, nơi nó trên thực tế là không còn có hiệu lực nữa từ năm 2004, vẫn còn chưa có đất nước Hồi giáo nào đi theo con đường này – từ nỗi lo sợ phải đối đầu với những lực lượng cực bảo thủ. Có thể bạo gan mà đưa ra tiên đoán, rằng trong diễn tiến của cuộc Cách mạng Ả Rập, cả Sharia cũng sẽ bị xét lại.
Vẫn còn trên đường đi: Huynh Đệ Hồi giáo khám phá thế giới
Những người theo Trào lưu Chín thống Hồi giáo, bắt đầu từ Hassan al–Banna, đi theo một hình ảnh đơn giản. Họ tin rằng người Hồi giáo không còn dẫn đầu trên thế giới, vì họ đã đi sai lạc “con đường về nguồn”. Một con đường mà theo quan điểm của họ trước hết bao gồm việc giữ đúng các nhiệm vụ và những lời khuyên răn tôn giáo. Một khi sự tẩy uế về đạo đức của cá nhân cũng như của xã hội được thực hiện thì Thượng Đế sẽ tha tội cho người Hồi giáo và đưa trở lại cho họ tầm vóc to lớn và tính quan trọng. Theo đó, như al–Banna, cần phải thành lập một “trật tự Hồi giáo” trên nền tảng của Sharia.
Nhưng điều đó cụ thể là gì? Điều đáng ngạc nhiên là các tác phẩm thời đầu của Huynh Đệ Hồi giáo không đưa ra thông tin gì cho việc này. Al–Banna và người kế nghiệp ông ấy Qutb rõ ràng là khó có thể xác định được bản chất của một trật tự Hồi giáo trong thế kỷ 20 trên nền tảng của những quy định luật lệ từ thế kỷ thứ bảy. Việc tập trung tiêu điểm vào “thời kỳ vàng son trước đây” của đạo Hồi là một hiện tượng không chỉ giới hạn ở những người Hồi giáo. Phần lớn những nhà thần học chính thống giáo đều có tinh thần hương về quá khứ. Quẳng những gánh nặng lịch sử đi hay diễn giải các tác phẩm thần thánh theo thời gian là việc họ không muốn làm.
Như đã nói, trong thời gian trước cuộc Cách mạng, các Huynh Đệ Hồi giáo đã thỏa hiệp với những người cầm quyền. Sadat và Mubarak sử dụng họ về mặt đối nội như một công cụ chính trị, về mặt đối ngoại như một hậu cảnh để đe dọa, đặc biệt là Mubarak: tôi hay là người Hồi giáo. Các Huynh Đệ Hồi giáo bước vào cuộc chơi đấy vì nói chung, người Hồi giáo thích nhất là đóng vai trò đối lập. Phải gánh vác trách nhiệm, họ nhanh chóng đánh mất uy tín của họ. Vực sâu giữa lòng tin mê đắm vào Sharia và “thời kỳ vàng son trước đây” của họ về một mặt và những tầm thường của chính trị hiện thực ở mặt kia là quá lớn. Điều đấy cũng đúng cho cả các Huynh Đệ Hồi giáo lâu nay từ chối không đưa ra các mục tiêu của họ một cách rõ ràng. Họ bắt đầu như những nhà cách mạng xã hội và tuyên truyền chống thực dân, tự cải mới mình sau các xung đột đẫm máu với quyền lực nhà nước dưới thời Nasser và cuối cùng biến đổi mình trở thành một hội huynh đệ gia trưởng. Được bổ sung bởi một mạng lưới dịch vụ xã hội khắp nước, cái có tầm quan trọng sống còn đối với người nghèo. Cuối cùng, các Huynh Đệ Hồi giáo đã không biết rõ qua nhiều thập niên liền, rằng họ muốn là một phong trào tôn giáo hay là một phong trào chính trị. Song song với việc đó, giới lãnh tụ đã già đi, giới mà giữa cuộc Chiến tranh Sáu ngày 1967 và con cừu Dolly được nhân bản năm 2003 hầu như không có được một thay đổi nhân sự nào cả.
Sau 2000 đã xảy ra xung đột rõ rệt trong giới Huynh Đệ giữa trẻ và già, giữa những nhà tư tưởng hệ và những người thực dụng. Người giữa chức vụ “lãnh tụ tối cao” từ 2004 đến 2010, Mohammed Akif, đã mở rộng phong trào nhiều hơn nữa cho các lực lượng trẻ và ôn hòa, và mở đường cho họ đi đến các chức vụ lãnh đạo. Năm 2004, nhà tư tưởng quan trọng nhất của phe cải cách và là phát ngôn viên của hội Huynh Đệ, Issam al–Irjani, đã công bố quyển sách “Phong trào Hồi giáo và thời quá độ dân chủ”. Trong đó, ông ấy phác thảo những nét cơ bản của một hình thức chính phủ Hồi giáo hiện đại theo những nguyên tắc sau đây: quyền tự do cá nhân không giới hạn, đa nguyên chính trị trên cơ sở Sharia, cái phải được diễn giải để cho cả người Copt Kitô giáo cũng có thể chấp nhận được, và sự bình đẳng trước pháp luật cũng như về chính trị giữa nam và nữ,
Tuy ông cũng viết rằng “sinh con và dạy dỗ chúng là nhiệm vụ chính của phụ nữ” (điều mà rất nhiều nếu như không phải hầu hết những người bảo thủ ở châu Âu sẽ đồng tình), nhưng bây giờ ngày càng có nhiều “chị em Hồi giáo” gia nhập hội Huynh Đệ. Al–Irjani tự thừa nhận một cách phê phán, rằng con đường cho tới nay, thỏa hiệp hầu như bằng mọi giá với những người cầm quyền, đã dẫn đến một ngõ cụt. Các đánh giá của ông ấy đúng cho tới đâu, điều đấy đã được thể hiện ngay trong năm 2005, khi Mubarak loại trừ Huynh Đệ Hồi giáo ra khỏi những cuộc bầu cử vào quốc hội. Phe cải cách, phần nhiều đèu trẻ tuổi và không sợ va chạm, tìm cách tiếp xúc với những nhóm đối lập phi tôn giáo khác như “Kifaya” hay “Ghad”. Cánh này, mà những đại diện nổi tiếng nhất là Mohammed Akif, Issam al–Irjani và Abdel Moneim Abdel, một thành viên lâu năm trong hội đồng lãnh đạo, hướng đến một sự “cải tổ” Huynh Đệ Hồi giáo theo gương mẫu của Đảng Thổ Nhĩ Kỳ AK–Partisi. Đối thủ của họ, Bộ Chính trị mà tụ họp trong đó phần lớn là những người già, ủng hộ đường lối “cứ tiếp tục như thế”. Người phát ngôn của họ trước hết là Mahammed al–Badija, người mà năm 2010 đã thay thế Akif trở thành “Lãnh tụ Tối cao”.
Mãi đến ngày 28 tháng 1, tức là ba ngày sau khi bắt đầu, Al–Badija mới phát biểu về cuộc nổi dậy trong chính đất nước của mình và yêu cầu Mubarak hãy tiến hành những cải cách cơ bản và chấm dứt bạo lực. Điều đấy là quá ít và quá muộn, nhóm lãnh đạo cũ tự biểu lộ rằng họ không có khả năng phản ứng lại sự việc gây chấn động lịch sử đấy với những gì khác hơn là các khuôn mẫu thông thường. Dưới sự phản đối kịch liệt của những người cải cách, cánh bảo thủ tuyên bố sẵn sàng thương lượng với Mubarak thay vì cũng yêu cầu ông ấy từ chức.
Từ hơn mười năm nay, những thay đổi lớn trong xã hội Ai cập bao giờ cũng được phản ánh trong giới Huynh Đệ Hồi giáo. Khả năng, rằng sau cuộc Cách mạng họ sẽ tan rã ra thành nhiều đảng phái hay nhóm, là lớn. Giới già hẳn sẽ không có một tương lai chính trị. Những người cải cách, ngay khi họ cũng không phải là một phong trào đồng nhất, cũng như giới đối lập phi tôn giáo, yêu cầu tự do hóa nền kinh tế và một nền kinh tế thị trường rời bỏ kinh tế bổng lộc và kinh tế bảo trợ móc ngoặc được nhà nước hỗ trợ, như chúng được giới quân đội và tầng lớp thượng lưu truyền thống tiến hành.
Khác với những người đứng đầu già cả, các nhà cải cách hồi giáo ngay từ đầu đã tham gia trên Quảng trường Tahrir. Qua đó, tình bạn và liên minh mới đã thành hình. Trong đám đông người đó người ta không hỏi: bạn là ai, bạn có tín ngưỡng hay thuộc đảng phái nào? Tất cả họ đều là người Ai Cập ba tuần liền, đã cùng nhau biểu tình, giúp đỡ lẫn nhau. Những người phụ nữ Hồi giáo đã ngủ qua đêm ngay giữa hàng ngàn người – trước cuộc Cách mạng thì không thể tưởng tượng được. Những trải nghiệm như thế để lại dấu vết, chúng làm thay đổi con người và cách suy nghĩ của họ. Người cải cách tiếp tục đến gần giới đối lập phi tôn giáo và ngược lại. Các tổ chức nhân quyền khác nhau, thường không quan tâm đến số phận của các huynh đệ Hồi giáo bị bắt giam, vì nghi ngại ý thức hệ của họ, cũng đã yêu cầu trả tự do cho họ ngay nhiều tháng trước cuộc Cách mạng rồi.
Huynh đệ Hồi giáo mạnh cho tới đâu, điều này sẽ được thể hiện qua các cuộc bầu cử Quốc Hội. Tại những cuộc bầu cử các ủy ban sinh viên trong tháng 3 năm 2011, những cuộc bầu cử tự do đầu tiên trong Ai Cập nói chung, họ nhận được 18 phần trăm.
Huynh Đệ Hồi giáo không phải là những nhà hoạt động chính trị duy nhất trong môi trường Hồi giáo. Bên cạnh họ, những người Salafi và Sufi, những nhà tôn giáo huyền bí, cũng đóng một vai trò. Người Salafi đứng gần Thuyết Wahhab và được tài trợ chủ yếu từ Ả Rập Saudi. Dưới thời Mubarak, 90000 nhà thờ Hồi giáo Ai Cập có đăng ký chính thức đứng dưới sự giám sát của nhà nước. Người Salafi cố gắng sử dụng khoảng chân không thành hình khi nhà nước sụp đổ cho những người truyền đạo của họ. Với thành công có giới hạn, nhưng tuy vậy họ vẫn nguy hiểm. Trong hàng ngũ của họ có những nhà tuyên truyền cuồng tín, không hề e ngại sử dụng bạo lực chống lại người Copt và Sufi. Sau nhiều cuộc tấn công vào nhà thờ Hồi giáo của họ, phát ngôn viên của những người Sufi, mà thật ra là phi chính trị và hòa bình, đe dọa họ sẽ dùng vũ khí chống lại những người Salafi nếu như cần thiết. Những người này bây giờ tự gọi mình là “Ansar as–Sunna”, có nghĩa như “những người theo học thuyết thật”.
Michael Lüders
Nhà xuất bản C. H. Beck
Phan Ba dịch
Admin gửi hôm Thứ Năm, 25/04/2013
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20130424/michael-luders-nhung-ngay-thinh-no-chuong-10
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001