Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Phạm Gia Minh - Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam ( 1 & 2 & 3 )

Phạm Gia Minh - Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam (1) 



Phạm Gia Minh

Phần 1: Chuyện Liên Xô sụp đổ

Kể từ thời điểm Liên Xô và các nước trong phe XHCN ở Đông Âu sụp đổ cách đây hơn hai thập kỷ, cứ đến dịp mồng 7 tháng 11 dương lịch là truyền thông trong nước và quốc tế lại có nhiều bài nhận định, đánh giá về sự kiện lịch sử quan trọng này.
Từng có cơ hội được làm nghiên cứu sinh tại bộ môn Quan hệ Kinh tế Quốc tế của một trong những “lò đào tạo” khoa học Kinh tế hàng đầu của Liên Xô thời đó là Trường Kinh tế Quốc dân mang tên Plekhanov, lại trùng vào giai đoạn giáo sư chủ nhiệm bộ môn là TS Ruslan Imrannovich Khasbulatov - sau này giữ cương vị Chủ tịch Quốc hội Liên Bang Nga, thời xảy ra những biến cố dẫn đến việc Liên Xô tan rã, và kể cả sau khi giáo sư từ bỏ “chính trị bẩn thỉu“ (nguyên văn lời GS Ruslan Khasbulatov) để “về vườn”, tiếp tục dạy học nên tôi có nhiều dịp được trao đổi và tranh luận thẳng thắn, được nghe những ý kiến riêng tư của giáo sư về những vấn đề thời cuộc của nước Nga và quốc tế.
Năm 1993 giáo sư có viết lời tựa đề cho cuốn chuyên khảo của tôi về mô hình phát triển kinh tế Hàn Quốc. [1]
Hơi khác với những đánh giá nghiêng về chính trị, mang mầu sắc của “thuyết âm mưu” có xu hướng kết tội ban lãnh đạo ĐCS Liên Xô, đứng đầu là TBT Gorbachev đã xa rời các đảng viên trung kiên và quần chúng, thậm chí đã “phản bội lại chủ nghĩa Mác-Lê v.v… dẫn đến sự sụp đổ của cả hệ thống các nước XHCN, Khasbulatov lại cho rằng bên cạnh các lý do trực tiếp liên quan tới sự lãnh đạo của ĐCS Liên Xô thì nguyên nhân sâu xa và bao trùm vẫn chính là những khuyết tật mang tính hệ thống của thể chế chính trị - kinh tế - xã hội Xô Viết.
Điều mà trước đây ít ai ngờ tới là các khẩu hiệu “giương cao ngọn cờ của chủ nghĩa Mác- Lê nin” và “vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” mà ĐCS Liên Xô lấy làm phương châm hành động về thực chất lại che đậy những toan tính chiến lược nhằm xác lập và củng cố vị thế lãnh đạo thế giới của Liên Xô với thành phần nòng cốt là dân tộc Nga. Chậm chân hơn các quốc gia Tây phương trong tiến trình phát triển để vươn lên vị trí toàn cầu, nước Nga đã chọn cho mình một lối đi riêng: lấy chủ nghĩa Mác – Lê làm nền tảng tư tưởng để tập hợp quần chúng vô sản đói khổ đang hình thành đông đảo ngay tại nước Nga Xa Hoàng và trên toàn thế giới khi mà CNTB đang trong thời kỳ tích lũy tham lam nhất của nó. Phong trào cộng sản nhờ đó đã thu hút được hàng triệu quần chúng và trở thành một lực lượng hùng mạnh trong thế kỷ XX.
Quốc hữu hóa toàn bộ tư liệu sản xuất, cướp lại của cải từ người giàu để tập trung nguồn lực vật chất trong tay nhà nước và thực hiện mô hình XHCN toàn trị (độc đảng chính trị lãnh đạo toàn diện xã hội, kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phi thị trường …) trong mấy chục năm đầu tiên đã tạo nên bước nhảy vọt ngoạn mục khiến nhiều người cho rằng Liên Xô sẽ vượt Mỹ. Tuy nhiên ngay tại chân đế của tượng đài Xô Viết đã có những vết nứt mang tính cấu trúc cảnh báo một sự sụp đổ khó tránh khỏi.
Bước phát triển vượt bậc của Liên Xô trong mấy chục năm sau Cách mạng tháng 10 có liên quan đến cơ chế huy động mọi nguồn lực xã hội bằng sức mạnh chuyên chính của nhà nước toàn trị đồng thời sử dụng “ lợi thế thông tin” của người đi sau. “Lợi thế“ ở đây chính là thông tin về mô hình chuyên môn hóa sản xuất, phân bổ nguồn lực vào những ngành công nghiệp có năng suất cao nhất mang lại tỷ lệ tăng trưởng cao. Có điều là những thông tin này không bắt nguồn từ nội bộ nền kinh tế Liên Xô mà lại là từ các nước Phương Tây phát triển, nơi mà kinh tế thị trường tự do với tính đa dạng và năng động dưới tác động của quy luật “ bàn tay vô hình” Adam Smith kết hợp với động lực sáng tạo cá nhân theo lý thuyết tiến hóa của Schumpeter hình thành nên.
Kinh tế thị trường (được hiểu như điều kiện đủ) đóng vai trò phòng thí nghiệm khổng lồ nơi mà các phương pháp tổ chức kinh doanh, công nghệ, kỹ năng, trình độ học vấn và hệ thống nghiên cứu & phát triển …(được hiểu như các điều kiện cần) liên tục kết hợp, cạnh tranh khốc liệt để hoàn thiện và cho ra đời những đổi mới cơ bản trong quá trình tiến hóa.
Liên Xô từng tự hào có một nền giáo dục tiên tiến, các trang thiết bị nghiên cứu hiện đại cùng đội ngũ các nhà khoa học và nhà nghiên cứu đầu ngành. Tuy nhiên Liên Xô vẫn không tạo ra những đổi mới cơ bản mang tính tiên phong về công nghệ và kinh tế cho dù quốc gia này đã bắt kịp các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến của Phương Tây trong những năm 50- 60 thế kỷ trước. Ngay cả trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng mặc dù đạt được những thành tựu đột phá vượt trội nhưng do thiếu tư duy thị trường nên Liên Xô không thành công trong việc thương mại hóa nhiều công nghệ tiên tiến phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Nguyên nhân chủ yếu là Liên Xô thiếu nền kinh tế thị trường ví như thiếu điều kiện đủ trong khi lại đang sở hữu một nguồn dồi dào các điều kiện cần. Kết cục là nền kinh tế Liên Xô muốn phát triển lại phải dựa vào thông tin định hướng từ phương Tây một cách thụ động.
Thái độ thụ động đó có lẽ phần nào giải thích vì sao vào thời kỳ những năm đầu thế kỷ XX, sau Cách mạng tháng 10, khi mà làn sóng thứ 3 của cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra ở Hoa Kỳ và Châu Âu tạo ra “ thời đại của điện và thép” thì Lê nin đã đưa ra công thức bất biến “ CNCS = Chính quyền Xô Viết + Điện khí hóa toàn quốc”
Các lý thuyết gia Xô Viết đã mắc một sai lầm lớn khi họ nhìn nhận rất cứng nhắc về quá trình chuyên môn hóa sản xuất và cho rằng phát triển điện, thép và các ngành công nghiệp nặng là bất biến, vĩnh viễn như một giáo điều. Sự xơ cứng trong tư duy phát triển này cũng là tất yếu khi bản thân Liên Xô không chấp nhận yếu tố thị trường, đồng nghĩa với việc chặn cửa tinh thần sáng tạo công nghệ và động lực kinh doanh làm giàu cho bản thân và xã hội của quảng đại quần chúng.
Cũng cần nhớ lại rằng Microsoft hay Apple khởi đầu từ những chàng trai trẻ rỗng túi nhưng chứa chan tinh thần kinh doanh sáng tạo và quyết tâm chinh phục thế giới chứ không phải là những viện nghiên cứu hay trường Đại học đồ sộ.
Khi tự nền kinh tế Liên Xô không có khả năng nhìn xa và luôn bị lệ thuộc vào thông tin từ Phương Tây thì “lợi thế của người đi sau“ sẽ chấm dứt vào giai đoạn Liên Xô đã bắt kịp thậm chí vượt phương Tây về sản lượng điện, thép và ngũ cốc…
Trong khi Liên Xô vẫn tiếp tục phân bổ nguồn lực vào các ngành công nghiệp nặng truyền thống với điện, thép,… thì phương Tây đã âm thầm thúc đẩy làn sóng thứ 4 của cuộc cách mạng công nghiệp tạo ra “thời đại của ô tô và hàng không” với các sản phẩm ô tô, Polime hóa dầu, tự động hóa… rồi làn sóng thứ 5 tạo ra “thời đại của thông tin liên lạc” với các thiết bị
điện tử, máy tính, internet và công nghệ sinh học, Nano...

Vào những năm cuối của mình Liên Xô không hề thiếu vốn, số liệu cho thấy vốn cố định tăng trung bình khoảng 7,6% /năm trong thời kỳ 1960-1981, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 3,6% ở Hoa Kỳ và 3,4% ở Anh. Trong giai đoạn 1983-1987 con số này tiếp tục tăng khoảng 5,8% / năm. Tuy nhiên hiệu suất vốn của các ngành kinh tế công nghiệp nặng truyền thống lại giảm liên tục 3,5 % mỗi năm trong giai đoạn 1960-1981 và 3,8% mỗi năm giai đoạn 1983-1987, đó là tốc độ giảm mạnh nhất trong số các nước phát triển khác trong cùng giai đoạn. [2] Nhận định hợp lý ở đây là Liên Xô đã định hướng sai cho các luồng đầu tư do những thất bại của thông tin kinh tế từ trung ương.
Hiệu suất sử dụng vốn giảm dẫn tới sự tụt dốc tỷ lệ tăng trưởng vào cuối những năm 80. Nếu những năm 60 tỷ lệ này là 5,1% thì những năm 70 xuống còn 3,7% ; giảm tiếp 2% trong những năm 80 và vẫn tiếp tục giảm sau đó... [2]
Sự tụt hậu và mất phương hướng của Liên Xô bắt đầu từ khi mà mọi nỗ lực “tái cơ cấu nền kinh tế“ đều thất bại do sự sáng tạo của các cá thể và doanh nghiệp là nguồn lực cơ bản thúc đẩy năng suất sau hơn 70 năm phát triển phi thị trường đã bị tê liệt. Hơn thế nữa cơ chế giá là biện pháp điều phối duy nhất các nguồn lực lại không được thiết lập theo đúng cơ chế thị trường mà vẫn bị tư duy chính trị và bộ máy hành chính quan liêu, tham nhũng chi phối nặng nề.
Nếu luận điểm của Lê Nin về cuộc chiến ai thắng ai giữa CNXH và CNTB dựa trên cơ sở so sánh năng suất lao động thì xu thế thất bại của Liên Xô đã rõ từ những năm 80.
Thiết nghĩ cũng cần nói thêm ở đây về bộ máy hành chính quan liêu trong nền kinh tế Xô Viết.
Trong nền kinh tế Phương Tây, một cách tự phát đã hình thành hàng trăm năm nay một hệ thống các tổ chức muôn màu, muôn vẻ có chức năng thực hiện những giao dịch phục vụ cho thị trường nhằm hỗ trợ quá trình chuyên môn hóa. Ví dụ như các hệ thống phân phối bán buôn và bán lẻ, hậu cần Logistic, các tổ chức tín dụng, chứng khoán, tư vấn pháp luật, kinh doanh, tư vấn tiêu dùng, bảo vệ người tiêu dùng, môi giới thương mại, đăng ký bảo hộ sở hữu tác quyền v.v…Khu vực dịch vụ phục vụ giao dịch thị trường này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn nên được ví như “hạ tầng cơ sở mềm” (Soft Infrastructure) của nền kinh tế thị trường. Tại Hoa Kỳ khu vực này năm 1970 đã chiếm hơn 50% tổng sản phẩm quốc nội với số việc làm tăng liên tục từ 26% lực lượng lao động vào năm 1940 lên 43% vào năm 1990. Trong khi đó lao động sử dụng trong khu vực dịch vụ của Liên Xô (chủ yếu là y tế, giáo dục và thương nghiệp) chỉ chiếm 10% tổng lao động. [2]
Trong nền kinh tế Xô Viết hoạt động theo kế hoạch tập trung, phi thị trường thì khu vực dịch vụ này có ít cơ hội phát triển. Phần lớn các giao dịch trong nền kinh tế đều thông qua mệnh lệnh chỉ huy phát ra từ các cơ quan hành chính được hình thành theo nguyên tắc ngành và lãnh thổ. Nền kinh tế càng có quy mô lớn với những mối tương tác và giao dịch tăng với cấp số nhân thì bộ máy hành chính điều hành các giao dịch theo phương thức tập trung lại càng cồng kềnh và mang tính quan liêu nặng hơn. Thực tế này chẳng khác gì hình ảnh một tòa lâu đài đồ sộ nhưng lại được xây trên nền móng hẹp, nó khác hẳn với nền kinh tế thị trường phát triển cao ở Phương Tây sở hữu hạ tầng cơ sở mềm vững chắc là khu vực dịch vụ phục vụ thị trường phong phú, đa dạng và hiệu năng cao.
Xét cho cùng thì ngăn cấm thị trường cực đoan kiểu mô hình Xô Viết quan liêu bao cấp là một biểu hiện đặc trưng của chiếm đoạt quyền tự do, dân chủ trong kinh doanh và lựa chọn cơ hội mưu sinh cũng như thể hiện năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân theo nguyên lý tiến hóa. Nếu kết hợp với những nhận định mang mầu sắc chính trị về sự suy thoái của ĐCS Liên Xô do nguyên tắc “tập trung dân chủ” trên thực tế luôn biến tướng thành “có tập trung nhưng mất dân chủ” thì rất tự nhiên một câu hỏi sẽ được nêu ra: “vậy thì phải chăng hệ tư tưởng Mác – Lê, nền tảng của mô hình Xô Viết chính là một khiếm khuyết mang tính hệ thống vì nó mất dân chủ và ngăn cản sự tiến hóa như mọi chế độ toàn trị khác trong lịch sử?”.
Và bánh xe lịch sử vẫn lừng lững đi tới nghiền nát tất cả những vật cản trên con đường tiến hóa của nhân loại.
Thực tế đã cho thấy khi ngọn cờ Mác-Lê và vô sản không còn giúp ích cho Liên Xô và người Nga giành vị thế lãnh đạo thế giới nữa thì những đại diện tinh hoa của họ như Gorbachev, Elxin và Putin đã từ bỏ nó để quay về với chủ nghĩa dân tộc Nga vĩnh hằng và bất biến.
Nói họ đã “phản bội” chủ nghĩa Mác – Lê có lẽ là hơi hồ đồ vì người ta chỉ kết tội phản bội mục tiêu và lý tưởng chứ không ai bị kết tội phản bội cái công cụ để đạt mục tiêu cả.
Thăng long – Hà nội 12/11/2013
Để ghi nhận ngày Tổng thống Putin thăm chính thức Việt Nam
(còn phần 2 và 3)
____________________________
[1] Phạm Gia Minh, Okrut. Z.M “Mô hình phát triển kinh tế Hàn Quốc“, NXB Tài chính-Thống kê, Moscow 1993. (Tiếng Nga).
[2] Li Tan. “Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp. Tư duy lại mô
hình phát triển kinh tế dựa vào nhà nước”. NXB Trẻ 2008.

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 12-11-13
Admin gửi hôm Thứ Tư, 13/11/2013          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131113/pham-gia-minh-tan-man-chuyen-lien-xo-trung-quoc-va-viet-nam
======================================================================
Phạm Gia Minh - Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam (2)


Phạm Gia Minh

Phần 2: Trung Quốc cải cách

Những đặc thù Trung Hoa
Đối với Phương Tây nói riêng và người nước ngoài nói chung thì Trung Quốc trong lịch sử xa xưa không đơn thuần là một quốc gia mà đó là cả một thế giới riêng biệt, khó nắm bắt, khó tiên liệu, huyền bí và thực dụng… Thế giới đó ngày nay tuy đã cởi mở hơn nhưng có lẽ chưa “phẳng” như thế giới Phương Tây bên ngoài nên hẳn vẫn còn ẩn chứa nhiều điều bất ngờ.
Cũng bởi sự khác biệt với bên ngoài nên chính người TQ luôn nhấn mạnh tới những đặc thù mang “màu sắc Trung Hoa” của mình. Tuy vậy, nếu đánh giá theo “tháp nhu cầu” của Maslow (1) thì chắc họ cũng có những khát vọng rất con người như chúng ta và không phải ngẫu nhiên, trong những năm gần đây có tới 46% người giàu TQ mong muốn chuyển sang các quốc gia phát triển Phương Tây sinh sống (2).
Nét nổi bật nhất là người TQ có lối nghĩ và hành động nói chung là rất khác Phương Tây và sẽ là không quá lời nếu như đặt tên cho sự khác biệt đó là “phong cách Trung Hoa”.

Hình 1: Biểu đồ mô tả “Phong cách Trung Hoa”

Trung Hoa có Kinh Dịch, thuyết Âm-Dương, Ngũ hành (một số luận cứ cho rằng Hán tộc đã tiếp thu thuyết này từ Bách Việt trong quá trình thôn tính và đồng hóa Phương Nam) và binh pháp Tôn Tử là những công cụ tư duy độc đáo mang tính thực tiễn cao. Trải qua hàng ngàn năm được mài giũa, những công cụ đó đã góp phần hình thành nên một dạng “tiềm thức dân tộc” và văn hóa hành xử rất thâm thúy, luôn có tầm nhìn chiến lược, linh hoạt thích nghi nhưng cũng thực dụng không thua kém Tây phương.
TQ trong lịch sử hơn 5000 năm luôn là một xã hội thiếu vắng quyền tự do cá nhân theo cách hiểu của Phương Tây hoặc có thì rất hạn chế, và do vậy, TQ là hình mẫu kinh điển của một nhà nước toàn trị, chuyên quyền dẻo dai, nơi mà hệ thống đạo đức cá nhân Khổng giáo chẳng khác gì những sợi dây xích mạ vàng lóng lánh nhằm trói chặt mọi thần dân vào cỗ xe cai trị của các vị Hoàng đế - Thiên tử.
Nhà nước toàn trị đó lại chăm sóc các thần dân của mình bằng thứ dinh dưỡng tinh thần đặc biệt, đó là tư tưởng dân tộc Đại Hán - ta là trung tâm thiên hạ.
Các ngành dịch vụ giao dịch phục vụ thị trường và công cuộc chuyển đổi kinh tế
Khác hẳn với nước Nga bắt đầu chuyển đổi kinh tế từ hệ thống kế hoạch hóa tập trung, phi thị trường sang nền kinh tế thị trường bằng một “ cú nổ lớn” (Big Bang) với chính sách tự do hóa triệt để giá cả và tư nhân hóa hàng loạt, TQ lại thận trọng từng bước vận dụng cơ chế thị trường, trước hết ở những vùng nông thôn rộng lớn và sau đó là ở các khu vực hộ gia đình ở thành phố, trong khi vẫn giữ nguyên sở hữu nhà nước trong các ngành then chốt. Không giống như chính quyền mới ở Nga xóa bỏ kiểm soát nhà nước đối với nền kinh tế ngay từ giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi kinh tế, chính quyền TQ, vốn là chế độ kế hoạch hóa tập trung giống Nga tiếp tục lập kế hoạch cho các hoạt động kinh tế chủ yếu trong những năm đầu quá trình chuyển đổi. Việc kiểm soát các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ chỉ được từ bỏ vào giữa những năm 90 thế kỷ trước tức là 15 năm sau khi công cuộc chuyển đổi bắt đầu. Hiện nay chính quyền TQ vẫn nắm các doanh nghiệp nhà nước lớn sau hơn 30 năm cải cách (4).
Quá trình chuyển đổi kinh tế của TQ đã ngay lập tức dẫn đến tốc độ tăng trưởng cao, trong khi quá trình tương tự ở Nga đã dẫn tới hậu quả suy thoái nghiêm trọng. Trong 10 năm từ 1990 tới 2000, GDP của TQ đã tăng với tốc độ bình quân 10,3%/năm, trong khi GDP của Nga lại giảm trung bình 4,8%/năm(3).
Khó có thể dùng các lý luận của trường phái kinh tế học Tân cổ điển để giải thích thỏa đáng quá trình chuyển đổi kinh tế từng bước thành công của TQ. Đúng là thông qua các biện pháp tự do hóa và tư nhân hóa triệt để, Nga đã tiến gần hơn tới một hệ thống thị trường tự do so với TQ. Tuy nhiên, nền kinh tế được tự do hóa từng phần của TQ lại hoạt động tốt hơn nhiều so với nền kinh tế được tự do hóa triệt để của Nga.
Theo phần tích ở Phần 1 – chuyện Liên Xô sụp đổ (2.1) việc kinh tế Nga sụt giảm nhanh chóng có lẽ sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta đánh giá đúng mức tầm quan trọng của các dịch vụ giao dịch phục vụ thị trường trong nền kinh tế. Nói cách khác, lý thuyết chi phí giao dịch là chìa khóa để giải thích những vấn đề phức tạp của quá trình chuyển đổi kinh tế. Thị trường tự do không hoàn toàn “ tự do” và có những chi phí khổng lồ gắn với những trao đổi khách quan trên thị trường. Mức độ chuyên môn hóa và phân công lao động càng cao và các trao đổi càng phức tạp thì xã hội sẽ phải đối mặt với các chi phí giao dịch càng lớn. Như đã đề cập trong Phần 1 (2.1) các ngành dịch vụ giao dịch của nền kinh tế Mỹ, nền kinh tế thị trường có trình độ phát triển cao nhất, chiếm tới hơn 50% GDP của Mỹ vào năm 1970.
Khi bắt đầu quá trình chuyển đổi, Liên Xô cũ đã đạt được trình độ phát triển công nghiệp ngang bằng với các nước Phương Tây có trình độ chuyên môn hóa cao. Tuy nhiên mức độ chuyên môn hóa cao cần phải có các hoạt động trao đổi hay nói rộng ra là khu vực dịch vụ giao dịch thị trường ở trình độ tương xứng. Trong hệ thống kế hoạch hóa tập trung, bộ máy hành chính cồng kềnh đã xử lý tất cả các trao đổi hoặc giao dịch giữa các công ty cũng như giữa các chủ thể kinh tế nhà nước với người tiêu dùng. Là một hệ thống phi thị trường, nền kinh tế Liên Xô chủ yếu dựa trên các lĩnh vực phi giao dịch và thiếu trầm trọng nhiều ngành dịch vụ giao dịch.
Rõ ràng độ “lệch” khá lớn giữa trình độ chuyên môn hóa cao của nền kinh tế Liên Xô với thực trạng phát triển yếu kém của các ngành dịch vụ giao dịch là một khó khăn lớn cho quá trình chuyển đổi ở Liên Xô trong những năm đầu. Chủ trương tự do hóa thị trường và tư nhân hóa theo kịch bản “ vụ nổ lớn” đã làm cho bộ máy kế hoạch từng điều phối tất cả các hoạt động sản xuất và trao đổi trong một nền kinh tế chuyên môn hóa cao đột ngột bị sửa đổi trong khi đó các ngành dịch vụ cần thiết cho một nền kinh tế thị trường hiện đại lại hầu như hoàn toàn thiếu vắng. Sự sụp đổ của bộ máy hành chính đã tạo ra một “khoảng trống thể chế” ở nước Nga dẫn đến sự ngưng trệ toàn bộ nền kinh tế công nghiệp hóa trình độ cao.
Sai lầm mang tính nhận thức chủ quan lớn nhất của các lãnh đạo Xô Viết thời “cải tổ- Perestroika” chính là họ đã không nhìn ra vai trò của khu vực dịch vụ giao dịch phục vụ thị trường nên đã đồng loạt làm tê liệt hoặc giải tán các cơ cấu của ĐCS cùng với bộ máy hành chính đồng cấp trên bình diện ngành và lãnh thổ toàn Liên bang trong quá trình chuyển đổi kinh tế.
Về nguyên tắc, có thể giảm nhẹ đáng kể tấn bi kịch xã hội trong giai đoạn đầu chuyển đổi nếu bảo lưu có chọn lọc và từng bước trao thêm những chức năng điều hành kinh tế cho bộ máy hành chính sẵn có, tách vấn đề hệ tư tưởng và đảng phái chính trị ra khỏi kinh tế một cách ôn hòa, đồng thời nhanh chóng tạo dựng các ngành dịch vụ giao dịch thị trường.
Quá trình tự chuyển biến này có thể diễn ra êm thấm nếu xã hội dân sự (XHDS) ở Liên Xô đã đạt một trình độ phát triển thích hợp cho phép các tổ chức tự nguyện của người dân hỗ trợ và bổ sung cho những khiếm khuyết tạm thời của bộ máy hành chính.(Một ví dụ đáng nhớ tại nước Bỉ sau cuộc thỏa thuận bất thành ngày 13/6/2010, suốt 485 ngày đất nước này không có chính phủ nhưng mọi hoạt động diễn ra vẫn bình thường do XHDS ở đây đã đạt trình độ tự quản khá cao). Điều đáng tiếc là dưới thời Xô Viết XHDS đã bị hiểu sai và do đó không được tự do phát triển.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, di sản XHCN hơn 70 năm quá nặng nề của Liên Xô đã là vật cản lớn đối với tiến trình chuyển đổi ôn hòa và hiệu quả như mong muốn.
Ngược với Nga, trình độ phát triển ban đầu thấp của nền kinh tế TQ là một điều may mắn trên thực tế đối với việc chuyển đổi kinh tế của nước này. Ngoài ra, chính sự lựa chọn phương thức chuyển đổi từng bước, trước hết ở khu vực nông thôn có trình độ chuyên môn hóa thấp với các biện pháp tương đối mạnh bạo, sau đó tiến tới khu vực thành thị với các cải cách ôn hòa hơn và cơ bản vẫn giữ lại các hệ thống kế hoạch chủ yếu. Lợi ích lớn nhất của phương thức cải cách trên là giữ được sự liên tục của sản xuất ở khu vực thành thị có trình độ chuyên môn hóa cao trong khi bộ máy kế hoạch xử lý giao dịch hầu như không bị ảnh hưởng. Trong khi đó sản lượng ở nông thôn nơi chiếm 70% lực lượng lao động đã tăng lập tức vì các lực lượng thị trường dễ dàng tăng sản xuất ở kinh tế nông thôn, nơi cần ít dịch vụ giao dịch vì trình độ chuyên môn hóa thấp.
Việc tự do hóa sớm ở khu vực nông thôn kết hợp với chính sách mở cửa đã dẫn tới quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng các ngành kinh tế truyền thống nơi đây và tạo động lực lan tỏa cho tăng trưởng kinh tế của TQ trong 20 năm đầu chuyển đổi.
Một nguyên nhân rất quan trọng giải thích sự thành công phát triển kinh tế TQ là việc nước này mở rộng quan hệ kinh tế với các nước tư bản phát triển rất đúng cách và bài bản nhờ vai trò trung gian của vùng lãnh thổ Hồng Kông. Mô hình chuyên môn hóa hướng vào xuất khẩu mà các nước công nghiệp mới nổi ở Đông Á áp dụng thành công cũng là nguồn thông tin định hướng có ích cho TQ với vị thế là người đi sau.
TQ đã biết tận dụng Hồng Kông như một địa điểm cung cấp các loại dịch vụ giao dịch quan trọng, vốn gần như không tồn tại trong nền kinh tế kế hoạch tập trung trước đây để giúp TQ tham gia thị trường thế giới. Theo nhà kinh tế học Milton Friedman, Hồng Kông là “hình mẫu hiện đại của thị trường tự do”, nơi mà quyền sở hữu được đảm bảo, xã hội dân sự cởi mở theo các chuẩn mực Anh – Mỹ, pháp luật quy định minh bạch, kinh doanh và thương mại tự do trong môi trường pháp trị. Nhờ có Hồng Kông, TQ đã học tập được hình mẫu cho việc phát triển ở Trung Quốc Đại lục các dịch vụ phụ trợ thương mại đa dạng như kiểm tra và thử nghiệm sản phẩm, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, cung cấp tài chính cho hoạt động thương mại, hậu cần Logistic và bảo hiểm phục vụ xuất khẩu …
Hồng Kông còn có vai trò quan trọng cho sự hình thành và phát triển các thị trường tài chính của TQ vốn không tồn tại dưới chế độ kế hoạch hóa tập trung.
Chính quyền TQ đã hướng tới Hồng Kông để có được kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm trong việc xây dựng các định chế tài chính, hình thành các thị trường chứng khoán, đề ra những nguyên tắc và quy ước kinh doanh trong ngành tài chính giúp điều phối hoạt động của các ngân hàng thương mại và các công ty quản lý quỹ ở TQ.
Hồng Kông cũng cung cấp nhiều loại dịch vụ giao dịch khác thông qua đầu tư trực tiếp vào TQ ví dụ như quảng cáo, phân phối bán buôn, bán lẻ,bảo hiểm, tư vấn luật và kế toán v.v…
Nếu như trình độ chuyên môn hóa lao động thấp ở nông thôn TQ là một điều kiện ban đầu thuận lợi, tạo đủ thời gian cho việc phát triển các dịch vụ giao dịch trong lĩnh vực công nghiệp của nền kinh tế TQ vốn dĩ gắn bó chặt chẽ với mô hình kế hoạch hóa tập trung, thì Hồng Kông đã thực sự chuyển các dịch vụ giao dịch tới nền kinh tế đại lục ở bất cứ nơi nào cần các dịch vụ này. Điều này là một yếu tố có ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển của TQ trong tương lai(3).
Hơn thế nữa Hồng Kông còn là cửa ngõ để giới tư bản đại diện cho cộng đồng hơn 20 triệu người Hoa trên thế giới chuyển vốn, công nghệ và kỹ năng kinh doanh vào đại lục theo sự điều phối của quy luật “bàn tay vô hình” và tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Nhưng có lẽ điều kiện khách quan bên ngoài có tính chiến lược cho sự chuyển đổi thành công của TQ đó là sự ủng hộ hiệu quả của Hoa Kỳ. Sau cuộc gặp lịch sử năm 1972 với “thông cáo chung Thượng Hải”, Mỹ đã bắt tay với TQ để bao vây và làm suy yếu Liên Xô – một đối thủ ở ngay sát nách của TQ lại cùng theo hệ tư tưởng Mác- Lê trong cuộc đua giành vị trí lãnh đạo phong trào Cộng sản quốc tế. Đối với Mỹ thì Liên Xô là đối thủ đáng gờm nhất trong chiến tranh lạnh sau Thế chiến II.
Quan hệ nồng ấm ngoạn mục giữa hai cựu thù Mỹ - Trung là biểu hiện rõ nét chủ nghĩa thực dụng Hoa Kỳ, mặt khác nó cũng phản ánh trung thực lối suy nghĩ và hành động theo “phong cách Trung Hoa” rất uyển chuyển, mưu lược nhằm phục vụ tối đa cho lợi ích cốt lõi và bất biến của một thể chế toàn trị, chuyên chế dẻo dai mang tinh thần Đại Hán.
Quá trình chuyển đổi còn dang dở
Nền tảng tư tưởng cho quá trình chuyển đổi kinh tế ở TQ trong những năm qua được nhiều nhà nghiên cứu nhìn nhận là một hình thái của chủ nghĩa Tư bản nhà nước kiểu Lê nin (Corporate Leninism) (4), nó có nhiều điểm tương đồng với truyền thống toàn trị và chuyên chế Á Châu thời hiện đại.
Chính vì vậy, sau hơn 30 năm cải cách nền kinh tế TQ ngày càng trở thành một nền kinh tế thị trường “dựa vào quyền lực của chính quyền”. Cơ cấu của hệ thống kinh tế - chính trị hiện nay được xây dựng để bảo đảm ĐCS TQ sẽ luôn luôn là trung tâm chi phối, điều tiết mọi cơ hội trong tất cả các lĩnh vực. Tại TQ hiện nay nhà nước nắm giữ 10 lĩnh vực kinh tế trọng yếu như Tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, hạ tầng,Viễn thông …Trong số 2037 công ty niêm yết trên 2 thị trường chứng khoán ở TQ chỉ có 100 công ty tư nhân. Tuy khu vực nhà nước nắm giữ hơn 75% vốn đầu tư nhưng chỉ sản xuất dưới 50% GDP (4).
Việc duy trì doanh nghiệp nhà nước là hình thức sở hữu chủ đạo đối với tư liệu sản xuất đồng thời được ưu ái về cấp vốn, đất đai v.v… là không phù hợp với cơ chế khuyến khích “bàn tay vô hình” Adam Smith nhưng lại bảo đảm cho ĐCS TQ những công cụ quyền lực cần thiết.
Các doanh nghiệp tư nhân “có máu mặt” phần lớn là do các cựu quan chức hoặc người nhà của họ nắm giữ mặc dù cũng tồn tại những doanh nghiệp tư nhân “đích thực”. Tuy nhiên, thành công trong kinh doanh chủ yếu được quyết định bởi quan hệ của người chủ với các quan chức chính quyền trung ương và địa phương nói chung để có được những đặc ân và sự bảo trợ. Mặt khác, lợi nhuận của các công ty tư nhân phải chịu một hình thức chiếm đoạt dưới dạng những khoản thu khác nhau của chính quyền địa phương. Quan hệ tốt với địa phương sẽ giúp các công ty này không bị chiếm đoạt quá nhiều.
Khiếm khuyết chủ yếu của nền kinh tế thị trường “dựa trên quyền lực” là sự méo mó tiêu chuẩn phân phối thu nhập khiến những người có địa vị hoặc quan hệ cá nhân gần gũi với các quan chức chính quyền được hưởng lợi nhiều hơn.
Tình trạng này khuyến khích các hành vi tìm kiếm hối lộ hơn là nỗ lực cải tiến sản xuất kinh doanh theo quy luật tiến hóa Schumpeter và về lâu dài nó gây nên tình trạng bất bình đẳng về thu nhập, hạn chế tăng trưởng, kìm hãm đổi mới và sáng tạo mang tính đột phá trong công nghệ, kinh doanh. Thậm chí nó còn nuôi dưỡng mầm mống bất ổn xã hội.
Trong những năm gần đây căng thẳng xã hội ở TQ ngày một gia tăng, trung bình hàng năm có hơn 10 vạn cuộc biểu tình. Điều này rất trùng hợp với hệ số phân hóa giàu-nghèo Gini ở TQ là khá cao – 0,47 (2).
Để duy trì chi phí sản xuất thấp nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và tăng lợi nhuận cho giới chủ doanh nghiệp, TQ đã áp dụng nhiều biện pháp, trong đó có việc áp dụng chế độ hộ khẩu mang tính phân biệt và phó mặc việc phát triển mạng lưới an sinh – xã hội đối với người lao động. Hiện nay ước tính chỉ có khoảng 80 triệu lao động có chế độ an sinh – xã hội, còn lại hơn 70% tổng số lao động làm thuê có thu nhập thấp ước tính khoảng hơn 150 triệu (cũng có nguồn ước tính khoảng 260 triệu) “dân công “ (lao động đa số từ nông thôn lên thành thị) không những không được hưởng chế độ an sinh - xã hội mà còn không có quyền đình công theo quy định của Hiến pháp TQ và không được phép tự tổ chức bảo vệ quyền lợi của mình một cách tập thể. Chênh lệch thu nhập có tính cả các khoản an sinh–xã hội giữa người có hộ khẩu và không có hộ khẩu có thể lên đến 6 lần (5).
Nếu như tại các nước Phương Tây mâu thuẫn chủ-thợ được giải quyết thông qua các tổ chức dân sự như các nghiệp đoàn ngành nghề v.v… thì tại TQ Luật lao động quy định không có thương lượng tập thể!
Trên thực tế, bạo loạn đã nổ ra khi người lao động quá bức xúc mà không có cách nào khác để thể hiện quyền lợi của mình. Phản ứng trước hành động này, nhà nước TQ đã tăng ngân sách cho ngành công an để củng cố sức mạnh đàn áp.Riêng ngân sách an ninh nội địa dành cho ngành công an năm 2011 đạt 90 tỷ USD, lần đầu tiên vượt ngân sách quốc phòng (5).
Rõ ràng sự ổn định chính trị đạt được bằng đàn áp không mang tính bền vững vì thiếu tính cơ cấu (6). Giải pháp toàn diện, ít tốn kém và bền vững hơn chính là xây dựng những tổ chức XHDS hoạt động trong khuôn khổ tôn trọng Hiến pháp nhằm giải tỏa một cách ôn hòa những mâu thuẫn xã hội và thể hiện trung thực ý nguyện của các nhóm dân khác nhau trong các cuộc đối thoại có tính xây dựng với chính quyền.
Có lẽ vấn nạn lớn nhất trong nền kinh tế chuyển đổi còn dang dở ở TQ hiện nay là tham nhũng. Với việc chấp nhận sở hữu tư nhân và kinh tế thị trường trong điều kiện đất đai và các tư liệu sản xuất, vốn đầu tư công vẫn thuộc sở hữu toàn dân nhưng lại được ủy thác và phân cấp cho các doanh nghiệp nhà nước cùng các địa phương quản lý, sử dụng đã tạo những “lỗ hổng thể chế” cho tham nhũng nở rộ. Khi mà hệ thống giám sát hành chính được hình thành thời kế hoạch hóa tập trung không theo kịp độ phức tạp và tinh vi của kinh tế thị trường thì các giám đốc doanh nghiệp nhà nước và người đứng đầu địa phương có muôn vàn cơ hội biến của chung thành tài sản cá nhân và giàu lên rất nhanh. Người chủ tài sản thực sự là nhân dân trên toàn quốc và cư dân ở các cộng đồng không có trong tay cơ chế bảo vệ quyền sở hữu của mình. Chính việc thiếu vắng các tổ chức XHDS giúp chính quyền giám sát việc ủy thác và phân cấp sở hữu toàn dân đã là một cơ hội bị bỏ lỡ khiến cuộc chiến chống tham nhũng sau nhiều năm vẫn kém hiệu quả.
Tuy nhiên, việc không tách rời chính quyền với việc quản lý các doanh nghiệp nhà nước, nhất là nhiều doanh nghiệp chủ chốt đóng vai trò công cụ quyền lực của ĐCS và nhà nước đã không cho chính quyền đóng vai trò là một thực thể khách quan để đạt được các mục tiêu quản lý độc lập của mình. Chính vậy mà tham nhũng vẫn có đất phát triển.
Sự hình thành và phát triển khu vực dịch vụ giao dịch thị trường là yếu tố mang tính thể chế. Không phải ngẫu nhiên tại các nền kinh tế thị trường tiên tiến hàng đầu thế giới đều có các XHDS cởi mở với truyền thống lâu đời và khu vực dịch vụ giao dịch phát triển đa dạng, ngày càng tinh vi. Đây có lẽ là “tài sản thể chế” quý giá nhất trong quá trình theo đuổi mục tiêu phát triển của các nền kinh tế phát triển trước.
Tuy TQ đã học hỏi hình mẫu khu vực dịch vụ giao dịch thị trường Hồng Kông ngay từ giai đoạn đầu quá trình chuyển đổi nhưng với bản chất cố hữu của nền kinh tế thị trường “dựa trên quyền lực” nhằm phục vụ một thể chế chuyên quyền toàn trị, nơi mà XHDS bị hạn chế và cấm đoán nên khu vực dịch vụ này tự thân nó không thể phát triển mạnh mẽ ở Đại lục. Ở đây chúng ta cần liên tưởng lại các điều kiện cần và đủ trong nền kinh tế Xô Viết được đề cập ở Phần 1 – chuyện Liên Xô sụp đổ (2.1)
Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 (kỳ 2) ĐCS TQ gần đây trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng những nguy cơ và thách thức của xã hội TQ đã đề ra những định hướng tiếp tục cải cách toàn diện và sâu rộng nền kinh tế TQ theo hướng thúc đẩy mạnh mẽ yếu tố thị trường, cho nông dân nhiều quyền hạn hơn trong sở hữu đất đai …
Tuy nhiên vẫn còn bỏ ngỏ câu hỏi về tính mâu thuẫn giữa nguyên tắc thị trường tự do với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Nguyện vọng của hàng trăm triệu “dân công” về cải cách chế độ hộ khẩu vẫn chưa được thỏa mãn khiến tiến trình đô thị hóa và hiện đại hóa sẽ gặp chắc trở.
Mối quan tâm hàng đầu mà trước đây nguyên Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã nhiều lần khuyến cáo về sự cần thiết phải cải cách thể chế chính trị song hành với cải cách kinh tế hầu như vẫn chưa được quan tâm trong lần hội nghị quan trọng này.
Các nhà quan sát quốc tế đều có chung nhận định: TQ làm ra nhiều sản phẩm nhưng không phát minh ra cái mới mang tính đột phá do xã hội TQ không chấp nhận phê phán, phản biện.
Cảm nhận được sâu sắc nét đặc thù đó nên một nhà nghiên cứu đã viết: ”Trung Quốc sẽ không theo một con đường quen thuộc hướng tới một điểm đến nhất định theo cách nghĩ của chúng ta chỉ vì các nhà quan sát Phương Tây quá lười biếng hoặc tự mãn về văn hóa để hình dung ra những khả năng khác nữa” (5).
Và phải chăng, đó cũng là điều phù hợp với “bản sắc” và “phong cách Trung Hoa“?
(còn phần 3 tiếp theo và hết)
Phạm Gia Minh
Thăng long - Hà nội 20/11/2013
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 20-11-13

Tài liệu tham khảo

(1) Wikipedia. “ Maslow’s Hierachi of Need.
(2) Phạm Gia Minh. “ Mấy lời bàn về mô hình Trung Quốc: Thư ngỏ gửi GS Francis Fukuyama”.
www.viet-studies.info/kinhte/PhamGiaMinh_ThuFukuyama.htm
(2.1) Phạm Gia Minh. “ Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt nam” Phần 1: Liên Xô sụp đổ.
www.viet-studies.info/kinhte/PGMinh_TanManPhanI.htm
(3) Li Tan. “ Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp” NXB “Trẻ”. 2008
(4) John Lee. “ Chủ nghĩa hợp doanh Lê Nin của Trung Quốc”
www.tapchithoidai.org/ThoiDai24/201224_JohnLee.pdf
(5) Trần Hải Hạc. “ Bàn về chuyển hóa mô hình tăng trưởng kinh tế của Trung quốc”
www.tapchithoidai.org/ThoiDai23/201123_TranHaiHac.pdf
(6) Bùi Mẫn Hân (MinXin Pei). “ Sự cai trị của ĐCS TQ là mong manh hay bền vững”.
www.tapchithoidai.org/ThoiDai25/201225_buiManHan.pdf
Admin gửi hôm Thứ Năm, 21/11/2013          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131120/pham-gia-minh-tan-man-chuyen-lien-xo-trung-quoc-va-viet-nam-2
======================================================================
Phạm Gia Minh - Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam (3) 


Phạm Gia Minh

Phần 3: Đổi mới ở Việt Nam

Những căn bệnh của Đổi mới I
Quan sát từ góc độ văn hóa và lịch sử, tuy có nhiều ưu điểm nổi trội giúp cộng đồng các dân tộc trên mảnh đất hình chữ S này cho tới ngày hôm nay vẫn có thể ngẩng cao đầu để tồn tại bên người hàng xóm Phương Bắc khổng lồ luôn âm mưu thôn tính và đồng hóa, nhưng Việt Nam ta có ít nhất 3 khiếm khuyết mang tính hệ thống đang là những trở ngại lớn trên con đường phát triển phồn vinh.(1)
Khiếm khuyết thứ nhất còn có tên là “căn bệnh tập trung - quan liêu – bao cấp kiểu Liên Xô " với đầy đủ các biểu hiện của tư duy kinh tế phi thị trường, quản lý xã hội dựa trên các biện pháp hành chính - quan liêu, cửa quyền của nhà nước toàn trị. Căn bệnh Xô Viết này dễ lây lan và khó điều trị dứt điểm ở Việt Nam bởi lẽ về bản chất, xã hội Việt Nam nằm trong vùng ảnh hưởng mạnh mẽ của “phương thức sản xuất Châu Á ” (1.1),(1.2),(1.3). Hãy cùng nhìn lại một vài (trong muôn vàn) dẫn chứng sau đây:
- Chịu ảnh hưởng chi phối bởi mô hình Xô Viết, đặt nền móng trên học thuyết Mác- Lê về cải tạo tư sản, Việt Nam đã tiến hành “ cải tạo XHCN” (hay tận diệt?) một cách thô bạo và cứng nhắc nền kinh tế tư nhân ở Miền Nam sau thống nhất hai miền năm 1975 (2). Điều này khác hẳn với chính sách mềm dẻo, khôn ngoan của TQ tận dụng tất cả các lợi thế của Hồng Kông khi sáp nhập vào Đại Lục để góp phần xây dựng các ngành dịch vụ giao dịch phục vụ thị trường vô cùng cần thiết cho giai đoạn chuyển đổi và phát triển kinh tế sau này (1.4). Ngay như hiện nay, sau hơn 20 năm tiến hành Đổi mới nhưng cung cách quan liêu bao cấp kiểu Liên Xô vẫn còn những di chứng nặng nề trong quản lý và điều hành các doanh nghiệp nhà nước khiến những Vinashin, Vinalines… không phải là hiện tượng hiếm gặp trong nền kinh tế.
- Trong điều kiện kinh tế thị trường nhưng Hiệp hội lương thực VN vẫn được độc quyền thu mua, xuất khẩu lúa gạo với giá rẻ mạt để bán ra thế giới các loại gạo với giá thấp hơn hẳn những nước sản xuất lúa gạo như Việt nam khiến nông dân ngày càng bị bần cùng. Giá xăng, dầu cao ngất ngưởng so với nhiều nước Đông Nam Á, giá phân đạm cao gấp 3 lần Indonesia, trong khi công ty phân bón được trợ giá đầu vào …(3)
- Tệ cửa quyền trong cấp các loại giấy phép kinh doanh, thủ tục phiền hà và thái độ thờ ơ bàng quan, thậm chí còn trục lợi của bộ máy công quyền trong quan hệ với khu vực doanh nghiệp tư nhân phần nào đã thể hiện não trạng “ xin – cho” của một thời bao cấp.
Những vấn nạn này cho thấy sự nghèo nàn của khu vực dịch vụ giao dịch phục vụ thị trường ở Việt Nam hiện nay, nó không khác mấy tình trạng tồi tệ ở Liên Xô trước kia khi mà các Bộ, Cục, Ban ngành, Hội đồng các kiểu ở mọi cấp hành chính và lãnh thổ tha hồ hành dân bằng sự thờ ơ, tác trách, vô cảm …
- một di chứng nữa của “ căn bệnh quan liêu – bao cấp kiểu Liên Xô” chính là hệ thống giám sát hành chính và thanh tra các cấp (của cả Đảng và chính quyền) được hình thành từ thời kế hoạch hóa tập trung nhưng nay chưa có những cải cách mang tính đột phá, bởi vậy, hệ thống này đã không theo kịp với thực tiễn kinh doanh phức tạp, đa dạng của nền kinh tế thị trường hiện đại cả về mặt nhận thức lẫn công cụ kỹ thuật hỗ trợ. Kết quả là các vụ tham nhũng thường được phát hiện quá muộn khi đã gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Khiếm khuyết thứ hai hay “căn bệnh tiểu nông” vốn được nhắc tới khi chúng ta “phê và tự phê” những tác hại của tư duy thiển cận, khôn vặt, làm ăn chụp giật, cung cách luộm thuộm, manh mún thiếu khoa học và nặng về phô trương hình thức, dễ thỏa mãn với thành tích ban đầu… Căn bệnh này là nguyên nhân của tình trạng kỳ thị “vùng, miền” dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, bệnh thành tích chạy theo “GDP tỉnh, thành ” khiến mô hình chuyên môn hóa sản xuất trong toàn bộ nền kinh tế dẫm chân tại chỗ.
Lối hành xử “tiểu nông” giữa người Việt với nhau vốn đã bị chê trách, nay hội nhập quốc tế lại càng trở nên bất cập, nhất là Việt Nam phải tồn tại bên cạnh một TQ có tư tưởng Đại Hán mưu lược, nhìn xa và uyển chuyển, thực dụng theo binh pháp Tôn Tử.
Theo lời của một vị Giáo sư – bác sĩ từng chăm sóc Đại tướng Võ Nguyên Giáp những năm tháng cuối cùng, khi đề cập tới sức mạnh của đoàn kết nội bộ Đại tướng đã nói, đại ý: “chúng ta hay đổ lỗi cho các thế lực bên ngoài phá hoại sự thống nhất của Đảng mà ít thấy rằng chính chúng ta đã góp phần gây mất đoàn kết, bè phái khi đưa ra nguyên tắc bổ nhiệm nhân sự theo “vùng, miền” nắm giữ các vị trí chủ chốt trong Đảng và chính quyền. Thời Bác Hồ đâu có vậy, ai có tài, có đức thì người đó được giữ trọng trách để phục vụ Dân tộc, Tổ quốc…”
Khiếm khuyết mang tính hệ thống thứ ba hay còn được gọi là “căn bệnh tha hóa khi cải cách kinh tế không đi cùng với cải cách thể chế chính trị- xã hội một cách phù hợp”. Căn bệnh này có lẽ đang gây nhiều hệ lụy và bất bình mạnh mẽ nhất trong xã hội hiện nay, tuy mới khởi phát vào thời kỳ Đổi mới nhưng đến nay nó đã biến chứng thành những ổ di căn ác tính.
Nền kinh tế thị trường “định hướng XHCN “ là sản phẩm của cuộc hôn phối giữa nền kinh tế thị trường với chế độ chính trị- xã hội XHCN mang tính toàn trị. Trong thể chế hỗn hợp Cộng sản-Tư bản kiểu “ chính sách kinh tế mới của Lê nin” đất đai, tư liệu sản xuất, truyền thông,báo chí … vẫn do Nhà nước độc quyền quản lý nhưng thông qua việc ủy thác và phân quyền cho các đại diện của mình ở các doanh nghiệp Nhà nước, các địa phương thì các nhóm trục lợi nhân danh Nhà nước đã được ban tặng một môi trường làm giàu lý tưởng.
Do những hạn chế của hệ thống thanh tra, giám sát đã lạc hậu và sự thiếu vắng các thiết chế dân chủ cộng đồng đích thực, ví dụ như sự phản biện của các tổ chức XHDS và sự cởi mở của truyền thông, báo chí nên căn bệnh tha hóa này đến nay hầu như đã “lờn” với tất cả các loại thuốc truyền thống kiểu như “phê và tự phê”, “đấu tranh xây dựng nội bộ”, “thanh tra giám sát định kỳ” hay “học tập tư tưởng Bác Hồ vĩ đại” v.v và v.v… khiến lòng tin của quần chúng vào chính quyền đang ở mức khủng hoảng nghiêm trọng.
Do cùng phát tác trên một cơ thể là nền kinh tế Việt Nam nên những căn bệnh vừa nêu luôn có sự “giao thoa và cộng hưởng” lẫn nhau khiến quá trình điều trị trở nên rất khó khăn, phức tạp.
Các nhóm trục lợi có thể hình thành theo tiêu chí “đồng hương, lãnh thổ” trên cơ sở tâm lý tiểu nông hạn hẹp hoặc có thể liên kết theo mô hình chính trị- kinh tế Nhà nước + các nhóm lợi ích ngoài xã hội. Chính vì tính đa dạng và thực dụng vốn có mà các nhóm trục lợi có thể tập hợp trong hàng ngũ của mình từ những vị ngoài miệng luôn giao giảng tư tưởng Mác- Lê theo phong cách giáo điều bảo thủ, “tả khuynh”, các yếu nhân có trọng trách ra quyết định ở tầm vĩ mô và vi mô đến các lãnh đạo doanh nghiệp có phong cách ăn chơi thời thượng, tiêu pha không tiếc tiền dân. Những sự kiện tày trời ở TQ như vụ Bạc Hy Lai hay Vinashin ở Việt Nam v.v… cho thấy một nét chung của căn bệnh tha hóa đó là vai trò phản biện, phát hiện và đấu tranh chống tội phạm của các tổ chức XHDS chưa được quan tâm khai thác phục vụ cho công cuộc Đổi mới.
Vì lẽ đó, không phải ngẫu nhiên XHDS luôn bị những nhóm trục lợi vừa nêu trên sử dụng vị thế độc quyền trong ngành truyền thông ra sức khai thác các yếu điểm cố hữu, bóp méo và thổi phổng thành một thứ ngáo ộp, một công cụ “ diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch”.
Đối với các nhóm trục lợi, đổi mới kinh tế nhưng không đổi mới chính trị là môi trường kiếm chác hoàn hảo nhất vì khi đó họ nắm độc quyền về chính trị, xã hội và đặc quyền kinh tế mà không chịu trách nhiệm giải trình công khai,minh bạch trước Nhân Dân.(4)
Lợi ích của họ hình thành trong quá trình chuyển đổi vừa qua là quá lớn khiến nảy sinh tâm lý không muốn thay đổi để dễ bề “đổ bê-tông” vị thế thuận lợi đã giành được (và phải chăng việc thông qua Hiến pháp sửa đổi 2013 trước rất nhiều ý kiến phản đối mà không đưa ra trưng cầu dân ý là một minh chứng?).
Sự nghiệp Đổi mới ở Việt Nam trong hơn 20 năm qua với những biến chuyển tích cực lớn lao là một thực tế không thể phủ nhận, nhưng đồng thời nó cũng cho chúng ta thấy những khiếm khuyết nghiêm trọng mang tính hệ thống khiến quá trình chuyển đổi dường như đã “khựng” lại và suy giảm bắt đầu từ giai đoạn 2007-2012. (5) Có thể nói Đổi mới giai đoạn I đã kết thúc, đất nước muốn tiếp tục đi tới để hội nhập với thế giới văn minh, dân chủ nhất thiết cần một công cuộc Đổi mới II toàn diện hơn, sâu sắc hơn.
Những điều kiện Cần và Đủ cho một nền kinh tế thịnh vượng và bền vững
Trong phần bàn về Liên Xô sụp đổ chúng ta đã đề cập tới vai trò của thị trường như là điều kiện Đủ trong khi đó các nguồn lực mang tính kỹ thuật và vật chất khác như đội ngũ nhân lực có học vấn và kỹ năng, các viện nghiên cứu, trường Đại học, máy móc, thiết bị và tài chính… là những điều kiện Cần. Khi hội đủ các điều kiện Cần và Đủ thì nền kinh tế sẽ phát triển thuận lợi.
Có thể nói, trong môi trường kinh tế vĩ mô các điều kiện mang tính thể chế là những điều kiện Đủ, chúng đóng vai trò tạo động lực và khai thông định hướng phát triển, trong khi các điều kiện mang tính kinh tế- kỹ thuật khác là những điều kiện Cần rất quan trọng để tạo nên các chỉ số về sản lượng và tốc độ.Hai nền kinh tế có thể thu hẹp khoảng cách thu nhập nhưng điều đó không đồng nghĩa với sự tương đồng về thể chế. Tương đồng về thể chế nếu có sẽ không diễn ra sớm và dễ dàng như trong công nghệ và thu nhập. Những giai đoạn thu hẹp khoảng cách thu nhập có thể lại được nối tiếp bằng những giai đoạn tái nới rộng khoảng cách thu nhập (6).
Rõ ràng sau những năm đầu của Đổi mới I, Việt Nam đã thu hẹp khoảng cách thu nhập với các nước ASEAN, nhưng gần đây đã diễn ra quá trình ngược lại (7). Điều này chứng tỏ chúng ta đang bị tụt hậu về thể chế.
Với khối doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng vốn đầu tư và tài sản xã hội lớn, trong điều kiện khu vực dịch vụ giao dịch thị trường kém phát triển, bộ máy hành chính của các Bộ, ngành phải đảm đương phần lớn các giao dịch thì không có cách nào để giảm bớt biên chế và quỹ lương. Bộ máy công quyền cung cấp các dịch vụ công cộng cũng phình ra nhanh trước nhu cầu phát triển của xã hội. Tuy nhiên hiệu quả công tác của đội ngũ công chức nhà nước khá thấp theo nhiều đánh giá gần đây.(8)
Chưa có số liệu đánh giá về hiệu quả của hệ thống bộ máy phục vụ công tác Đảng và các tổ chức chính trị- xã hội hoạt động dựa vào ngân sách.
Với những chi phí không nhỏ từ ngân sách cho bộ máy Đảng- Chính quyền- Tổ chức đoàn thể thì cách hữu hiệu để hàng hóa và dịch vụ Việt nam mang tính cạnh tranh trong toàn cầu hóa đó là nâng cao năng suất. Tuy nhiên trong những năm gần đây tăng trưởng của Việt nam chủ yếu dựa vào vốn mà không chú trọng thay đổi công nghệ - điều kiện tiên quyết để tăng năng suất.(5) Dường như chúng ta đang lặp lại tình trạng năng suất lao động suy giảm của Liên Xô vào những năm 80 thế kỷ trước.
Một giải pháp “nhất cử lưỡng tiện” là điều động đội ngũ nhân sự đông đảo nhưng kém hiệu quả từ các bộ máy của Đảng- chính quyền và đoàn thể sang xây dựng các ngành dịch vụ giao dịch phục vụ thị trường. Điều này tạo cơ sở để các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể kiện toàn lại bộ máy cho gọn nhẹ, đa năng nhưng hiệu quả cao, đồng thời góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường với khu vực dịch vụ giao dịch phát triển. Nếu TQ đã học tập hình mẫu Hồng Kông trước kia thì ngày nay chúng ta có thêm nhiều mô hình kinh tế dịch vụ thành công như Singapore, Malaysia, Israel …để tham khảo. Xin nhắc lại rằng ở Mỹ từ năm 1970 đã có tới 46% lực lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ thị trường và tạo ra hơn 50% GNP (Gross National Product).(6)
Bộ máy công quyền chuyên cung cấp các dịch vụ công có thể kiện toàn thu nhỏ lại nhưng hiệu năng phục vụ lại cao hơn bằng cách phát triển các hình thức tự phục vụ của các tổ chức XHDS. Nhiều nước trên thế giới từ lâu đã thực hiện thành công mô hình xã hội hóa các dịch vụ công cộng.
Khi chưa đáp ứng được các điều kiện mang tính thể chế (điều kiện Đủ) liên quan tới bộ máy hành chính và khu vực dịch vụ giao dịch thị trường thì có đề ra bao nhiêu phương án tái cơ cấu nền kinh tế, phân bổ lại vốn đầu tư v.v… (thêm các điều kiện Cần) kết quả chắc chắn vẫn sẽ gây thất vọng.
Thiết nghĩ, từ các bài học của Liên Xô và Trung Quốc, chúng ta cần nhận thức rõ rằng lý thuyết chi phí giao dịch mới chính là chìa khóa giải thích các hiện tượng phức tạp của quá trình chuyển đổi. Và do vậy, việc hình thành khu vực dịch vụ giao dịch thị trường phát triển đối với các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây là một điều kiện đồng thời Cần và Đủ.
Để có một Đổi mới II, quan trọng là làm sao khơi dậy được động lực kinh tế của toàn xã hội trong hoàn cảnh bất lợi hơn so với Đổi mới I do các nhóm trục lợi mới hình thành trong hơn 20 năm qua sẽ ra sức phản kháng.
Rõ ràng cải cách thể chế chính trị đã trở nên bức thiết để mở đường cho cải cách kinh tế tiếp tục thành công.
Thăng Long - Hà nội 27/11/2013

Tài liệu tham khảo

(1) Phạm Gia Minh.”Nắm bắt con bệnh 3 trong 1 để tiếp tục đổi mới”
http://Tuanvietnam.vietnamnet.vn/2008-08-07-nam-bat-con-benh-3-trong-1-de-tiep-tuc-doi-moi
(1.1) Phạm Gia Minh. “Thoát Á mới có thể thoát thân”
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-01-08-thoat-a-moi-co-the-thoat-than.
(1.2) Phạm Gia Minh. “Quốc gia “ tự nâng mình” theo chuẩn mực Thế giới”
http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-01-15-quoc-gia-tu-nang-minh-theo-chuan-muc-the-gioi
(1.3) Phạm Gia Minh. “Mấy lời bàn về mô hình TQ: Thư ngỏ gửi GS Francis Fukuyama.
http://www.viet-studies.info/Kinhte/PGMinh/thuFukuyama.htm
(1.4) Phạm Gia Minh. Tản mạn chuyện Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam. Phần 2: Trung Quốc Cải cách.
http://www.viet-studies.info/Kinhte/PGMinh/TanManPhanII.htm
(2) Huy Đức.” Bên thắng cuộc” Osin Book. 201
(3) http://boxit.blogspot.com/2013/04/hiep-hoi-luong-thuc-viet-nam-ban-cung.html
(4) Alexander Vuving.” Vietnam in 2012. A Rent- Seeking States on The Verge of a Crisis”. Southeast Asian Affairs 2013
(5) http://www.viet-studies.info/Kinhte/BuiTrinh_khanangPhucHoi.pdf
(6) Li Tan.” Nghịch lý của chiến lược đuổi kịp” NXB Trẻ 2008
(7) Vương Đình Huệ. Báo điện tử Tia Sáng ngày 24/09/2013
(8) Báo Lao động 27/11/2013.” Lãng phí 17.000 tỷ vì 30% số công chức “cắp ô đi về”.
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 27-11-13
Admin gửi hôm Thứ Sáu, 29/11/2013          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131129/pham-gia-minh-tan-man-chuyen-lien-xo-trung-quoc-va-viet-nam-3
======================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001