Thứ Năm, 19 tháng 12, 2013

Ba vấn đề lớn trong các “đại án kinh tế”, qua vụ án Vinalines ( 1 - 3 )

Ba vấn đề lớn trong các “đại án kinh tế”, qua vụ án Vinalines (1) 



Phan Châu Thành (Danlambao) - Ngày mai, 16/12 dường như phiên tòa “đại án Vinalines” xử Dương Chí Dũng, Mai Văn Phúc, Trần Hải Sơn… sẽ có phán quyết cuối cùng nặng nề với 2 án tử hình và một án tù giam 34 năm (vẫn chưa phải án chung thân!). Tội danh chính gồm 2 phần: Vi phạm qui định nhà nước và tham nhũng (đưa và nhận hối lộ), cả hai đều gây thất thoát tài sản lớn của nhà nước…

Phiên tòa là bức tranh chung đại diện cho nền kinh tế cũng như cho cả thể chế nước ta hiện nay. Từ đó, tôi thấy có ba vấn đề lớn trong vụ án này cũng như trong các “vụ đại án kinh” khác của Việt Nam, đó là: Cơ sở pháp lý (cả lập pháp, tư pháp lẫn hành pháp), của vụ án này không ổn, và như thế chẳng qua là họ đang lừa dân biểu diễn màn hài kịch “chống tham những”, đang lợi dụng pháp lý để các phe nhóm lợi ích trong đảng đấu đá nhau mà thôi; hai là: Cơ chế kinh tế - dùng các đơn vị kinh doanh quốc doanh làm chỉ đạo – tạo ra các vấn đề trầm trọng thể hiện rất rõ trong các vụ án, luôn luôn và tất yếu gây nên đổ vỡ kinh tế lớn cho đất nước; và thứ ba là cách dùng người và cách quản lý kinh tế của chế độ này hay cơ chế đó rất không ổn: không theo hiệu quả làm việc mà theo “phân công của đảng” tức bổ nhiệm theo thế lực thực tế của các phê nhóm lợi ích trong đảng với nhau trong từng lĩnh vực cụ thể, mà chỉ ra sức khai thác thực tế “thắng lợi cách mạng” đã để lại hiện nay…

Vậy nên tôi xin có vài ý kiến chia sẻ về điều đó, và xin bỏ qua phần tội danh tham nhũng vốn là bản chất hệ thống và là đặc thù (vừa là phương tiện vừa là mục đích cách mạng) của các quan cộng sản, ở đâu cũng có, và trong cơ quan nào cũng có thể thấy rõ mọi lúc mọi nơi, dù bao giờ khi khởi tố các vụ án cũng chỉ là “vi phạm các qui định quản lý nhà nước”…

Phần 1: Những vấn đề trong cơ sở pháp lý của vụ án Vinalines

Cơ sở pháp lý để luận tội “vi phạm các qui định quản lý nhà nước” ở đây, trong ví dụ vụ “đại án kinh tế” Vinalines là Nghị định 49/2006/NĐ-CP của Thủ Tướng mới lên lúc đó NTD ký ngày 18/5/2006 (NĐ 49/CP).

Về lập pháp, trước 2006 cả nền kinh tế phát triển khá rầm rộ và việc các đơn vị, địa phương ồ ạt nhập tầu biển cũ về kinh doanh là rất phổ biến, vì nói chung cách đó khá hiệu quả đối với nền kinh tế vừa mới mở ra của ta thời kỳ đó. Việc quản lý nhập khẩu tàu biển về VN trên phạm vị quốc gia với cái nhìn vì lợi ích cả nền kinh tế khi đó và bao giờ cũng là cần thiết. Nhưng không hiểu sao người chấp bút cho nghị định CP này lại là… Vinashin. Vinashin chính là “nạn nhân” của “phong trào” nhập tầu biển cũ ồ ạt làm các xưởng tàu trong nước chết thảm nhiều năm (20 năm dài, từ 1986) trước đó, nhất là các xưởng tàu lớn của Vinashin... Vì thế, Nghị định 49 đã ghi rõ cấm nhập các tàu biển trên 15 tuổi… Mục tiêu “lập pháp” lớn nhất của Vinashin lúc đó là bắt các anh “bạn vàng” lớn nhất trong nước như Vinalines, PetroVietnam, Petrolimex và các loại tổng công ty “im-ếch” và các công ty vận tải biển khác “của nhà nước” phải đặt hàng họ – Vinashin đóng tàu mới trong nước thay vì đi mua tàu cũ… Chính phủ thì coi đây là nghị định bảo hộ kinh tế của mình giúp Vinashin – quả đấm thép đặc biệt “sáng” lên…

Đầu 2006, tôi đã được ông Bình và ông Ánh (TGĐ và PTGĐ Vinashin) khoe về thành tích “lập pháp” đó của họ như sau: “Bọn tớ đang sắp lùa được chúng nó vào rọ hết rồi. Từ 1.6.2006 chúng nó có muốn cũng không thể chạy thoát việc đặt hàng đóng mới ở Vinashin…”, và họ nói về nội dung Nghị định 49/CP mà N.T.Dũng sẽ ký… (“Chúng nó” ở đây là “các ông bạn vàng” đã kể trên), rồi họ say sưa nói đến tương lai ngành đóng tàu Việt Nam sẽ trở thành trụ cột nền kinh tế Biển, sẽ đứng thứ tư (trong kế hoạch gửi CP họ rút xuống thứ 7) thế giới, vào năm 2010…

Tôi đã đưa ra bốn lý do chính mà theo tôi một NĐ như thế dù CP có thông qua cũng sẽ khó thực hiện là: Người mua tầu cũ, dù trên 15 năm tuổi, thường sẽ khai thác hiệu quả hơn đóng mới rất nhiều (vì nước ta còn nghèo, dân ta chưa quan tâm đến cấc vấn đề an toàn và môi tường…); thứ hai: tầu trên 15 tuổi mà do Nhật hay Châu Âu đóng thì khả năng chất lượng còn rất tốt và thiết bị kỹ thuật hiện đại… hơn tàu Vinasshin đóng mới là rất cao, (tàu Vinashin đóng mới chỉ hơn tàu cũ của... TQ đóng thôi!), và thứ ba: Thế giới đóng tàu là để dùng 50-60 năm (có khi cả trăm năm) thì mới hiệu quả, chứ có phải chỉ dùng 15 năm đâu? Tầu dưới 15 tuổi rất ít chủ tàu bán đi vì đang “ngon” và khai thác chưa thu hồi hết vốn và bán đi thì khó vì giá phải cao; và lý do thứ tư, quan trọng nhất: Khi đi mua tầu ở nước ngoài, người ta vừa được du hí bằng tiền nhà nước, vừa được chủ tầu “lại quả” rất ngon vì người ta mua bằng tiền nhà nước mà...

Như vậy, vấn đề trong lập pháp ở đây là, Nghị định 49/CP là một chính sách cực kỳ sai lầm của chính phủ vì nó không khả thi, vì nó đi ngược các nguyên tắc kinh tế cơ bản trên.

Tôi không biết trên thế giới có nước nào “chơi sang” mà dám có chính sách bảo hộ “tự hại” như NĐ 49/CP cấm nhập tầu biển trên 15 tuổi như VN? Thường thì, các chính phủ không khuyến khích việc nhập tàu biển cao tuổi bằng các chính sách thuế cao (thế nhập khẩu và thuế khai thác), và bằng các qui định cao về an toàn, đăng kiểm, bảo hiểm… với tàu biển mà thôi. Ví dụ, vì các lý do cụ thể là bảo vệ môi trường biển, nước Úc cấm tàu trên 30 tuổi vào cảng của họ, vì bảo vệ an toàn con người đi biển các nước Tây Âu đánh thuế rất cao chủ tàu của họ khi khai thác tàu cũ trên 25 năm nhưng vẫn cho khai thác vô thời hạn, miễn là đăng kiểm và bảo hiểm chấp nhận… hay vì tham gia các công ước quốc tế về biển như IMO, SOLAS… mà các nước đều phải gia tăng các yêu cầu đăng kiểm an toàn kỹ thuật tàu biển… Chỉ có VN mới có tư duy điều hành kinh tế bằng mệnh lệnh với vô số các nghị định như kiểu NĐ 49/CP đó…

Có thể những người thông qua nghị định 49/CP (là VPCP) và người ký nó (TTg Nguyễn Tấn Dũng) chả hiểu tí gì về tầu biển và sự nguy hiểm của bảo hộ kinh tế trực tiếp, nhưng họ cũng đã không biết học theo “đại ca” của mình là Đặng Tiểu Bình khi ông này đã từng nói và làm trong thời điểm mở cửa nước Trung Hoa rằng: “đóng tàu không bằng mua tàu, mua tàu không bằng thuê tàu…” để thực hiện chính sách “mèo trắng hay mèo đen, miễn mèo nào bắt được chuột!” của ông.

Trong kinh tế của các “quả đấm thép” VN thì câu đó là: mua tàu hay đóng tầu hay thuê tàu, miễn là đạt hiệu quả kinh tế cao nhất? Thế là, để mở cửa nền kinh tế, TQ thì bắt đầu bằng thuê tầu và họ cứ thế đi lên, còn VN bắt đầu bằng mua tàu (cũ) và đóng tàu (nát) – VN cứ thế mà chìm nghỉm. Ngày hôm nay, công nghiệp đóng tàu TQ đứng đầu thế giới (về sản lượng và thị trường, chất lượng thì còn lâu – vì đó là vấn đề “đạo đức cộng sản”), đóng tàu VN cũng đứng đầu thế giới, nhưng về tai tiếng và ân oán nợ nần…

Chính sách đó (Nghị định 49/CP) đã phá sản hoàn toàn mà, về hành pháp, đến hôm nay nó vẫn được dùng như Kinh thánh để làm cơ sở pháp lý quản lý kinh tế trong nước và cho các vụ án, nhất là trong các vụ “đại án linh tế” như vụ Vinalines… Tức là nó đang là cơ sở pháp lý để kết án tử hình hai ông Dũng và Phúc…

Cần phải nhắc lại là, chính trong vụ đại án Vinashin mới gần đây thôi, người ta cũng đã dùng Nghị định 49/CP này để kết án các quan chức vô lại Vinashin khi chính họ đã vi phạm cái nghị định mà họ soạn thảo ra rồi “lobby” để Thủ tướng ký năm 2006 đó! Đó là khi họ được giao một đống tiền của nhà nước và họ biết nếu họ tự đóng tàu thì chỉ có lỗ nên họ đã… đi mua hàng loạt tàu cũ về và lập nên các công ty hàng hải Vinashinlines, Biển Đông, tàu khách Bắc Nam Vinashin, từ số O tròn trĩnh thành những “người khổng lồ” trong ngành trong mấy tháng!

Khoảng thời gian đó (2007-2008?), tôi lại quay lại hỏi các ông Bình, Ánh… “Sao các anh vi phạm NĐ 49/CP? Sao các anh không “vì tương lai ngành đóng tàu Việt nam” mà tự đóng tàu rồi khai thác?’ Có phải vì mấy nguyên nhân làm NĐ 49/CP sẽ bất khả thi mà tôi đã đưa ra?...” Thì tôi được trả lời: Vinashin được Thủ tướng giao nhiệm vụ cấp tốc phát triển tuyến vận tải hành khách và container Bắc-Nam để khẳng định vai trò kinh tế biển của Việt Nam, nên không thể đợi đóng tàu được! Và vì thế… tất cả các con tàu họ mua “cấp tốc” về đều có tuổi vượt xa tuổi 15 - “sắp trăng tròn” mà họ đã yêu cầu CP cấm nhập…

Như vậy, việc hành pháp với NĐ 49/CP cũng chỉ là trò hề, họ thích thì theo, không thích thì thôi, có người phải theo, có người không phải theo, và bao giờ họ cũng có lý do gì đó cao hơn pháp luật, ví dụ ở đây là “chỉ thị của thủ tướng”… Vậy pháp luật là gì, nghị định CP là gì mà bắt cả nước phải tuân theo nếu vẫn có những thứ luôn cao hơn pháp luật?

Khuôn mặt thứ ba của hệ thống Pháp lý là tư pháp, với Nghị định 49/CP năm 2006 thì nó là cái gì, trông như thế nào? Trong ngành vận tải sông biển và đóng tàu (cả trong dầu khí, thủy sản và một số ngành công nghiệp khác…) có một dạng tổ chức độc lập đóng vai trò tư vấn pháp lý và kỹ thuật trong ngành, vai trò tư pháp, đó là tổ chức Đăng kiểm Hàng hải Việt nam. Ở nước ta Đăng kiểm Hàng hải là cơ quan nhà nước vừa có vài trò lập pháp (lập ra các qui phạm, qui định kỹ thuật), vừa có vài trò hành pháp (giám sát thực hiện) và vừa có vai trò tư pháp (giải thích, điều chỉnh, tư vấn kỹ thuật…)

Trong NĐ 49/CP. Đăng Kiểm VN đã bị cho đứng ngoài từ đầu trong việc tham gia tư vấn “lập pháp”, tức là góp ý cho NĐ 49/CP, ít nhất là về chuyên môn kỹ thuật hàng hải. Vì thế cho nên khái niệm cơ bản như ụ nổi 83M có phải là tàu biển không và có chịu sự áp đặt của Nghị định 49/CP đó không, mà đến nay người ta cũng vẫn còn cãi nhau suốt, đã gần chục năm áp dụng NĐ rồi, thỉ quả là… bó tay chấm cơm!

Việc này nếu đưa ra tòa án hay trọng tài quốc tế, thì chỉ cần một câu giải thích định nghĩa từ ship - tầu biển trong NĐ 49/CP của một cơ quan đăng kiểm quốc tế là xong. Nghị định 49/CP điều tiết việc nhập khẩu tầu biển nhưng không có định nghĩa “tầu biển” chính xác và được các bên liên quan hiểu “tầu biển” nhất quán là gì, thể hiện cách làm luật của ta nó “chuyên nghiệp” ra sao, cách thực hiện luật pháp nó rối loạn thế nào và cách giải thích và áp dụng nó bế tắc làm sao!

Luật ra ám muội như thế, những người “cảnh sát kinh tế” cho việc áp dụng luật, ở đây là NG 49/CP và việc nhập khấu ụ nổi 83m của Vinalines là Hải Quan lại thường là những người biết ít nhất về kỹ thuật, nhất là kỹ thuật hàng hải, thì làm sao hiểu cho tường tận NĐ 49/CP để thực hiện! Thế mà họ đã hiểu đúng và thực hiện đúng, họ đã cho thông quan Ụ nổi vì đó đúng là không phải tầu biển – đối tượng áp dụng của NĐ 49/CP!

Thế mà, hôm qua và hôm nay, đọc các bài báo lề phải về “đại án Vinalines”, về chi tiết các vị công tố viên dùng biên bản của Đăng kiểm VN để “đập lại” các đăng kiềm viên và cán bộ hải quan hiện đã là những bị can tại tòa, rằng “Ụ nổi 83M không phải là tàu biển thì là mớ rau à?”, tôi thấy đau lòng và uất nghẹn cho người dân trước hệ thống tư pháp ngu và ác đến tột cùng của chế độ này quá! Chẳng khác gì như công an bắc Giang tra tấn ép cung ông Chấn để lập thành tích phá án nhanh, các công tố viên Viện Kiểm “nhân dân” đang công khai “ép cung, tức đổi trắng thành đen giữa phiên tòa, đưa các “đồng chí” vô tội của mình vào vòng lao lý, để lập thành tích chống tham nhũng với đảng, và đảng thì với dân!

Đó cũng là một lý do trực tiếp làm tôi phải xóa các cuộc hẹn chiều nay để ngồi viết bài này.

Ý của tôi là: Những người đang đứng trước vành móng ngựa hôm nay ít nhiều một số cũng có tội và đáng bị xử, nhưng có lẽ không phải tất cả - có nhiều người không có tội “vi phạm các qui định pháp luật” như cán bộ đăng kiểm (Lê Văn Dương) và ba cán bộ hải quan (Huỳnh Hữu Đức, Lê Văn Lừng và Lê Ngọc Triện). Với tôi, những kẻ đang xử họ còn có tội lớn hơn nhiều, là đang vận hành một chế độ pháp lý đại ngu đại ác đại bất công như thế!

Tôi xin mạn phép đưa ra 2 định nghĩa tàu biển và Ụ nổi của các đăng kiểm quốc tế (như ABS, DNV-GL, LR, BV…) dùng phổ biến trong các tài liệu pháp lý, tài liệu kỹ thuật, qui phạm, tiêu chuẩn kỹ thuật… trong các nghành đóng tàu, hàng hải, dầu khí quốc tế như sau: Tàu biển (seagoing ships) là phương tiện nổi tự hành (có động cơ và chân vịt) để (với mục đích chính) vận chuyển hay di chuyển trên biển mà trên 99% thời gian khai thác của nó là dành cho mục đích chính đó.

Còn Ụ nổi (floating drydock) là một dạng phao nổi có tiết diện chữ U có đội nổi thay đổi và có thể làm chìm xuống-nổi lên để năng tàu biển lên khỏi mặt nước.

Theo hai định nghĩa trên và theo mọi tổ chức đăng kiểm, mọi chuyên gia trong ngành thì ụ nổi và tầu biển là khác nhau và luôn cần hai định nghĩa khác nhau hoàn toàn như trên. Tứ là, Ụ nổi 83M không phải và không thể là tàu biển, và nó không là đối tượng chịu áp đặt của NĐ 49/CP hiện hành. Nói Ụ nổi là tầu biển thì cũng như nói nhà hộ sinh là bà đẻ vậy, hay nói giường bệnh chính là bệnh nhân, gara là cái ô tô, nhà của bạn là bạn?…

Điều đó có nghĩa là trong vụ “đại án Kinh tế” Vinalines mà ngày mai người ta sẽ kết án “vi phạm các qui định quản lý kinh tế” của đối với các ông Dũng, Phúc… trong việc nhập ụ nổi 83M, là hoàn toàn không có cơ sở pháp lý. Rất tiếc, trong quá trình tố tụng vụ án, các vị “tư pháp” của vụ án này là các Đăng kiểm VN và Hải quan lại cũng bị bắt giam cùng các bị can thay vì được hỏi cách hiểu và cách áp dụng NĐ 49/CP!

Tóm lại, trong vụ án này, tư pháp bị hành pháp bắt giam, đè bẹp và xét xử. Họ trở thành bị can và tội phạm và họ thậm chí không thể tự bảo vệ chính mình, vì họ bị đảng cướp mất cơ sở pháp lý của họ - chính là cách hiểu đúng ND 49/CP! Ôi những vị quan tòa công minh về kỹ thuật – các chuyên gia đăng kiểm, và cả các vị “cảnh sát kinh tế” của chế độ- trong chế độ không chịu tam quyền phân lập này với ý chí của đảng luôn cao hơn tam quyền ấy, các vị chỉ có thể trở thành hề, vật hy sinh và mồi ngon cho kẻ khác! Tư pháp ở đâu ư? Thế Pháp lý ở đâu?

Vinalines – Lại một vụ án điển hình tượng trưng cho xã hội CSVN này: lập pháp ngu ngơ bất mình, hành pháp tùy theo ý thích và “sức mạnh $”, còn tư pháp thì bị bắt đem xử luôn cho đúng ý hành pháp!

Ôi, con đường công lý cho dân Việt còn xa lắm! Bức tranh những “đại án kinh tế chống tham nhũng” cũng chỉ là những màn diễn bi hài để các thế lực trong các nhóm lợi ich $ đỏ tranh giành thế lực với nhau mà thôi…

Tôi chỉ phân tích một NĐ 49/CP để chúng ta thấy cái lố bịch, cái ngu dốt, cái nguy hiểm, cái trơ tráo và cái sự độc ác của cả hệ thống pháp lý qua một nội dung là ND 49/CP để thấy nó đã gây nên bao vô lý đau thương bi hài cho nền kinh tế, cho từng người liên quan và cho cả xã hội VN hiện đại này.

Bây giờ, các bạn hãy tự hình dung cái xã hội này đã và đang được xây dựng trên hàng ngàn hàng vạn những “nghị định” ngu xuẩn như thế, được điều tiết mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học, pháp luật… của xã hội cộng sản này theo những cách như thế và bằng những con người như thế, để thấy mức độ ghê tởm và không thể cứu vãn của nó.

Dân tôi ơi, đừng hy vọng gì vào cái gọi là chống tham nhũng của CSVN nữa!

(Còn tiếp)

___________________________________

(PS: Hôm nay tôi chỉ nói được quan điểm của mình về một trong ba vấn đề nêu ra thôi. Hai vấn đề kia, hy vọng sẽ có dịp chia sẻ cùng các bạn dịp khác – Cảm ơn - PCT).
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.fr/2013/12/ba-van-e-lon-trong-cac-ai-kinh-te-qua.html#.Uq3quCfpyRA
======================================================================
Phan Châu Thành - Ba vấn đề lớn trong các “đại án kinh tế” (2)



Phan Châu Thành

Phần 2: Những nguyên nhân phá sản từ Mô hình kinh tế Nhà nước

Trong Phần 1 – Những vấn đề pháp lý trong các “đại án tham nhũng”, chúng tôi đã chỉ ra những nguyên nhân trong hệ thống pháp lý đã tham gia tạo nên (như là những cái bẫy pháp lý) sự đổ vỡ của các tập đoàn kinh tế nhà nước (KTNN) như Vinashin, Vinalines…
Nhưng những cái bẫy pháp lý (thường là ngu xuẩn và vô bổ như NĐ 49/CP) giăng trên đầu và xung quanh các tập đoàn KTNN đó, khiến chúng tự mắc vào và tự sập bẫy cũng chỉ là bối cảnh mà hệ thống pháp lý kinh tế của thể chế này vô tình tự dựng nên cho các con cưng của mình – các doanh nghiệp KTNN, mà thôi. Chính cái cơ cấu tổ chức và phương cách quản lý kinh tế của nhà nước này, hay còn gọi là mô hình tổ chức kinh tế nhà nước, với 127 các tổng công ty và tập đoàn KTNN ở trung tâm và “là chủ đạo” để đảm bảo “định hướng XHCN”, mới khiến các doanh nghiệp nhà nước, các tổng công ty và tập đoàn KTNN đó trở thành những cỗ máy tự động vận hành đến… sự sụp đổ tất yếu của chúng, như Vinashin và Vinalines hay như nhiều công ty NN khác đã tự “vận hành” tự sát, mà chúng ta đã đang và sẽ còn thấy nhiều.
Vậy điều gì trong cơ cấu tổ chức và hệ thống quản lý của các tổng công ty và tập đoàn KTNN khiến chúng sẽ tất yếu đi đến phá sản? Đó là điều tôi xin sẽ trình bày trong phần 2 này.
Thứ nhất, về tổ chức, sau gần trăm năm thí nghiệm trên hàng chục quốc gia với hàng tỷ dân số, “phe” XHCN vẫn chưa tìm ra mô hình tổ chức đơn vị kinh tế XHCN cho mình thì tất cả (những quái thai thí nghiệm mang tên công xã, HTX, liên hiệp xã, xí nghiệp, nông trường, liên hiệp các xí nghiệp…) đã sụp đổ khắp nơi trước hay cùng bức tường Berlin năm 1991. Còn lại ở Trung Quốc và Việt Nam người ta đều vội vã học theo mô hình công ty hay tổng công ty của bọn tư bản “thối tha”, để tồn tại.
Nhưng VN đã áp dụng ba “cải tiến” chính, cơ bản để chúng vẫn đảm bảo “tính XHCN”: đầu tiên là, sở hữu “toàn dân” - do đảng sở hữu và đảng cử người “đại diện sở hữu” các công ty đó (Chủ tịch HĐTV), tức là công ty chỉ có 1 (một) cổ đông duy nhất, thay vì công ty phải do nhiều cổ đông sở hữu và các cổ đông đó bầu ra chủ tịch HĐTV; hai là, công ty nhà nước thực chất không có pháp nhân độc lập vì công ty không được độc lập mà phải phụ thuộc đảng/nhà nước, và vì đảng hay nhà nước chỉ có và chỉ là một pháp nhân duy nhất; và ba là: đảng bổ nhiệm trực tiếp luôn Giám đốc/Tổng giám đốc điều hành công ty/tổng công ty thay vì chủ tịch HĐTV chọn thuê người điều hành.
Với ba điều chỉnh chính trên, mô hình công ty, tổng công ty hay tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam không còn là công ty (The Corporate body) như là một trong những thành tựu sáng tạo vĩ đại nhất của Loài người (à quên: của bọn tư bản thối tha) sau mấy thế kỷ trải nghiệm từ thế kỷ 18, thời Adam Smith đến nay, nữa, mà chỉ còn là những quái thai XHCN mới của Việt Nam.
Hiện đảng và nhà nước VN có ba mô hình chính là công ty TNHH một thành viên (!), tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước, trong đó mô hình tập đoàn vẫn đang là “thí nghiệm”. Chính những mô hình tổ chức công ty XHCN quái thai này đã, đang và sẽ biến những con người vận hành chúng thành những quái nhân như Phạm Thanh Bình và Dương Chí Dũng, đưa các tổ chức kinh tế quái thai đó đến những cái chết tất yếu như Vinashin, Vinalines...
Ở Vinashin, chúng ta thấy ông Bình được đảng “thí nghiệm” bổ nhiệm cả hai chức danh chủ tịch HĐTV và Tổng giám đốc Tập đoàn (mãi đến khi tập đoàn đã sập ông Bình mới nhường chức tổng giám đốc cho ông…), nên ông đưa cả tập đoàn đến cái chết ngoạn mục hơn Vinalines.
Ở Vinalines, đảng rút kinh nghiệm bổ nhiệm 2 ông Dũng và Phúc độc lập nhau, đúng “thiết kế”, nhưng thiết kế lại sai ở chỗ làm tổng giám đốc và chủ tịch HĐTV luôn luôn đối chọi nhau kịch liệt. Đó là chuyện đã xảy ra ở Vinalines và đang xảy ra ở mọi doanh nghiệp nhà nước, làm chúng không thể hoạt động hiệu quả. Bởi vì, chủ tịch HĐTV có “quyền” có thế nhưng không có “lực”, còn tổng giám đốc thì có “lực” mạnh hơn nhưng lại vẫn phải theo chỉ đạo của chủ tịch. Đó là một trong những lực cản cơ bản khiến các doanh nghiệp nhà nước không bao giờ hoạt động thành công lâu dài và phát triển bền vững được. Bao giờ cũng có kẻ này lấn lướt kẻ kia trong hoạt động (không đúng thiết kế) hoặc hai bên căng nhau thì hoạt động kinh doanh càng bị ảnh hưởng xấu…
Nhưng nếu chủ tịch và tổng giám đốc bắt tau nhau “đoàn kết” thì sao? Thì… mỗi khu rừng sẽ có hai chúa sơn lâm, vui vẻ “chia nhau sơn hà”, dân sẽ khổ hơn gấp đôi và nhà nước mất vốn nhanh gấp đôi…
Thứ hai, về chính sách, các doanh nghiệp nhà nước được bảo hộ và ưu tiên mọi nguyền lực (tài chính, đất đai, các quyền ưu tiên…) và được độc quyền “chức năng” trên thị trường. Các tập đoàn và tổng công ty đầu nghành còn có chức năng quản lý chuyên môn ngành nữa – họ là những người chấp bút viết ra các kế hoạch, chiến lược và chính sách cho cả ngành thay chính phủ mà chính phủ chỉ việc thông qua rồi đưa vào thực hiện. Nghị định 49/2006/NĐ-CP là một ví dụ về khả năng thao túng chính sách của các tổng công ty và tập đoàn nhà nước “đầu ngành”…
Nói chung các chính sách quản lý kinh tế các ngành của nhà nước VN hiện nay đều do các doanh nghiệp nhà nước viết ra. Vấn đề không chỉ là các chính sách đó chỉ có lợi cho họ, mà trước hết là các chính sách đó chỉ có tầm nhìn của họ chứ không có tầm nhìn của cả quốc gia, vì lợi ích lâu dài của cả nền kinh tế.
Thứ ba là về phương cách điều hành kinh doanh, khi được cho tự do toàn quyền mở rộng kinh doanh bằng “vốn tự có”, hầu như tất cả các tổng công ty và tập đoàn đều nhảy ra kinh doanh ngoài ngành của mình. Vinashin thì lập các đội tàu và kinh doanh vận tải biển, còn Vinalines thì mở nhà máy mới (nhập ụ nổi) để kinh doanh… đóng và sửa chữa tàu thuyền, và cả hai đều sa lầy và chìm xuồng ở lĩnh vực mở rộng vốn không phải “sân nhà” của họ đó.
Tại sao vậy? Vì cả hai (hay mọi tập đoàn nhà nước) đều luôn nói dối và nói quá lên với chính phủ về tương lai sáng lạn của ngành mình để xin chính phủ cho đầu tư lớn, và khi đã được chính phủ cho vốn đầu tư lớn rồi thì cả hai (hay tất cả) vốn đều biết ngành mình rất khó nhai (mà đã giấu diếm không nói thật) nên để “bảo vệ’ vốn được giao thì tốt hơn là đầu tư vào ngành “ngon ăn hơn” của bên kia... mà mình “biết là ngon”. Thế là có ngay một vài thuyền trưởng láu cá và thất sủng của Vinalines được Vinashin “trọng dụng” lập nên các “Vinashin-lines”, còn một vài giám đốc cơ hội và thất thế của Vinashin được Vinalines “tin cậy” mời về để dựng lên các xưởng “Vinaline-shin” cho các ông Bình, Dũng… tạo nên những bãi lầy tài chính, kinh doanh (và đạo đức), làm các ông sẽ phải chết chìm và chết chùm trong đó.
Vậy nếu chính phủ không cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư ra ngoài ngành nữa (như hiện nay) thì vấn đề đầu tư kém hiệu quả sẽ được giải quyết? Không. Khi không được kinh doanh ra ngoài, lấn sân – tức là không được “phình to ngang”, mà vẫn đang có vốn lớn để phải đầu tư đúng ngành, các doanh nghiệp nhà nước sẽ… ”phình to dọc”. Phình dọc là khi các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án lớn đúng ngành nhưng họ biết chắc (và ai cũng biết) kiểu gì cũng chết, đằng nào cũng sẽ lỗ - nhưng họ vẫn đầu tư!
Tại sao họ biết lỗ mà vẫn làm? Bởi vì ba lý do chính sau: Cứ đầu tư là họ cơ hội rút ruột công trình chia nhau, lời lỗ tính sau (lý do quan trọng nhất); Họ đã xin vốn (khống và vống lên), Nhà nước đã cho vốn là họ phải đầu tư, nếu không kỳ sau họ sẽ không xin được vốn nữa! Và, đầu tư là họ có công trình, có thành tích, tạo công việc cho nhân viên, các sếp dễ thăng tiến cao hơn, còn kết quả đầu tư…tính sau!
Ví dụ cho kiểu “phình dọc” bất chấp hiệu quả này là các công trình thủy điện của EVN, các nhà máy chế tạo nhiên liệu sinh học ở Bình Phước, Phú thọ… của PV Oil (PetroVietnam), lọc dầu Bỉm Sơn, Thanh hóa (PVN)… và vô số các “công trình” khác của các tổng công ty tập đoàn kinh tế nhà nước.
“Phình dọc” cũng sẽ dẫn các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đến những cái chết kinh tế lớn, nhưng chúng khó bị phát hiện từ ngoài hơn, vì thế càng nguy hiểm hơn khi chúng tích tụ và bùng phát.
Thứ tư là về quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh vốn nhà nước. Chính phủ giao vốn và tài sản lớn của Nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước mà không có một chế tài nào cụ thể về trách nhiệm của đối với những người “đại diện nhà nước” về quản lý vốn và hiệu quả kinh doanh vốn nhà nước đó, ngoài hy vọng vào đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ giúp họ sẽ bảo toàn vốn. Thật quá vô cùng dễ dãi! Đại đa số người được giao tài sản lớn “của nhà nước” như thế đều dần dần tự coi mình như chủ, cảm thấy mình là chính chủ sở hữu. Và thế là đảng đã “đẩy” họ ra sức… sở hữu tài sản được giao “đại diện”! Chỉ đến khi doanh nghiệp sụp đổ, vốn và tài sản nhà nước đã tiêu tan hết, đã bị “đại diện sở hữu” sở hữu hết, như Vinashin hay Vinalines, thì nhà nước mới can thiệp thì đã quá muộn. Nhưng nếu nhà nước ngồi vào kiểm tra công việc hàng ngày thì không thể làm được, và doanh nghiệp thì mất tự chủ, tự do, sáng tạo…
Gần đây, một số doanh nghiệp nhà nước đưa ra sáng kiến quản lý: nếu doanh nghiệp lỗ 2 năm thì giám đốc sẽ bị cách chức. Thế có giải quyết được vấn đề quản lý hiệu quả doanh nghiệp không? Không. Vì mọi doanh nghiệp trong mọi nghành đều có chu kỳ thăng trầm: vài năm phát triển và năm khó khăn, các giám đốc đều biết điều đó và nếu gặp năm khó khăn thì họ sẽ báo cáo láo rằng vẫn lãi chút chút để được “qua đò”, và khi gặp những năm phát triển tốt thì họ cũng vẫn báo cáo “chỉ lãi chút chút” để dự phòng hay bù lại cho những năm khó khăn…
Không cần dọa cách chức thì hiện nay đại đa số giám đốc các doanh nghiệp nhà nước vẫn đang làm thế rồi. Và cái phần lãi thực nhưng “để dự phòng cho khi khó khăn” nên không được báo cáo đó thì ai quản và quản thế nào? Điều đó là nguyên nhân phổ biến bắt đầu cho mọi tham nhũng, mà tham nhũng là khởi điểm và kết thúc của phá sản doanh nghiệp.
Đó là nững con đường tất yếu mà các doanh nghiệp nhà nước, cách này hay cách khác, đều sẽ phải đí qua, vì chúng được sinh ra với “bản năng” như vậy - để đến kết cục không thể tránh: phá sản, như Vinashin hay Vinalines hay v.v… và v.v…
Vậy vấn đề nằm ở đâu và làm sao tranh điều đó?
Vấn đề nằm ở cấu trúc tổ và chức quản lý quái thai của các công ty nhà nước, với các “cải tiến” như trên từ mô hình doanh nghiệp của tư bản – công ty hay corporate body.
Chỉ có thể tránh kết cục phá sản của nền kinh tế với những cái chết kiểu Vinashin, Vinaline… bằng cách xóa bỏ các công ty nhà nước theo mô hình công ty XHCN quái thai như trên, và thay hoàn toàn bằng các công ty tư nhân và công ty cổ phần (qua cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước) – các "corporate bodies".
Tất nhiên, đảng và nhà nước ta không thể làm thế, vì họ không thể để mất “định hướng XHCN”, cho dù điều đó mang lại sự thịnh vượng của cả dân tộc – trong đó có họ. Với đảng CSVN, quyền lợi của họ cao hơn quyền lợi dân tộc.
Chỉ còn một khả năng: đảng sẽ cố giữ các doanh nghiệp nhà nước như thế, và chúng sẽ lần lượt hay cùng nhau chết thảm như Vinashin, Vinalines và đảng tất nhiên cũng rã đám theo, nhưng các cán bộ đảng thì đã thành tư bản đỏ rồi.
Chỉ có nhân dân là luôn phải trả giá đau đớn nhất trong cái chết tất yếu của nền kinh tế “định hướng” đó. Vấn đề là, nếu đã biết vậy thì nhân dân có sẽ để cho đảng làm vậy với dân không?
Tôi tin rằng: không.
PCT
Admin gửi hôm Thứ Ba, 17/12/2013          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131217/phan-chau-thanh-ba-van-de-lon-trong-cac-dai-an-kinh-te-2
=======================================================================
Phan Châu Thành - Ba vấn đề lớn trong các "đại án kinh tế" (3)



Phan Châu Thành

Phần 3 (kết): Vấn đề con người – những “doanh nhân” XHCN

Trong Phần 1 và 2 – Những vấn đề pháp lý kinh doanh và từ mô hình tổ chức DNNN trong các “đại án kinh tế”, chúng tôi đã chỉ ra những nguyên nhân trong hệ thống pháp lý XNCH (như là những cái bẫy, những con đường kinh doanh quẩn và tắc), và những nguyên nhân từ mô hình tổ chức kinh tế nhà nước (như những cỗ máy kinh doanh sai thiết kế) đã/đang và sẽ dẫn đến sự đổ vỡ kinh tế của các tập đoàn KTNN như Vinashin, Vinalines… như thế nào.
Nhưng những nguyên nhân pháp lý chỉ tạo nên bối cảnh của sự phá sản và nguyên nhân từ mô hình tổ chức kinh tế nhà nước chỉ là phương tiện để thế chế cộng sản làm nên sự phá sản kinh tế XHCN tất yếu đó của họ. Những con người – hay những kẻ gọi là “con người mới XHCN”- những người cộng sản làm kinh tế định hướng XHCN, những “người lái” của những cỗ máy kinh tế XHCN quái thai đó, mới là nguyên nhân hạt giống trung tâm của toàn bộ quá trình phá sản tất yếu đó của cả nền kinh tế nhà nước định hướng XHCN của Việt Nam hôm nay.
Vậy những con người cộng sản Việt nam – những “doanh nhân XHCN” (mà chúng ta có hình ảnh các ông Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng… và cá đồng chí chưa bị lộ của họ để minh họa), đang chủ đạo nền “kinh tế thị trường có định hướng” của VN đó là ai, và tại sao họ lại có thể và chỉ có thể thúc đẩy sự phá sản của cái nền kinh tế XHCN mà họ muốn “xây dựng” đó? Đó là điều tôi sẽ trình bày trong phần 3 này.

Họ trở thành “doanh nhân XHCN” như thế nào?

Thứ nhất, về cách chọn dùng người làm kinh tế XHCN của đảng CSVN, tiêu chuẩn đầu tiên là “hồng” tức là phải rất chuyên chính cộng sản, rồi đến “trung”- không phải “chuyên”. Nhưng ngày nay, ai là những người cộng sản thực sự “hồng”? May ra chỉ còn có thể tìm thấy số rất ít trong hai nhóm: các đảng viên lão thành nhưng đã hết thời, hết thế, hết lực và thường hết cả khả năng nhận biết mình đã “hồng” quá chỉ để cho kẻ khác “xơi”, kẻ khác (thường là đàn em họ) dùng họ làm gạch đỏ lót đường hại dân hại nước của chúng; và đám đảng viên trẻ mới còn ngây ngô và đang bị đảng lừa (nhưng đa số đảng viên trẻ hôm nay cũng đã là bọn cơ hội và lưu manh có ý thức rồi). Số đông đảo cộng sản còn lại thường là “rất hồng” trên miệng lưỡi nhưng mờ ám trong hành vi và rất đen tối trong mục đích – những kẻ gian hùng và/hoặc hèn, những kẻ cơ hội luôn có thể làm mọi thứ vì cá nhân.
Chính bọn gian hùng nhất, giả dối nhất, bẩn thỉu hay hèn nhất đó trong đảng sẽ là các ứng cử viên sáng giá nhất cho các chức vụ quản lý kinh tế XHCN của đảng. Nhưng nếu chỉ dựa trên tiêu chuẩn “hồng đểu” này thì đảng sẽ rất khó chọn cán bộ cho mình, vì sau mấy thế hệ đào tạo đảng có nguồn nhân lực loại này vô cùng “phong phú”, gồm vài triệu đảng viên cơ hội trong đội ngũ của họ. Lãnh đạo đảng biết rõ điều đó vì chính họ cũng là những kẻ như thế, nên… khi dẫn dắt các doanh nghiệp làm kinh tế, xác xuất để họ thành công làm sao cao được?
Tiêu chuẩn thứ hai là trung thành lại trở thành tiêu chuẩn quan trọng nhất, vì đảng sợ nhất là mất quyền, mất miếng ăn trên ngồi trốc đã và đang cướp được của dân, của nước, mất thế hiếp đáp dân. “Trung” được đảng cụ thể hóa thành “chung”: chung giai cấp (lý lịch), chung lợi ích, chung “thu-chi”, chung nhóm, chung hội, chung quê, chung họ hàng, chung trường đảng… Thực tế, để đảm bảo chữ “trung” và “chung” thì dùng người nhà, người thân là chủ yếu, vì điều đó đảm bảo tiêu chuẩn “an toàn cá nhân”. Dù đảng “nghiêm cấm” vị người thân trong bổ nhiệm cán bộ, họ vượt qua điều đó bằng cách… trao đổi và kinh doanh ghế. Ông A nhận con ông B, ông B nhận con ông C, và ông C nhận con ông A… Ví dụ: thủ tướng X gửi con cho bộ trưởng Xây dựng bổ nhiệm Thứ trưởng, con bộ trưởng Xây dựng sẽ được thủ tướng chỉ đạo bộ trưởng nào đó bổ nhiệm vụ trưởng hay thứ trưởng đâu đó… Cứ thế, có đi có lại, họ “gửi con cháu” nơi khác cho bạn bè hay cấp dưới cấp trên “nâng đỡ” và họ làm thế với con cháu của bạn bè, của cấp trên cấp dưới họ trong cơ quan mình…
Đó là một trong hai điều quan trọng nhất trong mọi quyết định dùng người của đảng: ứng cử viên là con cháu nhà ai hay là “người của ai” (có quan lớn giới thiệu, bảo lãnh), và… tiền. Còn những tiêu chuẩn khác nếu không đáp ứng thì họp “bổ sung hồ sơ”, cũng bằng tiền, và khai man, và làm hồ sơ giả, mua bằng cấp giả, thậm chí cả bản lý lịch giả, thi công chức giả, phỏng vấn giả, thực tập giả… Tất cả đều có thể giả, trừ tiền là thật và ứng viên là “con cháu ai đó” phải là thật.

Ngành kinh doanh “ghế” của cộng sản VN hiện nay

Riêng việc phát triển và bổ nhiệm cán bộ của đảng đã là một ngành kinh doanh cực lớn và quan trọng của các cán bộ đảng rồi (hàng tỷ đô la! kinh doanh “ghế”, mà đảng độc quyền sản xuất ngày càng nhiều). Chúng ta thử tính nhé: một xã/phường có khoảng trên dưới 300 “ghế” con con, một quận/huyện có trên 500-1000 ghế xoàng xoàng, một tỉnh/thành có khoảng 5-10.000 “ghế” kha khá, nhà nước có vài trăm nghìn “ghế” bự bự, chính phủ và các bộ ngành, các doanh nghiệp nhà nước có vài trăm ngàn ghế “màu mỡ” nữa… tất cả nhân với hai hệ thống cung vua-phủ chúa, trên ba chục bộ ngành và 64 tỉnh thành, trên 600 quận huyện và trên 6000 phường/xã…, nhân với giá của các ghế con con là hàng chục hàng trăm triệu đồng, và ghế “bự bự” là hàng tỷ đồng, còn ghế “màu mỡ” thì tính theo vàng và đô…
Thế cho nên các cán bộ của đảng, nhất là các cán bộ doanh nghiệp, sau khi đầu tư mua “ghế” không thể tập trung lo việc kinh doanh mà chỉ lo làm sao để bù vốn (tham nhũng) và… phá hoại kinh doanh.
Trong ví dụ, chúng ta có: ông Bình đi lên chủ yếu bằng quan hệ (được ông Kiệt nâng đỡ rồi nối sang các ông khác), còn ông Dũng lên bằng lý lịch và tiền, cả hai đều được bỏ qua yếu tố năng lực quản lý và khả năng chuyên môn (vì cái này phải thể hiện bằng kết quả công tác, thứ không bịa ra được). Cả ở Vinashin và Vinalines đại đa số cán bộ chuyên môn đầu ngành dù khách quan đều không đánh giá cao hai ông này. Khi người ta không đủ khả năng cả quản lý doanh nghiệp và chuyên môn thì người ta chỉ tụ tập xung quanh những người còn kém hơn họ nhiều, nhưng “cơ hội” cũng hơn họ nhiều, nhất là khi phân phát “ghế” là nguồn thu nhập quan trọng của họ.

Đào tạo cán bộ trong các doanh nghiệp nhà nước thế nào?

Về đào tạo con người trong các doanh nghiệp nhà nước, những người khá giỏi và ham học hỏi vào đó làm việc một thời gian là cùn đi, khả năng trình độ bị lụn bại đi, vì năng lực cần thiết nhất là ăn cắp, nịnh sếp và bè cánh, tố chất quan trọng nhất để thăng tiến là gian lận, giả dối, và phương cách quan trọng nhất để tiến thân là đấu đá, đè trên-đạp dưới-chọc bên, con đường tiến thân ngắn nhất là dùng tiền mua quan hệ… Đạo đức con người bị băng hoại nhanh chóng theo tốc độ tăng của thu nhập và thăng tiến. Những doanh nghiệp nhà nước chủ yếu gồm những con người như thế thì tạo ra giá trị gì và năng suất ở đâu để cạnh tranh trên các thị trường?
Làm việc cho các công ty tư nhân hay nước ngoài, người nhân viên hay cán bộ thường được đào tạo thêm và phải tự học chuyên môn liên tục để phát triển và để có thể giữa được việc làm lâu dài, để thăng tiến. Còn làm việc trong các công ty nhà nước, nhân viên có chí và có đức phải tự học hoàn toàn để làm việc nhưng như thế chưa đủ để giữ việc hay thăng tiến. Đa số thời gian trong các công ty hay cơ quan nhà nước là làm việc không liên quan đến chuyên môn, hay lãng phí, tức năng suất lao động rất thấp, thất nghiệp kín (đi làm nhưng không có việc làm) là tình trạng phổ biến…

Họ thăng tiến ra sao?

Việc đánh giá con người trong các doanh nghiệp nhà nước để sử dụng họ cho hiệu quả và làm cơ sơ để bổ nhiệm họ vào vị trí cao hơn khi cần lại càng... nhức nhối mùi tiền. Tất nhiên, “năng lực cán bộ” trong các doanh nghiệp nhà nước là khả năng gian dối và đi bằng đầu gối của họ, và khả năng đâm chọc sau lưng nhau. Đấu đá tranh giành chức quyền là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất trong các doanh nghiệp nhà nước, nhất là ở cấp tổng công ty và tập đoàn. Vì có hai chúa sơn lầm là CT và TGĐ nên bao giờ doanh nghiệp cũng có hai phe và cần rất nhiều cấp phó để phò hai phe đó.
Phó tức là phụ, là trợ lý, còn cấp trưởng phải làm là chính, nhưng trong các doanh nghiệp nhà nuóc XHCN VN thì cấp trưởng không phải làm gì về chuyên môn, chỉ lo đấu nhau với đối thủ ngay trong cơ quan (do đảng cố tình cài sẵn), và nịnh sếp, nên cần rất nhiều phó, cho mọi việc và cho cả hai phe, tổ chức bị phình to rất nặng nề... Có nghĩa là, nếu ở cấp chính phủ chúng ta có “cung vua và phủ chúa” trên đầu dân thế nào (đảng và chính phủ) thì ở từng doanh nghiệp chúng ta cũng có hai bộ máy lồng vào nhau và vớn nhau như vậy. Hai bộ máy này luôn phải tự kiếm ăn (tranh ăn với bên kia), phải nuôi cấp trên, phải “thu hồi vốn” (mua ghế) và phải theo dõi kiểm soát bên kia để rình cơ hội hạ gục nhau… thì làm sao mà kinh doanh cho tốt được?
Ví dụ, chúng ta hãy nhìn trong năm 2013 này hai phe đảng và chính phủ chỉ tập trung chủ yếu ra đòn đánh nhau liên tiếp tranh giành quyền lực và lợi ích nhóm mà thỏa hiệp nhau trong việc quản lý kinh tế, quản lý đất nước, lãnh thổ biển đảo, công tác xã hội, chính trị và ngoại giao… như thế nào, thì trong từng doanh nghiệp nhà nước họ cũng chỉ lo đánh nhau, nhất là khi các sếp của họ đang vào cao trào đánh nhau ở cấp quốc gia như thế, và họ bỏ bê và làm hỏng, làm kém, làm be bét công việc kinh doanh như thế nào, rồi hãy nhân nó lên khoảng trên dưới 4000 lần (là số doanh nghiệp nhà nước hiện nay) để bạn thấy bức tranh toàn cảnh của lực lượng kinh tế “chủ đạo” này hôm nay…trong số đó có hai doanh nghiệp đã nát bươm, nát nhất là Vinashin và Vinalines… Chúng chỉ có thể đấm mình tự chết chứ có phải những quả đấm thép đi đấm chuông người như đảng (và dân?) hy vọng đâu…
Họ được và tự nhìn nhận mình thế nào?
Cuối cùng, về mặt xã hội, đảng và nhà nước này coi các CT, TGĐ của các doanh nghiệp nhà nước, và họ cũng tự coi mình, là những doanh nhân thành công, họ lăng xê để được xã hội coi như vây. Đây lại là một ngộ nhận hay lừa bịp lớn nữa của đảng về các doanh nghiệp nhà nước.
Nếu về lý thuyết các chế độ và các đảng cộng sản đã không tìm ra hay xây dựng được môi trường kinh doanh nào khả dĩ hợp lý và khả thi (như thị trường tự do của xã hội “tư bản thối tha”), và về mô hình kinh tế họ đã không sáng tạo ra được cơ cấu nào có thể làm công cụ phát triển kinh tế bền vững cho xã hội (như mô hình công ty tư nhân của xã hội tự bản mà họ bắt chước nửa vời), thì về xã hội họ không xây dựng hay “lắp ghép” được hình mẫu con người cộng sản làm kinh tế nào, những nhà kinh doanh XHCN nào có tính người cả (như khái niệm doanh nhân, nhà doanh nghiệp – the enterpneuer, vẫn của xã hội “tư bản thối tha”), nên họ lại ăn cắp khái niệm doanh nhân – The Enterpneuer cao đẹp đó mà Loài người (“tư bản thối tha”) mới sinh ra trong vài ba thế kỷ gần đây. Họ gọi các GĐ, CT HĐTV các công ty, tổng công ty nhà nước là các “doanh nhân”, thậm chí các doanh nhân thành đạt và tiêu biểu cho XHCN…
Họ đã tung hô những kẻ cắp, tội đồ, tù nhân, tử tủ như Phạm Thành Bình, Dương Chí Dũng… là các doanh nhân thành đạt, vô vùng thành đạt, là một sự lừa bịp và đánh tráo khái niệm cấp toàn xã hội.
Thực chất, không có tiêu chí nào trong các tiêu chí của người doanh nhân đích thực mà loại người như Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng hay các đồng chí chưa bị lộ của họ đạt được cả.
Thứ nhất, họ không hề kinh doanh bằng tiền của mình, không tự trả lương cho mình, họ chỉ là những kẻ làm thuê. Thứ hai, họ không kinh doanh bằng đam mê và sáng tạo, không kinh doanh bình đẳng trong thị trường cạnh tranh bình đẳng, họ chỉ múa may vụng về thô lỗ kém cỏi trong thị trường bất bình đẳng mà họ được đảng cho làm vua, không hề sáng tạo ra các giá trị mới cho xã hội (như Bill Gates hay Steve Jobs), mà chỉ phá…. Và thứ ba, họ không hề phải chịu trách nhiệm về những kết quả kinh doanh thua lỗ mà họ gây ra! Trong các vụ “đại án” mà họ là diễn viên chính, họ chỉ bị đảng buộc tội phần họ ăn cắp tàn bạo vào túi riêng thôi, phần kinh doanh thua lỗ và mất vốn hàng trăm ngàn tỷ đồng của dân do họ kém cỏi- ngu dốt, lãng phí và vô trách nhiệm thì đảng sẽ bắt dân lo chịu thay, họ vô can…. Và tiêu chí đạo đức, thứ tư, thì họ làm ngược lại. Các doanh nhân đích thực đi lên từ tay trắng đều tuân thủ pháp luật trong kinh doanh và họ chịu đựng và vượt qua nhiều năm gian khó trước rồi mới hưởng thành quả sau, còn “doanh nhân” của đảng đều kinh doanh vi phạm pháp luật (với độc quyền kinh doanh và có mọi ưu tiên vô lý đảng cho), hưởng vinh quang trước ngay lập tức, rồi chỉ một số ít “bị lộ” chịu gian khó (trong tù) sau…
Vậy mà hàng năm họ/đảng vẫn trao cho họ – những giám đốc doanh nghiêp nhà nước những danh hiệu hoành tráng như 100 Doanh nhân Tiêu biểu của Năm…, mà cả xã hội không ai thắc mắc họ có phải
Doanh nhân, và họ “tiêu biểu” hay đang làm tiêu tùng nền kinh tế? Điều đó không chỉ làm xã hội tôn vinh nhầm người mà những cái hại lớn hơn là nó sinh ra cả một thế hệ “doanh nhân” sâu mọt và nó giết chết tinh thần và những mầm mống doanh nhân đích thực, cái mà xã hội này thực sự thiếu để vươn lên xây dựng thịnh vượng.

Tóm lại, những “doanh nhân” của đảng như thế, với xuất thân và cách làm việc như thế, đạo đức như thế, chắc chắn không thể kinh doanh thành công, không thể góp phần đem lại thịnh vượng cho xã hội, mà chỉ có thể gây ra những đổ vỡ khủng khiếp như Vinashin hay Vinalines mà thôi.

Vài lời kết lại

Chúng tôi đã trình bày sơ bộ những nét chính về ba nhóm nguyên nhân tiềm ẩn “di truyền” tồn tại mặc nhiên trong mô hình-hệ thống kinh tế và con người XHCN của đảng CSVN hôm nay, khiến chúng tất yếu sẽ phải tự hủy hoại mình – và sẽ làm chìm cả nền kinh tế, cả xã hội “XHCN” này.
Nhưng vẫn còn một câu hỏi lớn bao trùm tất cả, đó là tại sao lại tồn tại những nguyên nhân đổ vỡ đó trong hệ thống pháp lý, mô hình tổ chức và mẫu người doanh nhân “định hướng XHCN”?
Câu trả lời rất đơn giản và ai cũng có thể nhìn ra, trừ mấy triệu đảng viên cộng sản: chủ nghĩa xã hội là sai lầm và ảo tưởng, tư tưởng cộng sản là tội lỗi, nên Loài người sau gần trăm năm quyết liệt “đấu tranh và thí nghiệm” đã phải từ bỏ vì không tìm thấy đường đi, cũng không tìm ra lý thuyết (triết lý và tư tưởng) nào khả dĩ soi đường đi tiếp…, nên không thể tạo ra hệ thống pháp lý phù hợp hay mô hình tổ chức khả thi hay con người tương ứng của hệ thống XHCN.
Cái mà đảng CSVN đang bày ra trên đất nước ta hôm nay chỉ là một mớ hổ lốn, một sự lừa bịp cố tình với dân tộc ta để họ kéo dài những ngày cai trị của họ trên đất nước này thêm năm nào hay năm đó, hòng cố gắng tranh thủ vơ vét tài sản đất nước cho các nhân gia đình họ them càng nhiều càng tốt. Tất cả chỉ thế thôi.
Chả lẽ cả mấy triệu đảng viên cộng sản Việt Nam, nếu cộng dồn từ 1930 có thể đến cả chục triệu người, trong đó có rất nhiều người ưu tú, tâm huyết và thật sự hy sinh vì quyền lợi dân tộc, không ai nhìn ra điều đó và chống lại? Có, một số ít ưu tú nhất, như các ông Trần Độ, Trần Xuân Bách, Hoàng Minh Chính, và những người khác…, nhưng tất cả họ đều sớm bị đảng tiêu diệt tàn khốc.
Tại sao họ lại đối xử với các đồng chí mình và các lực lượng dân chủ mới tàn khốc thế? Vì đối với họ, đó không chỉ là miến ăn của mấy triệu đảng viên cộng sản hôm nay (họ đại đa số đã rất giàu có rồi, đã là những tư bản đỏ rồi), mà là đó là “cơ đồ tương lai” của hàng triệu gia đình họ, của con cháu họ mai sau khi đảng cộng sản của họ chắc chắn sẽ phải chết và biến mất, thì cái họ vẫn muốn cướp giữ thật nhiều và bằng mọi giá để truyền lại cho con cháu họ là tài sản của quốc gia mà họ cướp được. Họ sẽ còn cần nhiều Vinashin, Vinalines nữa…
Và vì thế, đối với đảng cộng sản hôm nay, bảo vệ các doanh nghiệp nhà nước và các “doanh nhân” của họ là cuộc chiến sống còn. Hay, tiếp tục sinh ra rất nhiều vụ án như Vinashin, Vinalines nữa là cái giá tất yếu mà họ sẵn sảng trả, để gia sản riêng của họ và phe nhóm đầy thêm, đầy mãi. Họ hy vọng có thể làm thế mãi đến… hết thế kỷ 21 này!
Còn nhân dân ta, dân tộc Việt Nam ta, đã qua hơn nửa thế kỷ cai trị của cộng sản, tôi tin đã đến lúc tất cả nhìn ra bản chất đó, và không chấp nhận và cho phép bị lừa bị cướp thế nữa.
Vấn đề là, để vươn lên thịnh vượng, dân tộc ta vẫn sẽ phải cần những thế hệ Doanh nhân đích thực Bạch Thái Bưởi, và chúng ta sẽ phải làm lại từ đầu, hầu như là hoàn toàn từ đầu, từ những số âm ma quỉ, như chúng ta vừa ra khỏi chiến tranh…
PCT
PS: Người viết bài này đã có tất cả những điều kiện, cơ hội để trở thành một “doanh nhân thành đạt của đảng” như thế, nhưng đã chọn không trở thành như thế, không phải vì tôi biết trước mà sợ bị đếm lịch hay dựa cột (bởi vì ai cũng luôn tin đó nhất định sẽ không phải là mình!), mà vì tôi thấy rõ trước khi bị đếm lịch hay dựa cột hay vẫn ngây ngất trên đỉnh vinh quang, tôi đã sẽ phải bán linh hồn cho quỉ dữ là cái đảng cộng sản sa tăng của họ rồi – điều mà may thay tôi đã không chấp nhận từ thời trẻ.
Admin gửi hôm Thứ Năm, 19/12/2013          
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131219/phan-chau-thanh-ba-van-de-lon-trong-cac-dai-an-kinh-te-3
======================================================================
Luật sư Trần Đình Triển viết trên Facebook:


Buổi sáng 14/12/2013, tiếp tục xét xử vụ án xẩy ra tại Tổng công ty Hàng hải, 12 giờ 15 phút phiên tòa mới tạm nghỉ để 13giờ 30 tiếp tục làm việc, xuống sân của Tòa án Hà Nội, Luật sư Trần Hồng Phúc (nữ) ôm vai áo tôi khóc và nói:
”Sáng nay em định cung cấp cho tòa tờ giấy do 1 người …viết nội dung bắt họ phải khai thế này, không được khai khác. Khi bị cáo Nguyễn Văn Lừng ( cán bộ Chi cục Hải quan Văn Phong – Khánh Hòa, hơn 30 năm tuổi Đảng, đã có thời gian trong quân đội 5 năm ở đảo Trường Sa ) khai tại tòa : “Tôi được Cơ quan CSĐT Bộ Công an mời ra làm việc tại 47 Phạm Văn Đồng, điều tra viên ép tôi phải nhận ụ nổi là con tàu, tôi khai đúng và nói ụ nổi là ụ nổi, sao cán bộ lại bắt tôi khai sai. Thế là họ đưa tôi lên giam giữ tại Phú Thọ, trong phòng giam có 6 người to cao, tối đến họ bắt tôi cởi hết quần áo ra, nằm sấp xuống, 6 người ngồi lên người tôi nhún nhảy, hành hạ,..và đồng thanh hô : tàu đây này! Tàu ra khơi này!...”.
Một số bị cáo khác cũng ghi nhận tại tòa họ bị bức cung, mớm cung, ép cung,..thậm chí còn dùng công cụ rất nguy hiểm đến tính mạng. Nghĩ tới cảnh tượng đó, nền tư pháp của nước nhà đã ở thế kỹ 21 mà em bật khóc tại tòa”.


Luật sư Trần Đình Triển: So sánh với bản án giữa vụ Vinashin và Vinalines, trường hợp hai bị cáo của Vinalines chịu án tử hình, ông Triển nói đây là một vấn đề nhiều diễn đàn đang đặt dấu hỏi, tại sao việc áp dụng mức án hai vụ việc này hoàn toàn khác nhau, một bên thì quá nghiêm khắc và một bên thì có thể nói là khá lỏng lẻo và chưa tương xứng.
Như vậy thì việc đảm bảo bình đẳng trước pháp luật là ở đâu? Đặc biệt luật là luật, chứ không thể xử theo phong trào, hay xử theo dư luận mà phải trên cơ sở quy định của pháp luật nhà nước, chứng cứ ra sao để đưa ra một mức án phán xử đúng người đúng tội chứ không thể vì lý do nọ lý do kia, tạo nên bất bình đẳng trong việc áp dụng pháp luật và như vậy vô hình chung sẽ đem lại phản ứng ngược. Đó là thực thi pháp luật theo suy diễn, lúc áp dụng thế này, thế kia thì sẽ tạo ra phản ứng ngược, không có lợi cho nhà nước.

nguồn:http://www.bbc.co.uk/vietnamese/rolling_news/2013/12/131216_vinalines_trial_reaction.shtml
=======================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001