NGUỒN TƯ LIỆU TỪ VỰNG THẾ KỶ 17 QUA KHẢO SÁT TRUYỆN ÔNG THÁNH INAXU
Lã Minh Hằng*
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Linh mục J.Maiorica đã sử dụng chữ Nôm để truyền giáo. Từ năm 1632 đến năm 1656 ông đã viết đến 45 tác phẩm bằng chữ Nôm; hiện chỉ còn lại 15 tác phẩm với 4.200 trang, tổng cộng 1.200.000 chữ Nôm. Các tài liệu này là kho tư liệu vô giá về Ngôn ngữ học - là cứ liệu quan trọng để nghiên cứu chữ Nôm, nghiên cứu phương ngữ, từ vựng lịch sử và ngữ âm lịch sử tiếng Việt.
1. Đôi nét về văn bản
Bản gốc chữ Nôm gồm 57 tờ, tổng cộng 114 trang, trong đó có 1 trang bìa, còn lại 113 trang ghi nội dung chuyện. Mỗi trang gồm 9 dòng, mỗi dòng có 21 chữ Nôm. Chúng tôi đã phiên âm toàn bộ văn bản này ra tiếng Việt hiện đại. Toàn văn bản phiên âm Quốc ngữ hiện đại có 42 trang A4, gồm: 17.799 âm tiết (chữ), gồm: 85 đoạn văn bản.
2. Các số liệu tổng quan
2.1. Kết quả khảo sát từ trong văn bản
Qua sơ bộ khảo sát nhóm từ cổ
trong văn bản TOTINX, chúng tôi đã
thu thập được 174 từ cổ (trong đó, 1 âm tiết: 113 từ, 2 âm tiết: 61 từ). Thông
tin này cho thấy mật độ dày đặc của các từ cổ trong văn bản: toàn văn bản có 85
đoạn và 42 trang, như vậy tính trung bình mỗi đoạn văn bản có 174/85 > 2 đơn
vị từ cổ (mới); mỗi trang văn bản có 174/42 > 4 đơn vị từ cổ (mới) xuất
hiện. Chúng tôi khảo sát tần suất sử dụng của các từ cổ trong văn bản TOTINX,
cho thấy, số từ cổ chỉ xuất hiện 1 lần (gồm từ cổ 1 âm tiết và 2 âm tiết) chiếm
đa số: với 75 từ. Một số từ cổ được lặp đi lặp lại nhiều lần trong văn bản
như song le lặp lại đến 44 lần.
Ngoài ra các từ như đã (nghĩa: đỡ)
xuất hiện 29 lần, đoạn (nghĩa: “tức
thì”) xuất hiện 29 lần, sinh thì
(nghĩa: chết) xuất hiện 25 lần, trẩy
(nghĩa: “đi xa”) xuất hiện 30 lần.
Chúng tôi đã thống kê lượt chữ (bằng
cách: số lần x số từ. Ví dụ có 6 từ có tần suất sử dụng 4 lần = 24 lượt chữ).
Kết quả toàn văn bản có 964 lượt chữ ghi từ cổ. Như vậy cứ 18,46 chữ thì có 1 chữ
ghi từ cổ xuất hiện (17.799 chữ/964 lượt). Tuy nhiên, con số này chưa phản ánh
được mức độ dày đặc của các ghữ ghi từ cổ trong tương quan với độ dài văn
bản (do có từ cổ ghi bằng 2 âm tiết = 2 chữ Nôm). Vì vậy, để tính được chính
xác số chữ ghi từ cổ trong văn bản, chúng tôi tiến hành thống kê tỉ mỉ hơn, ví
dụ : 6 từ, tần suất 4 lần, trong đó 3 từ 1 âm tiết, 3 từ 2 âm tiết, kết quả
36 chữ ghi từ cổ. Theo công thức [3+(3x2)] x 4 =36.
Với cách làm này, toàn văn bản
có 1.265 lượt chữ được dùng ghi từ cổ. Như vậy, cứ khoảng 14 chữ (Nôm) xuất hiện
trong văn bản lại có 1 chữ dùng để ghi từ cổ (17.799 /1265 = 14,07 chữ).
2.2. Kết quả khảo sát qua so sánh với các bộ
từ điển từ cổ hiện hành
78 từ cổ đều được TOTINX và Từ điển của Vương Lộc ghi nhận;
28 từ cổ đều được TOTINX và Từ điển của nhóm Nguyễn Ngọc San ghi nhận;
25 từ được cả TOTINX, Từ điển từ cổ của Vương Lộc và Từ điển từ Việt cổ của nhóm Nguyễn Ngọc San ghi nhận.
Có thể thấy: cả 2 bộ từ điển từ cổ hiện hành còn thiếu rất nhiều từ cổ (cụ thể ở đây là từ vựng thế kỉ 17, qua điều tra sơ bộ ở 1 văn bản của Maiorica-TOTINX). Xin nêu một vài minh hoạ cho các số liệu thống kê nêu trên:
a. Từ cổ chỉ thấy xuất hiện trong văn bản TOTINX, ví dụ các từ Lòi tói, Chùng (chữa chùng)… đều không được Vương Lộc và nhóm Nguyễn Ngọc San đưa vào bộ từ điển của mình. Xem chi tiết
Chùng:
là 1 từ không phổ biến, ngày nay đã
hoàn toàn mất nghĩa. Các bộ từ điển của P.Của, của Genibrel, và của AJ.L.Taberd
đều không ghi từ này. Duy chỉ có Tự vựng
lịch sử chữ Nôm của Paul Schneider ghi “CHÙNG: chữa chùng. Soigner“,
Soigner “chữa bệnh” [Từ điển Pháp-Việt]. Như vậy chữa chùng cũng được hiểu là chữa
bệnh. Từ này được dùng trong TOTINX:
Có bà kia tên là Bê-na-ri-na có một con gái phải tật nặng lắm, ở giữa cổ lở ra
mà chữa chùng chẳng đã, chẳng biết
thuốc gì nữa (tr.247-246).
b. Sự sai
khác về nét nghĩa (qua đối chiếu với 2 bộ từ điển của Vương Lộc và Nguyễn Ngọc
San), ví dụ minh họa: từ Săng (xăng)
Trong
TOTINX, săng xuất hiện 2 lần, ở cả 2 lần đều được Maiorica
dùng với nét nghĩa “hòm, quan tài” [A.de Rhodes], ví dụ: Đến
ngày sau lại cất xác đi nơi khác trọng hơn, thì mở săng ra, thấy trong ấy những cái sao nhỏ sáng láng bay lên, xác người
như ở trên trời vậy (tr.244);
và Khi người ta thành Rôma có mắng tiếng
ông thánh Inaxu đã qua đời, thì các dòng thầy cùng cả và thiên hạ đến đấy kính
xác người, hôn chân tay cùng hôn cái săng
người (tr.247).
Tuy nhiên, ở các từ điển, ngoài nét nghĩa
này, săng còn chứa nét nghĩa khác là
“gỗ, cây, ví dụ: săng cỏ (A.de Rhodes: cây và cỏ), Nhà săng (nhà cất bằng cây
săng)”. Ngày nay, săng với nghĩa “gỗ”
vẫn được dùng trong kết hợp: cây săng,
nhà săng; ngược lại, săng với
nghĩa “hòm, quan tài” trở thành nghĩa cổ, thường chỉ gặp trong những câu thành
ngữ như: Hàng săng chết bó chiếu; hay Muốn
ăn thì lăn vào bếp, muốn chết thì lết vào săng.
Vương Lộc đã cấp cho săng 02
nghĩa: ① [Pakatan, Thà Vựng, Poong] gỗ; cây và ② quan tài. Thế nhưng, Nguyễn Ngọc San lại chỉ cấp cho săng 01 nghĩa “cây, gỗ”.
Qua đối chiếu với các bộ từ điển từ cổ hiện
hành, đặc biệt là 2 bộ từ điển từ cổ (nêu trên), càng thấy rõ giá trị về phương
diện Ngôn ngữ học mà TOTINX đem lại. Cùng với các văn bản Nôm khác của
Maiorica, TOTINX sẽ là nguồn tư liệu
bổ sung quý giá giúp cho việc biên soạn 1 bộ từ điển từ cổ trong tương lai.
Thay lời kết:
Thời
gian trôi đi, do nhiều nguyên nhân, khối tư liệu của J.Maiorica không còn được
nguyên vẹn. Tuy nhiên, với trữ lượng 15 cuốn hiện còn, tổng cộng 4.200 trang
văn bản cũng đủ cho chúng ta có được hình dung khá đầy đủ về diện mạo của từ
vựng, ngữ âm và chữ Nôm thế kỉ 17. Đây thật sự là một kho báu mà các nhà truyền
giáo đã trao lại cho chúng ta- những người nghiên cứu về tiếng Việt lịch sử./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Sách tiếng Việt
[1] Đỗ Quang Chính,
1972, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659,
Tủ sách ra khơi, Sai Gòn.
[2] Nguyễn Quốc Dũng,
2009, Ngôn ngữ trong “Truyện các thánh”
của tác giả Maiorica – khía cạnh
từ vựng và ngữ pháp, Khóa luận tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ, Trường Đại học Sư
phạm Huế.
[3] Nguyễn Hưng, Lm, 2000, Sơ
thảo thư mục Hán Nôm Công giáo Việt Nam,
Lưu hành nội bộ.
[4] Thanh Lãng,
1961, Những chặng đường của chữ Quốc ngữ,
Báo Đại học, số 1, trg 10-11
[5].
Vương Lộc, 1999, Một vài nhận xét bước
đầu về ngôn ngữ trong Hồng Đức Quốc âm thi tập, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr.
3-10.
[6] Nguyễn
Thị Tú Mai, 2012, Chữ Nôm và tiếng Việt
thế kỉ XVII qua Thiên chúa Thánh giáo khải mông của Jeronimo Maiorica, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[7] Nguyễn Thế Nam, 2011, Vài nét về tình hình nghiên cứu Hán Nôm Công giáo, Thông báo Hán
Nôm học (Bản thảo).
[8] Nguyễn Văn
Ngoạn, 2012, Khảo cứu văn bản Nôm Kinh
những lễ mùa phục sinh của Maiorica, Luận
văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
[9] Nguyễn Ngọc
San, 1993, Tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[10] George Schurhammer, Nền
văn chương Công giáo về Phanxicô tại Việt Nam, (bản dịch Việt ngữ của Đỗ
Văn Anh và Trương Bửu Lâm,2006), nguồn: www.dunglac.net
[11] Trần Khắc Toàn, 2005, Một vài nhận xét về chữ Nôm Công giáo in
trong Nghiên cứu chữ Nôm, Kỷ yếu Hội
nghị quốc tế về chữ Nôm, Hà Nội, 2006.
[12] Nguyễn Văn Trung, 2002, Góp ý với GS. Nguyễn Tài Cẩn về hai chữ sinh thì, Dịch thuật và lý luận dịch thuật, nguồn:
www.dunglac.net.
II. Sách tra cứu (từ điển)
[13] P.de.Behaine, 1772, Dictionnarium
Annamitico-Latinum.
[14] Huinh Tịnh Paulus Của,
1895, Đại Nam quốc âm tự vị, Sài gòn.
[15] J.F.M. Genibrel, 1898, Dictionnaire
Annamite-Francais, Saigon in lại.
[16] Hardon, John A, 1985, Từ
điển Công giáo phổ thông (bản dịch Việt ngữ), Tủ sách Toát yếu.
[17] Vương Lộc, 2001, Từ điển từ cổ, Nxb Đà Nẵng-Trung tâm Từ điển bách khoa thư.
[18] Rhodes, A. de, 1651, Từ
điển Annam - Lusitan - Latinh (bản dịch Việt ngữ của Thanh Lãng - Hoàng
Xuân Việt - Đỗ Quang Chính), Viện Khoa học xã hội, TP Hồ Chí Minh,1991 in lại
[19] Nguyễn Ngọc San-Đinh Văn
Thiện (đồng chủ biên), 2000, Từ điển từ
Việt cổ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
[20] Paul Schneider,
1991, Dictionnaire Historique des
ideogrammes Vietnamiens (Tự vựng lịch sử chữ Nôm), R.I.A.S.E.M
[21] AJ.L.Taberd, 1838, Dictionarium
Annamitico Latinum, Nxb văn học-Trung tâm nghiên cứu Quốc học in lại, 2004.
[22] Đặng Xuân Thành - Nhóm
Chánh Hưng, 2008, Từ điển Công giáo phổ
thông, Nxb Phương Đông.
[23] Nguyễn Đức Thông, 2011, Tự điển Công giáo 500 mục từ, Nxb Tôn
giáo, Hà nội.
III. Tài liệu Hán Nôm
[24] Gieronimo Maiorica S.J,
Kinh những lễ Mùa Phục sinh, quyển thứ ba, Lưu hành nội bộ, 2/2003.
[25] Gieronimo Maiorica S.J, Truyện ông thánh I-na-xu, Lưu hành nội bộ, 5/2003.
[1] Việc
mô tả kĩ lưỡng về văn bản, các vấn đề về tác giả, người sao chép, chúng tôi sẽ
giành cho một chuyên khảo riêng về tác phẩm này. Trong giới hạn bài tham luận,
chỉ cho phép chúng tôi đi sâu khảo tả nội dung ghi chép trong văn bản (thể hiện
qua ngôn ngữ văn tự ghi chép trong đó).
[2]
Hai bộ từ điển là: Vương Lộc, Từ điển từ
cố, Nxb Đà Nẵng- Trung tâm Từ điển học, 2001 và Nguyễn Ngọc San-Đinh Văn
Thiện, Từ điển từ Việt cổ, Nxb Văn
hoá thông tin, H.2010.
*PGS.TS Lã Minh Hằng
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Được đăng bởi Tễu vào lúc 13:35
nguồn:http://xuandienhannom.blogspot.com/2013/12/nguon-tu-lieu-tu-vung-ky-17-qua-khao.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001