Đại tướng Võ Nguyên Giáp như tôi đã biết
Lê Phú Khải
Đầu
năm 1994, tôi đang làm giảng viên cho một lớp bồi dưỡng nghiệp vụ của
Đài Phát thanh tỉnh Sóc Trăng thì Tuất Việt TBT báo SGGP nhắn tôi cố về
sớm để giúp anh đi Điện Biên, chuẩn bị bài vở nhân kỷ niệm 40 năm ngày
chiến thắng Điện Biên Phủ ( 1954-1994).
Lúc tôi đứng chờ làm thủ tục để ra sân bay, có tiếng một người đàn ông đứng sau hỏi:
- Anh cũng biết đại tướng đi chuyến này à?
Tôi
quay lại thì thấy một người đàn ông đeo lon thiếu tướng và sau ông là
mấy vị đeo lon đại tá, cuối cùng là một cô đầm trẻ và rất đẹp, mắt xanh
biếc. Thấy vị thiếu tướng mặt khó đăm đăm, nhìn tôi vẻ soi mói, tôi trả
lời ông nửa đùa nửa thật: Có lẽ đại tướng thấy tôi đi chuyến này nên ông
cũng đi (!). Sau câu trả lời của tôi, mấy vị quân nhân đứng đó đều tỏ
ra bất bình. Có lẽ mấy vị ấy cho tôi là “phạm thượng” ! Sau này tôi mới
biết, vị đeo lon thiếu tướng đó là ông Cao Pha, Cục phó Cục Quân báo, đã
cùng Đại tướng chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên năm xưa. Các vị Đại
tá kia đều là các cựu chiến binh ĐBP. Cô đầm xinh đẹp kia là Catherina,
phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng Mỹ, tất cả đều đi tháp tùng Đại tướng
trong chuyến máy bay lên thăm Điện Biên nhân sắp kỷ niệm 40 năm chiến
thắng ĐBP.
Lúc lên máy bay thì rộng thênh thang.
Chiếc Airbus hơn 70 chỗ ngồi này chỉ chở có vợ chồng Đại tướng Võ
Nguyên Gíap, mấy vị tôi vừa gặp, ngoài ra còn mấy người khác là đạo diễn
Trí Việt , quê Bến Tre, một trong ba người Nam Bộ dự trận Điện Biên năm
xưa, nhà văn Triều Dương ở báo Văn nghệ, Hội Nhà văn và hai bố con một
ông già. Đây là chuyến chuyên cơ đăc biệt do chính Tổng cục trưởng Hàng
không Việt Nam Nguyễn Hồng Nhị lái chở vợ chồng Đại tướng lên thăm lại
chiến trường xưa sau 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Những người đi
tháp tùng là quân nhân và nhà báo thì không có gì đáng ngạc nhiên. Còn
ông già để râu dài, đeo kính râm và người thanh niên đi cùng là ai khiến
tôi phải đến hỏi. Ông cụ hóm hỉnh nói, tôi là Dư Văn Tư, đã 76 tuổi, là
“tư lệnh một khẩu pháo” trong chiến dịch ĐBP (khẩu đội trưởng một khẩu
pháo). Sau chiến dịch Điện Biên, cụ Tư ở lại làm công nhân nông trường
Điện Biên và định cư ở chiến trường cũ này. Nay cụ về Hà Nội mổ mắt nên
có anh con rể đi theo. Vì là chiến sĩ Điện Biên năm xưa nên cụ được ưu
tiên mua vé để đi chuyến chuyên cơ đặc biệt này, nếu không phải nằm chở ở
Hà Nội 3 ngày nữa vì lúc đó chỉ hàng tuần chỉ có 2 chuyến bay dân dụng
HN-ĐBP. Vậy là tôi cũng là người được “ưu tiên” mua vé đi chuyên cơ này.
Và, một điều thú vị là trên máy bay hôm đó có đến hai vị tư lệnh, một
Tổng Tư lệnh của cả chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và một “ tư lệnh
một khẩu pháo”! Còn gì thú vị hơn cho một nhà báo mà trên một chuyến bay
được gặp hai vị tư lệnh cùng một lúc như thế. Sau khi phỏng vấn “tư
lệnh một khẩu pháo”, chụp hình vị tư lệnh râu dài, đeo kính đen và cậu
con rể đi tháp tùng, tôi còn được biết địa chỉ của người cựu chiến binh
này ở Phường Him Lam để “đến chơi làm ly quốc lủi” như lời mời của chủ
nhân. Rời hàng ghế của “tư lệnh một khẩu pháo” tôi đến chào Tổng Tư lệnh
Võ Nguyên Gíap và phu nhân Đặng Thị Hà. Sau khi trình Đại tướng thẻ đặc
phái viên báo SGGP, tôi nói: Thay mặt Tổng biên tập SGGP Vũ Tuất Việt,
tôi kính mời Võ Đại tướng đến thăm tòa soạn báo dịp 40 năm Chiến thắng
Điện Biên Phủ. Đại tướng niềm nở cười. Tôi không ngờ lại thực hiện được
lời mời của TBT Vũ Tuất Việt sớm như thế. Theo lời dặn của ông, sau
chuyến đi Điện Biên tôi phải đến nhà riêng Đại tướng để mời dùm ông.
Nhưng câu trả lời của Đại tướng phu nhân hôm đó làm tôi bất ngờ và suy
nghĩ. Bà Hà nói: “Đã là báo Đảng mời thì nhất định anh Văn phải tới !”.
Tôi
rất bất ngờ về chữ “phải”. Sao lại có sự khiêm tốn đến quá mức như thế?
Sao lại “phải” tới đôi với một vị tướng lừng danh thế gian này! Và quả
thật sau đó Đại tướng có vô TPHCM, thăm tòa soạn báo SGGP khiến Tuất
Việt rất phấn khởi.
Rời hàng ghế của Đại tướng,
tôi đến ngồi bên cạnh cô đầm xinh đẹp. Cô này nói được tiếng Pháp bập
bẹ như tôi. Qua cuộc đối thoại có sự “giúp đỡ” của tay chân, điệu bộ,
tôi được biết cô là một phóng viên nhiếp ảnh tự do của Mỹ và vừa nhận
100 cuộn phim để sẽ chụp trong 1 ngày! Thời kỳ đó có một hãng phim ảnh
quảng cáo, tiếp thị bằng cách biếu các phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng
các nước 100 cuộn phim và phải chụp hết trong 1 ngày về bất cứ đề tài gì
và gửi về cho họ. Sau đó họ sẽ tùy ý sử dụng những tấm ảnh đó và trả
công cho các phóng viên.Catherine là một phóng viên đã nhận 100 cuộn
phim như thế. Và, cô ta sang Việt Nam, chọn đề tài Đại tướng Võ Nguyên
Giáp. Sau này, các bức hình về Đại tướng được đăng trên các báo Phương
Tây, kể cả ở Việt Nam, tôi đọc thấy tên Catherine ở bên dưới và nhận ra
là các tấm hình ấy cô đã chụp trong chuyến đi đó. Cũng không ngờ tôi trở
thành “địch thủ” của Catherine trong những ngày sau. Đó là ngày đầu
tiên ở Điện Biên, các nhà báo chúng tôi đi theo tướng Gíap thăm lại
chiến trường xưa. Khi thăm và làm việc với Bảo tang Điện Biên, tướng
Gíap ngồi nói chuyện với cán bộ bảo tang, có cả Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu
dự. Ngày hôm đó cũng là ngày Catherine thực hiện chụp 100 cuộn phim, có
nghĩa là phải bấm máy 3.600 lần trong ngày. Vì thế cô bấm máy liên
tục.Tướng Giáp chỉ đi ba bước là cô bấm một kiểu ảnh. Có lẽ tướng Giáp
biết chuyện này nên ông luôn miệng hỏi : “quelle couronne?” (cuộn thứ
mấy rồi?). Khi tướng Gíap ngồi nói chuyện với cán bộ công nhân viên bảo
tàng, tôi đứng sau, luồn tay đưa cái máy ghi âm ra phía trước để ghi âm
lời ông nói, Catherine đã xông lên, giằng tay tôi ra để cô chụp cho đẹp.
Tôi đâu có chịu, khi Catherine chạy lại phía trước thì tôi lại luồn tay
đưa cái máy ghi âm ra. Cô ta lại chạy tới hất tay tôi ra. Chuyện giằng
co như thế làm mọi người rất khó chịu, kể cả tướng Giáp.Tôi quyết định
phải “dậy cho Catherine một bài học”, và cũng để chấm dứt cảnh giằng co
này. Vì thế, lần thứ ba cô chạy đến giơ tay định làm như lần trước, tôi
đã giơ thẳng tay, đánh mạnh vào cánh tay của cô, khiến cô phải kêu á lên
một tiếng rồi lùi lại… Sự việc diễn ra quá nhanh và bất ngờ khiến mọi
người sửng sốt, nhưng sau đó lại đâu vào đấy. Từ đó, các cú bấm máy của
Catherine đều có hình tôi đứng sau, luồn tay ra phía trước cầm cái máy
ghi âm đưa ra trước mặt đại tướng.
Tối hôm đó,
chúng tôi lại sang nhà khách mà Tướng Giáp nghỉ để hàn huyên vì khách
sạn các nhà báo chúng tôi thuê đối diện ngay với nhà khách Tướng Giáp ở.
Đúng như tôi đã dự đoán, Tướng Giáp hỏi tôi: “Sao lại xử sự như vậy lúc
ban chiều?”. Tôi đã trả lời vị tướng tài ba này rất “đúng lập trường”:
Thưa anh Văn – Tôi bắt chước các tướng lĩnh đi tháp tùng Đại tướng, gọi
ông là “ anh Văn” – Catherine là phóng viên một nước tư bản, cô ta chụp
ảnh để bán lấy tiền, tôi là phóng viên Đài TNVN, tôi ghi âm để phát cho
đồng bào cả nước nghe đài biết là Đại tướng nói gì về việc gìn giữ di
tích ĐBP. Tôi và Catherine ‘égal’ (bình đẳng) trong việc hành nghề, cô
ta làm như thế là coi thường người khác, tôi phải dậy cho cô ta một bài
học. Hơn nữa, tôi cũng muốn nói với các đồng nghiệp Việt Nam của mình
là: không việc gì phải sợ phóng viên nước ngoài cả. Tất cả đều bình
đẳng!. Tướng Gip đã vỗ vai tôi nói: “Très bien!” (rất tốt).
Từ
hôm đó trở đi, mỗi khi gặp tôi ở hành lang khách sạn mà chúng tôi thuê,
Catherine đều đi né sang một bên, tránh đối diện với tôi. Kể cũng tội
nghiệp cho cô, một cô gái đẹp (!). Tấm hình Trí Việt chụp cho tôi và
Catherine khi ngồi trên máy bay chuyện trò vui vẻ tôi vẫn còn giữ đến
bây giờ để “nhớ” một kỷ niệm … không vui trong đời làm báo.
Thế
là trong suốt ba, bốn ngày ở Điện Biên, tôi và các đồng nghiệp luôn ở
bên Tướng Giáp, từ sớm cho đến chiều tối để đi thăm các chiến địa xưa:
đồi Him Lam, đồi D1, A 1, nghĩa trang liệt sĩ dưới chân đồi A1, các
tượng đài mới dựng lên ở Điện Biên v.v., tối về lại quây quần bên ông ở
nhà khách để hỏi han, ghi chép. Có một sự kiện như là một điểm nhấn của
chuyến đi năm đó là khi Tướng Gíap và chúng tôi vào thăm lại hầm De
Castries, Đại Tướng xem rất kỹ di tích này. Bất chợt ông chỉ tay vào sát
bức tường của một ngách hầm và hỏi: “ cái étagère lớn của De Castries ở
chỗ này đâu rồi?”. Không ai trả lời. Đại tướng hỏi lại lần nữa, vẫn
không ai trả lời. Đại tướng lại hỏi một lần nữa, nói gần như quát (!).
Tôi vội đỡ lời : Đại tướng hỏi cái giá sách của De Castries ở đây bây
giờ đâu rồi?. Có tiếng đáp ngập ngừng: Thưa… đốt rồi ạ !!!. Tất cả lại
lặng im . Đại Tướng căn dặn phải giữ gìn tất cả những hiện vật của trận
Điện Biên năm xưa. Nhưng “điểm nhấn” là câu hỏi cuối cùng của ông: “ Hầm
tướng giặc thì được ta tạo làm di tích lịch sử để thăm quan, còn hầm
của tướng ta thì bây giờ ra sao? Nhân dân sẽ hỏi các đồng chí, hầm của
tướng ta đâu, không lẽ chỉ có hầm tướng giặc thôi à?”. Tất cả mọi người
có mặt trong hầm De Castries hôm đó đều lặng đi. Mọi người thấy đại
tướng nói đúng quá, có lý quá!.
Sáng hôm sau
người ta tổ chức để Đại tướng đi thăm lại hầm Tổng Tư lệnh chiến dịch
ĐBP ở Mường Phăng, cách thung lũng Điện Biên 10 km đường chim bay, đi
đường bộ mất 25 km, nhưng đường bộ đã bị “lãng quên”, hư hại, xe ô tô đi
rất khó khăn. Nghe tin Đại tướng đi Mường Phăng, sáng sớm hôm sau hai
phóng viên Hãng Truyền hình Nhật Bản đã thuê 1 xe U-Oát lên đường từ
sớm. Catherine cũng đã thuê được một xe đi từ sớm. Tôi không có tiền
thuê xe đành bám theo Đại tướng để xin đi trực thăng. Nhưng thật “đau
khổ”, trực thăng của quân khu nổ máy mấy lần mà cánh quạt vẫn… đứng yên
(!). Người ta phải đem kìm, búa ra chữa. Tiếng búa đập vang dội cả một
góc rừng (!), vậy mà máy bay trực thăng vẫn ì ra, không chịu nhúc nhích
cánh quạt (!). Đến quá trưa vẫn chưa chữa xong máy bay (!), trong khi đó
thì đồng bào Mường Phăng đã dậy từ sớm chờ Đại Tướng lên thăm ! Nản
quá, tôi về khách sạn nằm, đọc tiếp cuốn “Lịch sử Đảng bộ Điện Biên” do
Phó Ban Tuyên huấn Huyện ủy Ngô Phong, người biên soạn cuốn sách tặng tôi
hôm trước.
Đến 2 giờ chiều thì máy bay trực
thăng của không quân từ Hà Nội bay lên, và đến 4 giờ chiều hôm đó thì
đồng bào Mường Phăng hân hoan đón Đại tướng.
Nguyễn
Trí Việt, dân Bến Tre dự trận ĐBP, anh là Chính trị viên Đại đội xung
kích 245, Tiểu đoàn 11 Phủ Thông, Trung đoàn 141 Ba Vì, Đại đoàn 312,
từng chỉ huy kéo pháo vào kéo pháo ra ở ĐBP năm đó. Từ sớm hôm đó anh đã
thuê được một chiếc mô tô Minsk, thứ xe mô tô do Liên Xô sản xuất leo
đồi rất tốt để lên Mường Phăng. Anh kể, từ sáng sớm đồng bào Mường Phăng
đã tập hợp trên một bãi đất rộng mà xưa kia Đại Tướng từng duyệt binh
sau chiến thắng Điện Biên để đón Đại tướng. Nhiều người mang theo trứng
gà và mật ong để biếu Đại tướng. Đồng bào đã kiên trì đứng từ sáng tới
4giờ chiều dưới nắng để chờ, ai cũng sợ bỏ đi thì không kịp quay lại để
nhìn thấy đại tướng. Hai phóng viên truyền hình Nhật Bản đã đứng cả
ngày, cởi áo để che nắng cho máy quay phim chở Đại tướng đến là bấm máy…
Trí Việt nói một hơi rồi anh vén quần lên , chỉ vào vết thương ở đầu
gối nói: Tao ngồi sau xe Minsk, gặp cái ổ gà lớn quá, xe sóc, văng tao
té xuống đất, đầu gối va vào cục đá, máu túa ra… Vậy là hai lần tao bị
thương trong đời đều ở Điện Biên, cách nhau 40 năm, trước là ở đồi Him
Lam, sau là trên đường vào Mường Phăng!
Vậy là
cho đến năm 1994, khi bước lên chiếc chuyên cơ đi Điện Biên, thấy vợ
chồng Tướng Gíáp ngồi thủ thỉ nói chuyện với nhau ở hàng ghế giữa máy
bay, người am hiểu chính trường ở Việt Nam mới hết lo cho số phận của
ông tướng nổi danh cả thế giới này.
Vì, các đối
thủ nổi danh của ông đã chết hết, hoặc còn sống thì cũng không còn đủ
thế lực để tác oai, tác quái với ông nữa. Những người yêu mến ông trong
bộ máy quyền lực đã hết sợ ‘mang vạ” vào thân nên đã mỉm cười với ông.
Hiển nhiên là ông đang ngồi trên chuyến chuyên cơ này để về thăm lại
chiến trường xưa.
Kể từ sau 1975, khi Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ nắm toàn bộ quyền lực trong tay thì số phận của“ Vainqueur de
ĐBP” (người chiến thắng ĐBP) như báo chí Phương Tây thường gọi là vô
cùng cay nghiệt. Nhất là từ sau Đại hội Đảng lần Thứ 5, ông bị loại hẳn
ra khỏi Bộ Chính trị, cho đến năm 1983 được Hội đồng Bộ trưởng phân làm “
Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch”, thì sự cay
đắng đã được đẩy đến tận cùng.
Nhưng ông đã tôn thờ chữ “ nhẫn” để tồn tại và… thời gian đã ủng hộ ông.
Tôi
nhớ, vào đầu năm 1991, một nhân vật của kịch Lưu Quang Vũ trên sân khấu
nói một câu rất bình thường: - Vậy là những kẻ khốn nạn cuối cùng cũng
phải chết! Cả rạp đã vỗ tay rần rần. Đó là khán giả Hà Nội đã vỗ tay
mừng cho Tướng Giáp vì năm 1990 “ kẻ khốn nạn” luôn hãm hại Tướng Giáp
vừa qua đời.
Trong suốt một thời gian dài tôi đã
đọc biết bao thông tin về sự trù úm, hãm hại Tướng Giáp. Người ta hãm
hại ông không phải vì sợ ông tranh quyền, cướp vị mà vì sự tồn tại của
ông làm lu mờ họ. Khi ông là Đại tướng thì có kẻ mới là viên đại tá vô
danh. Vì thế, dù có mưu mô cơ cấu cấp dưới của ông lên đến vị trí cao
ngất thì cũng không thể vì thế mà tỏa hào quang. Thôi thì, bôi đen hào
quang đi vậy ! Vụ án “ Bà Sáu Sứ” do Tổng cục II dựng lên là một âm mưu
bôi đen không thành đối với Tướng Giáp. Nhờ một ông họ Võ khác là Võ
Viết Thanh đã hành động theo lẽ phải và đạo lý…Sẽ còn nhiều bút mực đổ
ra để các nhà sử học sau này bàn luận về cuộc đời và sự nghiệp của Võ
Nguyên Gíap.
Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, hiệu là Hà Sỹ Phu đã có bài thơ tặng Đại Tướng nhan đề:
Trăm năm nguyên giáp
Tính sổ trời cho đã bách niên
Thử cân hạnh phúc với ưu phiền
Tiếc trang độc lập còn dang dở
Thương chữ quyền dân chửa đáp đền
Một đời ái quốc văn thành võ
Chưa cởi chiến bào giáp vẫn nguyên
Nhưng
cũng có người đưa ra ý kiến rằng, với Võ Nguyên Gíap thì lịch sử có
những “tiêu chuẩn riêng của nó”. Tôi hiểu tác giả viết trên trang mạng
Bauxite này muốn nói, độc lập phải đi liền với tự do và dân chủ.
Riêng
tôi, chỉ muốn cung cấp cho bạn đọc những điều mắt thấy tai nghe về
những điều trắng trợn đến vô lý mà người ta đã đối xử với Đại tướng.
Những điều mà chỉ có thể xầy ra trong một thể chế độc tài, chuyên chế
của một vài cá nhân mà thôi. Và, trong một thể chế như thế thì dù một
người có tài, có đức, hào quang cùng mình như Võ Nguyên Gíap vẫn không
thoát được hiểm họa. Một thể chế đem đến bi kịch cho tất cả mọi người.
…Vào
những năm tám mươi ở Tiền Giang, Giám đốc xí nghiệp dược liệu Quân khu
9, trong đó có Trại nuôi rắn Đồng Tâm nổi tiếng khắp vùng là Trần Văn
Dược, tức Tư Dược. Một lần Đại tướng đến thămTrại rắn Đồng Tâm, phóng
viên nhiếp ảnh của Phân xã Tiền Giang là anh Thái, sau cuộc viếng thăm
của Đại tướng, có đem một tấm hình Đại tướng và Tư Dược phóng to để biết
Trại Đồng Tâm làm kỷ niệm. Tư Dược đem tấm hình ấy trưng bày ở phòng
khách của Trại. Cái tin này đã được báo về Quân khu 9. Lệnh của Quân khu
đưa về là Tư Dược phải cất gỡ cái hình đó xuống (!). Tư Dược gỡ xuống và
đem về phòng làm việc riêng của mình treo. Ông tuyên bố: “Đứa nào vào
phòng ông gỡ tấm hình này xuống thì ông nổ súng liền!” Khi tôi đưa nhà
báo Hữu Thọ - Báo Nhân Dân và nhà báo Thái Duy – Báo Đại Đòan kết đến
Trại rắn tham quan, Tư Dược kể lại chuyện này với hai nhà báo ở Trung
ương. Thái Duy, tức nhà văn Trần Đình Vân, tác giả cuốn sách “ Sống như
Anh” viết về anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi – đã nổi nóng đập bàn
quát : “Đứa nào ra cái lệnh ấy, anh nói tên nó cho tôi, tôi sẽ đưa nó
lên mặt báo!”
Khi tôi đưa đoàn cán bộ biên tập
của Nhà xuất bản Trẻ Thành phố HCM xuống tham quan Trại rắn nhấn cuốn
sách “Rắn độc trong tay người” của tôi viết chung với một người bạn,
được Nhà xuất bản Trẻ phát hành viết về người giám đốc tài ba này thì…
ông vừa bị cách chức. Tôi kể lại câu chuyện tấm hình có hình Đại tướng…
mọi người đã khuyên tôi: là một nhà báo anh phải ghi chép để viết về
câu chuyện bẩn thỉu này!
Trước lúc ra đi, Tư
Dược có nhắn tôi và nhà báo Hải Bình ở Phân xã Tiền Giang đến gặp ông…
để trăn trối… về tấm lòng của một chiến sĩ với vị Tổng Tư lệnh của mình.
Ở
tận phía Nam của Đất nước thì câu chuyện về Tướng Gíáp là thế. Còn ở
miền núi xa xôi Tây Bắc thì Ngô Phong tâm sự với tôi, dịp kỷ niệm 30 năm
chiến thắng Điện Biên, anh nhận được chỉ thị là không được đón Đại
tướng Võ Nguyên Gíap lên Điện Biên. Anh và các cán bộ lãnh đạo của huyện
Điện Biên buồn lắm nhưng không biết làm sao cả. Vì thế, đợt kỷ niệm 40
năm này, không thấy có chỉ thị đó nên anh, với tư cách là Ban Tuyến huấn
huyện Điện Biên đã về tận Hà Nội, đến tận nhà riêng Đại tướng để mời
ông lên thăm lại chiến trường xưa. Ngô Phong là người rất “dễ thương”
theo cách nói của Nam Bộ. Anh chính là con đẻ của chiến thắng Điện Biên
Phủ theo đúng nghĩa “con đẻ”. Bố anh là bộ đội đánh trận Điện Biên sau
đó ở lại xây dựng Nông trường Điện Biên và lấy mẹ anh là người Thái. Anh
ra đời sau 1954. Đến dịp kỷ niệm này, anh cũng tròn 40 tuổi mụ! Anh
cũng chính là người chấp bút cuốn “Lịch sử Đảng bộ Điện Biên” vừa mới
phát hành nhân dịp 40 năm. Anh dẫn tôi đi nhiều nơi quanh huyện Điện
Biên. Anh tâm sự, cán bộ tuyên huấn ở huyện vất vả lắm. Địa bàn của huyện
còn rộng hơn một tỉnh dưới xuôi. Có xã như xã Háng – Lìa chót đầu
huyện, cách Mường Thanh, trung tâm của Điện Biên đến 93 km, và ….chỉ có
thể đến đó bằng ngựa. Vậy mà anh vẫn phải tháng nào cũng đến thăm cán
bộ, đồng bào ở một xã như thế. Anh cho tôi hay, các giáo sĩ đạo Tin Lành
đã đến ở đó và giảng đạo thì cán bộ tuyên huấn phải đến tận nơi là
đương nhiên. Anh rủ tôi ở lại để cùng anh lên thăm Háng Lìa, nhưng phải
mất ba ngày đi bộ ròng rã !!! Ngô Phong còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện
cảm động ở Điện Biên. Như ở Mường Phăng, tuy là Nhà nước không có chủ
trương (hay nói đúng hơn là những người ở trên cao muốn xóa đi mọi dấu
tích về Tướng Giáp ), vậy mà nhân dân Mường Phăng vẫn tự giác giữ gìn di
tích lịch sử này. Có cụ già đã 40 năm nay tình nguyện trông coi hầm chỉ
huy của Đại Tướng, hàng ngày quét dọn, chăm sóc như nhà của mình.
Sau
chuyến đi Điện Biên mùa xuân 1994, về đến Hà Nội, tôi có viết một cái
tin cho Đài TNVN về chuyến trở lại Mường Phăng của Đại Tướng, nhưng Đài
không phát. Và tôi còn được biết không có một đài báo của TW nào ở Hà
Nội, kể cả Báo Quân đội Nhân dân cử phóng viên đi chuyến ấy. Vậy là còn
thua cả tờ “Mực Tím” chuyên viết cho thiếu nhi ở TPHCM cũng cử phóng
viên lên tận Điện Biên dịp đó.
Tôi đến tá túc ở
Cơ quan đại diện Báo SGGP ở Hà Nội tại đường Lê Văn Hưu và viết ngay
tin bài gửi về TPHCM như chỉ đạo của Tổng Biên tập Tuất Việt là “làm một
vệt dài” về Điện Biên Phủ cho tới ngày kỷ niệm chính 7.5.1994. Tối hôm
ấy thì nhà văn Triều Dương lò dò tới. Anh nói với tôi với vẻ mặt rất
nghiêm túc: Ông Văn – tức Đại tướng – bảo tôi đến dặn anh rằng, Đại
tướng rút lui ý kiến hôm chỉ đạo về cái tượng hai người phụ nữ ở Điện
Biên. Anh về Sài Gòn khi viết nhớ là không đưa ý kiến đó của Đại tướng
vào bài viết. Tôi hỏi Triều Dương vì sao vậy, hôm đó Đại tướng nói rất
mạnh mẽ, quyết liệt cơ mà! Triều Dương nói: Nhưng vè đến Hà Nội ông Văn
biết được rằng Bộ Chính trị đã duyệt cái tượng đó rồi, nên ông rút lui ý
kiến đó. Ông Văn dặn tôi, nhớ dặn kỹ cậu Phú Khải đề nó đừng viết cái ý
đó. Trước khi ra về, Triều Dương còn bảo tôi: Tôi đi đến đây chỉ có
mỗi việc đó, anh nhớ đừng quên.
Tôi nhớ lại,
lúc đứng trước cái tượng đài khá lớn, dựng hình tượng hai người phụ nữ,
một người mặc áo cánh, búi tóc, tượng trưng cho phụ nữ Đồng bằng Bắc Bộ,
đứng sát là một phụ nữ chít khăn phiêu, mặc áo của phụ nữ dân tộc Thái,
tượng trưng cho đồng bào các dân tộc Tây Bắc … Đại Tướng giận dữ nói:
Tôi đã chỉ đạo các anh rằng, chiến thắng Điện Biên Phủ là công lao của
cả nước. Cả nước chia lửa với Điện Biên Phủ, cả nước căng địch ra mà
đánh nên chúng không thể điều quân đến cứu nguy cho ĐBP. Vì thế khi dựng
tượng đài ở Điện Biên Phủ phải có hình ảnh của ba miền Trung – Nam –
Bắc. Mai kia đồng bào Khu 5, đồng bào Nam Bộ… ra đây thăm Điện Biên,
người ta hỏi hình ảnh của chúng tôi đâu trong chiến thắng này thì các
anh sẽ trả lời làm sao? Điện Biện Phủ chỉ có công của Bắc Bộ và Tây Bắc
thôi à?
Đại Tướng đã nói rất gay gắt: Tôi đã dặn
kỹ các anh rồi sao không thực hiện , sao lại làm thế này? Tất cả các bộ
ngành bảo tàng ở Điện Biên lúc đó đều có mặt nhưng không ai nói gì cả
(!), không một lời giải thích, vì thế Đại Tướng càng tỏ ra giận dữ, xem
như mọi người đã chống lại ông.
Vậy mà ….bây giờ Triều Dương đến…lại nói thế ….?
Đêm
hôm đó tôi nằm thao thức mãi… nghĩ về sự cẩn trọng của Đại Tướng !. Bộ
Chính trị là cái gì? Đại Tướng chỉ đạo như vậy là quá đúng với sự thật
về chiến thắng Điện Biên Phủ, là công bằng lịch sử. Nhưng nghĩ đi nghĩ
lại, tôi thấy Tướng Giáp có lý! Ông đã chịu quá nhiều những âm mưu thủ
đoạn chĩa vào ông trong nhiều năm qua từ những “đồng chí” của mình. Chỉ
một sơ suất nhỏ, người ta có thể vin vào đó để vu cho ông là chống lại
tập thể Bộ Chính trị, chống đảng… và… và…
Nhờ có
sự cẩn trọng đến từng... chi tiết… của đời sống mà ông mới tồn tại được
đến cái ngày gặp lại đồng bào, đồng chí của ông ở Điện Biên Phủ như tôi
đã thấy. Kể từ sau vinh quang chói lọi “lừng lẫy Điện Biên, chấn động
địa cầu”, ông sống trong thiên la địa võng của những hiềm tị và mưu
mô.Trên đỉnh cao thì bao giờ dưới chân nó cũng là vực thẳm. Đỉnh càng
cao thì vực dưới chân càng sâu.Tướng Gíap đã đứng bên bờ vực thẳm đó
biết bao tháng năm mà không bị nạn nhờ ông biết cẩn trọng. Ngay khi các
đối thủ của ông không còn trên cõi đời này, nhưng ông hiểu rằng tay chân
của họ còn đó. Ông thận trọng là có lý. Các cụ ta xưa nói “anh hùng đa
nạn” là như thế. Tôi càng nhận ra điều này về sau khi kỷ niệm 50 năm
chiến thắng ĐBP tôi lại từ Sài Gòn ra Hà Nội, được ông tiếp tại nhà
riêng gần một tiếng đồng hồ, sau đó tôi lại lên Điện Biên… Nhưng bài tôi
viết về ông và trận Điện Biên để kỷ niệm 50 năm chiến thắng ĐBP, tờ báo
đáng phải đăng nhất là tờ QĐND mà tôi gửi tới thì lại từ chối không
đăng (?!). Báo Cần Thơ số ra ngày 6.5.2004 đã đăng bài đó. Đó là bài báo
tôi viết mất nhiều công sức nhất sau hai lần lên Điện Biên Phủ, hai lần
gặp Đại Tướng, sau nhiều thời gian đọc hàng chục cuốn sách do ta và tây
viết về trận ĐBP, sau nhiều lần gặp nhà văn Hữu Mai, người chấp bút các
hồi ký của Tướng Gíap để hỏi chuyện…Tôi phải cám ơn Báo Cần Thơ và Tổng
Biên tập Trần Huy đã đăng bài báo nhan đề “Võ công Điện Biên Phủ và
thiên tài quân sự Võ Nguyên Gíap”. Đó là lần đầu tiên cụm từ “thiên tài
quân sự” được gắn với tên tuổi Võ Nguyên Gíap mà đài báo, sách vở của
chế độ từ trước đến nay vẫn “ thực hành tiết kiệm” với Đại Tướng.
Trong
bài đó tôi viết: “… Công bằng mà nói, Tướng Gíap được chỉ huy một quân
đội cách mạng sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Sức mạnh vô địch
của đội quân đó là lòng yêu nước nồng nàn và rực lửa căm thù. Căm thù
bọn người đã đốt nhà, giết vợ con, cha mẹ họ, đã đày đọa cả dân tộc họ
trong một thế kỷ ôm mối hận làm dân nô lệ, làm kẻ mất nước …Vì thế khi
có thời cơ họ đã chiến đấu không tiếc xương máu để rửa mối hận đó ! Và,
người chỉ huy đội quân không tiếc xương máu đó lại là người biết tiết
kiệm từng giọt máu của đồng đội, biết nuôi dưỡng sức mạnh từ việc chăm
sóc bát cơm nóng cho quân lính dưới chiến hào. Những giọt máu hào hùng
và những giọt máu được tiết kiệm …đã làm nên màu đỏ rực ánh mặt trời
chiến thắng chiều 7.5.1954 ở ĐBP.
Vận dụng sáng
tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Tướng Gíap đã thành công ở Điện Biện
Phủ. Đó là những sư đoàn chân đất, như cách nói của giặc Pháp, biết dấu
mình trong chiến hào đánh lấn, nương mình vào lòng đất mẹ quê hương để
đương đầu với bom đạn sắt thép bạo tàn của kẻ thù mà đánh “trận địa
chiến hào tấn công” chưa hề có trogn lịch sử quân sự. Đó là sáng tạo của
những người du kích Đồng bằng Bắc bộ có kinh nghiệm đào hầm bí mần
chống càn giữ làng, là cách đánh du kích chỉ Việt Nam mới có; người chỉ
huy đề ra phương châm chiến lược, người lính đề xuất cách đánh đào xuyên
hàng rào kẽm gai. Đó là dân chủ Điện Biên Phủ! “Trận địa chiến hào xiết
vòng vây lửa” ở Điện Biên Phủ là võ công hiển hách của quân dân ta ở
thế kỷ 20. Là một cống hiến cho khoa học lịch sử quân sự thế giới, là
thiên tài quân sự Võ Nguyên Gíap, là “thiên biến vạn hóa” của tư tưởng
quân sự cha ông ta được vận dụng ở thời đại Hồ Chí Minh.
Thông
thường trong chiến tranh, phía tấn công phải có lực lượng gấp 5 lần trở
lên so với phía phòng ngự. Nhưng so sánh lực lượng hai bên ở Điện Biện
Phủ thì thấy: ban đầu địch có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, gồm
phần lớn những đơn vị tinh nhuệ nhất. Địch còn có hai tiểu đoàn pháo 105
ly, 24 khẩu, 2 tiểu đoàn sung cối 120 ly 20 khẩu, 1 đại đội pháo 155 ly
4 khẩu, 1 đại đội xe tăng 18 tấn 10 chiếc. Không quân thường trực tại
sân bay có 7 khu trục, 5 trinh sát, 4 vận tải và 1 trực thăng . Ngoài ra
2/3 lựclượng máy bay ném bom tiêm kích và 100% máy bay vận tải toàn
Đông Dương yếm trợ cho Điện Biện Phủ .Tổng quân địch ở Điện Biên Phủ là
12.000 người. Lực lượng ta có 9 trung đoàn bộ binh ( 27 tiểu đoàn), 1
trung đoàn sơn pháo 24 khẩu, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105 ly 24 khẩu, 4 đại
đội sung cối 120 ly 16 khẩu, 1 trung đoàn cao xạ pháo 37 ly 24 khẩu, 2
tiểu đoàn công binh . Ta hơn địch về số tiểu đoàn (27/12) nhưng quân số
mỗi tiểu đoàn của ta chỉ bằng 2/3 mỗi tiểu đoàn của địch. Ta cũng hơn
địch về số lượng pháo (64/48) nhưng đạn pháo dự bị của ta lại rất hạn
chế. Ta không có xe tăng và chỉ có 1 trung đoàn pháo cao xạ 37 ly để đối
phó với toàn bộ không quân địch ở Đông Dương. Xét toàn cảnh ta vẫn ở
vào thế yếu đánh mạnh.
Nhưng ta chủ động tấn
công, tự quyết định đánh hay không đánh, chủ động lựa chọn điểm đánh và
thời gian đánh. Đánh hay không đánh đều có lợi cho ta vì đương nhiên ta
đã kìm chân được một lực lượng lớn địch ở đây để giành được thắng lợi
trên nhiều chiến trường Đông Xuân 53-54. Địch ở Điện Biên Phủ tuy mạnh,
nhưng bị nhốt trong các cũi thép gai và hầm hố một cách thụ động, không
thể đem toàn bộ sức mạnh để đánh trả, cứu nguy cho một cứ điểm bị tấn
công. Ta đem toàn bộ sức mạnh để đánh môt điểm ta bao vây chia cắt địch
ra mà đánh dần, linh hoạt và cơ động hoàn toàn. Như vậy nếu xét trong
một trận đánh vào một vị trí nhất định, trong một thời điểm quyết định ,
thì ta vẫn mạnh hơn địch. Mạnh sẽ thắng yếu. Tài thao lược của
Tướng Gíap là ở chỗ phân tích sắc bén thế và lực trong những tình huống
cụ thể ở Điện Biên Phủ để tìm ra cách đánh thích hợp, “ đánh chắc tiến chắc” để đi đến đại thắng ! Đó là gì nếu không phải là biện chứng pháp quân sự Macxít.
Một
Việt kiều ở Pháp có tâm sự với người viết bài này… Ông ta được một sử
gia Mỹ cho hay: Ngay cả Napôlêông khi bước vào đường binh nghiệp thì đã
có sẵn một đội quân để chỉ huy. Tướng Gíap phải xây dựng quân đội từ mấy
chục người thành những binh đoàn để lần lượt đánh thắng nhiều danh
tướng của cường quốc Pháp như Đờ Lát, Xa Lăng cho đến Na Va ở Điện Biên
Phủ… điều đó chưa thấy trong lịch sử quân sự thế giới… Và đây cũng là
lần đầu tiên một nước nhỏ đã đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, mở đường
vùng lên cho các dân tộc đang bị nô lệ.”.
… Võ
Nguyên Gíap là người lẽ ra “đã chết từ lâu rồi” với những hiềm tị, ganh
ghét của các “ đồng chí” của ông. Nhờ ông biết tôn thờ chữ “ nhẫn”, nói
đúng hơn là “nhẫn nhục” để sống đến hôm nay. Nhà văn Trần Đình Hiến,
từng 10 năm làm tham tán văn hóa tại Đại sứ quán ta tại Trung Quốc, dịch
giả hàng đầu các tác phẩm văn học Trung Quốc đương đại sang Tiếng Việt
của các tác giả như Mạc Ngôn, Gỉa Bình Ao, Vệ Tuệ v.v. trong một quán
càfê gần trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam ở đường Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội,
sáng ngày 16/4/2013 vừa qua, có cả bác sĩ, tù nhân lương tâm Phạm Hồng
Sơn và tôi cùng ngồi đàm đạo, ông đã kể: - Sau chiến tranh biên giới với
Trung Quốc 1979, tên Trọng Hy Đông ở Uỷ ban Kiều vụ, Quốc vụ Viện TQ,
hàm ngang bộ trưởng, sang Việt Nam để giải quyết các vấn đề hậu chiến
tranh như tù binh v.v., ông được mời đến để phiên dịch cho cuộc làm việc
giữa hai bên. Khi xe của Đại Tướng Võ Nguyên Gíap vừa đến cũng là lúc
xe của Lê Duẩn vừa tới, Lê Duẩn đã chỉ vào mặt Võ Đại tướng và nói như
quát: - Cuộc họp không có anh! Võ Nguyên Gíap nói: - Vậy tôi về. Thế là
cụ Võ lủi thủi lên xe ra về. Kể đến đây nhà văn Trần Đình Hiến kết luận:
Tôi không thể ngờ những người lãnh đạo tối cao của đất nước lại đối xử
với nhau như xã hội đen như thế ! Nhất là lại công khai trước mặt tất cả
mọi người!
Vô sản gắn liền với vô học là ở chỗ đó!
Đánh
giá về cuộc đời và sự nghiệp của Võ Nguyên Gíap là một việc lớn, sẽ còn
tốn nhiều giấy mực của các sử gia Việt Nam và thế giới. Việc đó dành
cho các cây bút lớn! Riêng với tôi, một nhà báo nhiều lần được gặp Võ
Đại tướng, trong nhiều trường hợp, kể cả gặp riêng tại nhà riêng của ông
ở 30 Hoàng Diệu, Hà Nội, gặp một thời gian dài trong chuyến ông lên
thăm ĐBP sau 40 năm chiến thắng ( 1994)… rồi lại đọc kỹ các hồi ký của
ông do nhà văn Hữu Mai chấp bút, đàm đạo với Hữu Mai, đọc kỹ các tác giả
nước ngoài viết về Điện Biên Phủ… tôi có nhận xét rằng, ông là một vị
tướng biết tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội để làm nên
chiến thắng, chăm lo cho binh lích của mình từng từng miếng cơm nóng
trong bữa ăn ngay giữa chiến trường máu lửa. Ông là con người võ mà văn – văn mà võ!
Về
tác phong, cái con người được báo chí Phương Tây gọi bằng cái tên “
Vainquer de Điện Biên Phủ” ( kẻ chiến thắng ĐBP) lại là một người có tác
phong rất Tây, nói rất Tây, ăn rất Tây… Những ngày tháp tùng ông năm
1994 đi thăm lại chiến trường xưa sau 40 năm… lâu lâu tôi lại thấy người
sĩ quan tùy tùng của ông đưa cho ông một quả chuối và một hộp pho-mai…
ông điềm tĩnh bóc chuối và lấy khoanh pho-mai ra ăn trước đông đủ cử tọa
rồi lại tiếp tục làm việc. Tấm hình chụp Đại Tướng đang ăn chuối với
pho-mai trước mọi cử tọa, tôi vẫn còn giữ đến bây giờ, xem nó như một cú
bấm máy “đáng tiền” trong đời làm báo của tôi! Ăn chuối với pho-mai cho
người già sức khỏe tốt, có lẽ vì thế mà Đại tướng sống đến trăm tuổi.
Tôi xin mở ngoặc ở đây để chứng minh điều tôi nói. Một lần, trong một
ngày hội đua ghe ngo truyền thống của đồng bào Khơ-me ở Sóc Trăng, trước
cuộc đua có tổ chức biểu diễn lướt ván của vận động viên từ TPHCM xuống
góp vui.Người ta giới thiệu có một vận động viên đã trên 70 tuổi tham
dự.Mọi người đã sửng sốt về tài nghệ lướt ván của vận động viên U80 này.
Tôi phải len xuống sông để gặp ông, ông cho biết, nhờ ăn chuối với
pho-mai… trừ bữa nên “khỏe là vậy”!
Lại nói vể
tác phong “rất Tây” của Đại Tướng, khi giao tiếp, để phụ trợ cho lời
nói, ông thường nheo mắt , nhún vai, khoát tay…, khi cần chọn một từ
dùng cho thật chính xác, ông thường dừng lại, suy nghĩ ít giây, và chen
vào đó một từ Tiếng Pháp (!). Người Pháp có câu ngạn ngữ tự hào về tiếng
nói của mình: “cái gì không trong sáng không phải là Tiếng Pháp”! Có lẽ
ông bị “ảnh hưởng” về sự trong sáng ấy của Tiếng Pháp chăng ? Nhưng
người có tác phong rất Tây ấy lại là người Việt Nam đánh Tây cấp… đại
tướng. Nếu cứ xét, cứ nhìn theo “con mắt giai cấp” thì ông Gíap là người
có vấn đề. Và buồn thay, người ta đã lợi dụng sự ngu ngơ này của số
đông để có lần, ở Đại hội Đảng lần thứ 6, tung ra tin “ông Gíap là con
nuôi của một tên thực dân Pháp”!
Về tướng Gíap,
tôi cũng có nhận xét, thử nêu ra để bạn đọc tham khảo: Ông Gíap “có đóng
góp riêng cho môn ngôn ngữ học”! Tôi nghĩ vậy. Ông đã biến một danh từ
chung của Việt Nam thành một danh từ riêng. Hiển nhiên là ở Việt Nam,
nếu một ai đó nói: Tôi vừa được gặp đại tướng, thì người ta hiểu rằng
người đó vừa được gặp ông Võ Nguyên Gíap, chứ không ai lại hiểu rằng anh
ta vừa khoe được gặp ông Lê Đức Anh, ông Mai Chí Thọ, ông Lê Hồng Anh…
mặc dù các ông ấy đều là đại tướng. “Đại tướng” từ một danh từ chung, đã
trở thành một danh từ riêng trong ngôn ngữ của người Việt đương đại,
chỉ để dành cho Võ Nguyên Gíap. Những ý kiến cho rằng, phải phong cho
ông Gíap là Nguyên soái chỉ là những suy nghĩ chưa chín. Chỉ có nhân dân
mới là người sáng suốt nhất khi đã biến một danh từ chung thành một
danh từ riêng: “Đại Tướng”. Với người Pháp thì danh từ riêng
“Điện Biên Phủ” lại được người ta biến thành một động từ chỉ hành động
“đánh mạnh”, “đánh thật mạnh”, “đánh cho không còn mảnh giáp” v.v. và
v.v. Danh từ Điện Biên Phủ biến thành động từ “dienbienphuer”. Cái đuôi “er”
của Tiếng Pháp gắn vào chữ Điện-Biên-Phủ viết liền trở thành “đánh
mạnh”! Nếu một vị sĩ quan Pháp ra lệnh: - Dienbienphuer, có nghĩa là…
tấn công mãnh liệt vào đối phương ! Có lẽ chính vì thế mà nhân kỷ niệm
50 năm chiến dịch Điện Biên Phủ, ở Paris đã có một cuộc hội thảo lớn, có
mời nhiều nhà sử học, quân sự, ngoại giao tên tuổi từ nhiều nước đến
dự. Cuộc hội thảo đó có tên là “chia sẻ hồi ức Điện Biên Phủ”. Người
Pháp có mời Việt Nam. Nhưng tôi xem trong danh sách đi dự cuộc hội thảo
năm đó ở Paris (2004) của Việt Nam thì toàn là những nhân vật “vô danh
tiểu tốt”, và …không có Đại tướng !
L.P.K.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:20
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/10/ai-tuong-vo-nguyen-giap-nhu-toi-biet.html
========================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001