Nợ công và nợ xấu sẽ tiếp tục đè nặng lên những thế hệ tương lai của Việt Nam?
Đếm tiền tại một ngân hàng ở Hà Nội. Reuters
Theo
các con số chính thức, nợ công của Việt Nam hiện nay chiếm khoảng 55,4%
tổng sản phẩm nội địa (GDP) nghĩa là còn trong ngưỡng an toàn. Tuy
nhiên hiện nay ngay báo chí nhà nước cũng đã đặt dấu hỏi về con số này,
và đưa ra tỷ lệ nợ công lên đến 95% GDP. Trong khi đó, vừa rồi Chính phủ
đã đề nghị Quốc hội cho nâng trần bội chi ngân sách lên 5,3% và phát
hành thêm 170.000 tỷ đồng trái phiếu. Theo tính toán của một tờ báo
trong nước, cứ mỗi ba tháng Việt Nam phải trả nợ một tỷ đô la.
Phải
chăng ngân sách Việt Nam đang cạn kiệt, và hậu quả sẽ như thế nào khi
nợ nần tứ phía, tham nhũng lan tràn? Trong tạp chí kinh tế hôm nay, RFI
Việt ngữ đã trao đổi về vấn đề này với tiến sĩ kinh tế Phạm Chí Dũng ở
Việt Nam.
RFI: Như anh đã biết,
nợ của Việt Nam nếu tính cả những doanh nghiệp mà chủ yếu là của nhà
nước thì lên tới 95% GDP, có nghĩa là vượt ngưỡng an toàn mà ngưỡng này
được xem là 60%. Anh nhận xét tình hình này như thế nào?
TS Phạm Chí Dũng:
Tôi xin nói trước về vấn đề ngưỡng an toàn so với GDP của Việt Nam.
Hiện nay theo một số quan chức Việt Nam thì ngưỡng an toàn nằm ở mức 70%
chứ không phải 60%. Trong khi đó theo ngưỡng an toàn tiêu chuẩn quốc tế
về nợ công trên GDP, thì nợ công là 65%. Nhưng thật ra hiện nay đang có
mâu thuẫn rất lớn về đánh giá giữa hai luồng quan điểm, khác nhau hoàn
toàn về vấn đề nợ công trên GDP.
Luồng quan điểm
thứ nhất thuộc về chính phủ Việt Nam với màu sắc luôn luôn tô hồng,
theo như các báo cáo của chính phủ. Đó là tỷ lệ nợ công trên GDP hiện
nay chỉ chiếm 55,4%, mà nếu vay nợ thêm thì tỷ lệ nợ công trên GDP cũng
chỉ khoảng 60% tức là vẫn còn an toàn, dưới mức 70% cho phép.
Trong
khi đó theo một quan điểm độc lập khác thì tỷ lệ nợ công quốc gia trên
GDP Việt Nam hiện nay tới 95%. Đánh giá này được nêu ra tại Diễn đàn
kinh tế mùa xuân tại Nha Trang vào tháng 4/2013. Một số chuyên gia phản
biện độc lập - tôi nhớ là ở Ba Lan, và kể cả ông Trần Đình Thiên, Viện
trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã rất bức bối, và lần đầu tiên nêu ra tỷ
lệ nợ công hiện nay lên tới 95% GDP. Với điều kiện tính luôn cả nợ và nợ
xấu của các doanh nghiệp nhà nước – hiện nay lên tới 1,3 triệu tỷ đồng
Việt Nam, tức là khoảng 65 tỷ đô la - lại không được tính vào nợ công
quốc gia của Việt Nam.
Nghịch lý là như vậy. Mà
khi không tính vào thì tất nhiên tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam chỉ có
55,4% thôi. Nhưng nếu tính tất cả nợ công của kinh tế nhà nước thì tỷ lệ
đó phải lên tới ít nhất 95% GDP.
Còn theo đánh
giá của một chuyên gia quốc tế nữa thì tỷ lệ nợ công/GDP không phải là
95% nữa mà là 106%. Đó là một con số khủng khiếp, và điều đó nhắc chúng
ta nhớ lại tỷ lệ nợ công/GDP của Philippines trước đây. Nợ công của
Philippines vào thời Tổng thống Marcos – được coi là một trong những đời
tổng thống tham nhũng nhất của Philippines – lúc đó là 120%, tương
đương 120 tỷ đô la, và toàn bộ GDP hàng năm của Việt Nam hiện nay.
Và
nếu như mâu thuẫn ở Việt Nam không thể giải quyết được thì người ta
đành phải chấp nhận là có một sự chênh biệt tới 50%, giữa báo cáo chính
phủ với những đánh giá phản biện về thực tế, hiện tồn ở Việt Nam hiện
nay. Do đó cần phải xem lại rất kỹ, rất sâu về nguyên nhân gây ra ung
họa ở đâu. Chính là do các tập đoàn nhà nước, chẳng hạn như Vinashin,
Vinalines… Mà bản thân những tập đoàn như Vinashin thì chúng ta đã biết
họ nợ ít nhất là 84.000 tỷ đồng Việt Nam, tương đương 4 đến 5 tỷ đô la,
tức khoảng 6% GDP của Việt Nam.
Đó chỉ mới là
một tập đoàn. Còn nhiều tập đoàn khác - chẳng hạn đã xuất hiện những cái
tên như Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam,
kể cả Tập đoàn Điện lực Việt Nam nữa. Tập đoàn này cho tới nay trở thành
quán quân về nợ ngân hàng, với tổng số 118.000 tỷ đồng, là tập đoàn nhà
nước được các ngân hàng ưu ái vô cùng, thuộc loại được ưu ái nhất Việt
Nam.
RFI: Thưa anh, trong tình
hình nợ công đã cao như vậy mà còn phải gánh thêm những món nợ - dù Nhà
nước không bảo lãnh. Theo luật quản lý nợ công thì những khoản nợ này
không được tính vào nợ công quốc gia, nhưng nếu chính phủ phát hành trái
phiếu thì cũng là một cách làm tăng nợ lên?
Thực
chất việc phát hành trái phiếu chỉ là dùng giấy để mua nợ chứ không
phải là dùng tiền thật mua nợ. Cho nên đó là một thủ pháp mà tục ngữ
Việt Nam gọi là «đánh bùn sang ao», mà thực tế không giải quyết bất kỳ
vấn đề nào, một nội dung nào về vấn đề nợ xấu. Có nghĩa là nợ xấu vẫn y
nguyên! Vậy thì phát hành trái phiếu là cho ai?
Có
hai kênh để phát hành trái phiếu. Một là kênh phát hành nội địa cho dân
chúng, cho các doanh nghiệp, ngân hàng. Thứ hai là kênh phát hành quốc
tế. Chẳng hạn trường hợp tập đoàn tàu thủy Việt Nam Vinashin, chính phủ
đã có quyết định cho tập đoàn này phát hành 600 triệu đô la trái phiếu
quốc tế.
Như vậy là cũng dùng giấy để giải quyết
nợ. Nhưng vấn đề còn lại là có bán được trái phiếu hay không. Tôi không
cho là có nhiều hy vọng lắm về việc doanh nghiệp và các tập đoàn nước
ngoài kỳ vọng vào việc Vinashin có thể phục hồi một cách vững chắc, để
họ có thể mua trái phiếu quốc tế của Vinashin.
Điều
đó cho thấy kênh phát hành trong nước hiện nay cũng đang bế tắc, vì gần
như tiền không vào lưu thông và tình trạng găm giữ tiền trong dân chúng
rất phổ biến, thị trường bất động sản đóng băng. Đó là một minh chứng
cực kỳ điển hình. Cho nên việc phát hành trái phiếu nội địa có nhiều khả
năng không thành công, các ngân hàng cũng như vậy.
Vấn
đề còn lại là nếu tính đúng tính đủ theo năm tiêu chí của Liên Hiệp
Quốc về nợ công thì phải cộng luôn cả nợ của các tập đoàn, doanh nghiệp
nhà nước không xử lý được vào nợ công. Lúc đó tỷ lệ nợ công sẽ không
phải là 55% nữa mà sẽ lên ít nhất là 95% GDP.
Nếu
như Nhà nước Việt Nam với chính sách hiện nay cứ tiếp tục vay những
nguồn vốn được coi là tài trợ quốc tế, chẳng hạn như ODA từ Nhật Bản,
v.v. dù với lãi suất ưu đãi, vẫn là một gánh nặng đổ lên đầu con cháu.
Đời con, đời cháu sẽ tiếp tục phải trả, chứ không phải là thế hệ lãnh
đạo hiện nay.
RFI: Ngay cả
trong trường hợp trái phiếu phát hành để hỗ trợ cho những tập đoàn quốc
doanh lỗ lã có bán chạy đi nữa, nhưng đây không phải là dòng vốn rót vào
sản xuất – doanh nghiệp tư nhân không vay được – thì đây có phải là
hiện tượng lành mạnh không?
Đó không phải là
một hiện tượng lành mạnh đối với khu vực sản xuất, và đối với thực lực
của nền kinh tế Việt Nam. Vì đó chẳng qua, tôi nhắc lại, là một thủ pháp
để chuyển nợ thành một tờ giấy nào đó mà thôi. Và giấy xét cho cùng
cũng chỉ là giấy, vì trái phiếu không có ý nghĩa gì ; trong trường hợp
phát hành quá nhiều trái phiếu thì vô hình chung lại đẩy mạnh lạm phát.
Và nếu không phát hành trái phiếu mà in thêm tiền cũng là lạm phát.
Cho
nên ở đây chính phủ buộc phải chọn một phương cách tạm gọi là tương đối
an toàn là phát hành trái phiếu. Nhưng tôi muốn nói thêm một khía cạnh
thế này: việc phát hành trái phiếu mà không phải dùng tiền mặt để mua nợ
xấu cho thấy ngân quỹ Việt Nam đã eo hẹp, và có nhiều dấu hiệu cạn kiệt
đến mức như thế nào!
Trong cuộc suy thoái từ
năm 2008 đến đầu 2009, tháng 3/2009 chính phủ Việt Nam đã tung ra một
gói kích cầu khoảng 143.000 tỷ đồng, tương đương 8 tỷ rưỡi đô la theo tỷ
giá hối đoái vào thời điểm đó. Đây là một con số khổng lồ và đã vực dậy
nền kinh tế, nhưng đặc biệt vực dậy các thị trường đầu cơ như chứng
khoán và bất động sản, còn nền kinh tế chỉ ăn theo những thị trường này
mà thôi.
Tuy nhiên trong suốt ba năm suy thoái
vừa qua, điều đáng ngạc nhiên là tiền đi đâu? Cuối cùng thì các doanh
nghiệp đã không thể kỳ vọng là Nhà nước có thêm một gói kích cầu nào
nữa. Gói kích cầu đó đã được hy vọng vào năm 2012, khi nền kinh tế quá
khó khăn. Nhưng đến năm nay thì gần như đã chấm dứt hy vọng, vì không có
bất kỳ một tín hiệu nào về việc chính phủ có thể tung ra một gói kích
cầu. Từ đó người ta mới đánh giá thế này: Chính phủ hết tiền rồi!
Các
doanh nghiệp nói như vậy, và thực chất là nguồn tiền quá eo hẹp. Huy
động mãi mới chỉ được gói kích thích 30.000 tỷ đồng để hỗ trợ cho thị
trường bất động sản mà thôi.
Điều đó cho thấy
việc tung ra trái phiếu là một kênh chẳng đặng đừng. Một kênh bất đắc dĩ
mà chính phủ phải thực hiện, và cuối cùng cũng chỉ là một việc gần như
vô nghĩa, tức là không giải quyết thực chất vấn đề nợ xấu.
Liên
quan đến việc này, tôi cũng muốn nói thêm là công ty Quản lý Tài sản
Quốc gia, viết tắt là VAMC được thành lập vào đầu năm 2013, có nhiệm vụ
cực kỳ quan trọng là xử lý nợ xấu đang tồn đọng tại các doanh nghiệp và
ngân hàng. Nhưng sau một hồi bàn thảo rất gay cấn, cuối cùng vốn điều lệ
của VAMC chỉ có 500 tỷ mà thôi. Trong khi nhiệm vụ của VAMC là phải
giải quyết ít nhất 100.000 tỷ đồng nợ xấu, theo con số báo cáo!
Với
vốn điều lệ chỉ có 500 tỷ mà phải giải quyết gấp hai chục lần số nợ xấu
thì làm sao có thể được? Thế là cuối cùng người ta cũng đành ngã sang
một phương án như chính phủ đang thực hiện hiện nay. Có nghĩa lại tiếp
tục phát hành trái phiếu. VAMC sẽ có một loại trái phiếu đặc biệt, và
dùng loại trái phiếu đó để trả lại cho các ngân hàng – những ngân hàng
đang ôm nợ xấu. Và các ngân hàng đó phải chuyển lại một số tài sản thế
chấp và nợ xấu cho VAMC.
Cho nên trong mấy tháng
vừa rồi, có những báo cáo đánh giá là tổ chức này (VAMC) đã mua được 30
đến 35.000 tỷ đồng nợ xấu. Nhưng điều đó có ý nghĩa như thế nào? Hay
chỉ thuần túy là một việc diễn ra trên giấy và chuyển từ tài khoản này
sang tài khoản kia. Còn thực chất nợ xấu vẫn là một hằng số, nếu không
muốn nói là tăng lên theo thời gian và không hề thay đổi.
Thậm
chí theo một báo cáo mới nhất của Ngân hàng Nhà nước – buộc phải báo
cáo trước Quốc hội kỳ họp thứ 6 khóa 13, thì Ngân hàng Nhà nước đã phải
làm một động tác, một văn bản được coi là «đảo nợ» và chuyển 300.000 tỷ
đồng từ nợ xấu lên nhóm nợ đỡ xấu hơn. Như vậy trái phiếu không giải
quyết được gì cả.
RFI: Mới đây
ông Trương Văn Phước, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã
đánh giá chuyện anh vừa nói là xử lý nợ xấu bằng cách «ngậm sâm». Tức
là tổ chức VAMC chỉ «cấp cứu» thôi, chứ không phải là xử lý nợ xấu triệt
để. Muốn triệt để phải chờ sự phục hồi của nền kinh tế, mà theo ông là
khoảng hai, ba năm tới. Theo anh vấn đề này có thể giải quyết thế nào?
À,
đây là một ẩn số cực kỳ lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Nợ xấu hiện nay
đang là vấn đề cốt tử để quyết định vận mệnh của nền kinh tế Việt Nam,
và có thể cả vận mệnh của nền chính trị Việt Nam trong tương lai không
quá xa!
Ông Trương Văn Phước trước đây từng là
Tổng giám đốc Eximbank. Nhận định của ông theo tôi độ khách quan chỉ
khoảng một nửa thôi, vì ông vẫn là một quan chức.
Muốn
đánh giá một cách thực chất vấn đề nợ xấu của Việt Nam và thời gian để
giải quyết nợ xấu, có lẽ phải dựa vào những ý kiến độc lập hơn nhiều.
Nhưng dù sao tôi cho là ý kiến của ông Trương Văn Phước từ trước tới nay
vẫn là một trong những ý kiến tương đối sâu sắc và có thể tham khảo
được.
Vấn đề ông đưa ra là từ hai tới ba năm có
thể giải quyết được nợ xấu, theo tôi là quá lạc quan. Đó là theo lộ
trình của Nhà nước và những điều mà Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã tuyên
bố trước Quốc hội, đến khoảng năm 2014-2015 có thể giải quyết được nợ
xấu.
Nhưng theo một chuyên gia khác là ông Bùi
Kiến Thành, một chuyên gia Việt kiều và có thể nói là một người khách
quan nhất trong lãnh vực tài chánh ngân hàng, thì thời gian để giải
quyết nợ xấu phải mất ít nhất 5 năm, tính từ năm 2012. Đánh giá của ông
Bùi Kiến Thành được đưa ra vào năm 2012. Có nghĩa là sớm nhất phải đến
2017 mới có thể giải quyết được.
Như vậy đã có
một sự chênh biệt khá đáng kể, ít nhất hai, ba năm giữa đánh giá của một
chuyên gia phản biện độc lập với khối ngân hàng nhà nước về thời gian
giải quyết nợ xấu. Còn giải quyết như thế nào, thực chất hiện nay VAMC
không thể gọi là một phép mầu, một cây đũa thần.
Và
đúng là như ông Trương Văn Phước đã dùng từ bóng bẩy nhưng ý nhị, là
chỉ cho ngậm sâm. Đối với những cơ thể đã ốm o, dặt dẹo và thường là
mang trọng bệnh thì mới cho ngậm sâm. Nhưng ngậm sâm chỉ có tác dụng
trong một thời gian ngắn, sau đó nếu không giải quyết được gì nữa, lúc
đó cơ thể sẽ lờn thuốc. Sẽ không có bất kỳ một loại sâm, một loại thuốc
quý nào có thể làm cơ thể hồi phục. Lúc đó sẽ lụn bại, sụp xuống rất
nhanh.
RFI: Thưa anh, báo cáo
kinh tế vĩ mô 2013 mang tiêu đề «Thách thức còn ở phía trước» kêu gọi cổ
phần hóa triệt để doanh nghiệp nhà nước, mở rộng tham gia của tư nhân,
đưa ra lộ trình doanh nghiệp nhà nước hiện giờ 25-27% GDP xuống dưới 10%
vào năm 2020. Anh thấy việc này có khả thi không?
Thực
ra tôi không quan tâm lắm tới chính sách cổ phần hóa các doanh nghiệp
nhà nước cho tới thời điểm này. Vì việc đó đã làm từ lâu và không có kết
quả, chỉ theo tính chất phong trào mà thôi, và cổ phần hóa các doanh
nghiệp nhà nước không mấy quan trọng. Còn những doanh nghiệp quan trọng
thì Nhà nước vẫn nắm. Cho nên điều đó không tạo ra ý nghĩa nhiều lắm
trong chiến dịch cổ phần hóa suốt mười mấy năm vừa rồi.
Chẳng
hạn những lãnh vực như xăng dầu, điện lực độc quyền đến như thế nhưng
Nhà nước vẫn không cổ phần hóa. Mà không cổ phần hóa thì giá chỉ có tăng
mà không có giảm. Còn những lãnh vực cổ phần hóa như bưu chính thì như
chúng ta đã thấy, trong thời gian khá dài giá đã giảm đáng kể, chẳng hạn
giá cước sử dụng internet.
Nếu không bỏ độc
quyền thì việc cổ phần hóa sẽ không có ý nghĩa lắm. Thành thử việc cổ
phần hóa sẽ diễn ra như thế nào trong thời gian sắp tới, theo tôi không
quan trọng bằng việc phải cải cách doanh nghiệp nhà nước một cách thực
chất bằng việc xóa bỏ, hoặc ít nhất là cũng xóa dần thế độc quyền của
một số doanh nghiệp, chẳng hạn như những doanh nghiệp kinh doanh xăng
dầu, điện, nước thì mới có ý nghĩa. Chứ còn vẫn mãi độc quyền, không có
một cải cách nào cả, thì sẽ khó thể tham gia vào những định chế đa
phương thương mại quốc tế, và cũng không phát huy được nội lực của khối
doanh nghiệp tư nhân trong nước.
RFI: Thưa
anh, vừa rồi một nhà kinh tế kiêm blogger là Alan Phan cho biết ông
không tin vào một chính sách nào của Nhà nước nữa, vì thật ra các tập
đoàn lợi ích đã lũng đoạn rồi. Ông cho rằng với những gánh nặng doanh
nghiệp nhà nước, nợ xấu ngân hàng, ngân sách, thì Việt Nam dù có tham
gia TPP đi nữa thì cũng không thể trở thành một con rồng trong thời gian
tới…
Có hai vấn đề. Một là lòng tin, và hai là hiệu quả TPP.
Thứ
nhất là lòng tin, thì đánh giá của ông Alan Phan theo tôi cơ bản là
đúng. Tại vì hiện nay rất nhiều doanh nghiệp đã than thở về chuyện mất
lòng tin hoàn toàn vào thị trường, và chẳng còn mấy lòng tin vào Nhà
nước. Theo thăm dò chính thức, có ít nhất 50-60% doanh nghiệp đã không
còn lòng tin vào những chính sách của Nhà nước nữa rồi.
Nhưng
theo tôi thì tỷ lệ này vẫn còn rất khiêm tốn. Vì khi nói chuyện với một
số doanh nghiệp thì tôi nhận ra rằng nếu đưa ra những tiêu chí rõ ràng
để khảo sát tâm lý, thăm dò ý kiến của họ và phân tích cho rõ ràng, thì
có thể nói họ hầu như không có niềm tin. Tôi cho rằng ít nhất 80-85%
doanh nghiệp và người dân không còn tin vào những chính sách kinh tế của
Nhà nước nữa.
Nhất là sau ba năm suy thoái và
để cho các nhóm lợi ích, đặc biệt là nhóm lợi ích ngân hàng, bất động
sản, chứng khoán và vàng bạc lũng đoạn hoàn toàn thị trường. Cho nên bây
giờ mới để xảy ra một trận lũ, hậu quả, dư chấn của một cuộc khủng
hoảng gần như là ngổn ngang, phơi bày tất cả những gì trần trụi ra và
đang phải giải quyết mà chúng ta vừa đề cập tới. Hậu quả lớn nhất của nó
là vấn đề nợ xấu.
Vấn đề thứ hai là TPP. Tôi
còn nhớ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có đề cập về lòng tin chiến lược. Lòng
tin chiến lược là gì? Điều đó đã được sách vở nói đến, kể cả một cuốn
sách mô tả về hội nghị Shangri-la và những lời phát biểu của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng nói rất là chi tiết. Nhưng ở đây lại liên quan đến lòng
tin đối với Chính phủ, với chính sách của Nhà nước.
Khi
mà lòng tin của các doanh nghiệp và người dân không còn bao nhiêu, thì
liệu có nổi một lòng tin chiến lược bền vững hay không? Hay đó chỉ là
một câu sáo rỗng và rất xa vời? Nói chung là một ảo ảnh hoàn toàn không
thể hiện thực hóa.
Mà không hiện thực hóa thì
chúng ta cần phải nhìn lại điều đang muốn nhấn sâu vào: TPP. Việt Nam
tham gia vào TPP để làm gì? Để có thể đạt được lợi thế nhiều nhất chăng?
Hay là chúng ta phải nhìn lại cả một quá trình nền kinh tế Việt Nam
tham gia vào định chế WTO (Tổ chức Thương mại Thế giới) suốt bảy năm,
nhưng đã gần như không có hiệu quả, ngoài một số chỉ tiêu xuất khẩu.
Mà
xuất khẩu tăng về lượng nhưng lại không tăng giá, và thực chất vẫn tạo
ra một sự phân hóa rất lớn về mặt thu nhập giữa các tầng lớp người dân
Việt Nam. Đặc biệt là người nông dân Việt Nam cho đến nay đang phải lãnh
hậu quả, dù sản lượng lúa đạt nhưng giá lúa vẫn thấp.
Tôi
cho là trong thời gian sắp tới có nhiều khả năng Việt Nam sẽ được chấp
nhận tham gia vào Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương, xuất
phát từ tín hiệu Nhà nước Việt Nam được chấp nhận vào Hội đồng Nhân
quyền Liên Hiệp Quốc.
Tuy nhiên, tham gia vào
TPP nhưng vẫn còn vướng khá nhiều rào cản kỹ thuật do quốc tế quyết
định. Đó là những rào cản kỹ thuật về xuất xứ hàng hóa của hàng xuất
khẩu ra nước ngoài – phải mang tính chất nội khối chứ không phải ngoại
khối TPP. Thứ hai là những rào cản kỹ thuật về nhãn mác, về sở hữu trí
tuệ, kể cả vấn đề nghiệp đoàn lao động mà người Mỹ và phương Tây đang
đặt ra cho Việt Nam như một điều kiện để tham gia TPP.
Nghiệp
đoàn lao động lại liên quan mật thiết với vấn đề nhân quyền như đã được
quy định trong điều 69 của Hiến pháp Việt Nam, nhưng chưa bao giờ được
luật hóa một cách cụ thể.
Do vậy theo tôi đánh
giá chung, trong vòng từ ba đến bốn năm tới dù có được tham gia TPP, nền
kinh tế Việt Nam vẫn không nhận lãnh được những kết quả tương xứng như
mong muốn, mà tiếp tục suy thoái, tiếp tục phân hóa dày đặc giữa các
giai tầng ở Việt Nam.
RFI: Tóm
lại là tình hình có vẻ u ám, quốc doanh không hiệu quả thậm chí làm ra
thêm nợ nần, thị trường chứng khoán gần như bế tắc, bất động sản đóng
băng. Doanh nghiệp tư nhân chết rất nhiều, những doanh nghiệp còn sống
thì ngân hàng có cho vay cũng ít dám vay. Trở lại vấn đề nợ công, liệu
có một lối thoát nào khả dĩ, theo anh?
Lối
thoát khả dĩ nhất hiện nay có lẽ là phải chống tham nhũng một cách triệt
để, thu hồi tài sản do tham nhũng để trả nợ nước ngoài. Không còn cách
nào khác! Tại vì không còn nguồn tiền nào khác để trả nợ cho nước ngoài,
trong bối cảnh ngân sách cạn kiệt như thế này, các thị trường đầu cơ
gần như đóng băng, và trong tương lai gần không có gì triển vọng hơn.
Chỉ
còn cách lôi những tập đoàn tham nhũng, những cá nhân tham nhũng ra mà
xử. Tại vì họ đã ăn đủ, ăn dày, ăn sâu, ăn đậm quá nhiều năm rồi, đã làm
cho người dân quá khốn khổ rồi! Nay cần phải làm những vụ lớn như Bạc
Hy Lai ở Trung Quốc, lấy tài sản tham nhũng bù đắp gánh nặng nợ nần của
quốc gia, trả nợ cho nước ngoài. Còn việc phát hành trái phiếu quốc tế,
tôi không tin là hiện thực hóa thành công.
RFI: RFI
Việt ngữ xin rất cảm ơn tiến sĩ Phạm Chí Dũng ở Việt Nam, đã vui lòng
nhận lời tham gia tạp chí kinh tế hôm nay của chúng tôi.
T.M. – P.C.D.
Nguồn:
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:06
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/no-cong-va-no-xau-se-tiep-tuc-e-nang.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001