VÌ SAO LŨ KÉP THIÊN TAI VÀ NHÂN TAI Ở MIỀN TRUNG
Tô Văn Trường
(Bài viết cho Hội thảo của Chương trình nghiên cứu khoa học KC08/11-15 của Bộ Khoa học và Công nghệ )
Chưa
bao giờ dân ta lại thấy thấm thía như bây giờ câu nói đúc kết kinh
nghiệm ngàn đời của ông cha ta khi xếp thứ tự bốn loại tai họa: thủy,
hỏa, đạo, tặc. Năm nay, đang nổi lên vấn đề thời sự là miền Trung
dù đã được chuẩn bị ứng phó vẫn bị thiệt hại về người và của do ảnh
hưởng của bão lũ và việc xả lũ của các nhà máy thủy điện. Lũ chồng lên
lũ, người dân phải gồng mình chống lũ kép thiên tài và nhân tai.
Theo báo Tuổi Trẻ sáng 22 tháng 11, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã nói: “Theo
thống kê của các địa phương, thiệt hại rất đau xót khi có tới 43 người
chết, 4 người mất tích, 70 người bị thương, trên 400 căn nhà bị sập,
hàng trăm nghìn căn nhà bị ngập, 400.000 gia cầm chết, 30.000 gia súc
chết… Diện tích lúa và hoa màu bị ngập rất lớn”.
Chia
sẻ với đau thương mất mát của đồng bào miền Trung, nhưng trên mạng xã
hội, nhiều ý kiến không đồng tình với phát biểu của Phó Thủ tướng cho
rằng: “Đến nay, chưa có báo cáo nào nói có hồ nào đó xả lũ sai quy trình và các địa phương có hồ chứa đều khẳng định như vậy"!
Nhà thơ Thái Bá Tân viết:
“Phó thủ tướng cho biết
Việc xã lũ vừa rồi
Đúng qui trình, chỉ tại
Nước lớn quá mà thôi.
Thế thì chỉ biết nói
Thủy điện luôn thông minh,
Chỉ dân ta ngu dốt,
Chết không đúng qui trình”.
Khách
quan nhận xét, nếu chỉ căn cứ vào các báo cáo thì phát biểu của Phó thủ
tướng không sai, nhưng thực tế có đúng như vậy không, cần được giải
đáp. Trong chương trình nghiên cứu khoa học KC08/11-15 của Bộ Khoa học
& Công nghệ có một số đề tài nghiên cứu về thiên tai bão lũ ở miền
Trung, tiếc rằng đang trong quá trình thực hiện nên chưa có đủ cơ sở dữ
liệu và kết quả tính toán để “mổ xẻ” cho thấu đáo vấn đề nói trên. Trong
phạm vi hiểu biết hạn hẹp của mình, tôi cố gắng lý giải dưới góc nhìn
khách quan và khoa học trên nguyên tắc là dù quy trình vận hành xả lũ đã
được phê duyệt nhưng thực tế gây thảm họa cho người dân ở hạ du thì vẫn
cần phải xem xét, đánh giá lại quy trình.
Bài toán an ninh năng lượng quốc gia và thủy điện
Để
phát triển kinh tế xã hội bền vững, ngành điện cần đi trước một bước.
Nguồn năng lượng điện ở Việt Nam từ trước đến bây giờ vẫn chủ yếu dựa
vào các nguồn nhiên liệu chính là than đá, khí (nhiệt điện) và nước mặt ở
các dòng sông (thủy điện), trong đó nguồn thủy điện luôn duy trì tỉ
trọng lớn khoảng gần 40% trong cơ cấu nguồn điện ở Việt Nam từ trước đến
nay.
Trong bài toán năng lượng của nước ta,
thủy điện luôn được đánh giá cao vì giá thành tương đối rẻ, năng lượng
sạch có khả năng tái tạo, dễ điều chỉnh nên thường được sử dụng để phủ
đỉnh trong sơ đồ phát điện. Bởi thế, hầu hết các công trình thủy điện
lớn và vừa đã và đang được khai thác triệt để ở nước ta là điều dễ hiểu.
Trong lưới điện của bất cứ quốc gia nào, người
ta đều phải tính toán để có nhiều chủng loại các nhà máy điện khác nhau
để đề phòng sự cố và quá lệ thuộc vào một loại nguyên nhiên liệu đầu
vào nào đó. Cụ thể là phải có thủy điện để phòng khi giá dầu biến động,
có nhiệt điện phòng khi khô hạn. Ở Việt Nam, trước đây chỉ phổ biến
nhiệt điện chạy than, nhiệt điện chạy dầu, sau đó, có thêm các nhà máy
turbine khí hỗn hợp, đặc biệt là thủy điện chiếm khoảng gần 40%. Nguyên
tắc khi thiết kế các nhà máy thủy điện lớn nằm trong hệ thống điện quốc
gia thường chọn tần suất thiết kế đảm bảo 95% có nghĩa là 20 năm bình
quân mới có 1 lần thiếu nước so với công suất được đưa vào cân bằng hệ
thống điện. Bởi vậy, không thể đổ thừa mỗi khi không đủ nguồn nước là do
ông Trời. Do khâu tổ chức thiếu nhất quán, chưa định lượng hóa lợi ích
mang lại cho các ngành theo phương án vận hành điều tiết cho cấp điện,
cấp nước cho nông nghiệp, công nghiệp, và duy trì dòng chảy tối thiểu,
cho đến nay mới phê duyệt được quy trình vận hành liên hồ chứa về xả lũ
của một số lưu vực quan trọng. Ngay liên hồ chứa Hòa Bình, Thác Bà,
Tuyên Quang (chưa kể thêm hồ chứa Sơn La) đến nay, vẫn chưa phê duyệt
quy trình vận hành cho bài toán mùa cạn.
Hiện
nay công suất đỉnh khoảng hơn 18000 MW, tức là chưa tới 20000 MW. Mỗi
năm nếu EVN chỉ đưa vào được khoảng 2000 MW, tức 10%, thì chắc chắn
thiếu điện, do tốc độ tăng trưởng thương phẩm khoảng 15%/năm. Muốn có an
ninh năng lượng, hay nói cách cụ thể hơn là an ninh điện năng, cần phải
đẩy mạnh tiến độ xây dựng và chất lượng của các nhà máy điện. Thời gian
vừa qua, công luận bức xúc về thiếu điện còn do nguyên nhân nhiều dự án
dàn trải, tốc độ xây dựng chậm trễ, một số chủ đầu tư không đủ năng lực
tài chính, sự yếu kém và thiếu kinh nghiệm trong các khâu thủ tục đấu
thầu, v.v. Nhiều dự án kinh tế trọng điểm liên quan đến tài nguyên quốc
gia hoặc an ninh năng lượng phần lớn do Trung Quốc thắng thầu thực hiện
theo EPC bao gồm toàn bộ từ thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư xây lắp.
Các nhà máy nhiệt điện ở Cẩm Phả, Hải Phòng do Trung Quốc thi công chậm
trễ so với kế hoạch đến hơn 20 tháng lại thường xuyên gặp sự cố kỹ
thuật! Chi phí khâu phát điện thường chiếm đến 72% lại chưa có khung giá
phát điện chuẩn nhiều nhà máy nhiệt điện xây xong chưa ký được hợp đồng
mua bán với EVN.
Quy hoạch phát triển thủy điện trong khi tiềm năng sắp cạn
Nhìn
chung cả nước, quy hoạch ngành năng lượng rất nhiều nhưng lại rất
thiếu: ngành điện, than và dầu khí đều có quy hoạch riêng nhưng thiếu
một quy hoạch tổng thể cho toàn ngành năng lượng. Ở cấp độ địa phương,
quy hoạch lại bị chồng chéo, đặc biệt ở quy hoạch thủy điện nhỏ, các địa
phương cấp phép xây dựng thủy điện nhỏ vô tội vạ nhằm thu hút vốn đầu
tư và thu thuế cho địa phương. Sự chậm chễ trong tiến độ đưa vào vận
hành các công trình điện (nhà máy, đường dây, trạm...): theo các thống
kê trong những năm gần đây gần như 100% các nhà máy điện đưa vào hệ
thống chậm hơn một vài năm so với kế hoạch.
Chúng
ta đều biết điện sử dụng bằng điện sản xuất cộng điện nhập khẩu trừ đi
điện tiết kiệm. Phương trình này đơn giản nhưng không phải là bài toán
dễ giải. Thủy điện là nguồn điện rẻ, sạch, có khả năng tái tạo nên các
quốc gia có tiềm năng về thủy thế, nguồn nước đều ưu tiên coi trọng thủy
điện. Tuy nhiên, nhìn tổng thể bài toán cơ cấu nguồn điện năng của nước
ta thì thủy điện chiếm tỉ lệ quá cao trong tổng sơ đồ điện. Thủy điện
đòi hỏi đầu tư rất lớn nhưng tác động đến môi trường cũng không nhỏ,
phải di dân tái định cư, thay đổi dòng chảy tự nhiên, môi trường sinh
thái động thực vật, đa dạng sinh học, đặc biệt tàn phá rừng.
Tiềm
năng lý thuyết thủy điện Việt Nam khoảng 75.000 MW, tiềm năng kỹ thuật
khoảng 31.000 MW và tiềm năng kinh tế - kỹ thuật khoảng 20.000 MW. Năm
2001, công suất max hệ thống khoảng 6.000 MW nhưng đến năm 2009 con số
này đã là khoảng 14.000 MW (trung bình tăng 1.000 MW/năm với tỉ lệ tăng
khoảng 12%/năm), trong đó thủy điện chiếm 6.500 MW. Hiện tại, công suất
thủy điện trong hệ thống khoảng 11.000 MW. Dự báo đến các năm 2020 và
2030, tổng công suất hệ thống là khoảng 75.000 MW và 150.000 MW, trong
đó thủy điện tương ứng là 17.000 MW (23%) và 18.000 MW (12%).
Như
vậy, rõ ràng là trong giai đoạn 2001-2010, một thập niên bùng nổ thủy
điện, gần như tiềm năng kinh tế - kỹ thuật nguồn thủy điện đã được khai
thác rất lớn. Trong những năm tiếp sau 2010, chỉ còn một vài dự án lớn
như Sơn La 2.400 MW, Lai Châu 1.200 MW cùng một số thủy điện vừa và nhỏ
khoảng 2.100 MW sẽ được khai thác đến năm 2015 là gần như hết tiềm năng
thủy điện Việt Nam. Chỉ còn lại một ít dự án thủy điện tích năng sẽ được
tiếp tục khai thác sau năm 2020.
Mặc dù vai trò
nguồn thủy điện trong cơ cấu nguồn điện chiếm tỉ trọng lớn nhưng việc
đầu tư cho công tác quy hoạch chưa tương xứng với tiềm năng. Đối với quy
hoạch tổng sơ đồ điện, từ trước đến nay đã qua 7 kỳ quy hoạch và nhiều
lần hiệu chỉnh quy hoạch, việc quy hoạch chủ yếu dựa trên tiêu chí tối
ưu chi phí đầu tư và vận hành hệ thống điện, theo nhu cầu năng lượng của
quốc gia song lại không chú trọng tiêu chí ảnh hưởng đến môi trường.
Chi phí cho một kỳ quy hoạch tổng sơ đồ phát triển điện quốc gia (5
năm/lần) rất hạn chế nên khó đáp ứng cho việc đánh giá tác động môi
trường từ các dự án nguồn, trong đó có thủy điện. Việc đánh giá tác động
môi trường lại được “lồng ghép” cho quy hoạch từng dự án cụ thể hoặc
đánh giá chung chung khi lập quy hoạch lưu vực sông và quy hoạch cấp
tỉnh nên chất lượng rất hạn chế.
Đối với quy
hoạch thủy điện theo lưu vực sông, chỉ một số ít có quy hoạch cụ thể và
cũng chỉ có các dự án trên 30 MW mới được xem xét. Một số lưu vực trước
đây khi lập quy hoạch, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) có thuê tư vấn
nước ngoài lập với chi phí đáng kể thì vấn đề môi trường được đánh giá
khá chi tiết và có khuyến cáo cụ thể khi xếp hạng ưu tiên khai thác, hay
nói cách khác là các dự án được xếp hạng theo tiêu chí kinh tế, kỹ
thuật, môi trường. Đối với quy hoạch thủy điện vừa và nhỏ thì được cấp
tỉnh phê duyệt, nội dung nghiên cứu quy hoạch cũng chưa chú trọng nhiều
đến vấn đề môi trường.
Con người gánh trọn hậu quả
Các
tác động của thủy điện thì ai cũng nhìn thấy, cả mặt lợi và hại. Xét
trên tổng thể nền kinh tế quốc gia, nhu cầu năng lượng quốc gia, việc
khai thác thủy điện để cung cấp năng lượng là tốt vì đây là nguồn năng
lượng tái sinh. Vấn đề của Việt Nam là con người, kể cả người thực hiện,
chủ đầu tư và người quản lý. Có một lỗ hổng trong quy trình quản lý nên
việc quản lý, cấp phép và giám sát môi trường chưa chặt chẽ dẫn đến các
tác động ngoài mong muốn mà một bên không thể dễ dàng nhận trách nhiệm.
Một số tác động gần đây như lũ tăng bất thường, động đất kích thích, vỡ
đập, phá rừng, biến đổi sinh thái và hình thái hạ lưu sông… là kết cục
tất yếu của một quá trình lâu dài hơn 10 năm khai thác thủy điện nhưng
các chế tài chưa phù hợp với phong trào “nhà nhà làm thủy điện, người
người làm thủy điện”.
Nguyên nhân dẫn đến sự hủy
hoại môi trường quá mức từ các dự án thủy điện là do chúng ta chưa có
tiêu chí đánh giá lựa chọn dự án khai thác tổng thể theo sự tiến bộ về
nhận thức của xã hội, nghĩa là chỉ có tiêu chí kinh tế - kỹ thuật mà
chưa có tiêu chí kinh tế - môi trường - kỹ thuật. Dự án để được triển
khai phải có tên trong quy hoạch (tổng sơ đồ điện quốc gia và quy hoạch
thủy điện tỉnh). Trong thực tế, báo cáo đánh giá tác động môi trường
(ĐTM) có chất lượng chưa tốt do hạn chế ở khâu kinh phí, nguồn nhân lực
(kể cả những người lập báo cáo lẫn hội đồng xét duyệt). Chính sự dễ dãi,
thậm chí lơi lỏng trong giám sát, đã bắt môi trường tự nhiên và người
dân phải hứng chịu mọi hậu quả.
Lời nguyền tài
nguyên có câu “ăn của rừng rưng rưng nước mắt”, ngẫm suy thật chuẩn xác
vì đó là cái giá phải trả do đối xử tệ hại với môi trường sinh thái tự
nhiên. Ngoài nguyên nhân do lâm tặc hoành hành, sự tiếp tay của những
phần tử thoái hóa trong chính quyền thì việc phát triển thủy điện tràn
lan, tàn phá rừng đầu nguồn, kể cả vườn quốc gia, chính là tác nhân gây
nên các hiện tượng lũ quét, lũ ống, sạt lở núi đồi…, phá hủy các cơ sở
hạ tầng, làm nhiều người bị rơi vào cảnh màn trời chiếu đất, đặc biệt là
cướp đi biết bao sinh mạng của người dân vô tội.
Rừng
là bộ phận kết cấu hạ tầng sinh thái của đất nước. Không phải ngẫu
nhiên mà người ta nhận xét, không có thủy điện vẫn có giải pháp khác
thay thế, còn khi mất rừng là mất tất cả! Ước tính mỗi MW thủy điện ,
ngốn hết hơn 10 ha rừng.
Nhiều khu vực ở TP. Huế bị lũ nhấn chìm. Ảnh: Dân Việt |
Đặc điểm của miền Trung
Miền
Trung với đặc điểm các con sông đều ngắn, dốc, lưu vực nhỏ nên đỉnh lũ
nhọn, hễ mưa lớn hầu như sẽ có lũ. Địa hình miền Trung hẹp ngang, có nơi
chỉ 40 km, dãy Trường sơn kéo dài từ Bắc vào Nam, có nơi núi đâm ra tới
biển (Đèo Cả, đèo Hải Vân); địa hình không có vùng trung du nên lũ tập
trung rất nhanh. Các cửa sông luôn bị đưa lên phía Bắc do tác động của
dòng hải lưu gần bờ và bị bồi lấp bởi gió mùa Đông Bắc. Hàng năm, chịu
ảnh hưởng trung bình 6-7 cơn bão, có năm lên tới 10 cơn bão với lượng
mưa kéo dài từ tháng 6- tháng 12 .
Các trung
tâm kinh tế-xã hội ở miền Trung đều tập trung ở các vùng ven biển thường
xuyên bị ngập lụt khi có lũ lớn, đặc biệt khi có lũ kết hợp triều
cường; đường quốc lộ 1 và đường sắt chạy dài từ Bắc vào Nam như một
tuyến đê ngăn lũ, chênh lệch mực nước giữa thượng và hạ lưu khi có lũ
lên tới 2,3 m.
Mỗi khi lũ lụt xảy ra, gây thiệt
hại lớn, người ta thường đổ cho nguyên nhân chính là do mưa lớn/thiên
tai xảy ra trong năm nay quá đặc biệt so với nhiều năm. Rồi sẽ hứa là rà
lại qui trình một cách nghiêm khắc, nâng cao công tác dự báo, v.v.
Chỉ
tính riêng số công trình thuỷ lợi các tỉnh miền Trung từ Thanh Hoá tới
Khánh Hoà có 2.855 hồ chứa, 2.524 đập dâng và đê các loại 3.535 km. Các
công trình này được xây dựng qua nhiều thời kỳ, đã xuống cấp, phần lớn
không có dung tích phòng lũ. Riêng các công trình được đầu tư sửa chữa
bằng nguồn vốn vay của ngân hàng thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Á
Châu (ADB) hoặc trái phiếu Chính phủ thì còn đảm bảo chống lũ theo tần
xuất thiết kế.
Vì sao năm nay Miền Trung bị thiệt hại do lũ?
Nhìn
lại năm 1999, miền Trung thực sự bị lũ lịch sử gây ra thảm họa thiên
tai cả về người và của. Năm nay (2013) lũ nhỏ hơn năm 1999, ngoại trừ
một vài nơi có lũ lớn như Quảng Bình, Quảng Ngãi, v.v. Năm 1999 thời
gian mưa 5 ngày với lượng mưa đến 1700 mm. Năm nay, lượng mưa chủ yếu từ
24-48 giờ với lượng mưa 800 mm. Các trạm đo An Chí, Ba Thê, Minh Long
cho thấy cường độ mưa rất lớn hơn 100 mm/giờ. Sông Trà Khúc vượt lũ lịch
sử do cường độ mưa quá cấp tập.
Nguyên nhân
gây ra lũ là các trận bão liên tiếp từ cơn bão số 10 đến 15 và áp thấp
nhiệt đới gây ra cường độ mưa lớn và liên tục. Lư ợng mưa gây ra bởi ảnh
hưởng của các cơn bão này cũng rất lớn, trong đó có những vùng như
Thanh Hóa, Nghệ An, Huế, Phú Yên, Bình Định có những trận mưa lên tới
500-600 mm tập trung trong vòng có 1-2 ngày. Có thể thấy đây là nguyên
nhân chính gây lên tình hình ngập úng nặng tại miền Trung vừa qua. Cũng
do mưa lớn kéo dài liên tục, vừa dứt đợt trước lại tiếp tục có đợt mưa
mới nên lượng nước sẵn có trên bề mặt, trong các sông suối, kênh mương
chưa kịp tiêu thoát hết. Chịu tác động tương tự là các hồ chứa, lượng
nước về hồ chưa kịp xả hết lại đón nhận đợt lũ tiếp theo.
Do
nguyên nhân mưa lớn kéo dài, chính quyền và nhân dân phải liên tục đối
phó trong tình trạng khó khăn về mọi mặt, giao thông, liên lạc bị chia
cắt, năng lượng không đảm bảo, nhu yếu phẩm khó khăn, khiến cho công tác
ứng phó gặp nhiều khó khăn và thiệt hại tăng lên rất nhiều.
Mặt
khác, rừng đầu nguồn bị khai thác nhiều, không còn là vùng đệm và khả
năng điều hòa dòng chảy. Cơ sở hạ tầng phát triển không theo quy hoạch,
nhiều vật cản kể cả đường giao thông làm cho khả năng thoát lũ chậm. Một
số cửa sông bị bồi lấp như cửa Đại (Vu Gia - Thu Bồn), cửa Lở (Trà
Khúc), cửa Đà Rằng (sông Ba) làm ảnh hưởng đến khả năng thoát lũ làm
thời gian lũ ngập lâu hơn và mực nước lũ cao hơn.
Các
hồ chứa thủy điện, thủy lợi ở miền Trung không có khả năng chống lũ
chính vụ mà chỉ tham gia chống lũ sớm và lũ muộn. Khác hẳn với lưu vực
sông Hồng là các hồ chứa như Sơn La, Hòa Bình, Lai Châu, Thác Bà đều
tham gia chống lũ chính vụ.
Hệ thống công trình
hồ chứa ở miền Trung khi thiết kế và thi công, hầu hết chỉ coi trọng nhu
cầu phát điện, không có dung tích phòng lũ hữu hiệu. Chất lượng công
tác dự báo kém cho nên quy trình vận hành xả lũ lúng túng không phù hợp
với thực tế. Lũ rất nhanh mà trong quy trình chỉ thông báo trước 2 giờ,
lại không kịp đến tất cả người dân, cho nên nếu gặp thời điểm xả lũ vào
ban đêm hay đồng loạt xả lũ thì nguy cơ đến tính mạng người dân là điều
dễ hiểu.
Thủy điện sông Ba Hạ (tỉnh Phú Yên) bất ngờ xả lũ gây khốn đốn cho người dân ở hạ du
Ảnh: HỒNG ÁNH
Năm
nay lũ về nhanh và tàn phá nhiều vùng do mưa lớn kết hợp với việc thủy
điện lo sợ vỡ đập đã cùng nhau xả lũ khiến tình hình càng tồi tệ hơn.
Các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Gia Lai là những nơi chịu lũ vì thủy
điện. Riêng Quảng Nam lũ xảy ra do tác động của lượng mưa quá lớn. Những
nơi bị lũ tràn về thật khó mà tả cho hết nỗi đau do mất mát của người
dân.
Các bất cập khi lập quy trình vận hành hồ chứa
Lập
quy trình vận hành liên hồ chứa rất phức tạp và còn khá mới mẻ đối với
nước ta, cho đến nay chưa có quy trình vận hành mùa kiệt nào được phê
duyệt. Lợi ích về năng lượng của thủy điện đã rõ, nhưng bầm dập do phá
rừng, xả lũ chưa hợp lý, thay đổi dòng chảy tác động xấu đến môi trường
của nhiều đập thủy điện như vết sẹo để lại thì vẫn còn mãi mãi.
Mặc
dù thủy điện chiếm tỷ trọng đáng kể nhưng toàn bộ hệ thống không có dự
phòng cho nên bất cứ biến động nhỏ nào như bất lợi về thủy văn, ngưng
bảo trì, sửa chữa do sự cố, biến động giá xăng dầu, khan hiếm than, khí
thì hệ thống rơi ngay vào tình trạng thiếu điện. Nếu hệ thống có độ dự
phòng, thì thủy điện có thể tích nước phòng khi khô hạn. Trong khi đó,
cả hệ thống phải ăn đong từng ngày, thì thủy điện, cũng ăn đong từng mét
nước. Đấy là chưa kể còn phải đi mua điện tận Trung Quốc, dễ gặp nhiều
rủi ro không lường trước.
Hầu hết các hồ chứa
thủy điện vừa và nhỏ do chủ đầu tư đứng ra thuê tư vấn lập quy trình vận
hành hồ chứa phục vụ cho mục đích riêng của mình nên có nhiều bất cập.
Quy trình vận hành hồ chứa, được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhiều khi
các hồ chứa chỉ làm cho có, báo cáo kỹ thuật để thuyết minh quy trình
không đủ để chứng minh các số liệu thể hiện trong quy trình. Các công
trình thuỷ lợi chỉ có quy trình vận hành bảo đảm an toàn cho công trình
và theo biểu đồ cấp nước. Quy trình vận hành liên hồ mùa lũ mới chỉ có
lưu vực sông Vu Gia-Thu Bồn, Sông Ba do Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt
nhưng còn nhiều vấn đề cần xem xét lại.
Nguyên
tắc lập quy trình vận hành là dựa trên các tài liệu địa hình, khí tượng
thủy văn xác định lưu lượng đến hồ đươc tính toán bằng mô hình thủy văn
mưa dòng chảy (mô hình NAM). Tính toán mô hình thủy lực hệ thống sông
bằng mô hình thủy lực hệ thống sông (mô hình MIKE 11) . Biên trên của mô
hình thủy lực là quá trình lưu lượng theo thời gian Q = f(t). Biên dưới
của mô hình thủy lưc là quá trình mực nước theo thời gian Z = f(t) tại các cửa sông đổ ra biển.
Các
vết lũ lịch sử 10/1999 được sử dụng trong quá trình mô phỏng để chọn bộ
thông số cho mô hình thủy lực. Tính toán mô phỏng và kiểm định mô hình
xem xét giữa sai số thực đo và tính toán với bộ thông số của mô hình.
Trong
bài toán vận hành hồ chứa, có 2 khối rất quan trọng đó là khối quy
trình vận hành bao gồm xả nước, đón lũ, điều tiết cắt giảm lũ và diễn
toán lũ sau khi điều tiết qua các hồ chứa và mạng sông về dưới hạ lưu.
Một
số tồn tại chủ yếu: Quy trình vận hành hồ chứa xả lũ xây dựng trên nền
tảng của công tác dự báo, trong khi chất lượng dự báo dòng chảy trên
sông chỉ đạt 50-65% do nhiều nguyên nhân kể cả do mật độ phân bố trạm
mưa không đều, địa hình bị chia cắt, phân hóa mạnh cho nên quy trình vận
hành hồ chứa mùa lũ của lưu vực Vu Gia – Thu Bồn và sông Ba mặc dù mới
được Thủ tướng phê duyệt đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết.
Tiêu
chí xây dựng hồ chứa thủy điện ở miền Trung ưu tiên theo thứ tự : An
toàn công trình; Phát điện; Cấp nước cho hạ du; Chống lũ. Thực tế quy
trình việc cấp nước cho hạ du không rõ ràng. Với nhận thức tầm nhìn mới,
phải đảo lại thứ tự ưu tiên: An toàn công trình; Cắt giảm hoặc chống lũ
cho hạ du; Đảm bảo nhu cầu dùng nước tối thiểu cho hạ du; Phát điện.
Nếu đổi lại thứ tự ưu tiên , phải hy sinh phần phát điện cho mục tiêu
chống lũ ở những vùng cần thiết thì phải điều chỉnh lại bài toán quy
trình vận hành hồ chứa thủy điện.
Kiến nghị
Cần
rà soát, bổ sung lại quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch của
các ngành, và địa phương trong điều kiện biến đổi khí hậu. Tính toán
lại một cách hệ thống lũ khả năng lớn nhất ở những công trình trọng điểm
ảnh hưởng trực tiếp đô thị và dân cư sống ở vùng hạ lưu đập. Tùy điều
kiện có thể ứng dụng các phương pháp đơn giản như tính mưa khả năng theo
phương pháp thống kê, nếu đủ tài liệu tính theo phương pháp cực đại hóa
trận mưa hoặc chuyển vị bão. Kiểm tra lại toàn bộ cơ sở hạ tầng, các
tuyến đường giao thông phải có đủ khẩu độ tràn. Các hồ chứa sau khi kiểm
tra thấy cần thiết phải mở rộng tràn hoặc xây thêm tràn sự cố hay còn
gọi là tràn dự phòng để đảm bảo thoát lũ khi cần thiết. Cần đẩy mạnh
việc nghiên cứu cơ sở khoa học để sớm ban hành quy trình vận hành cho
tất cả liên hồ chứa còn lại kể cả mùa lũ và mùa cạn. Luật Bảo vệ môi
trường sửa đổi cho các công trình thủy điện nên xem xét quy định "dòng
chảy tối thiểu " cho hợp lý.
Cần nâng cấp các
cống tiêu, nạo vét các trục để tăng cường khả năng tiêu thoát. Nâng cấp
hệ thống đê biển và đê vùng cửa sông, xây dựng các tuyến đê mới để chống
được mức nước triều với tần suất P=5% có gió bão cấp 9, 10 cộng thêm
mức tăng do nước biển dâng.
Đẩy mạnh công nghệ
khoa học, nâng cao chất lượng công tác dự báo, để tăng hiệu ích của hồ
chứa. Duy trì dung tích phòng lũ theo thời đoạn. Thay đổi quy trình
thông báo xả lũ trước 2 giờ thành 6 giờ để người dân kịp thời ứng phó.
Khi có thông tin về bão, áp thấp nhiệt đới có khả năng gây mưa thì các
hồ phải điều tiết trước để có khả năng đón lũ.
Ban
hành quy định quy trách nhiệm, chế tài xử lý cấp quyết định đầu tư, chủ
đầu tư công trình khi công trình gây sự cố. Ban hành quy định quy trách
nhiệm, chế tài xử lý tổ chức, cá nhân trình phê duyệt, và phê duyệt quy
trình không đảm bảo chất lượng, để xảy ra thiệt hại, sự cố.
Ban
hành quy định phối hợp quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, quy hoạch
phòng chống thiên tai. Điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ các hồ thủy điện
hiện có trên các lưu vực sông để hài hòa lợi ích, ưu tiên bảo đảm nhiệm
vụ cho an toàn công trình, an toàn vùng hạ du và vùng lân cận.
Coi
trọng các biện pháp phi công trình như tăng cường độ chính xác cho công
tác dự báo mưa lũ, chuyển đổi cơ cấu sản xuất thích hợp với biến đổi
thời tiết, bảo vệ rừng đầu nguồn, rừng ven biển. Để chủ động ứng cứu tại
chỗ cần xây dựng các khu nhà phòng tránh kiên cố, nơi cư trú an toàn,
dự trữ lương thực, thuốc men, ghe thuyền, phao cứu hộ. Việc đầu tư cho
các khu nhà ở kiên cố, đường cứu hộ là biện pháp hữu hiệu, an toàn, rẻ
rất nhiều so với sự mất mát, tàn phá của lũ lụt như hàng chục năm qua.
Kết luận
Đối
với nước nghèo như Việt Nam lại nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, bão
lũ xảy ra thường xuyên, vấn đề này càng trở nên đặt biệt nghiêm trọng.
Nhà nước đã có nhiều giải pháp và bài học kinh nghiệm phòng tránh thiên
tai nhưng xem ra đây vẫn là một thách đố lớn!
Biến
đổi khí hậu là vấn đề hệ trọng của sự phát triển, là thách thức lớn
nhất đối với mục tiêu phát triển bền vững, hiểm họa tiềm tàng đối với
nhân loại. Thích ứng một cách chủ động, có các biện pháp công trình kết
hợp với phi công trình là yêu cầu tất yếu đối với các nước, đặc biệt là
nước còn nghèo như Việt Nam. Để phòng tránh thiên tai và “nhân tai” một
cách hữu hiệu, cần phải quyết liệt thực hiện các biện pháp có tính hệ
thống và đồng bộ.
Từ mảnh sắt con người làm ra
cây dao, nhưng tên con dao có khác nhau theo mục đích sử dụng : công cụ
lao động với bà nội trợ, vũ khí tự vệ để giết thú dữ và hung khí gây án
của kẻ côn đồ. Nếu quy hoạch, tính toán thiết kế, thi công và quản lý
vận hành các công trình thuỷ điện, thuỷ lợi sai thì những công trình này
sẽ là những thuỷ tai, “thuỷ hại”. Với tầm nhìn, mục tiêu phát triển bền
vũng và yêu cầu của cuộc sống, thiết nghĩ đã đến lúc phải có tổ chức
mới đủ mạnh cho ngành tài nguyên nước, đảm bảo nguyên lý quản lý tổng
hợp theo lưu vực sông để khai thác tiềm năng có ích mà vẫn phòng tránh
thiên tai một cách hiệu quả.
Tài liệu tham khảo
1. Hunter regulated river NSW Australia, Mark Hamstead.
2. Flood control and planning, To Van Truong.
3. Water management strategy for sustainable development, To Van Truong.
4. Thiên tai phòng chống thế nào, Tô Văn Trường.
5. Thủy điện xả lũ lương tâm trách nhiệm và bổn phận, Tô Văn Trường.
6. Thủy điện sau bùng nổ là trả giá, Tô Văn Trường.
7. Lỗi đâu chỉ tại ông trời, Tô Văn Trường.
8. Loạn thủy điện nhỏ, Tô Văn Trường.
9. Ăn của rừng rưng rưng nước mắt, Tô Văn Trường.
10. Lỗ hổng về quản lý an toàn hồ chứa, Tô Văn Trường.
11. Chống lụt ở miền Trung – tầm nhìn và giải pháp, Tô Văn Trường.
12. Báo cáo tóm tắt quy trình vận hành hồ chứa lưu vực sông Vu Gia – Thu Bồn, Bộ Tài nguyên & Môi trường.
13.
Báo cáo tóm tắt quy trình vận hành hồ chứa A Vương, Dak Mi 4, Sông
Tranh trong mùa lũ hàng năm, Bộ Tài nguyên & Môi trường.
T.V.T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 05:36
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/vi-sao-lu-kep-thien-tai-va-nhan-tai-o.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001