Mặc Lý - Thư gửi các con
at 2:25 PM
Mặc Lý -
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ
(Vũ Đình Liên)
Chưa
bao giờ trong lịch sử con người lại có nhiều thay đổi như trong thời
đại ngày nay. Bố có cảm tưởng con người trải cả trăm năm chỉ trong chục
năm.
Thời bố mới lớn, máy tính là một cái gì cao siêu, nay thì ở trong mỗi gia đình. Những internet, laptop, tablet, GPS quá sức phổ thông ngày nay là những cái bố chưa bao giờ tưởng tượng ra được khi bố mới đến Canada gần ba mươi năm trước. Có những cái rất xa rất xưa nhờ máy tính, nhờ mạng, đã được mang lại ngay trước mắt. Nhưng ngược lại, khi con người thay đổi để thích nghi với môi trường biến động nhanh chóng ở chung quanh, có những điều quen thuộc trong vài chục năm trước đã trở thành xa lạ ngày nay. Một trong những cái đó là những giá trị mà trước kia được coi là mẫu mực của người đàn bà trong xã hội Việt Nam. Bố kể lại cho các con cuộc đời của bà nội, một người đàn bà tiêu biểu của thế kỷ trước. Một số điều bố biết qua lời kể của bà, một số điều từ người thân như những bà chị của bà vào Sài gòn thăm sau 1975, nhưng phần lớn thì bố lấy ra từ ngay trí nhớ của bố.
Thời bố mới lớn, máy tính là một cái gì cao siêu, nay thì ở trong mỗi gia đình. Những internet, laptop, tablet, GPS quá sức phổ thông ngày nay là những cái bố chưa bao giờ tưởng tượng ra được khi bố mới đến Canada gần ba mươi năm trước. Có những cái rất xa rất xưa nhờ máy tính, nhờ mạng, đã được mang lại ngay trước mắt. Nhưng ngược lại, khi con người thay đổi để thích nghi với môi trường biến động nhanh chóng ở chung quanh, có những điều quen thuộc trong vài chục năm trước đã trở thành xa lạ ngày nay. Một trong những cái đó là những giá trị mà trước kia được coi là mẫu mực của người đàn bà trong xã hội Việt Nam. Bố kể lại cho các con cuộc đời của bà nội, một người đàn bà tiêu biểu của thế kỷ trước. Một số điều bố biết qua lời kể của bà, một số điều từ người thân như những bà chị của bà vào Sài gòn thăm sau 1975, nhưng phần lớn thì bố lấy ra từ ngay trí nhớ của bố.
Ông
bà cố, bố mẹ của bà nội, thuộc tầng lớp tương đối khá giả ở nông thôn
miền Bắc. Ông bà cố có độ dăm mẫu ruộng, vừa có tá điền vừa làm ruộng
lấy. Ông cố có mua một hàm Chánh Hội trong làng, gọi là có chút phẩm hàm
trong làng. Tuy tương đối khá giả, nhưng ông bà cố vốn tính cần kiệm
của miền Bắc quanh năm lụt lội hạn hán mất mùa đói khổ, nhà thường ăn
cơm chấp quanh năm, nghĩa là cơm độn, độn ngô hay độn khoai lang. Ông bà
cố các con lại theo thói xưa không cho con gái đi học, nghĩ rằng con
gái đi học thì chỉ viết thư cho trai nên nhà có bốn người con gái không
ai được đi học cả. Con gái đến tuổi lớn là bước lên khung cửi dệt vải.
Chỉ có bà nội các con, thèm biết chữ vì thấy nhiều người khác đọc sách
được nên dùng tiền bòn nhặt những dịp lể Tết, hội hè, buổi tối sau khi
xong việc dệt vải, bước xuống khung cửi, mượn một tá điền một tối hai xu
dạy cho biết đọc biết viết. Chỉ sau vài tháng là bà nội con biết đọc
biết viết kha khá rồi sau đó học một mình. Bà cố cũng ngạc nhiên, bảo
ông cố "Quái, con T. này học bao giờ mà biết đọc vanh vách vậy nhỉ?"
Đến
tuổi lấy chồng, đầu tiên ông bà cố tính gả bà nội các con cho một người
gia đình khá giả trong làng nhưng bà nội cương quyết không chịu, vì chê
anh này không có học. Ông bà cố ép không được đành chịu. Sau có một bà
mai giới thiệu ông nội các con ở làng bên. Theo lời bà mai thì ông nội
tuy nhà nghèo nhưng có tiếng học giỏi. Lúc đó ông nội mới học đệ tam
niên ban Thành Chung, tức tương đương lớp tám bây giờ. Các con đừng
cười, vì thời xưa ông nội các con đi học trễ, tuy học lớp tám nhưng lúc
đó cũng đã trên mười tám tuổi chứ không còn nhỏ nữa. Mẹ của ông nội là
người hiền, ông cố bố của ông nội chết khi ông nội các con, người con
út, mới lên ba tuổi. Bà cố ở vậy, buôn bán nuôi mẹ chồng và ba con
trai. Khi bà nội lấy ông nội, mãi đến khi động phòng, bà nội mới biết
mặt ông nội. Chuyện này phổ thông thời đó, nhưng chắc chắn các con ngày
nay không tưởng tượng ra được. Đại gia đình bà cố gồm cả ba con trai đã
lập gia đình nên nhà cửa chật chội, sau một năm lấy nhau thì ông bà nội
các con ra ở riêng.
Hình 1: Thiếu phụ ngoài hai mươi
Bà
nội là người tháo vát, sau khi ông nội đậu Thành Chung, tức tốt nghiệp
lớp chín, ngỏ ý muốn tiếp tục học thêm thay vì đi làm, bà đã tìm cách
buôn bán nuôi chồng ăn học. Bà buôn hàng gánh, gánh những mặt hàng từ
vùng Việt Minh kiểm soát, chính yếu là vải vóc dệt tay, sang vùng tề
(vùng Pháp kiểm soát) và ngược lại từ vùng tề sang vùng Việt Minh những
mặt hàng như thuốc tây, đá lửa.... Mỗi chuyến hàng gánh là gánh trên
hai chục cây số, cả đêm, tránh đồn bót vùng tề lẫn trạm kiểm soát vùng
Việt Minh. Bị bắt thì nhẹ ra hàng bị tịch thu mà nặng thì tù tội có khi
mất mạng. Vì thế, gánh hàng chỉ gánh đi ban đêm, đến sáng mới đến được
nhà người quen giao hàng rồi lại đi sắm hàng để đến tối lại gánh chuyến
hàng trở về. Đầu tiên thì gánh thuê, nghĩa là vốn người khác bỏ ra, bà
nội chỉ lấy công. Một thời gian sau bà mới có đủ vốn để sắm gánh hàng
buôn riêng. Có lần bà gánh hàng, về đến nhà thì ngày hôm sau là nằm ổ,
nghĩa là sinh bác N. chị lớn nhất của bố. Sinh xong bà mượn vú nuôi, ba
ngày sau bà nội thắt bụng lại rồi đi buôn tiếp. Cảnh này gọi là:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng nước mắt nỉ non
Phải
có một ý chí rất mạnh mới làm được những điều đó. Lúc vượt cạn bà chỉ
một mình xoay xở là chính, vì ông nội đi học nơi xa, không gần nhà. Mãi
đến khi ông nội đậu Tú Tài rồi động viên vào quân trường Thủ Đức trong
Nam thì bà mới lên Hà Nội, gọi là biết chút văn minh tỉnh thành. Rồi
chẳng bao lâu, hoàn cảnh đất nước chia đôi, ông bà nội các con di cư vào
Nam, bỏ lại quê hương miền Bắc chôn nhau cắt rốn và hầu như toàn bộ đại
gia đình hai bên. Ở lại miền Bắc, ông bà cố thời gian Cải Cách Ruộng
Đất bị đấu tố là địa chủ, đến cả người thân cũng không dám giúp đỡ, sau
may mắn được hạ xuống hàng phú nông, sống hơn chục năm sau rồi mất. Sau
1975, bà nội vẫn ngậm ngùi không có dịp đền đáp công ơn dưỡng dục của
bậc sinh thành, nhưng biết sao được.
Vào
trong miền Nam, trong thời gian đầu của đệ nhất Cộng Hòa, ông nội trong
quân đội nhưng làm việc hành chánh ở Vũng Tàu nên có thời gian học thêm
buổi tối cho đến khi đậu được cử nhân Luật. Trong thời gian đó, bà tuy
có năm con vẫn tìm cách làm việc thêm kiếm tiền. Bà mướn một người giúp
việc nhà, rồi làm mắm cua, mắm cáy hàng tháng từ Vũng Tàu mang về Sài
gòn bán cho những người quen. Chắc chắn là mắm của bà nội không có tiếng
như mắm Bà Giáo Thảo, nhưng đó là một nguồn thu nhập đáng kể trong thời
gian gia đình ông bà nội ở Vũng Tầu.
Hình 2: Thiếu phụ ngoài ba mươi
Ông
nội là mẫu người không để ý nhiều đến vật chất, đi làm về giao hết tiền
lương cho bà tiêu pha sao thì tiêu pha, ngoài chuyện dạy con cái học
hành chỉ thích nói chuyện văn chương chuyện chính trị với bạn bè cùng
tâm tính. Do đó gánh nặng tài chánh, lo lắng chi tiêu trong gia đình coi
như ở trên vai một mình bà nội các con.
Sau
1963, cả nhà dọn về Sài Gòn rồi một hai năm sau đó, ông nội chuyển
ngành và dọn trước ra Nha Trang làm việc. Bà nội các con và các anh chị
em của bố vẫn ở lại Sài Gòn một thời gian. Bà lấy tiền dành dụm, chạy
đầu này đầu kia mua sắt thép xi măng xây nhà. Một thiếu phụ chưa đi học,
đứng ra mướn thầu khoán, chỉ huy thợ thuyền xây một căn nhà ba tầng thì
không phải dễ. Cái nào bà không biết thì hỏi những người có kinh
nghiệm. Nhà nào cũng vậy, xây ở chưa dược dăm tháng, bà thấy thì có lời
lại bán lại. Gặp thời buổi chiến tranh sôi động, nhà cửa tại Sài Gòn
lên giá nhanh chóng, bà xây nhà hai lần như vậy thì kiếm được một số vốn
khá lớn thời đó.
Khi
cả nhà di chuyển ra Nha Trang, ông bà nội các con có sang lại một nhà
trong cư xá quân đội, dĩ nhiên giá cả rẻ hơn nhiều so với bên ngoài. Lúc
này người giúp việc đã nghỉ vì vật giá leo thang, bà không kham nổi.
Hơn nữa các bác các chú đã lớn có thể phụ đỡ đần việc nhà. Ngoài việc
nội trợ, bà còn mua nhà mua đất ở Nha Trang và cả ở Cam Ranh để đầu tư,
nhưng không sinh lời được như giai đoạn ở Sài Gòn. Lúc này lương ông nội
không còn đủ để chi phí trong gia đình nên bà phải lấy tiền để dành từ
trước ra phụ thêm. Bố còn nhớ trong suốt bẩy năm sống tại Nha Trang,
những lần cả gia đình đi ăn tiệm có thể đếm trên đầu ngón tay, và những
dịp như vậy cũng thường là chỉ đến tiệm phở khi có gia đình ông bà L.
là chị họ ông nội từ Sài Gòn ra chơi. Sau này bà thỉnh thoảng lại ân hận
để con cái khổ cực, nhưng bố hiểu cái ưu tư lớn nhất đeo đẳng hầu như
suốt đời của bà là có đủ tiền lo cho các bác các chú và bố học hành đến
nơi đến chốn, không phải thất học như bà.
Hình 3: Thiếu phụ ngoài bốn mươi
Rồi
đến cuộc đổi đời 30/04/1975. Ông nội như bao nhiêu sĩ quan và công chức
khác của phe thua cuộc, đã khăn gói vào trại học tập cải tạo. Đây là
một ngôn từ hoa mỹ, thực chất chỉ là một hình thức ở tù, không phải là
tù giam thường mà tù khổ sai. Người đi vào tù thì cực thân cực trí nhưng
không phải bương chải vì mọi chuyện nằm ngoài tầm tay của họ. Chuyện
đó, chuyện lo toan xoay xở để gia đình sống còn, là chuyện của những
người còn lại bên ngoài trại tù.
Bố
không muốn nhắc lại những lỗi lầm tả khuynh ấu trĩ của nhà cầm quyền
lúc đó, nhưng thực sự những người bên phe thua cuộc bị coi như một loại
công dân hạng hai, nếu không có lý do ở lại thành phố thì bị liệt vào
thành phần ăn bám xã hội, sẽ bị cưỡng ép đưa đi vùng kinh tế mới. Với
các con sinh đẻ bên Canada, danh từ vùng kinh tế mới xa lạ với các con
lắm. Đây là một vùng đất hoang, khô cằn, dĩ nhiên cần bàn tay người khai
phá. Tuy nhiên các con ở bên này, bạn bè con mỗi người một cá tính một
khả năng, các con chọn hướng học, chọn nghề nghiệp theo năng khiếu của
mình. Nhà cầm quyền lúc đó không nghĩ vậy, thái độ trịch thượng với phe
thua cuộc và trí óc hẹp hòi của họ cho rằng chỉ có cày ruộng hay làm
việc trong nhà máy mới là sản xuất, còn không là ăn bám xã hội tất.
Trở
lại chuyện lo toan xoay xở của những người ngoài vòng tù tội để sống
còn, lúc đó mới lại thấy tài tháo vát của bà nội các con. Chỉ một hai
tháng sau khi ông nội đi vào trại tù, bà và bác T. anh của bố, đã lên
Hóc Môn, tìm những người quen học nghề dệt chiếu. Ý bà là muốn tạo một
lý do để gia đình ở lại Sài Gòn vì ở thành phố lớn dù sao cũng đỡ bị đàn
áp và dễ kiếm sống hơn. Học nghề xong, bà đặt giàn dệt chiếu ở nhà.
Phòng khách dưới nhà của ông bà nội, sofa bàn ghế thì đem bán hết, còn
lại đục lỗ trên nền gạch làm chỗ dệt chiếu. Thật sự dụng cụ dệt chiếu
cũng đơn giản, chỉ cần một ghế dài, một go dệt và bốn cọc sắt bốn góc để
căng go chiếu là xong. Bác T. sau khi lập giàn dệt chiếu tại nhà thì đi
quanh xóm đễ lập giàn dệt chiếu cho những người trong phường cùng hoàn
cảnh như gia đình bà nội các con, muốn tìm một chỗ bám víu vào thành phố
khỏi bị đẩy đi kinh tế mới. Một giàn dệt chiếu như vậy, vừa dựng vừa
chỉ cách dệt, làm độ một ngày là xong, bác T. lấy công khoảng mươi dồng.
Lúc đó lương tháng của một công nhân trung bình khoảng 80 đồng. Bà nội
còn được bầu làm tổ trưởng tổ dệt chiếu của phường vì là người tiên
phong mang nghề dệt chiếu về phường. Vậy là các con của bà, nếu không
học đại học hay đi làm, với nghề dệt chiếu được coi như nghề lao động
không ăn bám xã hội, có lý do để sống tại thành phố. Mỗi đứa con được
cắt giờ dệt chiếu tại nhà, sao cho từ sáng đến tối lúc nào công an đi
qua lại trước nhà cũng thấy có người đang dệt chiếu, nghĩa là đang lao
động. Còn phần bà thì lại đi phe, nghĩa là đi ra chợ xa nhà một chút,
mua qua bán lại, mua đủ loại, thường là quần áo cũ, mua xong bán lại
kiếm lời. Các con có trong thời buổi ấy mới thấy bà nội như một gà mẹ,
thấp thoáng bóng diều hâu lượn thì vươn cánh ra che chở cho gà con.
Chút
vốn liếng dành dụm cả đời, đến thời phong trào vượt biên nổi lên, bà
nội đã dùng nó để gửi lần lượt từng đứa con ra đi tìm tự do. Mỗi lần
tiễn con đi là mỗi lần đứt ruột, vì với bao hiểm nguy chờ đón trước mắt,
không biết có còn gặp lại nhau nữa không. Đến khi bố là người con vượt
biên sau cùng thì coi như bà nội gần như trắng tay. Cũng may lúc đó bác
T. và bác O. đã đi làm được, gửi tiền về nuôi ông bà nội và cô út. Và bà
nội cũng chỉ nhận tiền tối thiểu, đủ cho những sinh hoạt căn bản nhất
trong nhà. Tiền còn dư thì bà nội lại theo các thầy các ni trong chùa
Kim Cương gần nhà, đi mọi nơi tặng quà, làm việc từ thiện. Bà nội vẫn
thường bảo đó là một trong những giai đoạn đẹp nhất đời bà nội vì bà nội
không còn phải lo âu, không còn phải ký cóp dành dụm cho tương lai con
cái nữa.
Khi
sang đến Canada, như các con cũng thấy, bà nội hầu như chỉ quanh quẩn
trong nhà tối ngày. Cuối tuần rảnh rỗi bố mới chở bà nội lên chùa. Giao
tiếp khó khăn, tiếng Anh không biết, cuộc sống ở đây dù đã trên hai mươi
năm với ông bà nội cũng chẳng phải là chốn quen thuộc, nơi chôn nhau
cắt rốn cho được. Biết làm sao được? Sống ở đây thì cảm thấy xa lạ, sống
ở Việt Nam thì suốt ngày thương con nhớ cháu. Cũng coi như sự đau khổ
của ông bà nội là một phần đau khổ của dân tộc Việt Nam.
Hình 4: Bà nội khi gần cuối đời
Bà
nội qua đời, nhẹ nhàng chóng vánh, bố cũng mừng khi bà nội không phải
chịu nhiều cảnh khổ thứ ba của kiếp người. Cuộc đời của bà, cũng như
của trăm nghìn người đàn bà Việt Nam thế kỷ trước, không có niềm vui
riêng, chỉ coi chồng con là niềm vui của chính mình. Bố không khuyên con
gái của bố như vậy, vì bố biết mỗi thời mỗi khác. Cái đúng của trăm năm
trước không còn là cái đúng thời nay. Nhưng bố nhắc lại chuyện đời bà
nội cho các con biết, như là kể lại cho các con nghe một câu chuyện đẹp.
Những cái này rồi sẽ dần dần lui vào quá khứ. Để rồi, chỉ có những
người tò mò, thổi lớp bụi dầy của thời gian, mới tìm lại được.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/12/mac-ly-thu-gui-cac-con.html?utm_source=BP_recent
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001