Công đoàn Đoàn kết Ba Lan và Lech Walesa – Bài học đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo cho phong trào đấu tranh dân chủ Việt Nam

Nổi bật và đáng mừng nhất là ngày càng có nhiều người trẻ tuổi mạnh dạn đứng lên đấu tranh trực diện với nhà cầm quyền ví dụ như Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Ls Lê Công Định, Huỳnh Thục Vi, Nguyễn Phương Uyên, Đinh Nguyên Kha, Lê Quốc Quân, Đinh Nhật Uy… biểu hiện một tương lai sáng lạng cho phong trào dân chủ Việt nam. Tuy nhiên về mặt hành động thì vẫn còn có nhiều giới hạn. Mọi nỗ lực manh nha kết hợp thành lập tổ chức của những nhà đấu tranh thì đều bị công an dập tắt từ trong trứng nước. Khó có thể nhìn thấy sẽ có một tổ chức nào có quy củ và tầm vóc trong nước có điều kiện ra đời trong một tương lai gần để đẩy mạnh công cuộc đấu tranh dân chủ hóa Việt nam.
Trong khi đó thì tại hải ngoại, phong trào đấu tranh không có gì tiến
triển đặc biệt nếu không muốn nói là đang bị thụt lùi mặc dù so với
trong nước thì các đoàn thể có đầy đủ phương tiện về nhân sự và tài
chánh. Các tổ chức và đảng phái vẫn sinh hoạt riêng rẽ và rời rạc. Thành
viên ngày càng lão hóa với sức khỏe xuống dốc cùng ý chí. Lòng tin của
quần chúng vào các tổ chức đấu tranh ngày càng bị xói mòn. Có lẽ mọi
người đều đồng ý là không có một cá nhân hoặc đảng phái nào mà phải là
một tập thể qui tụ hết tất cả mọi thành phần dân tộc mới có cơ hội đánh
bại được cộng sản trong một khoảng thời gian ngắn nhất và ít tổn thương
nhất để mang tự do dân chủ đến cho Việt nam. Lịch sử dân tộc đã chứng
minh hùng hồn rằng người Việt sẵn sàng gạt bỏ tư thù và đứng chung chiến
tuyến mỗi khi chống ngoại xâm giành lại chủ quyền độc lập. Nhưng khi
cần phải đoàn kết để xây dựng và bảo vệ đất nước thì lại là một chuyện
khác. Các cụm từ “tổ chức”, “lãnh đạo” và “đoàn kết” nghe thật đơn giản
về dễ hiểu nhưng sao lại quá khó khăn trong việc thực hiện. Không biết
có phải vì hoàn cảnh lịch sử, địa lý và thiên nhiên của một quốc gia
nhược tiểu nhiều lần bị các cường quốc lấn chiếm và đô hộ đã tạo ra một
tâm lý nạn nhân, tự ti và tự ái quá độ làm cho người Việt khó hòa đồng
vào sinh hoạt và kỷ luật tập thể hay không? Cho dù là bất cứ nguyên nhân
nào đi nữa thì việc thành lập một tổ chức đại diện cho tất cả mọi đoàn
thể và cá nhân yêu chuộng tự do tại hải ngoại là một nhu cầu cấp bách và
cần thiết. Vậy chúng ta có thể học hỏi được gì từ người Ba-lan, Lech
Walesa và Công đoàn Đoàn kết hồi thập niên 80?
Lịch sử Balan
Balan là một quốc gia ở Đông Âu. Phía Bắc giáp biển Baltic một nhánh của
Đại Tây Dương. Phía nam ráp ranh giới với Tiệp khắc. Nhưng hai quốc gia
láng giềng có nhiều ảnh hưởng tới lịch sử Ba lan nhất là Đức quốc ở
phía Tây và Nga ở hướng Đông. Một trong những đặc điểm địa lý của Ba lan
là dòng sông Vistula chảy dài từ Nam chí Bắc ra tới biển Baltic. Phương
Nam có những dãy núi hùng vĩ với nhiều mỏ than và khoáng sản.
Ba lan có diện tích khoảng 322,000 km2 và gần 40 triệu dân với 95% theo
đạo Công giáo. Biên giới của Ba lan đã có nhiều biến đổi trong lịch sử
và có lúc quốc gia Ba lan đã biến mất hẳn trên bản đồ thế giới.
Khoảng 2000 năm trước đây, một số bộ lạc thuộc dân tộc Slavic từ phía
tây di dân tới miền đất này. Danh từ “Ba lan” bắt nguồn từ chữ Slavic
“polanie” tức là người của đồng ruộng (people of the fields).[1]
Tới thể kỷ thứ 10 thì dân số Ba lan lên tới 1 triệu người. Các bộ lạc
sinh sống dọc theo dòng sông Vistula quyết định thống nhất lập quốc dưới
triệu đại Piast và lịch sử quốc gia Ba lan bắt đầu hình thành. Hoàng đế
đầu tiên là MieszkoI và trước sự đe dọa của các hoàng tử Đức quyết định
rửa tội theo đạo Công giáo để nhận được sự che chở của Đức Giáo Hoàng
và Tòa Thánh La Mã. Không chỉ có vua mà hầu hết tất cả thần dân đều cải
đạo biến Ba lan thành một trận tuyến Công giáo kiên cố trước sự lăm le
chinh phục của Chính Thống Giáo (Orthodox Church) ở phía Đông và Hồi
giáo ở hướng Nam khi Thổ Nhĩ Kỳ còn là một bộ phận của Đế chế Ottoman.
Sau một vài thế kỷ thì Đức quốc theo đạo Tin lành và kể từ đó Ba lan nằm
giữa gọng kìm của các quốc gia láng giềng không cùng tín ngưỡng. Sự
kiện này tạo ra tâm lý bị bao vây và cô lập làm cho người Ba lan càng
thêm sùng đạo.
Trong thời gian đầu lập quốc, Ba lan phải đối phó với nhiều xung đột
tranh giành quyền lực nội bộ và chiến đấu chống ngoại xâm từ phương Tây
với các hoàng tử Đức quốc. Từ phương Đông, Ba lan cũng không tránh khỏi
vó ngựa Mông Cổ tiến vào san bằng mọi thành quách. Mãi đến thế kỷ 14 thì
Cassimir Đại Đế mới thống nhất được quốc gia và đánh đuổi ngoại xâm ra
khỏi đất nước. Nhà Vua cầu hòa với Đức và chào đón người di dân gốc Do
thái. Dưới nền cai trị của ông, bộ luật đầu tiên được ban hành và trường
đại học đầu tiên được thành lập tại thành phố Krakow. Đây là một thời
kỳ vàng son trong lịch sử Ba lan.
Sau khi Đại Đế Cassimir qua đời, Ba lan sáp nhập với Lithuania và Ba
lan-Lithuania trở thành một cường quốc. Nhưng tới thể kỷ 16 thì cuộc
“hôn nhân” này bị đe dọa bởi những tranh cãi bất hòa giữa giới quý tộc
Ba lan và Lithuania. Để duy trì lưỡng quốc trong một thể chế, giới quý
tộc quyết định thành lập một quốc hội (Sejm) mà tất cả thành phần thuộc
giới quý tộc đương nhiên trở thành dân biểu quốc hội có quyền biểu quyết
để lựa chọn hoàng đế. Trong khi đó ở các quốc gia láng giềng thì các
nhà vua vẫn tiếp tục truyền thống thiên mệnh “cha truyền con nối”. Có
thể nói, Ba lan là quốc gia đầu tiên áp dụng thể chế dân chủ lập pháp
trong lịch sử thế giới. Tất cả mọi quyết định quan trọng đều phải được
quốc hội thông qua với tỷ lệ 100%. Chỉ cần một dân biểu phủ quyết là
quốc hội bị bế tắc.
Cũng trong khoảng thời gian này, giới quý tộc cổ xúy cho một nền tư
tưởng và tư duy tự do và sáng tạo. Văn học, nghệ thuật và khoa học phát
triển tột bực. Nhưng cũng chính hình thức dân chủ tuyệt đối này dẫn đế
sự sụp đổ của quốc gia. Dân biểu quý tộc mạnh hơn cả nhà vua và cấm
không cho vua được thành lập quân đội vì sợ rằng vua sẽ dùng quân đội để
tiêu diệt họ. Trong khi đó thì các nước láng giềng đều có những lực
lượng quân đội hùng hậu. Chuyện gì đến thì phải đến. Bắt đầu từ thể ký
17 các nước chung quanh gồm có Thụy điển, Nga, Áo-Hung hợp nhau đánh Ba
lan và tới thể kỷ 18 thì họ chia nhau xâu xé lãnh thổ đã chiếm được. Tới
năm 1795 thì Ba lan chính thức biến mất trên bản đồ Âu châu. Thành phố
Warsaw trở thành một phần của Nga xô. Krakow nhập vào Đế quốc Áo-Hung và
Gdansk ở phía Bắc thuộc về Đức. Các nước này còn ký hiệp ước giao kết
với nhau rằng họ sẽ không bao giờ cho Ba lan có cơ hội được hồi sinh.
Nhưng Ba lan là một dân tộc bất khuất. Dân chúng vẫn tiếp tục sùng đạo
và dạy dỗ con cái nói tiếng mẹ đẻ. Nhiều cuộc kháng chiến nổi lên trong
những năm 1830, 1848, 1863 và 1905 và đều bị dập tắt đẫm máu. Thế chiến
thứ nhất bắt đầu năm 1914 tạo ra nhiều biến động tại Châu Âu. Trong lúc
các quốc gia lân cận bận đánh nhau thì Tướng Jozef Pilsudski lãnh đạo
kháng chiến giành độc lập. Chiến tranh kết thúc vào năm 1918 và Hòa Ước
Versaille chính thức khai sinh lại quốc gia Ba lan. Lần đầu tiên sau 123
năm, Ba lan tái xuất hiện trên bản đồ Âu châu và Pilsudski trở thành
quốc trưởng của nền Đệ nhất Cộng Hòa.
Nhưng chỉ sau 20 năm độc lập ngắn ngủi, Ba lan là nạn nhân đầu tiên hứng
chịu nhiều trận cuồng phong của Đức Quốc Xã. Trước khi tuyên chiến đánh
nhau, Đức và Liên xô đã bí mật ký hiệp ước thỏa thuận xâu xé Ba lan.
Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Ba lan có tới 6 triệu người bị Hitler giết chết.
Phân nửa thuộc gốc Do thái bị tra tấn và thủ tiêu trong trại tù
Auschwitz. Từ hướng Đông, có ít nhất 1 triệu người Ba lan bị Nga đày đi
Siberia mà hơn phân nửa biệt tích không bao giờ trở lại. Thế chiến thứ
hai kết thúc năm 1945. Số phận Ba lan bị các cường quốc định đoạt tại
Hội nghị Yalta phải lệ thuộc về khối cộng sản dưới sự chỉ đạo của Liên
xô. Một lần nữa, dân tộc Ba lan phải cúi đầu chịu nhục trước kẻ thù
truyền kiếp.[2]
Lech Walesa
Giữa lúc chiến tranh đang diễn ra khốc liệt và tàn phá khắp nơi thì vào
ngày 29 tháng 9 năm 1943, một cậu bé mang tên Lech Walesa chào đời trong
một ngôi làng nhỏ Popowo thuộc khu vực Dobzryn ở phía Bắc. Tổ tiên của
Lech Walesa đã đến Dobzryn lập nghiệp từ đầu thế kỷ 19 khi Ba lan bị xóa
tên trên bản đồ thế giới. Tên “Walesa” có nghĩa là “người phiêu bạc”.
Từ nhỏ, ông cố và ông nội của Lech đã lưu lạc và sống tại Paris nhiều
năm. Cả hai đều thích đánh bài và chỉ trở về quê quán khi đã cháy túi.
Ông nội của Lech có hai người con trai tham gia kháng chiến chống Nga
với Tướng Pilsudksi. Một trong hai người này bị bắt và bị đày đi biệt
tích ở Siberia. Người kia thì chết trận gần Popowo. Boleslaw là bố của
Lech lúc đó chỉ mới 12 tuổi. Sau khi ông nội mất, bố của Lech hưởng được
một vài mẫu đất. Mẹ của Lech, Feliksa xuất thân từ một gia đình có học
thức. Gia đình bên ngoại của Lech không chấp nhận cuộc hôn nhân với
Boleslaw vì có cha ông đánh bạc đến mất hết tài sản.

Lech Welsa – Lãnh đạo phong trào Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan. Ảnh internet
Boleslaw và Feliksa có chung 4 đứa con. Chị cả của Lech là Izabela sinh
năm 1934. Kế tiếp là Edward năm 1937 và Stanislaw năm 1939 khi chiến
tranh bùng nổ. Boleslaw có một người em trai cũng mang tên Stanislaw.
Như tất cả những gia đình khác, cả hai phải tòng quân chống ngoại xâm và
bị quân Đức bắt nhưng được thả về làng. Không bao lâu thì người em của
Boleslaw bị bắt làm lao công xây cầu và đào cống cho lính Đức. Vào năm
1943, Stanislaw chạy trốn vào rừng và lính Đức tới bắt Boleslaw trong
lúc Feliksa đang mang thai. Lech Walesa ra đời trong lúc bố bị bắt đi
làm lao công cho quân đội Đức. Điều kiện làm việc thật là tệ hại.
Boleslaw bệnh nặng nhưng không có thuốc men. Chỗ ngủ không có lò sưởi
trong mùa đông khắc nghiệt. Boleslaw bị viêm phổi và được thả về Popowo
sau khi chiến tranh kết thúc năm 1945. Lần đầu tiên Boleslaw gặp mặt con
thì Lech đã 18 tháng. Biết mình không còn sống được bao lâu,
Boleslawrán chờ tới khi Stanislaw trở về làng và trong lúc nằm trên
giường chờ chết, Boleslaw bắt Stanislaw hứa nhận trách nhiệm chăm sóc
cho Feliksa và 4 đứa con thơ rồi tắt thở.[3]
Một năm sau, Stanislaw giữ đúng lời hứa và kết hôn với Feliksa. Trong
thời gian đầu, Lech và 3 anh chị không chấp nhận Stanislaw vừa là chú và
cha ghẻ của mình. Lech cũng cảm thấy mẹ mình không mấy hạnh phúc với
cuộc hôn nhân chấp nối này nhưng Stanislaw đã làm tròn bổn phận xây cất
một căn nhà đá, nhận lãnh nhiều công việc cực nhọc và cố gắng đối xử
công bằng với tất cả 7 đứa con chung và riêng.
Lech lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn và thiếu thốn. Stanislaw phải nhận
làm nhiều công việc và trồng trọt thêm rau quả mà vẫn thiếu ăn. Gia
đình có khi cả tháng không có bánh mì để ăn. Mỗi buổi trưa sau khi tan
học, Lech phải bỏ ra 2 tiếng đồng hồ để chẻ rơm nuôi gia súc. Lech bắt
đầu đi học lúc 7 tuổi. Tuy không phải là một học sinh giỏi nhưng rất
xuất sắc với môn thể thao. Trong tháng 7 năm 1956 khi Lech được 12 tuổi
thì một biến cố diễn ra tại thành phố Poznan gây chấn động trên toàn
quốc. Một số công nhân biểu tình phản đối chế độ bao cấp khi nhà cầm
quyền trả lương quá ít nhưng lại định giá thực phẩm và tất cả mọi thứ
cần thiết trong đời sống quá cao. Sau 2 ngày giằng co, công an nổ súng
vào đoàn người biểu tình bắn chết hàng chục người và gây thương tích đến
hàng trăm. Tổng Bí thư Bierut bị cất chức và Gomulka lên thay thế. Tuy
không đạt được mục đích nhưng đoàn người biểu tình nhận thức được rằng
nếu họ đứng lên đấu tranh thi sẽ gây được chú ý và có thể lật đổ cả ghế
tổng bí thư - ngai vàng của triều đại cộng sản.
Lech học xong trung học vào năm 1958 khi mới 14 tuổi. Sau đó ghi danh
học nghề thợ điện và sửa máy móc với trường huấn nghệ. Tới năm 1961 thì
Lech tốt nghiệp và làm việc cho một hợp tác xã tại Popowo. Không lâu sau
thì Lech nhập ngũ thi hành nghĩa vụ quân sự làm việc trong ngành truyền
tin và điện tín. Sau 2 năm, Lech giải ngũ và trở về Popowo sống với gia
đình và hành nghề thợ điện.
Cuộc sống bình lặng trong ngôi làng nhỏ làm Lech cảm thấy cuộc đời thiếu
vắng ý nghĩa. Vừa lúc chia tay cô bạn gái và trong giây phút thất tình
tuyệt vọng Lech quyết định rời bỏ quê hương lên tàu hỏa đi thật xa về
hướng Bắc. Tàu ngừng lại tại Gdansk và Lech bước xuống định tạm dừng
chân để uống một ly bia. Nào ngờ gặp lại người bạn cũ ở trường huấn nghệ
đang làm việc cho hãng đóng tàu Lenin. Người bạn đề nghị Lech đến đó
xin việc. Sáng hôm sau ngày 30/5/1967, Lech đến hãng điền đơn và vài
ngày sau được nhận làm thợ điện của hãng đóng tàu Lenin nơi mà sau này
Lech đã lãnh đạo cuộc biểu tình dẫn đến sự ra đời của Công đoàn Đoàn kết
làm sụp đổ chế độ cộng sản ở Ba lan và Âu châu.
Một thời gian sau khi ổn định việc làm, Lech làm quen với một cô gái làm
việc trong tiệm bán hoa tên là Mirka Danuta Golos. Họ thành hôn vào
ngày 8/11/1969 khi cô dâu mới tròn 19 tuổi và chú rể 23. Một năm sau thì
đứa con đầu lòng ra đời.[4]
Công đoàn Đoàn kết (CĐĐK)
Trong lúc Lech đang bận bịu với niềm vui và hạnh phúc gia đình thì một
biến cố quan trọng diễn ra tại thủ đô Warsaw. Adam Mickiewicz -một nhà
thơ yêu nước trong thế kỷ 19 đã soạn vở kịch mang tên “Đêm cuối năm của
Tổ tiên” (the Forefather’s Eve) nói lên tinh thần bất khuất chống ngoại
xâm Nga xô trong giai đoạn lịch sử mà Ba lan đã biến mất trên bản đồ thế
giới. Nhà cầm quyền lo ngại là quan thầy ở Moscow sẽ không hài lòng nên
ra lệnh cấm không cho vở kịch được trình diễn tại Nhà hát Quốc gia. Tức
giận trước thái độ khiếp nhược này, hàng ngàn sinh viên xuống đường
biểu tình phản đối. Hơn 2000 sinh viên bị bắt giam và bị đuổi học. Sau
đó không lâu, Tổng Bí thư Gomulka lại quyết định tăng giá thực phẩm chỉ
một vài tuần trước Mùa Lễ Giáng sinh. Quyết định này gây ra nhiều phẫn
nộ và hơn 1000 công nhân của hãng đóng tàu Lenin biểu tình diễn hành tới
văn phòng ủy ban nhân dân địa phương. Trong lúc giằng co và xô sát với
nhau thì một tên công an nổ súng bắn một người biểu tình. Thế là đoàn
người biểu tình nổi giậm xúm lại đánh hắn cho tới chết. Đoàn công nhân
quay trở lại hãng tàu tụ họp tiếp tục đình công. Lech được bầu vào ủy
ban điều hợp cuộc đình công. Hôm sau, nhà cầm quyền ra lệnh cho quân đội
và xe tăng tiến vào cổng số 2 của hãng tàu nổ súng bắn chết 4 công nhân
và giải tán cuộc đình công.
Lech bị công an bắt và thẩm vấn hết mấy ngày. Không chỉ ở hãng tàu Lenin
mà còn có nhiều cuộc biểu tình và đình công ở nhiều nơi khác. Nhà cầm
quyền công bố là có tổng cộng 45 người tử vong và hàng ngàn người bị
thương. Như cuộc biểu tình ở Poznan trước đây, Tổng Bí thư Gomulka bị
cách chức và Edward Gierek lên thay thế.
Sau đó không lâu, Lech phải có một sự chọn lựa định mệnh. Bố mẹ quyết
định di dân sang Hoa kỳ và muốn Lech và vợ con cùng đi theo. Lech từ
chối và nói với mẹ rằng “Con sẽ không bao giờ rời bỏ quê hương. Chúng ta
phải cố gắng xây dựng và thay đổi đất nước”. Lech không bao giờ gặp lại
mẹ vì bà tử nạn trong một tai nạn xe cộ ở Nữu Ước năm 1975.[5]
Công nhân ở hãng tàu Lenin cũng như ở các hãng xưởng khác có công đoàn
đại diện. Nhưng những công đoàn này đều nhận chỉ đạo từ nhà nước và
người nắm chức chủ tịch lại là một đảng viên cộng sản cao cấp. Có một
thời gian Lech được chọn làm giám sát viên cho công đoàn này nhưng không
bao lâu Lech nhận ra tổ chức này chỉ biết nghe lời đảng và không có
quan tâm gì đến những khó khăn của người lao động. Sau những nỗ lực đòi
hỏi công đoàn tách ra khỏi sự kiểm soát của đảng cộng sản, Lech bị đuổi
việc vào năm 1976. Cũng trong năm này có nhiều cuộc đình công và nhiều
công nhân bị bắt giam và truy tố. Một nhóm người trí thức đứng ra thành
lập Ủy ban Bảo vệ Người Lao động để biện hộ miễn phí cho công nhân đang
bị cầm tù và giúp đỡ tài chánh cho gia đình của họ. Các vị lãnh đạo tinh
thần Công giáo cũng lên tiếng yêu cầu nhà cầm quyền đối xử đàng hoàng
với những người lao động đang bị giam giữ.
Sau khi bị hãng tàu sa thải, Lech làm thợ sửa xecho một công ty khác ở
Stogi cách Gdansk khoảng 50 cây số. Tại đây Lech gặp và làm quen với
Andrzel Gwiazda một kỹ sư điện và người đã sáng lập Nghiệp đoàn Tự do
(Free Trades Union). Lech lập tức nhập vào nhóm của họ, in ấn và phân
phối tờ báo “Công nhân miền Duyên hải” (the Coastal Workers) kêu gọi mọi
người hỗ trợ và gia nhập tổ chức này. Trong nhóm này cũng có Anna
Walentynowicz một nữ công nhân lái xe cần cẩu của hãng tàu Lenin và
người đóng vai trò lịch sử trong sự ra đời của Công đoàn Đoàn kết.
Thượng Đế ban cho Ba lan một phép lạ kỳ diệu trong tháng 10, 1978 khi
Hồng Y Karol Wojtyla Tổng Giám Mục Krakow được bầu chọn làm Giáo Hoàng.
Niềm vui tràn ngập cả nước và khi John Paul II về nước trong tháng 6 năm
1979 thì gần 1 triệu con chiên tham dự Thánh Lễ tại quảng trường Đại
Thắng Warsaw. Đức Giáo Hoàng xác nhận quyền làm người là bất khả xâm
phạm,[6] điều mà chế độ cộng sản đã tước đoạt từ chính thân nhân,
gia đình và bạn bè của họ. Trong 9 ngày viếng thăm của Đức Giáo Hoàng,
bộ máy cai trị và công an dường như ngừng lại cho người dân Ba lan cơ
hội tìm lại niềm tin.
Lenin đã từng nói là các cuộc cách mạng thành công khi sự bất mãn của
quần chúng diễn ra cùng lúc với sự mất tự tin của giai cấp cai trị. Chỉ
cần ngòi thuốc nổ là tất cả sẽ trở thành bão lửa. Ngọn lửa tại Gdansk
bùng nổ khi Anna Walentynowicz bị đuổi việc vào ngày 9/8/1980 vì bà đã
đốt nến tưởng niệm đồng nghiệp bị bắn chết trong cuộc đình công năm
1970. Anna là một phụ nữ ngoài 50 và đã làm việc cho hãng tàu trên 30
năm. Một nhóm người thuộc Nghiệp đoàn Tự do len lỏi và rải truyền đơn
vận động công nhân phản đối việc Anna bị sa thải. Giám đốc hãng tàu hứa
là sẽ thương lượng với công nhân. Trong lúc công nhân còn đang do dự thì
Lech Walesa, người thợ điện của hãng tàu Lenin bị đuổi việc 4 năm về
trước đã leo rào kêu gọi mọi người chớ tin vào lời của giám đốc mà hãy
đình công hỗ trợ cho Anna. Đám công nhân lập tức hưởng ứng. Lech được
chọn làm điều hợp viên của cuộc đình công. Lúc đầu, Lech đặt ra 5 điều
kiện: nhận lại Anna, không trả thù những người tham gia đình công, xây
cất đài tưởng niệm các công nhân bị bắn chết trong cuộc đình công năm
1970, tăng lương và tiền phụ cấp gia đình. Nhiều cuộc đình công khác
cũng diễn ra trong vùng Baltic.
Sau một vài ngày giằng co, ban giám đốc hãng tàu đồng ý nhượng bộ và
chấp thuận hầu hết các điều kiện do Lech đặt ra. Một số công nhân cảm
thấy thỏa mãn và muốn kết thúc. Nhưng đại diện của công nhân ở hãng
xưởng lân cận tới cầu cứu và yêu cầu công nhân hãng tàu tiếp tục đình
công để hỗ trợ cho họ. Theo nhận xét của Lech, Công đoàn Đoàn kết được
sinh ra vào đúng thời khắc này khi công nhân quyết định đình công không
chỉ vì quyền lợi của chính bản thân họ mà cho tất cả người lao động. Ủy
ban đình công soạn ra một văn bản mới với 21 điều kiện gồm có quyền
thành lập công đoàn độc lập, tự do báo chí, tự do ngôn luận và tín
ngưỡng và yêu cầu nhà cầm quyền trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị
và tù nhân lương tâm. Những điều kiện này vượt qua quyền hành thương
lượng của ban giám đốc. Ngày 23/8/1980, Phó Thủ tướng Mieczyslaw
Jagielski đích thân xuống hãng tàu để thương lượng. Biết mình không đủ
khả năng đối phó với một đối thủ mưu mô và quỷ quyệt, Lech nhờ đến sự
giúp đỡ và cố vấn của các thành phần trí thức trong Ủy ban Bảo vệ Người
Lao động.
Lúc đầu Jagielski bác hết mọi điều kiện. Sau đó mới từ từ nhượng bộ
nhưng nhất quyết không chấp nhận công đoàn độc lập trong một chế độ toàn
trị. Sau nhiều ngày tranh cãi, nhà cầm quyền đồng ý cho phép thành lập
công đoàn sinh hoạt độc lập và không nhận chỉ đạo từ nhà nước nhưng phải
công nhận vai trò lãnh đạo quốc gia của đảng Cộng sản (tương tự như
điều 4 hiến pháp của CHXHCNVN). Cuộc đình công chấm dứt và ngày
30/8/1980 được in đậm trong trang sử Ba lan. Sau mỗi cuộc đình công lớn
là ghế tổng bị thư bị lung lay. Lần này cũng không ngoại lệ. Edward
Gierek bị hạ bệ và Stanislaw lên thay thế.
Công nhân hãng tàu Lenin trở lại làm việc nhưng cuộc đời của Lech hoàn
toàn đổi mới. Các tổ chức nghiệp đoàn khắp nơi trên toàn quốc tới tìm
gặp Lech để nhờ cố vấn. Ngày 17/9/1980, đại biểu của 35 tổ chức nghiệp
đoàn trên toàn quốc họp mặt và chính thức thành lập Liên hiệp Công đoàn
Độc lập - Công đoàn Đoàn kết (Solidarnosc) và bầu Lech Walesa làm chủ
tịch. Trước đó, các nhà trí thức đã cố vấn là nên thành lập một cơ cấu
có tầm mức vĩ mô và trên toàn quốc để nhà cầm quyền khó có thể cho người
trà trộn và lũng đoạn. Ngày 10/11/1980, tòa án tối cao Ba lan đồng ý
đăng ký Công đoàn Đoàn kết là một tổ chức hợp pháp.[7] Ngày càng
có nhiều tổ chức nghiệp đoàn ghi danh tham gia và số lượng thành viên
của Công đoàn Đoàn kết có lúc lên tới 10 triệu người (hơn 1/4 dân số Ba
lan).
Trước sự lớn mạnh của Công đoàn Đoàn kết, giới lãnh đạo Liên xô vô cùng
lo ngại là họ sẽ phải đối đầu với những diễn biến tương tư như vậy tại
các quốc gia khác trong khối cộng sản và sự hiện hữu của một tổ chức dân
sự độc lập là một việc không thể nào chấp nhận được trong một chế độ
toàn trị. Bộ Chính Trị Ba lan bị triệu tập về Moscow và khiển trách.
Tướng Garuzelski lên thay thế Kania làm Tổng Bí thư kiêm Bộ Trưởng Quốc
Phòng và ban hành tình trạng thiết quân luật vào ngày 17/12/1981. 600
lãnh tụ Công đoàn Đoàn kết gồm có Lech Walesa bị bắt giữ. Tổng cộng có
hơn 10000 người bị giam cầm và Công đoàn Đoàn kết bị giải thể.
Thê giới phản ứng mạnh mẽ trước tình trạng thiết quân luật và đàn áp
công nhân. Hoa kỳ và phương Tây siết chặt lệnh cấm vận. Công đoàn Đoàn
kết tiếp tục hoạt động trong vòng bí mật, in ấn và phân phối báo chí và
thực hiện các chương trình phát thanh. Nhiều cuộc đình công biểu tình
tiếp tục diễn ra và hàng chục người bị bắn chết. Trước tình hình kinh tế
suy sụp, Lech Walesa được trả tự do vào ngày 12/11/1982 và tình trạng
thiết quân luật chấm dứt trong tháng 7 năm 1983. Lech Walesa được chọn
để nhận giải Nobel Hòa Bình trong tháng 10 năm 1983 nhưng quyết định
không đi Na uy nhận giải vì biết rằng một khi nhà cầm quyền cho xuất
cảnh thì sẽ không có ngày về lại Ba lan. Vợ Lech, Danuta đại diện cho
Lech để nhận giải thưởng quốc tế này.
Tình hình kinh tế và xã hội ngày càng tồi tệ. Trong nước thì người dân
vô cùng oán hận vì nhà cầm quyền đã tuyên chiến với chính đồng bào của
họ. Ngoài nước thì quốc tế cô lập và cấm vận. Một luồng gió mới từ hướng
Đông xuất hiện khi Mikhail Gorbachev trở thành Tổng Bí Thư Liên xô năm
1985 và áp dụng chính sách cởi mở (glasnost) và đổi mới (perestroika).
Công đoàn Đoàn kết kêu gọi nhà cầm quyền hãy ngồi xuống đối thoại để hợp
tác tìm giải pháp cho đất nước. Trước sự bế tắc toàn diện và đến khi
bức tường Bá linh sụp đổ, nhà cầm quyền buộc phải lùi bước và tiến hành
hội nghị bàn tròn kêu gọi Công đoàn Đoàn kết hợp tác và tái thiết đất
nước. Hiến pháp được thay đổi để thành lập lưỡng viện quốc hội. Thượng
viện có 100 ghế được bầu cử tự do. Hạ viện có 460 ghế và đảng cộng sản
được giữ 2/3 tức 299 ghế. Trong cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 4/6/1989,
ứng cử viên của Công đoàn Đoàn kết thắng hết 161 ghế tại hạ viện và
99/100 ghế tại thượng viện. đảng Cộng sản thất bại hoàn toàn và Ba lan
bước qua một trang sử mới.
Bài học cho phong trào đấu tranh dân chủ Việt nam
Lịch sử Ba lan và Việt nam có nhiều điểm tương đồng. Cả hai từng bị quốc
gia láng giềng xâm chiếm và đô hộ. Cả hai đều phải thường xuyên và trực
diện đối đầu với cường quốc lân bang đe dọa và lấn át và có chiều dài
lịch sử tinh thần bất khuất chống ngoại xâm. Cả hai có lúc bị cai trị
bởi các tập đoàn gian manh khiếp nhược trước ngoại bang. Và cả hai đều
có hàng triệu kiều bào sinh sống khắp nơi trên toàn thế giới. Có gần 10
triệu người Hoa kỳ nhận mình có nguồn gốc Ba lan, 1 triệu tại Canada và
nửa triệu tại Anh quốc. Riêng tại Úc, số người gốc Ba lan cũng ngang
ngửa với Việt nam với 163 ngàn.[8] Trong suốt thời gian chiến tranh
lạnh, người Mỹ gốc Ba lan đã đóng một vai trò quan trọng trong công cuộc
đấu tranh lật đổ chế độ cộng sản. Zbigniew Brzezinski - cố vấn an ninh
cho Tổng thống Jimmy Carter từ năm 1977 đến 1981 là một người Mỹ gốc Ba
lan.
Thời thế tạo anh hùng hay anh hùng tạo thời thế? Nếu Lech Walesa không
quyết định leo rào của hãng đóng tàu Lenin thì có lẽ sẽ không có Công
đoàn Đoàn kết. Nhưng tại sao Lech lại hành động như vậy? Vì ông quyết
chống đối lại cái chế độ phi nhân đè đầu cưỡi cổ giai cấp công nhân mà
các lãnh tụ cộng sản tự xưng là đại diện. Lịch sử là một chuỗi biến cố
mà những hành động tưởng chừng như thật nhỏ nhặt có thể là ngòi nổ bùng
lên thành ngọn lửa đốt tan cả một chủ thuyết cộng sản ở Đông Âu. Lech
Walesa chỉ là một người thợ điện tầm thường mới học hết trung học nhưng
đã đặt quyền lợi của tổ quốc lên trên quyền lợi của bản thân. Nếu Lech
quyết định theo gia đình di dân qua Mỹ thì bánh xe lịch sử có thể đã
chuyển đi qua một hướng khác. Tấm lòng yêu nước và biết hy sinh hạnh
phúc cá nhân của ông thật đáng được ngưỡng mộ. Khi phải đối đầu với đầu
sỏ cộng sản gian manh và quỷ quyệt, Lech Walesa đã biết khiêm nhường và
khôn ngoan nhờ tới sự giúp đỡ của giới trí thức trong nhóm Ủy ban Bảo vệ
Công nhân và các vị lãnh đạo tinh thần. Đây là một bài học lãnh đạo
“biết mình biết người” vô giá đáng để cho tất cả mọi người khâm phục.
Công đoàn Đoàn kết là một mô hình tổ chức đáng được noi theo. Công đoàn
Đoàn kết phát triển lớn mạnh và có tới 10 triệu thành viên trong một
thời gian ngắn không phải vì có số lượng người khổng lồ này trực tiếp
ghi danh gia nhập mà là gián tiếp qua các tổ chức nghiệp đoàn. Tương tự
như vậy, tổ chức Hội đồng Đại diện các nghiệp đoàn (ACTU) của Úc có 46
hội viên nghiệp đoàn đại diện cho 2 triệu công nhân trên toàn quốc. Hội
viên của họ không phải là cá nhân mà là các tổ chức nghiệp đoàn với đủ
mọi ngành nghề. Đã đến lúc các tổ chức và đoàn thể đấu tranh liên kết và
thành lập Liên đoàn Dân chủ Việt nam tương tự như mô hình của Công đoàn
Đoàn kết. Thỉnh thoảng chúng ta vẫn thấy có hàng trăm tổ chức đảng phái
đấu tranh lên tiếng hoặc ký thỉnh nguyện thư đòi hỏi dân chủ và nhân
quyền cho Việt nam. Không có lý do gì ngăn cản các tổ chức này liên kết
thành lập liên đoàn. Hãy thử tưởng tượng có 50 đoàn thể đấu tranh tại
Hoa kỳ, 20 từ Âu châu, 10 từ mỗi nơi như Úc châu, Á châu và Canada cùng
liên kết thì sẽ lập thành một tổ chức liên đoàn với 100 thành viên đại
diện cho các tổ chức đấu tranh trên toàn cầu. Mỗi đoàn thể là một hội
viên có thể gửi đại biểu đại diện. Liên đoàn sẽ bầu ra một ban chấp hành
và vị chủ tịch với nhiệm kỳ 2, 3 hoặc 4 năm. Đoàn viên sẽ gửi đại biểu
đại diện trong các phiên họp hoặc đại hội thường niên thảo luận và thông
qua các quyết định và đường lối đấu tranh để ban chấp hành thực thi. Số
lượng thành viên sáng lập lúc đầu có thể khiêm nhường nhưng Liên đoàn
có tiềm năng phát triển lớn mạnh theo thời gian giống như Công đoàn Đoàn
kết hoặc Liên đoàn Quốc gia Dân chủ Miến điện (Burma’s National League
for Democracy).
Thật ra, giấc mơ xây dựng một tổ chức đoàn kết và có tiếng nói thống
nhất đại diện cho mọi người Việt yêu chuộng dân chủ tự do đã có từ lâu.
Trong năm 2003 Đào Văn Bình và Nguyễn Anh Tuấn đã đưa ra một mô thức kết
hợp như sau:
“-Khối Cựu Quân Nhân 9 đại biểu 3 đại biểu dự khuyết (không tham dự Hội Nghị)
-Khối Cựu Tù Nhân Chính Trị 9 đại biểu 3 đại biểu dự khuyết (không tham dự Hội Nghị)
-Khối đảng Phái Chính Trị 9 đại biểu 3 đại biểu dự khuyết (không tham dự Hội Nghị)
-Khối Cộng Đồng VN tại Hải Ngoại 9 đại biểu 3 đại biểu dự khuyết (không tham dự Hội Nghị)
-Khối Dân Chính 9 đại biểu 3 đại biểu dự khuyết (không tham dự Hội Nghị)
-Khối Sắc Tộc (bao gồm các sắc tộc) 9 đại biểu 3 đại biểu dự khuyết (không tham dự Hội Nghị)
Tổng cộng: 63 đại biểu”[9]
Mặc dù đề nghị này khó có thể thực hiện được vì không có tiêu chuẩn nào
rõ rệt để xác định thành viên của các khối, nhưng nó cho thấy việc thành
lập một tổ chức đại diện có tầm vóc và sức mạnh đoàn kết là một giấc mơ
của nhiều người quan tâm đến tiến trình đấu tranh cho tự do và dân chủ
cho Việt nam.
Gần đây hơn, Khối 8406 tại Hoa kỳ cũng đã phát thiệp triệu tập Đại hội
Liên kết Đấu tranh cho Dân chủ Nhân quyền cho Việt nam trong tháng
8/2012 tại San Jose. Theo báo cáo của ban tổ chức thì Đại hội đã thu hút
được sự tham dự của 62 đoàn thể đấu tranh tại hải ngoại và bầu ra một
Ủy ban Vận động thành lập Hội đồng Liên kết.[10]
Hội nghị Diên hồng
Đề nghị thành lập Liên đoàn Dân chủ Việt nam nghe thật đơn giản trên lý
thuyết nhưng công tác thực hiện sẽ không dễ chút nào. Vấn đề đầu tiên là
ban tổ chức. Đại hội Liên kết Dân chủ Nhân quyền cho Việt nam do Khối
8406 Hoa kỳ tổ chức trong tháng 8 năm 2012 vừa qua là một bước tiến tích
cực đáng được tán dương nhưng chưa thể hiện được tầm vóc của một Hội
nghị Diên hồng. Tuy ban tổ chức cho biết là có 62 đoàn thể tham dự nhưng
lướt qua danh sách thì đã thấy tới gần 15 tổ chức mang tên 8406 ở khắp
mọi nơi. Mô hình“đoàn kết sau lưng tôi” không còn hợp thời nữa và cũng
không có chỗ cho bất cứ tổ chức nào lập lại các thủ đoạn ma mãnh của
đảng Cộng sản Đông dương khi thành lập Việt nam Độc lập Đồng minh Hội
(Việt minh) trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Không có bất
cứ một tổ chức hoặc đảng phái nào có đủ tư cách phất cờ hiệu triệu mà
ban tổ chức phải bao gồm nhiều tổ chức đại diện cộng đồng, tôn giáo và
truyền thông có uy tín và hoàn toàn trung dung, độc lập ở khắp các châu.
Ban tổ chức sẽ không là đoàn viên hoặc dính líu tới việc lãnh đạo liên
đoàn. Chỉ có như thế thì ban tổ chức mới có đủ tư thế mời gọi tất cả mọi
đoàn thể đấu tranh khắp nơi trên toàn thế giới. Trong thời đại kỹ thuật
tân tiến hiện nay, cách biệt địa lý không còn là một rào cản như trước
nữa. Đại biểu có thể tham dự đại hội và nếu cần thiết biểu quyết qua
video conference.
Phương châm hành động của Liên đoàn phải hoàn toàn trong sáng, rõ ràng
và minh bạch. Tư cách đoàn viên phải được xác định đúng đắn để tránh
trường hợp một vài tổ chức tìm cách ảnh hưởng lèo lái Liên đoàn qua các
tổ chức đoàn viên liên hệ. Thành phần ban chấp hành phải phản ảnh được
sự đa dạng và tính cách đại diện phục vụ cho tập thể chớ không chỉ riêng
cho tổ chức của mình.
Một vấn đề phức tạp khác là sự liên kết với cá tổ chức đấu tranh trong
nước. Trong hoàn cảnh hiện tại bất cứ mối quan hệ công khai nào cũng có
thể tạo nhiều nguy hại hơn là có lợi cho chính các tổ chức đấu tranh
chân chính trong nước vì chế độ và công an chắc chắn sẽ không để cho họ
được yên ổn. Vấn đề này cũng như các chuyện phức tạp khác cần phải được
ban chấp hành tham khảo và nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi vạch ra chương
trình hành động.
Thật ra, mô hình Liên đoàn cũng không có gì mới mẻ trong sinh hoạt của
người Việt hải ngoại mà đã được áp dụng tại Úc từ năm 1977 khi Cộng đồng
Người Việt Tự do Liên bang Úc châu được thành lập. Cộng đồng Người Việt
Tự do ở mỗi tiểu bang và lãnh thổ là thành viên của Cộng đồng Liên
bang. Mỗi hai năm, đại diện các cộng đồng tiểu bang nhóm họp và bầu ra
ban chấp hành Liên bang cũng như hoạch định hướng đi cho 2 năm kế tiếp.
Hàng tháng ban chấp hành tổ chức hội thoại và các vị chủ tịch hoặc đại
diện ở cấp tiểu bang tham gia thảo luận và đi đến quyết định chung. Nhờ
vào cơ chế này mà trong thời gian qua, Cộng đồng Người Việt Tự do Liên
bang Úc châu đã có những nỗ lực vận động có hiệu quả đáng kể cho nhân
quyền tại Việt nam qua những cuộc gặp gỡ chính thức và thân mật với các
viên chức cao cấp của chính quyền Úc kể cả Thủ tướng và Ngoại trưởng.
Một Liên đoàn được thành lập và hoạt động hiệu quả có thể có tiếng nói
và ảnh hưởng trên tầm vóc quốc tế góp phần đẩy mạnh công cuộc đấu tranh
cho tự do và dân chủ tại Việt nam.
Kết luận
Trong bất cứ cuộc đấu tranh hoặc cách mạng nào, tổ chức và lãnh đạo là 2
yếu tố quyết định. Trường hợp Công đoàn Đoàn kết Ba lan và Lech Walesa
là một bài học về tổ chức và lãnh đạo quý giá cho phong trào đấu tranh
dân chủ Việt nam. Hiện tại thì các đoàn thể và đảng phái vẫn con sinh
hoạt quá rời rạc như những bãi cát vụn. Làm sao kết hợp mọi lực lượng để
tận dụng sức mạnh tập thể là một thách thức cho tất cả mọi người. Không
ai có thể phủ nhận tiềm năng của hơn 4 triệu người Việt hải ngoại. Hàng
năm chúng ta gửi về Việt nam mười mấy tỷ Mỹ kim tương đương với 10%
tổng sản lượng quốc gia của Việt nam. Chúng ta có hàng trăm ngàn trí
thức làm việc cho nhiều cơ quan có tầm vóc quốc tế. Chúng ta chỉ có thể
hy vọng là các đoàn thể đấu tranh sẽ sẵn sàng liên kết và chấm dứt các
cuộc hành trình đơn độc cũng như trí thức hải ngoại không còn mãi “đơn
ca”[11]để có thể thật sự đồng hành, sánh bước cùng với các thanh niên
sinh viên trong nước đang dấn thân đấu tranh và hy sinh cả tuổi thanh
xuân cho tương lai và tiền đồ dân tộc.

_________________________________
Chú thích:
[1]. Adam Zamoyski “Poland a History” Hippocrene Books 2012, 1
[2]. Rebecca Stefoff “Lech Walesa The Road to Democracy” Fawcett Columbie New York 1992, 11-17
[3]. Mary Craig “The Crystal Spirit Lech Walesa and his Poland” Hodder & Stoughton 1986, 43-45
[4]. Rebecca Stefoff “Lech Walesa The Road to Democracy” Fawcett Columbie New York 1992, 47
[5]. Như trên, 61
[6]. Timothy Ash “The Polish Revolution: Solidarity” Yale University Press 2002, 90-91
[7]. Lech Walesa “The Struggle and the Triumph: An Autobiography” Arcade Publishing 1992, 316
[8]. Theo Thống kê ABS Census 2006, Ba lan chiếm 163,802 so với 173,663 người gốc Việt
[9]. Đào Văn Bình và Nguyễn Anh Tuấn “Nghị Hội Đoàn Kết Người Việt Hải Ngoại: Một Đề Nghị” 9/12/2003
[10]. David Thai “Báo Cáo của Ủy Ban Vận Động Thành Lập Hội Đồng Liên Kết Đấu Tranh Dân Chủ Nhân Quyền Cho Việt Nam” http://www. vietlist. us/SUB_CongDong/congdong1302181934. shtml
[11]. Từ Linh “Trí thức hải ngoại: Chúng ta cùng đơn ca?” www. procontra. asia
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.fr/2014/01/cong-oan-oan-ket-ba-lan-va-lech-walesa.html#.Us7PYvvpzRw
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001